Tiểu luận Chủ nghĩa tư bản độc quyền và biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay

pdf 14 trang yenvu 02/07/2024 1350
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Chủ nghĩa tư bản độc quyền và biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Chủ nghĩa tư bản độc quyền và biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay

Tiểu luận Chủ nghĩa tư bản độc quyền và biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay
 Kinh tế chính trị thảo luận
Kinh tế chính trị Mác- Lênin (Trường Đại học Thương mại)
lOMoARcPSD|12184112
,
Chủ nghĩa tư bản độc quyền và biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền.
1.1. Chủ nghĩa tư bản độc quyền.
1.1.1. Nguyên nhân hình thành độc quyền
Theo C. Mác: “ tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này 
khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền”. Độc quyền ở đây là sự 
liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, có khả năng thâu tóm việc sản xuất và tiêu thụ 
một số loại hàng hoá, có khả năng định ra giá cả độc quyền, nhằm thu lợi nhuận độc 
quyền cao. Sự độc quyền chính là cơ sở của chủ nghĩa tự bản độc quyền.
Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền như sau:
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới sự tiến bộ khoa học - kỹ thuật, làm 
xuất hiện những ngành sản xuất mới. Vào những năm cuối thế kỷ XIX, những thành tự
khoa học mới xuất hiện như: lò luyện kim, máy phát điện, động cơ điêzen, vừa đòi 
hỏi các doanh nghiệp mở rộng quy mô vừa thúc đẩy năng suất lao động, tăng khả năng
tích tụ và tập trung sản xuất.
Hai là, cạnh tranh tự do. Trong thị trường cạnh tranh tự do gay gắt, các doanh nghiệp 
vừa và nhỏ sẽ không có đủ vốn và tiềm lực để cạnh tranh cùng các doanh nghiệp lớn, 
dẫn đến bị phá sản hoặc bị thâu tóm. Các doanh nghiệp lớn còn lại phải liên tục tích tụ,
tập trung sản xuất và liên kết với nhau để khuyết đại quy mô và đến khi quy mô đủ lớn
sẽ gây ra thế độc quyền.
Ba là, khủng hoảng sự phát triển của hệ thông tín dụng, làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ 
và vừa bị phá sản; một số sống sót phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, 
do đó thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất. Tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng, trở 
thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất nhất là việc hình thành, phát triển 
các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
Các tổ chức độc quyền luôn muốn thu lại lợi nhuận lớn nhất cho mình nên họ đã tự đặt
ra giá cả độc quyền áp dụng cả trong vấn đề mua vào và bán ra. Lợi dụng sự độc 
quyền của bản thân để ép giá người bán thu mua với giá thấp và tăng giá khi bán tạo ra
mức lợi nhuận khổng lồ
* Độc quyền nhà nước – nguyên nhân hình thành đọc quyền nhà nước
Độc quyền nhà nước là kiểu độc quyền trong đó nhà nước nắm giữ vị thế độc 
quyền trên cơ sơt duy trì sức mạnh của các tổ chức độc quyền ở những lĩnh vực then 
chốt của nền kinh tế nhằm tạo ra sức mạnh vật chất cho sự ổn định của chế độ chính trị
- xã hội ứng với điều kiện phát triển nhất trong các thời kì lịch sử.
Nguyên nhân hình thành độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường tư 
bản chủ nghĩa
Một là, lực lượng sản xuất phát triển ngày càng lớn dẫn đến quy mô của nền 
kinh tế ngày càng lớn, tính chất xã hội hóa của nền kinh tế ngày càng cao đòi hỏi có sự
điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối. Nhà nước phải dùng các công cụ khác 
lOMoARcPSD|12184112
nhau để can thiệp, điều tiết nền kinh tế như các công cụ về tài chính – tiền tệ, kế hoạch
hóa, phát triển các xí nghiệp quốc doanh
Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số 
ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh 
doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu 
hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản 
Nhà nước khi đó phải đảm nhiệm kinh doanh những ngành đó, tạo điều kiện cho các 
tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác.
Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối lập giàu – nghèo 
và mâu thuẫn xã hội càng gay gắt. Nhà nước phải giải quyết những mâu thuẫn đó bằng
các hình thức khác nhau như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát 
triển phúc lợi xã hội
Bốn là, cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các 
liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi
ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết các
quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế của nhà nước. 
Ngoài ra, cuộc đấu tranh với chủ nghĩa xã hội hiện thực và tác động của cách mạng 
khoa học và công nghệ cũng đòi hỏi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống 
kinh tế.
1.1.2. Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền
V.I.Lênin đã khái quát những đặc điểm của độc quyền tư bản sau khi tông kết vai trò 
của độc quyền trong nền kinh tế tư bản của giai đoạn cuối thế ky XIX và đầu thế kỷ 
XX như dưới đây:
a) Các tổ chức độc quyền có quy mô tích tụ và tập trung tư bản lớn
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền. Tổ chức 
độc quyền là liên minh giữa những nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay một phần 
lớn (thậm chí toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh này phát huy ảnh 
hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và lưu thông của ngành đó. Những liên minh 
độc quyền, thoạt đầu hình thành theo sự liên kết ngang, tức là sự liên kết những doanh 
nghiệp trong cùng ngành, nhưng về sau theo mối liên kết dây chuyền, các tổ chức độc 
quyền phát triển theo liên kết dọc, mở rộng nhiều ngành khác nhau dưới những hình 
thức: cartel, syndicate, trust, consortium.
Cartel là hình thức tổ chức độc quyền dựa trên sự ký kết hiệp định giữa các xí nghiệp 
thành viên để thoả thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ 
hạn thanh toán, tuy nhiên thì các xí nghiệp vẫn độc lập về sản xuất và lưu thông 
hàng hoá.
Syndicate là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn và ổn định hơn cartel trong đó sản 
xuất vẫn là công việc độc lập của mỗi thành viên nhưng việc mua và bán hàng hoá là 
do ban quản trị chung đảm nhiệm nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
Cartel và syndicate dễ bị phá vỡ khi tương quan lực lượng thay đổi và đó là lúc hình 
thức độc quyền trust ra đời. Trust thống nhất cả việc sản xuất và tiêu thụ vào tay một 
lOMoARcPSD|12184112
ban quản trị chung, còn các thành viên trở thành các cổ đông và chia lợi nhuận theo 
phần trăm cổ phần.
Consortium là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các 
hình thức độc quyền trên. Tham gia consortium không chỉ có các xí nghiệp tư bản lớn 
mà còn có cả các syndicate, các trust, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với 
nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một consortium có thể có 
hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm
các nhà tư bản kếch xù.
Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ chức
độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền. Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn 
giá cả sản xuất đối với những hàng hóa mà họ bán ra và giá cả độc quyền thấp dưới 
giá cả sản xuất đối với những hàng hóa mà họ mua, trước hết là nguyên liệu. Qua đó 
họ thu được lợi nhuận độc quyền. Tuy nhiên, giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác
động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư. Vì xét toàn bộ xã hội thì tổng giá 
cả vẫn bằng tổng số giá trị và tổng lợi nhuận vẫn bằng tổng giá trị thặng dư trong các 
nước tư bản chủ nghĩa. Những thứ mà các tổ chức độc quyền kếch xù thu được cũng là
những thứ mà các tầng lớp tư sản vừa và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản 
chủ nghĩa và nhân dân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc mất đi.
b) Sức mạnh của các tổ chức độc quyền do tư bản tài chính và hệ thống tài phiệt chi 
phối
Tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc
quyền trong ngân hàng. Quy luật tích tụ trong ngân hàng cũng giống như trong doanh 
nghiệp do đó trong quá trình cạnh tranh thì các ngân hàng vừa và nhỏ cũng sẽ bị phá 
sản hoặc bị thu mua và từ đó cũng hình thành nên tổ chức độc quyền ngân hàng. Từ 
chỗ làm trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay do nắm được phần lớn tư 
bản tiền tệ trong xã hội, ngân hàng đã trở thành người có quyền lực vạn năng chi phối 
các hoạt động kinh tế – xã hội.
Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay 
và nhận gửi những số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp trong một thời 
gian dài, nên lợi ích của chúng xoắn xuýt với nhau, hai bên đều quan tâm đến hoạt 
động của nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau. Từ đó hình thành một loại tư bản mới 
gọi là tư bản tài chính. Lênin viết: “ tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa 
tư bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những 
liên minh độc quyền các nhà công nghiệp”.
Các tài phiệt hay các trùm tư bản tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông
qua “chế độ tham dự”. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tư bản tài chính hoặc 
một tập đoàn tài chính, nhờ nắm được số cổ phiếu khống chế mà chi phối được công ty
gốc hay “công ty mẹ”, rồi qua công ty mẹ chi phối các công ty phụ thuộc hay các 
“công ty con”, các công ty này lại chi phối các “công ty cháu” v.v.. Bởi vậy, với một số
tư bản nhất định, một trùm tư bản tài chính có thể chi phối được những lĩnh vực sản 
lOMoARcPSD|12184112
xuất rất lớn. Ngoài ra chúng còn sử dụng những thủ đoạn như lập công ty mới, phát 
hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ 
ruộng đất... để thu lợi nhuận độc quyền cao. Về mặt chính trị, hệ thống các nhà tài 
phiệt chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là chi phối các chính 
sách đối nội, đối ngoại của 
nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng, do chúng 
thống trị được về kinh tế.
c) Xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến
Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị 
thặng dư, còn xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra 
nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư bản 
đó.
Xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, vì trong những nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã 
tích luỹ được một khối lượng tư bản lớn và nảy sinh tình trạng “thừa tư bản”. Tình 
trạng thừa này không phải là thừa tuyệt đối, mà là thừa tương đối, nghĩa là không tìm 
được nơi đầu tư có lợi nhuận cao ở trong nước. Tiến bộ kỹ thuật ở các nước này đã dẫn
đến tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỷ suất lợi nhuận; trong khi đó, ở những 
nước kém phát triển về kinh tế, nhất là ở các nước thuộc địa, dồi dào nguyên liệu và 
nhân công giá rẻ nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật.
Do tập trung trong tay một khối lượng tư bản khổng lồ nên việc xuất khẩu tư bản ra 
nước ngoài trở thành một nhu cầu tất yếu của các tổ chức độc quyền.
Xét về hình thức đầu tư, có thể phân chia xuất khẩu tư bản thành xuất khẩu tư bản trực 
tiếp và xuất khẩu tư bản gián tiếp. Xuất khẩu tư bản trực tiếp là đưa tư bản ra nước 
ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao. Xuất khẩu tư bản gián tiếp là cho vay 
để thu lợi tức.
Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, 
là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị của tư bản tài chính ra toàn thế giới. 
Tuy nhiên, việc xuất khẩu tư bản, về khách quan có những tác động tích cực đến nền 
kinh tế các nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá trình chuyển kinh tế tự cung tự cấp 
thành kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự chuyển biến từ cơ cấu kinh tế thuần nông thành cơ
cấu kinh tế nông – công nghiệp, mặc dù cơ cấu này còn què quặt, lệ thuộc vào kinh tế 
của chính quốc.
d) Cạnh tranh để phân chia thị trường thế giới là tất yếu giữa các tập đoàn độc quyền 
Việc xuất khẩu tư bản tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến 
việc phân chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư tư bản, phân 
lOMoARcPSD|12184112
chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền. Cuộc đấu tranh giành thị trường 
tiêu thụ, nguồn nguyên liệu và lĩnh vực đầu tư có lợi nhuận cao ở nước ngoài trở nên 
gay gắt. Lênin nhận xét: “Bọn tư sản chia nhau thế giới, không phải do tính độc ác đặc 
biệt của chúng, mà do sự tập trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường 
ấy để kiếm lời".
Những cuộc đụng đầu trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền có sức 
mạnh kinh tế hùng hậu dẫn đến các cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chúng, tất yếu dẫn 
đến xu hướng thỏa hiệp, ký kết hiệp định để củng cố địa vị độc quyền của chúng trong 
những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đó hình thành các liên minh độc 
quyền quốc tế, các tập đoàn xuyên quốc gia
e) Lôi kéo, thúc đẩy các chính phủ vào việc phân định khu vực lãnh thổ ảnh hưởng là 
cách thức để bảo vệ lợi ích độc quyền
Khi đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, tư bản 
độc quyền không chỉ thu được lợi nhuận độc quyền không thôi mà là “siêu lợi nhuận 
độc quyền” do có những điều kiện thuận lợi mà tại chính quốc không có được như 
nguồn nguyên liệu dồi rào giá rẻ hoặc lấy không, giá nhân công rẻ mạtDo đó luôn 
diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tổ chức độc quyền thuộc các quốc gia khác 
nhau. Điều này đòi hỏi có sự can thiệp của nhà nước nhằm giúp cho các tổ chức độc 
quyền của nước mình giành giật thị trường và môi trường đầu tư nhằm thu được siêu 
lợi nhuận độc quyền ở ngoại quốc. Sự can thiệp đó của nhà nước đã biến nó thành một 
nước đế quốc chủ nghĩa. Như vậy, chủ nghĩa đế quốc là sự kết hợp giữa yêu cầu vươn 
ra và thống trị ở nước ngoài của tư bản độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà 
nước.
Chủ nghĩa đế quốc là một đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền biểu hiện 
trong đường lối xâm lược nước ngoài, biến những nước này thành hệ thống thuộc địa 
của các cường quốc nhằm đáp ứng yêu cầu thu siêu lợi nhuận độc quyền của tư bản 
độc quyền.
Lợi ích của việc xuất khẩu tư bản thúc đẩy các cường quốc tư bản đi xâm chiếm
các nước khác và lập nên hệ thống thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại 
trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên liệu và thị 
trường tiêu thụ. Đối với tư bản tài chính, không phải chỉ những nguồn nguyên liệu đã 
được tìm ra mới có ý nghĩa, mà cả những nguồn nguyên liệu có thể tìm được cũng rất 
quan trọng, do đó tư bản tài chính có khuynh hướng mở rộng lãnh thổ kinh tế và thậm 
chí cả lãnh thổ nói chung. Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nhu cầu nguyên liệu 
càng lớn, sự cạnh tranh càng gay gắt thì cuộc đấu tranh để giành giật thuộc địa giữa 
chúng càng quyết liệt.
* Đặc điểm kinh tế của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản
- Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng, sự liên minh về nhân sự của các ngân hàng 
với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh về nhân sự của ngân hàng và công 
lOMoARcPSD|12184112
nghiệp với chính phủ theo kiểu: “ Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; 
hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng”. 
Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. 
Chính các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một chỗ dựa để thực hiện sự 
thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước. Thông qua 
các hội chủ xí nghiệp, một mặt, các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào 
bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau; mặt khác, các quan chức và nhân 
viên chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền, nắm giữ 
những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự, hoặc trở thành những 
người đỡ đầu các tổ chức độc quyền. Sự kết hợp này đã tạo ra những biểu hiện 
mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước từ 
trung ương đến các địa phương ở các nước tư bản. 
- Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước 
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời 
sống, nhưng nét nổi bật nhất là sức mạnh của độc quyền và của nhà nước kết hợp với 
nhau trong lĩnh vực kinh tế. Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong 
kinh tế là sự thay đổi các quan hệ sở hữu. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu nhà
nước tăng lên mà cả ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu 
độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá trình chu 
chuyển của tổng tư bản xã hội.
Sở hữu nhà nước hình thành dưới những hình thức sau đây: – Xây dựng doanh 
nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; – Quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân bằng 
cách mua lại; – Nhà nước mua cổ phiếu của các doanh nghiệp tư nhân; – Mở rộng 
doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích luỹ của các doanh nghiệp , tư nhân
- Độc quyền nhà nước trở thành công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế
Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện bằng nhiều công cụ 
khác nhau như pháp lý (luật chống độc quyền), giá cả, thuế khóa, tài chính-
tiền tệ, ngân hàng, phát triển các xí nghiệp nhà nướcVí dụ, nhà nước phát triển các 
xí nghiệp quốc doanh mở đường cho một số ngành, lĩnh vực mới phát triển, sau đó 
chuyển giao lại cho các tổ chức độc quyền. Để cứu nguy cho nền kinh tế trong những
điều kiện nhất định, nhà nước có thể mua lại một số xí nghiệp làm ăn thua lỗ và 
nhượng lại cho tư nhân khi nó đã đi vào hoạt động ổn định 
Bản thân sự điều tiết của nhà nước cũng có mặt tích cực và mặt tiêu 
cực. Những sai lầm trong sự điều tiết của nhà nước có khi lại đưa đến hậu quả tai hại 
hơn là tác động tiêu cực của cạnh tranh tự do và độc quyền tư nhân. Vì thế, hệ thống 
điều tiết kinh tế của nhà nước đã dung hợp cả ba cơ chế: thị trường, độc 
quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt 
tiêu cực của từng cơ chế. Xét đến cùng và về bản chất, hệ thống điều tiết đó phục vụ 
cho chủ nghĩa tư bản độc quyền.
1.2. Những điểm mới của tư bản độc quyền.
lOMoARcPSD|12184112
a) Tập trung sản xuất và hình thức độc quyền mới: sự xuất hiện những công ty độc 
quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ
Hiện tượng liên kết đa dạng tiếp tục phát triển, sức mạnh của các concern và 
conglomerat ngày càng được tăng cường. Nhưng do tác động của các đạo luật chống 
độc quyền hay luật chống hạn chế cạnh tranh đã làm xuất hiện phổ biến các hình thức 
tổ chức độc quyền lớn hơn, cao hơn: hình thức oligopoly (độc quyền của một vài công 
ty) hay polypoly (độc quyền của một số khá nhiều công ty trong mỗi ngành). Cách 
mạng khoa học và công nghệ dường như biểu lộ thành hai xu hướng đối lập nhau 
nhưng thực ra là thống nhất với nhau: xu hướng tập trung và xu hướng phi tập trung 
hóa.
Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do:
Thứ nhất, việc ứng dụng các thành tựu cách mạng khoa học và công nghệ cho 
phép tiêu chuẩn hóa và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu rộng, dẫn tới hình 
thành hệ thống gia công, nhất là trong những ngành sản xuất ô tô, máy bay, đồ điện, cơ
khí, dệt, may mặc, đồ trang sức, xây dựng nhà ở. Nhìn bề ngoài, dường như đó là hiện 
tượng "phi tập trung hóa", nhưng thực chất đó chỉ là một biểu hiện mới của sự tập 
trung sản xuất, trong đó các hãng vừa và nhỏ lệ thuộc và chịu sự chi phối của các chủ 
hãng lớn về công nghệ, vốn, thị trường, v.v.
Thứ hai, những ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cơ chế thị trường.
Những doanh nghiệp vừa và nhỏ nhạy cảm với thay đổi trong sản xuất, linh hoạt 
ứng phó với tình hình biến động của thị trường, mạnh dạn trong việc đầu tư vào những
ngành mới đòi hỏi sự mạo hiểm, kể cả những ngành lúc đầu ít lợi nhuận và những 
ngành sản phẩm đáp ứng nhu cầu cá biệt. Các doanh nghiệp nhỏ dễ dàng đổi mới trang
bị kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí bổ sung.
b) Sự thay đổi trong các hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản tài chính
Thích ứng với sự biển đối mới, hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản 
tài chính đã thay đổi. Sự thay đổi diễn ra ngay trong quá trình liên kết và thâm nhập 
vào nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp. Ngày nay, phạm vi liên kết 
được mở rộng ra nhiều ngành, do đó các tập đoàn tài chính thường tồn tại dưới hình 
thức những tổ hợp đa dạng kiểu công - nông - thương - tín - dịch vụ hay công nghiệp - 
quân sự - dịch vụ quốc phòng. Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn, tinh vi hơn, 
phức tạp hơn. Vai trò kinh tế và chính trị của tư bản tài chính ngày càng lớn, không chỉ
trong khuôn khổ quốc gia mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nước khác trên thế giới. 
Trùm tài chính không chỉ tăng cường địa vị thống trị về kinh tế mà còn tăng cường sự 
khống chế và lợi dụng chính quyền nhà nước. Trong chính phủ, họ có nhiều người đại 
diện hơn, hơn nữa việc tự mình đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong chính phủ 
ngày càng phổ biến.
Để bành trướng ra thế giới và thích ứng với quá trình quốc tế hóa đời sống kinh 
tế, các tập đoàn tư bản tài chính đã thành lập các ngân hàng đa quốc gia và xuyên quốc
gia, tạo điều kiện cho các công ty xuyên quốc gia thâm nhập vào các nước khác, đặc 
biệt là Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Hoạt động của các tập 
lOMoARcPSD|12184112
đoàn tài chính quốc tế đã dẫn đến sự ra đời các trung tâm tài chính của thế giới như: 
Nhật Bản, Mỹ, Đức, Hồng Kông, Singapore...
c) Xuất khẩu tư bản vẫn là cơ sở của độc quyền quốc tế sau chiến tranh, nhưng quy 
mô, chiều hướng và kết cấu của việc xuất khẩu tư bản đã có bước phát triển mới
Sau chiến tranh, việc xuất nhập khẩu tư bản của các nước tư bản phát triển có sự 
tăng trưởng rất nhanh. Nguyên nhân của quy mô xuất nhập khẩu tư bản ngày càng lớn,
một mặt là do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới đã thúc đẩy sự phát triển 
của việc phân công quốc tế, việc quốc tế hóa sản xuất và việc tăng nhanh tư bản "dư 
thừa" trong các nước; mặt khác là do sự tan rã của hệ thống thuộc địa cũ sau chiến 
tranh.
Chiều hướng xuất khẩu tư bản cũng có những thay đổi rõ rệt. Trước kia, luồng tư 
bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển sang các nước kém phát
triển (khoáng 70%). Nhưng từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt sau những 
năm 70 của thế kỷ XX, 3/4 tư bản xuất khẩu được đầu tư vào các nước phát triển, mở 
đầu bằng việc tư bản quay trở lại Tây Âu.
Từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX, đại bộ phận dòng tư bản lại chảy qua chảy 
lại giữa các nước tư bản chủ nghĩa phát triển với nhau. Nguyên nhân chủ yếu của sự 
chuyển hướng đầu tư nói trên là do:
- Về phía các nước đang phát triện, phần lớn những nước này ở trong tình hình 
chính trị thiếu ổn định; thiếu môi trường đầu tư an toàn và thuận lợi; thiếu đội ngũ 
chuyên gia, cán bộ khoa học - kỹ thuật, công nhân lành nghề; trình độ dân trí thấp và 
tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân ít, không đủ mức cần thiết để tiểp nhận đầu tư 
nước ngoài.
- Về phía các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, cuộc cách mạng khoa học và 
công nghệ làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất và dịch vụ mới, nhất là những ngành có
hàm lượng khoa học – kỹ thuật cao, đòi hỏi lượng vốn lớn để đầu tư vào nghiên cứu 
khoa học – kỹ thuật và sản xuất. Có một sự di chuyển vốn trong nội bộ các công ty độc
quyền xuyên quốc gia. Các công ty này đặt chi nhánh ở nhiều nước, nhưng phần lớn 
chi nhánh của chúng đặt ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Để vượt qua những 
hàng rào bảo hộ mậu dịch và khắc phục những trở ngại do việc hình thành các khối 
liên kết như EU. NAFTA, v.v.. các công ty xuyên quốc gia đã đưa tư bản vào trong các
khối đó để phát triển sản xuất.
Tuy nhiên, một loạt công ty ở các nước Anh, Pháp, Hà Lan... đã vượt qua cả lệnh 
cấm vận của Mỹ để đầu tư vào các nước đang phát triển. Chẳng hạn họ đầu tư thăm dò
và khai thác dầu khí ở Việt Nam - đó là bằng chứng rõ rệt chứng minh cho xu hướng 
trên. Sở dĩ như vậy là vì tình trạng thiếu dầu khí và những kim loại quý hiếm vẫn đang
là "gót chân Asin" của nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, trong khi đó 
các nước đang phát triển giàu tài nguyên lại thiếu vốn và kỹ thuật để khai thác, và 
nguồn lợi cao từ lĩnh vực này đối với cả hai phía.
d) Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của chủ nghĩa tư bản: xu hướng quốc tế 
hóa, toàn cầu hóa ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu vực hóa nền kinh tế.
lOMoARcPSD|12184112
Sức mạnh và phạm vi bành trướng của các công ty độc quyền xuyên quốc gia 
tăng lên càng thúc đẩy xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế và sự phân chia phạm vi 
ảnh hưởng giữa chúng với nhau, đồng thời thúc đẩy việc hình thành chủ nghĩa tư bản 
độc quyền nhà nước quốc tế.
Cùng với xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đời sống kinh tế lại diễn ra hiện 
tượng khu vực hóa, hình thành ngày càng nhiều liên minh kinh tế khu vực như: Liên 
minh châu Âu (EU), Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức Hợp tác kinh
tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC)... Ngày càng có nhiều nước tham gia vào các 
liên minh Mậu dịch tự do (FTA) hoặc các Liên minh Thuế quan (CU). FTA là khu vực 
trong đó các nước thành viên cam kết xóa bỏ hàng rào thuế quan đối với hàng hóa của 
nhau, CU là liên minh trong đó các nước thành viên có mức thuế chung đối với hàng 
hóa nhập khẩu từ các nước ngoài khối. Theo thếng kê của Tổ chức Thương mại thế 
giới (WTO), 109 khối liên kết khu vực đã ra đời trong khoảng thời gian từ năm 1948 
đến cuối năm 1994, gần 1/3 trong số này xuất hiện vào những năm 1990 - 1994. Các 
liên minh kinh tế khu vực hấp dẫn nhiều chính phủ vì chúng có nhiều ưu thế hơn so 
với tiến trình tự do hóa thương mại toàn cầu.
e) Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những hình thức cạnh 
tranh và thống trị mới
Tuy chủ nghĩa thực dân cũ đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa thực dân mới đã suy
yếu, nhưng các cường quốc tư bản chủ nghĩa, khi ngấm ngầm, lúc công khai, vẫn tranh
giành nhau phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện "Chiến lược biên giới mềm", ra 
sức bành trướng "biên giới kinh tế" rộng hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối các 
nước kém phát triển từ sự lệ thuộc về vốn, công nghệ đi đến sự lệ thuộc về chính trị 
vào các cường quốc
Chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng lại được 
thay thế bằng những cuộc chiến tranh khu vực, chiến tranh thương mại, những cuộc 
chiến tranh sắc tộc, tôn giáo mà đứng trong hoặc núp sau các cuộc đụng độ đó là các 
cường quốc đế quốc.
Tóm lại, dù có những biểu hiện mới, chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn là chủ nghĩa
tư bản độc quyền. Những biểu hiện mới đó chỉ là sự phát triển của năm đặc điểm cơ 
bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền mà V.I.Lênin đã chỉ ra từ những năm đầu thế kỷ 
XX.
Chương 2: Những biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay.
2.1. Thực trạng
2.2. Nhận xét, đánh giá
- Chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do phát triển đến độ nhất định thì xuất hiện các tổ 
chức độc quyền. Lúc đầu tư bản độc quyền chỉ có trong một số ngành, một số lĩnh vực 
của nền kinh tế. Hơn nữa, sức mạnh kinh tế của các tổ chức độc quyền cũng chưa thật 
lớn. Tuy nhiên, sau này, sức mạnh của các tổ chức độc quyền đã được nhân lên nhanh 
lOMoARcPSD|12184112
chóng và từng bước chiếm địa vị chi phối trong toàn nền kinh tế. Chủ nghĩa tư bản 
bước sang giai đoạn phát triển mới – chủ nghĩa tư bản độc quyền.
- chủ nghĩa tư bản độc quyền là một nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản.
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các ngành, các 
lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự phát
triển của toàn bộ nền kinh tế.
- Nếu trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, sự phân hóa giữa các nhà tư bản
chưa thực sự sâu sắc nên quy luật thống trị của thời kỳ này là quy luật lợi nhuận bình 
quân, còn trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật thống trị là quy luật lợi nhuận 
độc quyền.
- Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản chất của 
chủ nghĩa tư bản. Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một hình thái biến
tướng của quy luật giá trị thặng dư.
2.2.1. Ưu điểm
Trong quá trình phát triển, nếu chưa xét đến hậu quả nghiêm trọng đã gây ra đối với 
loài người, thì chủ nghĩa tư bản vẫn có những mặt tích cực đối với sản xuất. Đó là:
- Thực hiện xã hội hóa sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới mức 
điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất cả về chiều 
rộng và chiều sâu. Đó là sự phát của phân công lao động xã hôi; sản xuất tập trung với 
quy mô lớn, hợp lí, chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc; mối liên hệ 
kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực, giữa các quốc gia ngày càng chặt 
chẽ,.. làm cho quá trình sản xuất được phân tán được liên kết với nhau và phụ thuộc 
lẫn nhau thành một hệ thống, một quá trình sản xuất xã hội thống nhất. Đây cũng là 
một trong những điều kiện về kinh tế thuận lợi thúc đấy nền sản xuất xã hội phát triển 
ngày càng cao hơn.
Quá trình xã hội hóa sản xuất biểu hiện ở sự phát triển phân công lao động xã hội, hợp 
tác lao động, tập trung hóa, liên hiệp hoá sản xuất... làm cho các quá trình sản xuất 
phân tán được liên kết vào một hệ thống sản xuất, một quá trình sản xuất xã hội.
- Phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội. Dưới sự tác động của 
quy luật giá trị thặng dư và các quy luật kinh tế khác của cơ chế thị trường, một mặt, 
giai cấp tư sản tăng cường bóc lột, làm giàu nhanh chóng; mặt khác, những nhân tố đó 
có tác động mạnh mẽ thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, tiến bộ khoa học - công 
nghệ và tăng năng suất lao động xã hội.
- Chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại.
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy chuyển kinh tế hàng hóa giản đơn lên kinh 
tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa phát triển, chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất 
tập trung quy mô lớn, hiện đại, năng suất cao. Dưới tác động của quy luật của nền kinh
tế thị trường, chủ nghĩa tư bản đã kích thích cả tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, 
tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa khổng lồ, phong phú. 
lOMoARcPSD|12184112
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh 
mẽ: kỹ thuật cơ khí thay kỹ thuật thủ công lạc hậu, rồi từ cơ khí chuyển dần sang tự 
động hoá, tin học hoá, công nghệ hiện đại. Đồng thời nền sản xuất cũng được xã hội 
hóa ngày càng cao, có sự điều tiết thống nhất. Đó chính là quá trình chuyển nền sản 
xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện đại.
Tuy nhiên, những thành tựu chủ nghĩa tư bản đạt được trong sự vận động đầy mâu 
thuẫn. Điều đó biểu hiện ở hai xu hướng trái ngược nhau; đó là:
Xu thế phát triển nhanh chóng của nền kinh tế biểu hiện ở chỗ: trong nền kinh tế tư 
bản chủ nghĩa thế giới đã xuất hiện thời kỳ tăng trưởng với tốc độ cao hiếm thấy. 
Nguyên nhân của xu thế này là do: yêu cầu nội tại và xu thế tăng nhanh tốc độ của việc
phát triển lực lượng sản xuất gắn với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ; quá 
trình vận hành của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bao hàm những nhân tố kích thích sự 
phát triển kinh tế; tác dụng can thiệp và điều chỉnh cục bộ đối với quan hệ sản xuất của
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước; việc mở rộng thị trường trong nước và quốc tế.
Xu thế trì trệ của nền kinh tế. Đó là vì sự thống trị độc quyền đã tạo ra những nhân tố 
ngăn cản sự tiến bộ kỹ thuật và phát triển sản xuất. Tư bản độc quyền có thể thông qua
những biện pháp như giá cả độc quyền, hạn chế sản lượng và mua phát minh kỹ 
thuật... thông qua tổ chức độc quyền và các thủ đoạn trao đổi không ngang giá... để thu
lợi nhuận cao một cách ổn định từ trong và ngoài nước. Tất cả những cái đó đã làm 
mất tác dụng ở mức độ nhất định những nhân tố thúc đẩy kỹ thuật, sản xuất tiến bộ. 
Ngày nay, những nhân tố nêu trên vẫn tồn tại và tiếp tục tác động, biểu hiện là: tốc độ 
tăng trưởng kinh tế lạc hậu nhiều so với khả năng mà khoa học và công nghệ hiện đại 
cho phép.
2.2.2. Hạn chế
Bên cạnh mặt tích cực nói trên, chủ nghĩa tư bản cũng đứng trước những giới hạn mà 
nó không thể vượt qua.
Giới hạn lịch sử của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ 
nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản 
xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mặc dù chủ 
nghĩa tư bản ngày nay đã có sự điều chỉnh nhất định trong những hình thức quan hệ sở 
hữu, quản lý và phân phối nhưng vẫn không thể khắc phục được mâu thuẫn khách 
quan này.
Mâu thuẫn cơ bản nói trên biểu hiện ra thành những mâu thuẫn cụ thể sau đây:
Một là, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động: sự phân cực giàu - nghèo và tình trạng bất 
công xã hội tăng lên chứng tỏ bản chất bóc lột giá trị thặng dư vẫn tồn tại, dù được 
biểu hiện dưới những hình thức tinh vi hơn. Cả sự bần cùng hoá tuyệt đối lẫn tương 
đối của giai cấp công nhân vẫn đang tồn tại. Tuy đại bộ phận tầng lớp trí thức và lao 
động có kỹ năng đang có việc làm được cải thiện mức sống và gia nhập vào tầng lớp 
trung lưu, nhưng vẫn không xoá được sự phân hóa giàu - nghèo sâu sắc.
Hai là, mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc. 
Ngày nay, mâu thuẫn này đang chuyển thành mâu thuẫn giữa các nước chậm phát triển
lOMoARcPSD|12184112
bị lệ thuộc với những nước đế quốc. Nhiều nước chậm phát triển không những bị vơ 
vét cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, mà còn mắc nợ không thể nào trả được.
Ba là, mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, chủ yếu là giữa ba trung 
tâm kinh tế, chính trị hàng đầu của thế giới tư bản, giữa các tập đoàn tư bản xuyên 
quốc gia. Mâu thuẫn này có phần dịu đi trong thời kỳ còn tồn tại sự đối đầu giữa hai hệ
thống thế giới tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, nay có chiều hướng diễn biến 
phức tạp. Một mặt, sự phát triển của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và đòi hỏi 
của cách mạng khoa học và công nghệ khiến các nước đó phải liên kết với nhau. Mặt 
khác, do tác động của quy luật phát triển không đều và lợi ích cục bộ của giai cấp 
thống trị ở mỗi nước, các nước đó đã trở thành đối thủ cạnh tranh với nhau, tranh 
giành quyền lực và phạm vi ảnh hưởng trên thế giới, nhất là giữa ba trung tâm Mỹ, 
Nhật Bản và Tây Âu. Biểu hiện của mâu thuẫn giữa các nước ấy trước hết là các cuộc 
chiến tranh thương mại, cạnh tranh giữa các công ty xuyên quốc gia dưới nhiều hình 
thức, trên thị trường chứng khoán, nơi đầu tư có lợi...
Bốn là, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Mâu thuẫn này là mâu 
thuẫn xuyên suốt thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chế 
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời 
lâm vào thoái trào, nhưng bản chất thời đại không hề thay đổi. Do đó mâu thuẫn giữa 
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại một cách khách quan.
Chương 3: Giải pháp 
Để khắc phục những tư bản độc quyền và phát triển sản xuất xã hội, cần phải tiếp
tục phát huy những ưu điểm của chủ nghĩa tư bản, đồng thời khắc phục những hạn chế 
mà chủ nghĩa tư bản còn tồn tại.
_Tiếp tục phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã 
hội.Trước hết, để thúc đẩy lực lượng phát triển nhanh chóng, tại Đại hội IX đã coi phát
triển nguồn nhân lực là chiến lược phát triển lâu dài và vô cùng quan trọng và phải giải
quyết 2 vấn đề chính, đó là giáo dục và phát triển khoa học công nghệ. Đối với lĩnh 
vực giáo dục, đào tạo, trước hết phải định hướng mô hình phát triển kinh tế dựa trên cơ
sở tiếp thu công nghệ tiên tiến của thế giới; đồng thời cải cách căn bản chương trình 
giáo dục, đáp ứng được mục tiêu tạo nền tảng tri thức để thực hiện mô hình công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh đó, nhà nước đóng vai trò chủ lực trong việc cũng 
cố vững chắc kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, trung học trong cả 
nước. Đối với lĩnh vực khoa học công nghệ, hệ thống khoa học công nghệ của nước ta 
còn khá bất cập, cần được đổi mới căn bản và toàn diện; vì vậy cần phải lựa chọn 
hướng phát triển khoa học công nghệ ưu tiên, đồng thời chú trọng phát triển và áp 
dụng công nghệ thích hợp, có khả năng thu hút nhiều lao động. Đồng thời đào tạo 
thêm đội ngũ cán bộ nghiên cứu, thực hành trẻ có năng lực và xây dựng, phát triển, 
hoàn thiện quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN.
_Chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện đại. Quá trình từ sản xuất 
nhỏ sang sản xuất lớn là quá trình chuyển hóa nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cung, 
lOMoARcPSD|12184112
tự cấp thành nền kinh tế hàng hóa. Chính sự tác động của quy luật kinh tế thị trường sẽ
tạo ra khối lượng hàng hóa khổng lồ và phong phú.
_Xã hội hóa sản xuất biểu hiện ở sự phân công, hợp tác lao động phát triển; mối 
liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành chặt chẽ; sản xuất với quy mô hợp lí, sản 
phẩm làm ra là kết quả của nhiều người, nhiều ngành, thậm chí là nhiều nước. Chính 
vì vậy, cần phải tiếp tục xã hội hóa sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu. Xã hội hóa 
sản xuất được thể hiện ở 3 mặt, đó là Xã hội hóa sản xuất về kinh tế - kỹ thuật, Xã hội 
hóa sản xuất về kinh tế - tổ chức, Xã hội hóa sản xuất về kinh tế - xã hội. Ba mặt trên 
có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên tính toàn diện của xã hội hóa sản xuất, nên cần 
phải được tiến hành đồng bộ cả ba mặt nói trên và có sự phù hợp giữa 3 mặt đó nhằm 
thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển ngày càng cao hơn.
_Khắc phục những mâu thuẫn giữa tư bản và lao động. Vì xã hội ngày càng phát 
triển dẫn tới tình trạng phân hóa giàu nghèo càng sâu sắc, đồng thời bất công xã hội 
tăng lên bởi bản chất bóc lột giá trị thặng dư còn tồn tại và được biểu hiện một cách 
tinh vi hơn. Vậy nên đã có những điều chỉnh về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản đã huy động hàng triệu nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong tầng lớp 
nhân dân tập trung thành nguồn lực to lớn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh; điều này 
đã phần nào xóa đi ranh giới giữa tư bản và lao động.
_Khắc phục mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Trước hết, chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Sự hợp tác 
này của chủ nghĩ tư bản và chủ nghĩa xã hội khá toàn diện, tuy nhiên không thể quên 
rằng giữa 2 chiều hướng này vẫn tồn tại những mâu thuẫn vốn có. Các thế lực hiếu 
chiến chưa bao giừo từ bỏ dã tâm muốn xóa sổ chủ nghĩa xã hội. “Diễn biến hòa bình”
là một trong những chiến lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm thực hiện mục tiêu đó. 
Đây là 1 cuộc chiến không thuốc súng nhưng lại là kế sách nham hiểm nhằm phá hủy 
chủ nghĩa xã hội từ bên trong và có thể thấy đây chính là cuộc đấu tranh giai cấp vô 
cùng gay gắt, quyết liệt và phức tạp. Bởi vậy, trong điều kiện mở cửa và hội nhập với 
thế giới, thu hút vốn đầu tư, công nghẹ và hợp tác giao lưu với các nước tư bản, các 
nước xã hội chủ nghĩa phải luôn kiên định bảo vệ vững chắctư tưởng cũng như định 
hướng xã hội chủ nghĩa, hợp tác cùng phát triển nhưng cũng phải cảnh giác và sẵn 
sàng đấu trah để bảo vệ lợi ích cho quốc gia và dân tộc.
Tài liệu tham khảo 
cua-chu-nghia-tu-ban-duong-dai-nhung-gioi-han-khong-the-vuot-qua-589669.html
thoi-dai.html
lOMoARcPSD|12184112

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_chu_nghia_tu_ban_doc_quyen_va_bieu_hien_moi_trong.pdf