Tiểu luận Cơ chế nhân quyền nói chung và cơ chế nhân quyền khu vực

pdf 50 trang yenvu 30/10/2024 170
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Cơ chế nhân quyền nói chung và cơ chế nhân quyền khu vực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Cơ chế nhân quyền nói chung và cơ chế nhân quyền khu vực

Tiểu luận Cơ chế nhân quyền nói chung và cơ chế nhân quyền khu vực
1 
Tiểu luận 
CƠ CHẾ NHÂN QUYỀN NÓI CHUNG VÀ CƠ CHẾ 
NHÂN QUYỀN KHU VỰC 
2 
Cơ chế quốc tế về quyền con người là hệ thống các cơ quan có nhiệm vụ giám 
sát và hỗ trợ thực hiện quyền con người trên phạm vi thế giới. Ở cấp độ quốc tế đó 
là cơ chế của LHQ, ở cấp độ hẹp hơn là cơ chế của các tổ chức khu vực mà hiện có 
là châu Âu, châu Mỹ và châu Phi. 
1. CƠ CHẾ NHÂN QUYỀN LIÊN HỢP QUỐC 
Cơ chế nhân quyền LHQ nhìn chung chia làm 2 hệ thống chính: 
- Một là, hệ thống các cơ quan hình thành theo quy định trong hiến chương, 
bao gồm: Đại hội đồng, Hội đồng kinh tế xã hội, Hội đồng quản thác; ngoài 
ra còn các cơ quan liên quan gián tiếp: Hội đồng bảo an, Tòa tư pháp quốc tế. 
- Hai là, hệ thống các cơ quan giám sát thực hiện điều ước quốc tế, hay còn 
gọi là cơ chế giám sát dựa trên công ước. 
Nhìn chung, hệ thống các cơ quan thuộc cơ chế nhân quyền dựa trên Hiến 
chương có chức năng khá rộng đối với các vấn đề nhân quyền, đóng vai trò giám 
sát việc thực hiện nhân quyền của các quốc gia, vừa hỗ trợ thúc đẩy quyền con 
người nói chung vừa trực tiếp bảo vệ quyền con người trong những trường hợp cụ 
thể. Tuy nhiên, có thể thấy ngoài cơ chế phức tạp, có phần chồng chéo thì việc 
kham quá nhiều vấn đề cũng như tính chính trị khá nặng nề đang làm cho sự vận 
hành của cơ chế này tỏ ra không thực sự hiệu quả. Những vấn đề đó cộng với nhiều 
nhân tố khác như tính nhạy cảm của lĩnh vực nhân quyền, đòi hỏi về một cơ quan 
chuyên trách thường trực ở nhiều khu vực trên thế giới đã dẫn đến sự hình thành 
tất yếu của các cơ chế khu vực. 
2. CƠ CHẾ NHÂN QUYỀN KHU VỰC 
2.1 Cơ chế nhân quyền Châu Âu: 
Châu Âu là khu vực có những thành quả nhất định trong việc bảo vệ và thúc 
đẩy quyền con người từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Việc thực thi quyền 
con người ở khu vực này chủ yếu được thực hiện thông qua các cơ quan chính: Tổ 
chức an ninh và hợp tác Châu Âu (OSCE); Liên minh Châu Âu (EU); Hội đồng Châu 
Âu (PACE) 
3 
2.1.1 Tổ chức an ninh và hợp tác Châu Âu - OSCE 
Tiền thân của Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu là Uỷ ban An ninh và 
Hợp tác Châu Âu CSCE (The Commission on Security and Cooperation in Europe) 
thành lập vào ngày 3/7/1973. Năm 1970 Uỷ ban An ninh và Hợp tác châu Âu (CSCE) 
diễn ra một loạt đàm phán trong đó có sự tham gia của Mỹ, Ca-na-đa, Liên Xô và hầu 
hết các nước châu Âu. Các cuộc bàn thảo tập trung vào việc giải quyết các vấn đề 
giữa phương Đông cộng sản và phương Tây dân chủ. Cuối những năm 1980, Chiến 
tranh Lạnh kết thúc, CSCE ở thời điểm đó đã tổ chức các hội nghị và hội thảo nhưng 
vai trò của nó được nâng lên, theo dõi những thay đổi lịch sử đang diễn ra ở châu Âu, 
CSCE đã được đổi tên thành Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), OSCE 
được thành lập tại Helsinki (thủ đô Phần Lan) năm 1975. Hiện nay OSCE là tổ chức 
an ninh khu vực lớn nhất trên thế giới, với 56 nước thành viên ở châu Âu, Trung Á và 
Bắc Mỹ. OESC đã có những diễn đàn đàm phán đa phương đầu tiên đề cập đến an 
ninh dưới góc độ quyền con người. Văn bản đầu tiên của OSCE “The final Act”- Định 
ước cuối cùng được thông qua tại Hội nghị Helsinki, 8/1975 cùng với các văn kiện 
khác như văn kiện cuối cùng Copenhaghen 1990, Văn kiện cuối cùng Moscow 
1991Các cam kết về quyền con người được triển khai cụ thể hơn nhưng chủ yếu 
vẫn là các cam kết mang tính chính trị, chứ không có giá trị ràng buộc pháp lý. 
Cơ chế bảo vệ quyền con người trong tổ chức An ninh và hợp tác Châu Âu 
 Trong những thập kỷ 70, 80 của cơ chế bảo vệ nhân quyền chỉ hạn chế trong 
phạm vi cuộc thảo luận. Đến Hôi nghị ở Vienna1989, và ở Budapest 1994, cơ chế này 
ổn định và chặt chẽ hơn. Human Dimension Mechanism: có nhiệm vụ đưa ra các 
bước giám sát việc thực hiện cam kết vê quyền con người. Nếu vấn đề chưa được giải 
quyết thông qua thoả thuận giữa các quốc gia thì các quốc gia này có thể thông báo 
với các quốc gia khác, đưa vấn đề vào chương trình nghị sự của các cuộc họp. Nếu 
vẫn không đạt kết quả, phái đoàn chuyên gia OSCE được triệu tập để điều tra, tìm 
hiểu sự thật, trung gian, hòa giải. 
4 
Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu là 1 tổ chức mang tính chính trị. Khuyến 
khích phát triển dân chủ ở các quốc gia mới độc lập đã thúc đẩy tổ chức này đặt nền 
móng bảo vệ quyền con người được công nhận rộng rãi và các quyền tự do cơ bản. 
2.1.2 Liên minh Châu Âu (EU): 
Hoạt động của Liên minh Châu Âu về quyền con người: 
Liên minh châu Âu hay Liên hiệp Châu Âu (European Union) là một tổ chức 
liên chính phủ của các nước châu Âu. Liên minh châu Âu (EU) có trụ sở đặt tại thủ 
đô Brussels của Bỉ, trước ngày 1 tháng 11 năm 1993 tổ chức này được gọi là Cộng 
đồng Châu Âu (EC). Cộng đồng kinh tế Châu Âu lúc mới thành lập năm 1957 
không quan tâm đến các vấn đề chính trị như quyền con người. Do xu hướng hoà 
nhập hướng đến một Liên minh Châu Âu thống nhất kể từ năm 80 của thế kỷ XX đã 
tạo điều kiện để dân chủ và quyền con người trở thành vấn đề cơ bản trong pháp lý 
Châu Âu. Từ 6 thành viên ban đầu, hiện nay có 27 quốc gia thành viên. Liên minh 
được thành lập với tên gọi hiện nay theo Hiệp ước về Liên minh châu Âu năm 1992, 
thường gọi là Hiệp ước Maastricht . 
Hiệp ước Liên hiệp Châu Âu, hay còn gọi là Hiệp ước Maastricht, ký ngày 7 
tháng 2 năm 1992 tại Maastricht (Hà Lan), nhằm mục đích: Thành lập liên minh 
kinh tế và tiền tệ vào cuối thập niên 1990, với một đơn vị tiền tệ chung và một ngân 
hàng trung ương độc lập, Thành lập một liên minh chính trị bao gồm việc thực hiện 
một chính sách đối ngoại và an ninh chung để tiến tới có chính sách phòng thủ 
chung, tăng cường hợp tác về cảnh sát và luật pháp. 
 Hiệp ước Amsterdam: (còn gọi là Hiệp ước Maastricht sửa đổi, ký ngày 
2 tháng 10 năm 1997 tại Amsterdam) đã có một số sửa đổi và bổ sung 
trong một số lĩnh vực chính như: những quyền cơ bản, không phân biệt 
đối xử; tư pháp và đối nội; chính sách xã hội và việc làm; chính sách đối 
ngoại và an ninh chung. 
 Hiệp ước Nice (11 tháng 12 năm 2000): là văn bản đầu tiên của Liên 
minh trong đó một loạt các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa xã 
5 
hội của công dân Châu Âu cũng như bất cứ người nào sống ơ Châu Âu 
được ghi nhận. Hiệp ước Nice tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để 
đón nhận các thành viên mới đồng thời tăng cường vai trò của Nghị viện 
châu Âu, thành lập Lực lượng phản ứng nhanh (RRF). 
 Hiến chương về các quyền cơ bản của Liên minh Châu Âu được Hội 
nghị thượng đỉnh Nice thông qua vào năm 2000. Hiến chương này đưa ra 
các quy định về các quyền kinh tế, chính trị, văn hoá 
Cơ chế bảo vệ quyền con người trong EU: 
Các điều khoản về quyền con người vẫn không được bảo đảm thực hiện bởi 
cơ chế riêng. Các cơ quan chính thực thi quyền con người: 
 Hội đồng Liên minh Châu Âu: Báo cáo hàng năm về quyền con người do 
Hội đồng Liên minh Châu Âu công bố, thể hiện vai trò của chính sách về 
quyền con người đối với EU. Từ năm 1975, người đứng đầu nhà nước, 
hoặc đứng đầu chính phủ, các ngoại trưởng, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ 
ban châu Âu có các cuộc họp thường kỳ để bàn quyết định những vấn đề 
lớn của EU. Cơ chế này gọi là Hội đồng châu Âu hay Hội nghị Thượng 
đỉnh EU. Hội đồng Bộ trưởng chính là cơ quan lãnh đạo tối cao của Liên 
minh châu Âu. 
 Nghị Viện Châu Âu: đi đầu trong việc tiếp tục đề cao quyền con người 
trong chương trình nghị sự của EU và công bố báo cáo thường niên về 
quyền con người. Năm 1980, Nghị Viện Châu Âu lập ra nhóm làm việc 
về nhân quyền. Năm 1984 thành lập Tiểu ban nhân quyền; Ủy ban về các 
vấn đề dân sự và đối nội: Soạn thảo các báo cáo về nhân quyền trong nội 
bộ các nước trong và ngoài EU. 
 Hiệp ước Nice: ra đời 11 tháng năm 2000 tập trung vào vấn đề cải cách 
thể chế để đón nhận các thành viên mới đồng thời tăng cường vai trò của 
Nghị viện châu Âu, thành lập Lực lượng phản ứng nhanh (RRF). 
6 
 Tòa án EU: không phải là cơ quan chuyên trách giải quyết khiếu kiện về 
nhân quyền, nhưng để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật trong khi giải 
thích và áp dụng các điều khoản trong Hiệp ước của Liên minh thì tòa án 
đôi khi phải giải quyết các vụ việc có ít nhiều liên quan đến quyền con 
người. Trong trường hợp này, Tòa án hay tham khảo các cơ chế khác 
trong khu vực 
Nhìn chung Cơ chế bảo vệ quyền con người trong EU chưa hoàn thiện và 
phát triển đầy đủ, Tòa án EU không phải là tòa chuyên trách giải quyết các tranh chấp 
phát sinh liên quan đến vấn đề nhân quyền. Tuy nhiên có hệ thống cưỡng chế mạnh 
mẽ trong việc đảm bảo các quyền xã hội, điều chỉnh quyền lợi của công nhân trong thị 
trường lao động, mặc dầu xuất phát điểm từ quyền lợi kinh tế, cộng đồng này đã phát 
triển thẩm quyền khu vực đối với các quyền xã hội. 
2.1.3. Hội đồng Châu Âu – PACE (Parliamentary Assembly of the Council of 
Europe) 
Hoạt động của Hội đồng Châu Âu về quyền con người: 
Hội đồng Châu Âu là tổ chức chính trị lâu đời nhất của EU, được 10 nước 
Tây Âu thành lập vào ngày 5.5.1949; năm 1989, có thêm các nước Trung và Đông 
Âu. Nga trở thành thành viên của Tổ chức này vào năm 1996. Khác với Liên hiệp 
Châu Âu gồm 25 quốc gia thành viên Tây, Đông và Bắc Âu, Hội đồng Châu Âu có 
46 quốc gia thành viên, trong đó có 21 quốc gia Trung và Đông Âu. 
Mục tiêu của Hội đồng Châu Âu: là kết hợp chặt chẽ giữa các quốc gia thành 
viên nhằm mục đích bảo vệ an ninh dân chủ, nhân quyền và Nhà nước Pháp quyền. 
Kể từ năm 1989, Hội đồng Châu Âu thực hiện nhiệm vụ là giúp đỡ các quốc gia dân 
chủ hậu cộng sản ở Trung và Đông Âu tiến hành cải cách chính trị song song với cải 
cách kinh tế, và trao truyền kiến thức trên các lĩnh vực nhân quyền, dân chủ cơ sở, 
giáo dục, văn hóa, môi trường. 
Hội đồng Châu Âu là tổ chức đã ban hành nhiều điều ước về quyền con người 
Hiến Chương xã hội Châu Âu 1961, Công ước Châu Âu về ngăn ngừa tra tấn 1987 và 
7 
Công ước khung về bảo vệ người thiểu số 1994, Công ước Châu Âu về quyền con 
người 1952 chủ yếu đề cập đến quyền các quyền dân sự và chính trị. 
Cơ chế bảo vệ quyền con người trong Hội đồng Châu Âu 
Cơ chế bảo vệ quyền con người dựa trên Hiến Chương Xã Hội: 
Hiến chương Xã hội Châu Âu ra đời năm 1961 nhằm bổ sung thêm các quyền về kinh 
tế, xã hội. Những năm 80, cùng với sự quan tâm ngày càng nhiều về vấn đề kinh tế xã 
hội toàn cầu, Hiến chương Châu Âu đã được chú ý hơn và được sửa đổi hai lần vào 
năm 1988 và năm 1995. 
Theo Hiến chương xã hội EU: gồm 19 loại quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội. 
Hiến chương hoạt động dựa trên một hệ thống các báo cáo của các quốc gia, những 
văn bản này không mang tính ràng buộc pháp lý cao mà chủ yếu mang tính chất 
khuyến nghị. Do đó, tính hiệu quả của cơ chế đảm bảo thực hiện Hiến chương XHCA 
là thấp. Điều này có thể được lý giải là do Hiến chương Xã hội Châu Âu về các quyền 
kinh tế, văn hóa, xã hội nên việc đảm bảo thực hiện các quyền này còn gặp nhiều khó 
khăn do trình độ phát triển của các quốc gia thành viên khác nhau. Vì vậy, Hiến 
chương không thể đưa ra các điều khoản tạo ra sức ép về mặt pháp lý và chính trị đủ 
mạnh để buộc các quốc gia kí kết tuân theo. 
Cơ chế bảo vệ quyền con người do Công ước Châu Âu về nhân quyền lập ra 
Sau chiến tranh thế giới II, các nước Châu Âu bị tàn phá nặng nề bởi cuộc 
chiến tranh thế giới thứ hai. Các nước nhận thấy cần thiết phải thiết lập lại hoà bình 
và an ninh trong khu vực, và tôn trọng quyền con người. 5/5/1949 Hội đồng Châu 
Âu ra đời thông qua hội nghị được tổ chức ở Hague từ ngày 7-10 tháng 5 năm 1948 
với sự tham nhiều đại diện của các phong trào khác nhau do Wiston Churchil làm 
chủ tịch danh dự. Mục tiêu hoạt động của Hội đồng Châu Âu là: 
 Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là một trong những mục đích cao nhất 
của HĐCA. 
8 
 Điều 3, được coi là điều lệ của HĐCA: “mỗi thành viên phải chấp nhận các 
nguyên tắc pháp quyền và nguyên tắc các cá nhân thuộc phạm vi thẩm quyền tài 
phán của mình được hưởng các quyền tự do cơ bản của con người”. 
 Các văn bản pháp lý về quyền con người: 
Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản 1950 và 
14 Nghị định thư bổ sung. 
 Công ước Châu Âu về quyền con người: 
Công ước được thông qua ở Rome vào ngày 4/11/1950 và có hiệu lực vào ngày 
3/9/1953. Hiện tại, số quốc gia tham gia công ước đã lên đến hơn 40, trong đó có 
cả Man- ta, Ai-xơ-len, Síp. Để tham gia công ước, quốc gia đó phải là thành viên 
của Hội đồng Châu Âu. Các quyền được nêu trong CƯ là các quyền dân sự, chính 
trị. Trong lời mở đầu của Công ước, các quốc gia khi tham gia vào đó đã thể hiện 
tinh thần chung: : “ các chính phủ Châu Âu có cùng ý tưởng và cùng truyền thống 
chính trị, đạo đức, luật pháp sẽ tiến hành những bước đi đầu tiên để cùng nhau đảm 
bảo việc thực hiện các quyền nhất định được nêu trong tuyên ngôn thế giới về 
quyền con người”. Theo Công ước các quốc gia phải bảo vệ các quyền cá nhân của 
thành viên của các dân tộc thiểu số, nhưng cũng cần tạo điều kiện để các dân tộc 
thiểu số có thể duy trì và phát triển nền văn hoá bản sắc của họ. 
Các Nghị định thư bổ sung: 
Trải qua quá trình phát triển, người ta thấy cần thiết phải đưa thêm một số quyền 
vào Công ước và cần sửa đổi bổ sung để Công ước được thực thi ngày càng có 
hiệu quả hơn. 14 Nghị định thư đã được kí kết góp phần làm cho Công ước được 
hoàn chỉnh. Trong số 14 nghị định thư thì có hai loại chính đó là nghị định thư bổ 
sung các quyền và nghị định thư liên quan đến cải cách và cơ cầu tổ chức. 
Các cơ quan: 
Trong Công ước, một hệ thống đảm bảo việc thực hiện các quyền được ghi 
nhận trong CƯ được thành lập bao gồm: 
 UBCA về quyền con người (European Commission on HRs) 
9 
 Tòa Án Châu Âu về quyền con người (European Court on HRs) 
 UB Bộ trưởng của HĐCA (Committee of Ministers) 
Liên quan đến các vấn đề về cơ chế bảo vệ quyền con người thì NDT 11 là quan 
trọng nhất. Từ NDT 11, vị trí pháp lí, cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, cơ chế hoạt 
động của các cơ quan trong khuôn khổ CƯ, đặc biệt là Tòa Án nhân quyền Châu 
Âu có nhiều nét mới tiến bộ hơn. Với Nghị thư thứ 11, Uỷ ban Châu Âu về quyền 
con người và Toà án Châu Âu về quyền con người đã được thay thế bằng toà án 
thường trực Châu Âu về quyền con người. 
Như vậy UB bộ trưởng không còn chức năng tài phán nữa, chỉ có quyền giám sát 
việc thi hành phán quyết của Toà, và xin ý kiến tư vấn của Toà. Toà án nhân quyền 
Châu Ấu đã trở thành cơ quan duy nhất bảo đảm thực hiện công ước. Toàn bộ quá 
trình xử lý vụ việc đều do Toà đảm nhiệm, bao gồm từ khâu tiếp nhận đơn kiện 
đến khâu đưa ra phán quyết cuối cùng. 
Cơ cấu, thẩm quyền và thủ tục hoạt động của Toà án Châu Âu: 
Toà án quyền con người Châu Âu là công cụ chính bảo vệ quyền con người ở Châu 
Âu, đặt tại Strasbourg. Đến nay thẩm quyền bắt buộc của toà án này được tất cả 
các thành viên của Hội đồng Châu Âu ghi nhận. Toà có số lượng thẩm phán bằng 
số lượng của quốc gia thành viên của Hội đồng Châu Âu. Trong mỗi vụ việc sẽ có 
một người nắm giữ vị trí thẩm phán quốc gia để tham gia hỗ trợ tìm hiểu pháp luật 
quốc gia. Để đơn kiện được chấp nhận cần đảm bảo bốn điều kiện: 
 Có được vi phạm một quyền đựơc ECHR và các nghị định thư bổ sung bảo 
vệ; 
 Người thưa kiện là nạn nhân của sự vi phạm này; 
 Không còn một biện pháp hữu hiệu trong nước nào nữa; 
 Đơn kiện được thực hiện dưới 6 tháng sau khi các biện pháp trong nước đã 
hết. 
Nếu được chấp nhận thì một Hội đồng gồm 7 thẩm phán sẽ xem xét nội dung của 
vụ việc. Nếu vụ việc không có vai trò quan trọng hay là vấn đề liên quan đến 
10 
quyền tài phán thì khi đó phán quyết cuả Hội đồng là phán quyết cuối cùng. Nếu 
Hội đồng thẩm phán không đưa ra được quyết định thì vụ việc sẽ được kháng cáo 
tại hội đồng mở rộng gồm 17 thẩm phán. 
Cơ cấu của Toà án mới: sau nghị định thư 11, vị trí pháp lý, thẩm quyền, cơ cấu 
tổ chức của Toà có nhiều tiến bộ. Toà vừa thực hiện chức năng của Uỷ ban nhân 
quyền, Toà án cũ, làm một phần chức năng của Uỷ ban Bộ trưởng, vừa là cơ quan 
điều tra, vừa đưa ra phán quyết cuối cùng. Toà án bao gồm các thẩm phán với số 
lượng bằng với số lượng quốc gia thành viên của công ước, đứng đầu là Chánh án 
và hai Phó chánh án. Ngoài ra, giúp việc cho Toà có ban thư ký, đứng đầu là thư 
ký trưởng. Hội đồng nghị viện Châu Âu bầu thẩm phán, nhiệm kỳ thẩm phán: 6 
năm, và 3 năm bầu lại ½ số thẩm phán. (Đ 22-23). Các thẩm phán hoạt động độc 
lập và không đại diện cho quốc gia (Đ.21) 
Toà được tổ chức như sau: 
 + Hội đồng Toà toàn thể; 
 + 5 Hội đồng thẩm phán. Mỗi hội đồng có uỷ ban trực thuộc (mỗi uỷ ban 
gồm ba thẩm phán ) và Toà chuyên trách gồm 7 thẩm phán; 
 + Toà Đại Tụng (gổm 17 thẩm phán ). 
Thẩm quyền xét xử của Toà án mới: 
Điều kiện để Toà án mới có thẩm quyền xét xử: các quốc gia không phải đưa ra 
tuyên bố công nhận thẩm quyền của Toà như trước đây mà quốc gia nào phê chuẩn 
Nghị định thứ số 11 thì đương nhiên đã công nhận thẩm quyền tài phán của Toà án 
mới. 
Phạm vi thẩm quyền xét xử của Toà: 
 Thẩm quyền của Toà án mới được mở rộng đến tất cả các vấn đề liên quan 
đến việc giải thích và áp dụng Công ước và các Nghị định thư bổ sung (điều 32 
Nghị định thư số 11). 
Thẩm quyền đưa ra ý kiến tư vấn 
 Chỉ được bổ sung trong NDT 2(1970) 
11 
 Đưa ra ý kiến tư vấn về những vấn đề pháp lí có liên quan đến việc giải thích 
CƯ về quyền con người theo yêu cầu của UBBT (Đ 47) 
Chủ thể đưa vụ kiện ra Toà án và quy định thụ lý đơn kiện 
 Các quốc gia, cá nhân, nhóm cá nhân, tổ chức phi chính phủ đều có thể gửi 
đơn kiện trực tiếp ra Toà mà không cần qua một cơ quan nào cả và không cần phải 
có tuyên bố của quốc gia có liên quan chấp nhận thẩm quyền của Toà án. 
 Toá án mới sẽ thụ lý đơn kiện quốc gia và đơn kiện cá nhân nếu xét thấy tất 
cả các biện pháp trong nước đã được sử dụng hết theo những quy định của luật 
pháp quốc tế được thừa nhận rộng rãi và trong khoảng thời gian 6 tháng kể từ ngày 
có quyết định cuối cùng trong nước. Tuy nhiên, đơn kiện cá nhân muốn được thụ 
lý cần đáp ứng thêm các điều kiện sau: không phải đơn nặc danh, vấn đề khiếu 
kiện về cơ bản chưa được Toà án xem xét trước đó và chưa được gửi đến một cơ 
quan điểu tra hoặc hoà giải quốc tế nào khác và phải chứa đựng những thông tin 
mới có liên quan (điều 35 công ước sửa đổi). 
Thủ tục Trình tự giải quyết khiếu nại 
 Toà nhận đơn trực tiếp. 
 Đơn kiện cá nhân sẽ được giao cho các Hội đồng (section) giải quyết. 
 Đơn kiện cá nhân và đơn kiện quốc gia không bị từ chối được chuyển đến 
cho toà chuyên trách (chamber) gồm 7 thẩm phán. Toà chuyên trách sẽ quyết định 
việc thụ lý đơn kiện và xem xét cả nội dung của đơn kiện. Toà Đại Tụng (Grand 
Chamber ) gồm 17 thẩm phán được tòa chuyên trách yêu cầu xét xử vụ việc trong 
2 trường hợp đặc biệt sau : 
Thứ nhất, Tòa chuyên trách nhường thẩm quyên xét xử: Giải pháp để giải quyết 
vấn đề trước Toà chuyên trách có thể gây ra hậu quả trái với phán quyết đã được 
đưa ra trước đây. Thứ hai, vụ việc làm phát sinh vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng 
đến việc giải thích và áp dụng công ước và các Nghị định thư có liên quan (điều 30 
công ước) Kèm theo đk Điều 72 Điều lệ Toà án: các bên liên quan không phản đối 
trong vòng một tháng kể từ khi ý định này được thông báo. 
12 
Ngoài ra Toà Đại Tụng còn có thể xem xét lại phán quyết của Tòa chuyên trách 
khi có khiếu kiện trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày Toà chuyên trách đưa ra phán 
quyết, khi vụ việc phát sinh 1 vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến việc giải thích 
và áp dụng công ước và các Nghị định thư có liên quan; Vụ việc gây ra tình hình 
nghiêm trọng ảnh hưởng đến đến tình hình chung (điều 43 Công ước sửa đổi). Khi 
đó một uỷ ban gồm 5 thẩm phán của Toà Đại Tụng sẽ xem xét việc chấp nhận yêu 
cầu và nếu chấp nhận thì Toà Đại Tụng sẽ có trách nhiệm đưa ra phán quyết cuối 
cùng. Phán quyết của tòa là phán quyết cuối cùng, các quốc gia liên quan phải tuân 
thủ. 
Thi hành phán quyết 
Phán quyết cuối cùng sẽ được chuyển tới Uỷ ban Bộ Trưởng. Uỷ ban Bộ trưởng sẽ 
giám sát việc thi hành phán quyết của Toà án. Việc thi hành hoàn toàn phụ thuộc 
vào ý chí của quốc gia. 
Nếu quốc gia thua kiện không thực hiện phán quyết thì bằng các biện pháp cần 
thiết, UBBT sẽ đưa vào Chương trình Nghị sự của UBBT trong vòng 6 tháng tiếp 
theo. Nếu quốc gia cương quyết không thực hiện phán quyết của Tòa thì quốc gia 
đó sẽ bị trục xuất ra khỏi Hội đồng Châu Âu. 
Cơ chế bảo vệ quyền con người do Công ước Châu Âu về quyền con người lập ra 
có một số ưu điểm, nhược điểm: 
Ưu điểm: 
 + Hệ thống văn bản pháp lý hoàn thiện 
 + Các cơ quan thực thi công ước hoạt động tương đối hiệu quả. 
 + Có chế tài cưỡng chế thực thi các phán quyết đối với các quốc gia thành 
viên. 
 + Tạo điều kiện cho cá nhân đưa đơn kiện đến các cơ quan giám sát thực 
hiện Công ước để bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản của mình khỏi sự vi phạm từ phía 
nhà nước sau khi quá trình xét xử ở quốc gia không hiệu quả. 
13 
 + Cơ chế này còn cho phép các quốc gia có quyền kiện bất cứ quốc gia 
thành viên nào khi xảy ra sự vi phạm các quyền con người được ghi nhận trong 
Công ước. 
Nhược điểm: 
 + chỉ giải quyết các quyền về dân sự chính trị, không giải quyết các 
quyền kinh tế, văn hoá. 
 + Nội dung đơn kiện phải liên quan đến sự vi phạm một trong các quyền 
được đặt ra trong CƯ CÂ về quyền con người. 
2.2 Cơ chế nhân quyền châu Mỹ. 
2.2.1 Nguồn gốc và lịch sử hình thành CƯNQ Liên Mỹ 
Do thuộc là thuộc địa lâu đời của các cường quốc Tây Âu, nền văn hóa và các 
thiết chế chính trị của các nước Mỹ La Tinh đã chịu nhiều ảnh hưởng của các nước 
thực dân Tây Âu. Từ khi giành độc lập vào đầu thế kỷ 19 các nước này đã trở 
thành “sân sau” của Mỹ. 5/1948, Hội nghị Liên Mỹ 9 tại Bogotas đã thông qua 
Hiến chương thành lập Tổ chức các nước châu Mỹ (OSA) (tiền thân là Liên minh 
quốc tế các nước cộng hòa châu Mỹ thành lập năm 1890). Hiến chương này được 
bổ sung bởi 4 nghị định thư từ năm 1967 đến năm 1993. Trong hiến chương này, 
quyền con người cũng được đề cập đến nhưng còn rất chung. 
Đến năm 1959, UB nhân quyền Liên Mỹ được thành lập gồm 7 thành viên hoạt 
động với tư cách cá nhân do Hội đồng của OSA bầu ra. Năm 1969, CƯLM được 
thông qua, chính thức hóa vai trò của UBLM và thành lập Tòa án nhân quyền Liên 
Mỹ. CƯLM này có hiệu lực vào năm 1978. Nhưng năm 1979, đại hội đồng của 
OSA đã phê chuẩn quy chế mới cho UB, vì trong thực tế, một số thành viên của 
OSA không tham gia phê chuẩn CƯLM. Đến nay OSD có 34 quốc gia thành viên, 
trong đó có 25 quốc gia thành viên đã phê chuẩn công ước Liên Mỹ. 
Nhân tố đặc rất đặc thù đưa đến sự hình thành cơ chế nhân quyền ở Châu Mỹ là 
tình trạng các chế độ độc tài quân sự cầm quyền ở nhiều nước và luôn có đe dọa 
đảo chính quân sự. Các chế độ độc tài quân sự thường vi phạm nghiêm trọng 
14 
quyền con người. Sự ra đời của cơ chế quyền con người của châu Mỹ một phần 
cũng thể hiện cuộc đấu tranh của nhiều lực lượng xã hội nhằm có được chế độ dân 
sự ở nước mình. 
Mặt khác, CƯLM ra đời còn do ảnh hưởng sâu sắc của nước Mỹ đối với châu 
lục này. Thông qua OSA Mỹ cho ra đời Tuyên bố châu Mỹ về các quyền nghĩa vụ 
của công dân, gây áp lực ngoại giao đối với các chình phủ có hành đông vi phạm 
nhân quyềnMặc dù ko phải lúc nào Mỹ cũng ủng hộ các hoạt động và các chuẩn 
mực về quyền con người ở trong khu vực nhưng rõ ràng vai trò của Mỹ vẫn có ý 
nghĩa hết sức quan trọng thúc đẩy xây dựng CƯLM. 
2.2.2 Cơ cấu tổ chức cơ chế khu vực châu Mỹ 
Công ước nhân quyền châu Mỹ có 2 cơ quan đảm bảo thực thi là UB nhân 
quyền và tòa án nhân quyền. 
a) UB nhân quyền 
UB nhân quyền Liên Mỹ được OSA thành lập năm 1959. UB NQLM là một cơ 
quan độc lập của OAS với chức năng chính là thúc đẩy và giám sát cũng như bảo 
về nhân quyền và hoạt động với chức năng là thực thể đưa ra các ý kiến tư vấn cho 
OAS (Điều 1 Quy chế UBNQLM). 
Cơ cấu thành phần 
UBNQLM gồm 7 thành viên. Đây là những người có tư cách đạo đức và 
phẩm chất tốt, có chuyên môn cao về lĩnh vực quyền con người đã được công nhận 
(điều 1.3 Quy chế UB và Điều34 CƯ). 7 người này hoạt động riêng với tư cách cá 
nhân, không đại diện cho quốc gia, Đại Hội Đồng của Tổ chức lựa chọn từ một 
danh sách các ứng cử viên mà chính phủ các nước đệ trình (Điều 36 CƯ). Nhiệm 
kì của 7 thành viên là 4 năm và có thể được bầu lại 1 lần và không thể có 2 thành 
viên cùng là công dân của một nước thành viên (Điều 37 CƯ). Ban Thư kí chung 
của OAS sẽ giải quyết những công việc hành chính khác nếu như UB đề nghị. 
(Điều 40CƯ). 
Thẩm quyền chức năng của UB 
15 
UB sẽ góp mặt vào tất cả các vụ việc của Toà án (Điều 57 CƯ). 
Xem xét các khiếu kiện cá nhân, các nhóm cá nhân hoặc tổ chức chính phủ, 
buộc tội các quốc gia thành viên vi phạm CƯNQCM (Điều 24CƯ). Các quốc gia 
bắt buộc phải chấp nhận thẩm quyền này chứ không được lựa chọn. 
Xem xét khiếu kiện quốc gia. Về thủ tục này, các quốc gia có thể tuyên bố 
chấp nhận thẩm quyền của UB vào bất kì lýc nào, trong một thời điểm xác định 
hoặc không xác định, trong một vụ việc cụ thể (Điều 45 CƯ). Một khi đã phê 
chuẩn CƯNQCM thì cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận thủ tục khiếu nại cá nhân, 
còn thủ tục khiếu kiện giữa các quốc gia là lựa chọn. 
- Quá trình thụ lí đơn kiện 
 Trước tiên, một đơn kiện để được chấp nhận thì phải tuân theo nguyên tắc 
của CƯNQCM đó là một đơn kiện chỉ được chấp nhận khi tất cả các biện pháp của 
nội bộ quốc gia đã được sử dụng hết và phải được gửi lên trong vòng 6 tháng kể từ 
ngày quốc gia đưa ra quyết định cuối cùng (Điều 46 CƯ). Trong trường hợp 
nguyên đơn muốn đưa vụ kiện lên UB của Liên Hợp Quốc hoặc Uỷ ban của khu 
vực, mà trước đó họ đã đệ đơn lên một cơ quan quốc tế khác, thì đơn kiện sẽ được 
tuyên bố là không được chấp nhận (Điều 47 CƯ) 
 Khi đơn kiện đã được chấp nhận, đầu tiên, UB phải thiết lập các dữ kiện, có 
thể tiến hành điều tra để quốc gia liên quan cung cấp tất cả thông tin cần thiết 
(Điều 48.1d CƯ). Trong trường hợp khẩn cấp có thể đề ra những thủ tục khẩn cấp 
hoặc các giải pháp thân thiện để giải quyết vụ việc. Nếu giải pháp thân thiện không 
giải quyết được vụ việc , UB phải tiến hành báo cáo về các dữ kiện, các kết luận 
thu được và đưa ra các khuyến nghị phù hợp (Điều 50 CƯ). 
 Nếu trong vòng 3 tháng vụ việc chưa được giải quyết hoặc đệ trình lên Toà 
án, UB có thể đưa ra kết luận của mình, nếu các thành viên đồng ý với đa số phiếu 
(Điều 51 CƯ). 
16 
 Có thể đưa ra khuyến nghị hoặc đặt thời hạn để quốc gia đó tiến hành những 
biện pháp khắc phục cần thiết. Khi hết thời hạn, UB sẽ quyết định xem các biện 
pháp đã thực hiện đủ chưa, và có cần làm báo cáo không. 
Như vậy, trong việc giải quyết các đơn kiện, tranh chấp về nhân quyền, UB chỉ có 
chức năng đưa ra các khuyến nghị, thậm chí nếu có định ra thời hạn, biện pháp để 
các quốc gia vi phạm thực hiện thì cũng không có cơ chế đảm bảo thực thi. Nếu 
quốc gia không thực hiện thì UB chỉ đưa ra các báo cáo lên Tổ chức chứ không 
đưa ra những biện pháp cưỡng chế hay trừng phạt nào. 
b) Toà án Nhân quyền Liên Mỹ (TANQLM) 
TANQLM là một thể chế tài phán độc lập có mục đích là việc áp dụng và giải 
thích CƯNQCM. TA thực thi chức năng của mình phù hợp với CƯNQCM và quy 
chế TANQLM (Điều 1 Quy chế TANQLM). 
a. Thành phần của Toà 
Toà gồm 7 thẩm phán và luôn chỉ có 7 thẩm phán được chọn ra với tư cách cá nhân 
(Điều 52 CƯ; Điều 4 Quy chế Đây là những người mang những phẩm chất cao 
nhất về đạo đức và năng lực. Các ứng viên có thể là công dân của bất kì quốc gia 
nào của OAS. Một quốc gia thành viên có thể đề cử một danh sách gồm 3 thẩm 
phán nhưng một trong ba ứng viên này phải không được mang quốc tịch nước đề 
cử (Điều 53 CƯ; Điều 7.3 Quy chế). Các quốc gia không được hạn chế quyền ứng 
cử của các thẩm phán. Tuy nhiên có điều kiện là không được có 2 thẩm phán cùng 
mang quốc tịch của một quốc gia thành viên. Nhiệm kì của thẩm phán là 6 năm và 
có thể được bầu lại một lần (ĐIều 54 CƯ; Điều 5.1 Quy chế). 
Thẩm phán ad hoc (Điều 10 Quy chế) 
Trong trường hợp liệu một thẩm phán là công dân của một quốc gia là một 
bên trong vụ việc có được tham gia xét xử vụ đó k đó không, thì TA đã quy định 
quốc gia liên quan đó có thể chỉ định một thẩm phán đặc biệt (adhoc) (Điều 55CƯ). 
Cụ thể: 
17 
 Nếu một thẩm phán là công dân của một bên trong vụ kiện thì thẩm phán đó 
vẫn có quyền tham gia. 
 Nếu một trong các thẩm phán được yêu cầu tham gia vụ kiện cũng là công 
dân một bên trong vụ việc, thì bất kì bên nào khác cũng có thể đề cử một thẩm 
phán ad hoc. 
 Nếu các thẩm phán tham gia vụ việc không có ai là công dân của các bên vụ 
việc thì các quốc gia liên quan có thể bổ nhiệm một thẩm phán ad hoc. 
Tòa sẽ chỉ định và thiết lập Ban thư kí của riêng mình (Điều 58 CƯ) Ban thư kí 
này hoạt động dưới sự chỉ đạo của Thư Kí của Toà án nhưng theo các nguyên tắc 
của Tổng thư kí của OAS (Điều 59 CƯ; Điều 14 quy chế). 
b. Thẩm quyền của Toà và thủ tục hoạt động 
-Thẩm quyền của Toà: 
Thẩm quyền của Toà bao gồm quyền tài phán (adjudicatory) và quyền tư 
vấn (advisory). (Điều 2 Quy chế TANQLM). 
Thẩm quyền tài phán của Toà được điều chỉnh bởi các điều khoản 61, Điều 
62, và Điều 63 của CƯNQCM. (Điều 2.1 Quy chế). 
Thẩm quyền tư vấn của Toà được điều chỉnh bởi Điều 64 của CƯNQCM. 
(ĐIều 2.2 Quy chế). 
- Thẩm quyền tài phán: 
Chỉ có các quốc gia thành viên và UBNQLM mới có quyền đệ trình các vụ việc 
lên Toà án (Điều 61 CƯ). Toà không tiếp nhận đơn cá nhân. 
Thẩm quyền này của Toà mang tính lựa chọn. Điều này có nghĩa là các quốc 
gia thành viên CƯ có quyền chấp nhận hay không chấp nhận thẩm quyền của Toà. 
Nếu chấp nhận, các quốc gia có thể ra tuyên bố mặc nhiên chấp nhận thẩm quyền 
của Toà, các quốc gia có thể ra tuyên bố mặc nhiên chấp nhận thẩm quyền của Toà 
khi có các quốc gia khác khiếu nại hoặc chấp nhận thẩm quyền theo từng trường 
hợp. (Điều 62 CƯ). 
Thẩm quyền đưa ra “các biện pháp tạm thời”: 
18 
 -Nếu Toà án phát hiện thấy có vi phạm, Toà có thể tạo điều kiện để phục hồi 
quyền lợi của bên bị hại, và có thể yêu cầu bên bị đơn khắc phục tình trạng bị vi 
phạm và chi trả các phí tổn (Điều 63 CƯ). 
Thẩm quyền tư vấn: 
Tòa còn có thể đưa ra các ý kiến tư vấn cho các quốc gia. Các quốc gia thành viên 
có thể xin TA ý kiến tư vấn không chỉ về các vấn đề liên quan đến CƯ mà còn cả 
những vấn đề liên quan đến bảo vệ con người ở các quốc gia Châu Mỹ (Điều 64 
CƯ). Và bất cứ thành viên nào của OAS đều có thể yêu cầu Toà án cho ý kiến tư 
vấn về sự phù hợp giữa nội luật của quốc gia đó với Công ước nhân quyền Châu 
Mỹ hay bất cứ điều ước nhân quyền nào ở Châu này. 
Phán quyết của Toà. 
 Các quốc gia thành viên phải chịu ràng buộc với phán quyết của Toà và yêu 
cầu của Toà đối với các quốc gia liên quan về việc bồi thường thiệt hại là bắt buộc 
(Điều 68 CƯ). 
Cơ chế đảm bảo thực thi phán quyết của Toà: 
Nếu quốc gia liên quan không tuân thủ các phán quyết của Toà, Toà sẽ làm báo 
cáo hàng năm lên Đại Hội Đồng OAS về mọi việc, đồng thời đưa ra các khuyến 
nghị (ĐIều 65 CƯ). Cũng có thể coi báo cáo là một hình thức trừng phạt nhất định, 
tuy nhiên chưa đạt hiệu quả cao. 
Thủ tục hoạt động của Toà: 
Toà có hai cuộc họp thường kì trong 1 năm (Điều 1 năm (Điều 22.1 Quy chế; Điều 
11 Quy định về thủ tục hoạt động của Toà ). Có thể có các phiên họp đặc biệt do đa 
số các thẩm phán đề nghị hoặc do Chủ tịch của Toà đề nghị (Điều 22.3 Quy chế; 
Điều 12 Quy định) 
Trong quá trình thụ lí một đơn kiện, Ít nhất 5 thẩm phán phải tham gia vào các 
buổi đưa ra ý kiến (deliberations). (Điều 23.1 Quy chế; Điều 13 Quy định). 
Các buổi thảo luận, đưa ra ý kiến này sẽ được giữ bí mật, chỉ có các thẩm phán mới 
có thể tham gia. (Điều 14.2 Quy định; Điều 24.2 Quy chế). 
19 
Tất cả các thẩm phán đều tham gia phiên toà (hearings), các phiên toà này là công 
khai (Điều 24.2 Quy chế; Điều 14.1 Quy định). 
 Các quyết định kể cả trong những buổi thảo luận này hay trong bất cứ một phiên 
họp và phiên toà nào đều được quyết định bởi phiếu của đa số thẩm phán (Điều 
23.2 Quy chế; Điều 15.3 Quy định). Phiếu của các thẩm phán hoặc là đồng ý hoặc 
là phản đối, phiếu trắng không được chấp nhận (Điều 23.2 Quy chế; Điều 15.1 Quy 
định). Trong trường hợp không xác định được đa số phiếu thì phiếu của Chủ tịch sẽ 
là quyết định (Điều 23.3 Quy chế; ĐIều 15.4 Quy chế). 
Cơ sở pháp lý 
3 Cơ sở pháp lý bao gồm : 
Hiến chương các tổ chức châu Mỹ 
Tuyên ngôn châu Mỹ về quyền và nghĩa vụ của con người. 
Công ước nhân quyền châu Mỹ 
Ngoài ra còn 1 số nghị định thư: nghị định thư bổ sung của công ước nhân 
quyền về các quyền văn hóa, kinh tế xã hội, nghị định thư về chống bạo lực đối 
với phụ nữ 
4 Đánh giá và mối liên hệ với cơ chế nhân quyền của LHQ 
Đánh giá: 
Ưu điểm: quyền của UBNQLM và của TANQLM thì có quyền rộng hơn so với 
quyền của UBNQCA. (trong một trường hợp nhất định họ có thể vào tận lãnh thổ 
quốc gia liên quan để khảo sát tình hình ). UBNQLM có quyền xem xét các khiếu 
kiện của các cá nhân, các nhóm cá nhân hoặc tổ chức chính phủ, buộc tội các quốc 
gia thành viên vi phạm CƯLM(điều 24) và các quốc gia bắt buộc phải chấp nhận 
thẩm quyền này chứ ko được quyền lựa chọn. 
Nhược điểm: trong khi UBNQCA chỉ quan tâm đến những vụ việc có tính chất 
cải thiện luật pháp về quyền con người và ít khi có ngoại lệ. Các chính phủ hữu 
quan ở châu Âu thường cộng tác đầy đủ với UBNQ châu Âu. Thì UBNQ châu Mỹ 
lại quan đến các vấn đề khác như: bắt bớ tùy tiện trên phạm vi rộng, sử dụng hành 
20 
hình một cách có hệ thống, không thực hiện các biện pháp bồi thường mang tính tư 
pháp, những hiện tượng vi phạm trắng trợn các tiêu chuẩn văn minh. Các chính 
phủ liên quan ở khu vực này thường có thái độ đối đầu hơn là cộng tác với UBNQ 
châu Mỹ. 
Như vậy cơ chế nhân quyền châu Mỹ chưa thực sự có hiệu quả trong vấn đề đảm 
bảo thực thi quyền con người. 
2.3 Cơ chế nhân quyền châu Phi 
2.3.1 Nguồn gốc và lịch sử hình thành Hiến chương Châu 
Phi về con người và quyền con người. 
Trong 3 công ước khu vực về quyền con người, Hiến chương châu Phi về con 
người và quyền con người ra đời muộn nhất, nên ít nhiều cũng sẽ chịu ảnh hưởng 
từ hai công ước trước. 
Năm 1961, hội nghị châu Phi về Nguyên tắc luật tại Lagos đã thông qua “luật 
Lagos”, “mời các chi nghiên cứu khả năng thông qua công ước châu Phi về quyền 
con người” Đây là bước mở đầu một tiến trình hơn 20 năm tiếp theo, mà sự kết 
thúc là sự ra đời của Hiến chương châu Phi về con người và quyền con người năm 
1981. 
 Năm 1963, hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo các quốc gia châu Phi ở 
Addis Ababa đã thông qua hiến của tổ chức thống nhất châu Phi (OAU). Năm 
1967, tại khóa họp 23 của UB nhân quyền LHQ đã thảo luận việc thành lập các UB 
nhân quyền khu vực, tạo cơ sở cho 5 nước châu Phi ký kết và xem xét việc thành 
lập ủy ban nhân quyền châu Phi. 
Tháng 3 năm 1969, hai sự kiện đã diễn ra tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra 
đời của UB châu Phi. Đầu tiên là việc UB thường trực về quyền con người của các 
nước Arab được thành lập. Thêm vào đó, tháng 9 năm 1969, LHQ đã tổ chức một 
cuộc hội thảo bàn về việc xây dựng các UB khu vực, mà trọng điểm là châu Phi, 
với sự góp mặt của 20 nước châu Phi cũng như các đại diện từ Hội đồng châu Âu 
và Liên đoàn Arab. 
21 
Nhưng phải đến 7/1979, OAU mới đạt được bước tiến quan trọng khi Hội 
đồng những người đứng đầu nhà nước và chính phủ thông qua “quyết định về 
quyền con người và quyền dân tộc ở châu Phi” tại Monrovia. Tháng 11UBNQ 
châu Phi được thành lập gồm 11 thành viên, có chức năng phát huy và bảo vệ 
quyền con người theo các văn bản pháp luật quốc tế, đồng thời viết báo cáo và 
khuyến nghị để trình lên Tổ chức thống nhất Châu Phi OAU. 
Hai năm sau, hiến chương châu Phi về con người và quyền con người được 
phê chuẩn và có hiệu lực năm 1986. 
Hiến chương châu Phi ra đời hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của thực tiễn 
châu Phi. So với châu Âu và châu Mỹ thì châu Phi phải nằm dưới ách thực dân lâu 
dài hơn, nhiều nước châu Phi có được độc lập hàng thập kỷ kể từ sau khi LHQ 
được thành lập. Chính vì thế, họ phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của chủ 
nghĩa thực dân, kéo theo những khó khăn về kinh tế, bất ổn xã hội triền miên và tất 
nhiên vấn đề nhân quyền không được quan tâm nhiều. “kể từ năm 1970 hơn 30 
cuộc chiến tranh đã diễn ra ở Africa mà nguyên nhân chủ yếu đều xuất phát tuef 
chính nội bộ quốc gia đó. Chỉ riêng trong năm 1996, 14 trong số 53 nước châu Phi 
đã phải chịu đau khổ do xung đột vũ trang gây raCác cuộc xung đột lâu nãy đã 
ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nỗ lực của châu Phi nhằm duy trì sự ổn định lâu 
dài, sự thịnh vượng và hòa bình cho người dân”. Tiếp đó những năm 90 là thời kỳ 
khủng hoảng kinh tế xã hội ở châu Phi. Kinh tế châu Phi bắt đầu phụ thuộc vào 
phương Tây. Các nước phương Tây thì ngày càng gắn chặt nhân quyền với viện trợ. 
Thậm chí họ còn sẵn sàng cắt giẳm hoặc ngưng viện trợ nếu phát hiện thấy có hiện 
tượng vi phạm quyền con người (trường hợp của Uganda, Liberia, Equatoria 
guinea) Đây cũng chính là một động lực thúc đẩy sự ra đời của HC châu Phi. 
Tiếp đến là thực tiễn luật pháp của châu Phi yêu cầu phải có một cơ chế mới đưa 
việc bảo vệ nhân quyền trở thành một nguyên tắc pháp luật thay thế luật pháp của 
các nước thực dân để lại. 
2.3.2 Cơ sở pháp lý 
22 
Các văn bản pháp lý về quyền con người: 
The African Charter on Human and Peoples' Rights 
Hiến chương nhân quyền châu Phi được Hội đồng lãnh đạo các quốc gia và 
chính phủ của OAU thông qua vào 1981 và có hiệu lực 5 năm sau – 1986. Hiến 
chương bao gồm một phạm vi rộng hơn về quyền so với cả Công ước nhân quyền 
châu Âu cũng như Công ước nhân quyền châu Mĩ. Hiến chương châu Phi bao gồm 
cả quyền cá nhân và tập thể. 
Rules of Procedure of the African Commission on Human and Peoples' 
Rights: Điều lệ thủ tục của Ủy ban nhân quyền châu Phi được Ủy ban nhân quyền 
châu Phi thông qua 6/10/1995 và phù hợp với điều 42.2 Hiến chương. 
2.3.3 Cơ chế thực thi quyền con người của châu Phi 
Ủy ban nhân quyền châu Phi: 
The African Commission on Human and Peoples' Rights 
Cơ cấu và chức năng: 
Ủy ban nhân quyền châu Phi bao gồm 11 thành viên được lựa chọn từ các cá nhân châu Phi 
có uy tín nhất, được biết đến với tinh thần đạo đức, liêm chính, chí công vô tư cao về các 
vấn đề liên quan đến nhân quyền và quyền con người. Các thành viên của Ủy ban được 
chính phủ của họ đề cử và được Hội đồng lãnh đạo quốc gia và chinh phủ của OAU bầu 
với nhiệm kì 6 năm 1 lần và thành phần Ủy ban không có nhiều hơn 1 người đến từ cùng 
một quốc gia ( điều 33,34 Hiến chương châu Phi). 
Ủy ban là cơ quan chính trong việc thi hành Hiến chương châu Phi. Ủy ban nhóm họp 2 
năm 1 lần và có thể nhóm họp các hội nghị bất thường nếu cần thiết. Các cuộc nhóm họp 
thường được tổ chức vào tháng 3 / tháng 4 và tháng 10/ tháng 11 và kéo dài trong 15 ngày. 
Chúng đã được tổ chức tại rất nhiều các quốc gia châu Phi, bao gồm Benin, Algeria, 
Rwanda, Burundi và The Gambia. Ban thư kí Ủy ban được đặt trụ sở tại Banjul, Gambia. 
Thư kí của Ủy ban châu Phi, được Tổng thư kí của OAU chỉ định chịu trách nhiệm trước 
23 
Tổng thư kí OAU về các vấn đề tài chính và hành chính. Ủy ban châu Phi trình báo cáo 
hàng năm về các hoạt động của Ủy ban cho Hội đồng OAU mỗi năm và phụ thuộc vào cơ 
quan này để thi hành các quyết định và nghị quyết của mình. 
Ủy ban nhân quyền châu Phi có nhiệm vụ chính: 
1. xem xét báo cáo các chính phủ đệ trình lên liên quan đến vấn đề nhân quyền ở quốc 
gia đó; 
2. xem xét khiếu kiện về nhân quyền - communications được cá nhân và các tổ chức 
phi chính phủ đệ trình. ( Communication là từ dùng để chỉ các khiếu kiện liên qua đến 
quyền con người thường được gửi đến cơ quan nhân quyền quốc tế như Ủy ban châu Phi. 
Communication là một văn bản tóm tắt những gì đã xảy ra, giải thích sự kiện được cho là 
sự vi phạm nhân quyền, và yêu cầu được bồi thường). 
3. Tán thành các nghị quyết tại các cuộc họp định kì; ( Ủy ban châu Phi nhóm họp 2 
lần 1 năm để xem xét báo cáo quốc gia và nghe các khiếu kiện về quyền con người. Tại các 
cuộc họp này, thành viên Ủy ban cũng sẽ bàn bạc những mối lo về nhân quyền hiện tại và 
xem xét các vấn đề thủ tục. Thường tuyên bố sẽ được soạn thảo và nêu bật ý kiến của Ủy 
ban châu Phi về các vấn đề này. Các tuyên bố này được gọi la resolution nghị quyết. 
4. đưa ra các khuyến nghị cho các chính phủ về vấn đề nhân quyền; 
5. chỉ định các báo cáo viên đặc biệt để điều tra các vần đề quyền con người; 
6. tổ chức các hội nghị và hội thảo 
 Theo điều 45 đoạn 1 Hiến chương châu Phi, Ủy ban Châu Phi hướng đến: 
1. Nâng cao nhân quyền và quyền con người và đặc biệt: 
a) thu thập văn bản pháp lý, thực hiện các nghiên cứu về các vấn đề của châu Phi liên 
quan đến lĩnh vực quyền con người, tổ chức các hội nghị và hội thảo, phổ biến thông tin, 
khuyến khích các tổ chức địa phương và quốc gia liên quan đến vấn đề quyền con người, 
24 
và nếu có vụ việc xảy ra, bày tỏ quan điểm và khuyến nghị của mình đến các chính phủ các 
nước. 
b) trình bày các nguyên tắc, quy tắc nhằm giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến 
quyền con người và các tự do cơ bản; mà các chính phủ châu Phi có thể thiết lập luật pháp. 
c) hợp tác với các tổ chức trên phạm vi quốc tế và khu vực châu Phi với mục đích nâng 
cao và bảo vệ quyền con người; 
Đoạn 2, 3 và 4 của Điều 45 cũng đưa ra các chức năng đặc biệt quan trọng trong việc thi 
hành các quyền thuộc Hiến chương châu Phi: 
1. đảm bảo sự bảo vệ quyền con người theo các điều kiện được đưa ra trong bản Hiến 
chương châu Phi; 
2. giải thích điều khoản của Hiến chương theo yêu cầu của các quốc gia thành viên 
OAU; của OAU hay một tổ chức châu Phi khác được OAU công nhận; 
3. thi hành bất cứ nhiệm vụ nào do Hội đồng lãnh đạo các quốc gia và chính phủ giao 
cho. 
 Thủ tục tiếp nhận đơn khiếu kiện từ cá nhân và tổ chức phi chính phủ: 
Một trong những chức năng cơ bản của Ủy ban là nhằm bảo vệ quyền con người và đảm 
bảo các tự do cơ bản trong Hiến chương theo các điều kiện đặt ra. 
Để đạt được điều này, Ủy ban được trao quyền, nhận và xem xét: 
 các khiếu kiện được đệ trình bởi một quốc gia thành viên khẳng định một quốc gia 
thành viên khác của Hiến chương đã vi phạm một trong những điều khoản trong Hiến 
chương ( điều 48-49) 
 các khiếu kiện khác của các cá nhân và tổ chức khẳng định rằng quốc gia thành viên 
đã vi phạm một hay nhiều hơn những quyền lợi được đảm bảo trong Hiến chương. ( điều 
55). 
25 
Các khiếu kiện từ các cá nhân và tổ chức đệ trình lên Ủy ban theo điều 55 của Hiến chương 
được coi là nằm trong cơ cấu của thủ tục đệ trình bằng văn bản ( điều 102 – 120 của điều lệ 
thủ tục Ủy ban). Người viết đơn khiếu kiện có thể rút đơn khiếu kiện vào bất kì lúc nào. Ủy 
ban trong những trường hợp như thế sẽ ngừng các thủ tục xem xét khiếu kiện và không đưa 
ra bất kì quyết định nào. 
 Nhận đơn khiếu kiện: 
Các đơn khiếu kiện đển Ủy ban thường được chuyển thẳng tới Ban thư kí của Ủy ban đặt 
trụ sở tại Banjul, Gambia. Khi đơn khiếu kiện được tiếp nhận, nó sẽ được đăng ký theo số 
thứ tự file trong phòng đăng kí khiếu kiện của Ủy ban được lưu giữ tại Ban thư ký. 
Số lượng các đơn khiếu kiện được viết theo cách phản ánh được tổng số lượng các đơn 
khiếu kiện đã được nhận. Vì thế, nếu một đơn khiếu kiện được đánh số 18/90, “18” ám chỉ 
đây là đơn khiếu kiện số 18 mà Ủy ban nhận được kể từ khi bắt đầu và “90” ám chỉ năm 
mà đơn khiếu kiện số 18 được tiếp nhận. Cần lưu ý rằng việc đăng ký đơn khiếu kiện 
không được đảm bảo rằng nó sẽ được Ủy ban seize. 
Seizure: 
Khi đơn khiếu kiện được đăng kí, Ủy ban sẽ nhận chúng. Theo điều 55 của Hiến chương 
“ trước mỗi phiên họp của Ủy ban, Thư ký của Ủy ban chuẩn bị một danh sách các đơn 
khiếu kiện được đệ trình lên Ban thư ký, . Và chuyển chúng tới các thành viên của Ủy 
ban, những người sẽ quyết định đơn khiếu kiện nào sẽ được Ủy ban xem xét”. 
Điều 102 (2) của điều lệ thủ tục Ủy ban “ không một đơn khiếu kiện nào liên quan đến 
quốc gia không phải là thành viên của Hiến chương sẽ được Ủy ban tiếp nhận hoặc cho vào 
danh sách” 
26 
Vì thế, khi Ban thư ký Ủy ban nhận được một đơn khiếu kiện theo điều 55 chống lại một 
quốc gia thành viên của Hiến chương, ngay khi được đăng ký, một bản tóm tắt được làm 
và gửi đến các thành viên Ủy ban. Một lá thư được viết đến nguyên đơn- người khiếu kiện 
cho biết việc tiếp nhận đơn khiếu kiện. không một lá thư nào được gửi đến quốc gia thành 
viên trong quá trình này. Ban thư ký phải đợi phản hồi từ ít nhất 7/11 thành viên cho biết 
họ đã tiếp nhận và chấp nhận lệnh nắm giữ đơn khiếu kiện. 
Nếu Ban thư ký không nhận được đủ số lượng tối thiểu 7 phản hồi, đơn khiếu kiện sẽ được 
trình lên các thành viên Ủy ban trong phiên họp tiếp theo. 
Trong phiên họp này, Ủy ban sẽ quyết định có nên tiếp nhận đơn khiếu kiện hay không 
bằng cách quyết định nó có khẳng định được một vi phạm prima facie đối với Hiến chương 
không. Điều 55(2) Hiến chương “ một đơn khiếu kiện sẽ được Ủy ban xem xét nếu đại đa 
số thành viên quyết định như thế”. 
Nếu đại đa số thành viên Ủy ban (trong trường hợp là 6) quyết định Ủy ban tiếp nhận, Ban 
thư kí sẽ được yêu cầu thông báo cho các bên ( bên nguyên đơn và quốc gia liên quan) rằng 
đơn khiếu kiện sẽ được xem xét hay tiếp nhận vào phiên họp tiếp theo của Ủy ban, và họ 
có thời hạn 3 tháng kể từ ngày lá thư được viết đệ trình các ý kiến về quyết định này. 
Chỉ có ở quá trình này, quốc gia thành viên mới được cho biết đến đơn khiếu kiện. 
Điều kiện tiếp nhận đơn khiếu kiện: 
Điều 56 Hiến chương đưa ra các điều kiện áp dụng đối với các nhân và các đơn khiếu kiện 
như sau: 
 đơn khiếu kiện phải chỉ ra tên người ngay cả trong trường hợp người đó yêu cầu giấu 
danh tính. Người đệ trình đơn kiện phải chỉ ra tên của mình. 
27 
Nếu người viết đơn muốn được giữ danh tính, cá nhân đó phải tuyên bố thế và đơn kiện sẽ 
được đánh số theo thứ tự chữ cái trong bảng alphabet, như B. Đơn khiếu kiện sẽ được ghi 
là B v the State Party liên quan. Ngươì viết cũng phải nêu nguyên nhân cho lí do muốn 
giấu danh tính. Nếu người viết đơn là 1 tổ chức phi chính phủ, tên cảu người đại diện của 
tổ chức đó sẽ được yêu cầu. tên và địa chỉ sẽ làm sựu trao đổi giữa người viết và Ủy ban dễ 
dàng hơn. Nếu không có tên và địa chỉ cảu người khiếu kiện, đơn khiếu kiện sẽ không 
được xem xét. 
 Đơn khiếu kiện phải phù hợp với Hiến chương của OAU. Đơn khiếu kiện phải viện 
dẫn các điều khoản của Hiến chương châu Phi khẳng định đã bị vi phạm hoặc các nguyên 
tắc không thể bị vi phạm của Hiến chương. 
Một đơn kiện mà không chỉ ra được một vi phạm prima facie đối với Hiến chương, như 
“ tự do, công bằng, công lý và giá trị”, sẽ không được xem xét. 
 Đơn khiếu kiện không được viết với ngôn từ mang tính xúc phạm , làm mất thể diện 
đến quốc gia liên quan và các cơ quan tổ chức của quốc gia đó cũng như OAU. 
Người viết phải nêu được các sự việc trong vụ việc của mình mà không xúc phạm đến ai cả. 
Ngôn từ chính trị và thô tục đều không cần thiết. 
 Đơn khiếu kiện không được dựa trên tin tức được phổ biến trên thông tin đại chúng. 
Người viết phải có khả năng tìm hiểu và khẳng định sự thật của sự việc trước khi yêu câu 
Ủy ban can thiệp. 
 Đơn khiếu kiện được gửi sau khi đã sử dụng hết các biện pháp trong nước, nếu 
không thủ tục này sẽ kéo dài quá mức. 
 Đơn khiếu kiện không được liên quan đến các vụ kiện đã được giải quyết phù hợp 
với các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc hoặc Hiến chương của OAU hoặc các 
điều khoản của Hiến chương này. 
Tiếp nhận đơn khiếu kiện: 
28 
Khi đơn khiếu kiện được Ủy ban nắm giữ, quyết định liên quan đến việc tiếp nhận sẽ được 
đưa ra. Điều 56 Hiến chương nêu ra 7 điều kiện để đơn khiếu kiện có thể được tiếp nhận 
theo điều 55 để được xem xét. 
Về vấn đề nguyên tắc, tất cả các điều kiện đều phải được xem xét cho một đơn khiếu kiện 
để khẳng định có thể tiếp nhận. Nếu một điều kiện không được tính đến, đơn khiếu kiện sẽ 
được tuyên bố là không được tiếp nhận và vụ việc sẽ dừng tại đây. 
Quyết định tiếp nhận có thể được đưa ra sau khi bản tóm tắt đã được gửi đến cho quốc gia 
có liên quan và quốc gia đó có cơ hội để giải thích. 
Quốc gia thành viên và người viết đơn khiếu kiện phải có giới hạn thời gian 3 tháng để đệ 
trình ý kiến của mình. 
Sau khi nghiên cứu các tranh luận được 2 bên trình bày, Ủy ban sẽ đưa ra quyết định dựa 
trên các nguyên tắc của luật nhân quyền quốc tế nhằm bảo vệ cá nhân khỏi sự 
encroachment của quốc gia. 
Khi quyết định tiếp nhận đơn khiếu kiện, quyết định này sẽ được chuyển đến cả nguyên 
đơn và quốc gia liên quan. Về nguyên tắc, quyết định tiếp nhận đơn kiện là cuối cùng. Ví 
dụ, nếu đơn kiện bị tuyên bố không được tiếp nhận, lí do cho sự khôgn tiếp nhận sẽ được 
nêu rõ và sẽ kết thúc xem xét đơn khiếu kiện. Tuy nhiên, một đơn khiếu kiện được tuyên 
bố không được tiếp nhận có thể được xem xét vào thời điểm sau đó nếu nguyên đơn có thể 
cung cấp thông tin . Mặt khác, nếu đơn khiếu kiện được tuyên bố là được tiếp nhận, các 
bên sẽ được thông tin và được yêu cầu gửi giải thích của mình. 
Giải pháp thân thiện: 
Nếu cả 2 bên bày tỏ nguyện vọng giải quyết hòa bình, Ủy ban sẽ chỉ định một báo cáo viên, 
thường là một thành viên Ủy ban đã thụ lý vụ việc này, hoặc là một thành viên Ủy ban có 
29 
trách nhiệm cho các hoạt động ở các quốc gia liên quan hay một nhóm các thành viên ủy 
ban. Nếu đạt được giải quyết hòa bình, một báo cáo bao gồm giải quyết này sẽ được trình 
bày với Ủy ban trong phiên họp của Ủy ban. Vụ việc sẽ tự động kết thúc. Mặt khác, nếu 
không thảo thuận nào đạt được, một báo cáo được đệ trình lên Ủy ban bởi các thành viên 
Ủy ban liên quan và Ủy ban sẽ quyết định việc xem xét vụ việc. 
Xem xét vụ việc: 
Ủy ban tiến hành xem xét các vấn đề cụ thể của vụ việc, để xem xét các khẳng định của 
nguyên đơn và phản hồi của quốc gia liên quan về các điều khoản của Hiến chương và các 
khái niệm nhân quyền quốc tế. 
Trong suốt phiên họp, các bên sẽ tự do trình bày miệng hay băn bản lên Ủy ban. Một số 
quốc gia cử đại diện đến phiên họp của Ủy ban để bác lại 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_co_che_nhan_quyen_noi_chung_va_co_che_nhan_quyen_k.pdf