Tiểu luận Cơ chế nhân quyền nói chung và cơ chế nhân quyền khu vực
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Cơ chế nhân quyền nói chung và cơ chế nhân quyền khu vực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Cơ chế nhân quyền nói chung và cơ chế nhân quyền khu vực
1 Tiểu luận CƠ CHẾ NHÂN QUYỀN NÓI CHUNG VÀ CƠ CHẾ NHÂN QUYỀN KHU VỰC 2 Cơ chế quốc tế về quyền con người là hệ thống các cơ quan có nhiệm vụ giám sát và hỗ trợ thực hiện quyền con người trên phạm vi thế giới. Ở cấp độ quốc tế đó là cơ chế của LHQ, ở cấp độ hẹp hơn là cơ chế của các tổ chức khu vực mà hiện có là châu Âu, châu Mỹ và châu Phi. 1. CƠ CHẾ NHÂN QUYỀN LIÊN HỢP QUỐC Cơ chế nhân quyền LHQ nhìn chung chia làm 2 hệ thống chính: - Một là, hệ thống các cơ quan hình thành theo quy định trong hiến chương, bao gồm: Đại hội đồng, Hội đồng kinh tế xã hội, Hội đồng quản thác; ngoài ra còn các cơ quan liên quan gián tiếp: Hội đồng bảo an, Tòa tư pháp quốc tế. - Hai là, hệ thống các cơ quan giám sát thực hiện điều ước quốc tế, hay còn gọi là cơ chế giám sát dựa trên công ước. Nhìn chung, hệ thống các cơ quan thuộc cơ chế nhân quyền dựa trên Hiến chương có chức năng khá rộng đối với các vấn đề nhân quyền, đóng vai trò giám sát việc thực hiện nhân quyền của các quốc gia, vừa hỗ trợ thúc đẩy quyền con người nói chung vừa trực tiếp bảo vệ quyền con người trong những trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, có thể thấy ngoài cơ chế phức tạp, có phần chồng chéo thì việc kham quá nhiều vấn đề cũng như tính chính trị khá nặng nề đang làm cho sự vận hành của cơ chế này tỏ ra không thực sự hiệu quả. Những vấn đề đó cộng với nhiều nhân tố khác như tính nhạy cảm của lĩnh vực nhân quyền, đòi hỏi về một cơ quan chuyên trách thường trực ở nhiều khu vực trên thế giới đã dẫn đến sự hình thành tất yếu của các cơ chế khu vực. 2. CƠ CHẾ NHÂN QUYỀN KHU VỰC 2.1 Cơ chế nhân quyền Châu Âu: Châu Âu là khu vực có những thành quả nhất định trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Việc thực thi quyền con người ở khu vực này chủ yếu được thực hiện thông qua các cơ quan chính: Tổ chức an ninh và hợp tác Châu Âu (OSCE); Liên minh Châu Âu (EU); Hội đồng Châu Âu (PACE) 3 2.1.1 Tổ chức an ninh và hợp tác Châu Âu - OSCE Tiền thân của Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu là Uỷ ban An ninh và Hợp tác Châu Âu CSCE (The Commission on Security and Cooperation in Europe) thành lập vào ngày 3/7/1973. Năm 1970 Uỷ ban An ninh và Hợp tác châu Âu (CSCE) diễn ra một loạt đàm phán trong đó có sự tham gia của Mỹ, Ca-na-đa, Liên Xô và hầu hết các nước châu Âu. Các cuộc bàn thảo tập trung vào việc giải quyết các vấn đề giữa phương Đông cộng sản và phương Tây dân chủ. Cuối những năm 1980, Chiến tranh Lạnh kết thúc, CSCE ở thời điểm đó đã tổ chức các hội nghị và hội thảo nhưng vai trò của nó được nâng lên, theo dõi những thay đổi lịch sử đang diễn ra ở châu Âu, CSCE đã được đổi tên thành Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), OSCE được thành lập tại Helsinki (thủ đô Phần Lan) năm 1975. Hiện nay OSCE là tổ chức an ninh khu vực lớn nhất trên thế giới, với 56 nước thành viên ở châu Âu, Trung Á và Bắc Mỹ. OESC đã có những diễn đàn đàm phán đa phương đầu tiên đề cập đến an ninh dưới góc độ quyền con người. Văn bản đầu tiên của OSCE “The final Act”- Định ước cuối cùng được thông qua tại Hội nghị Helsinki, 8/1975 cùng với các văn kiện khác như văn kiện cuối cùng Copenhaghen 1990, Văn kiện cuối cùng Moscow 1991Các cam kết về quyền con người được triển khai cụ thể hơn nhưng chủ yếu vẫn là các cam kết mang tính chính trị, chứ không có giá trị ràng buộc pháp lý. Cơ chế bảo vệ quyền con người trong tổ chức An ninh và hợp tác Châu Âu Trong những thập kỷ 70, 80 của cơ chế bảo vệ nhân quyền chỉ hạn chế trong phạm vi cuộc thảo luận. Đến Hôi nghị ở Vienna1989, và ở Budapest 1994, cơ chế này ổn định và chặt chẽ hơn. Human Dimension Mechanism: có nhiệm vụ đưa ra các bước giám sát việc thực hiện cam kết vê quyền con người. Nếu vấn đề chưa được giải quyết thông qua thoả thuận giữa các quốc gia thì các quốc gia này có thể thông báo với các quốc gia khác, đưa vấn đề vào chương trình nghị sự của các cuộc họp. Nếu vẫn không đạt kết quả, phái đoàn chuyên gia OSCE được triệu tập để điều tra, tìm hiểu sự thật, trung gian, hòa giải. 4 Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu là 1 tổ chức mang tính chính trị. Khuyến khích phát triển dân chủ ở các quốc gia mới độc lập đã thúc đẩy tổ chức này đặt nền móng bảo vệ quyền con người được công nhận rộng rãi và các quyền tự do cơ bản. 2.1.2 Liên minh Châu Âu (EU): Hoạt động của Liên minh Châu Âu về quyền con người: Liên minh châu Âu hay Liên hiệp Châu Âu (European Union) là một tổ chức liên chính phủ của các nước châu Âu. Liên minh châu Âu (EU) có trụ sở đặt tại thủ đô Brussels của Bỉ, trước ngày 1 tháng 11 năm 1993 tổ chức này được gọi là Cộng đồng Châu Âu (EC). Cộng đồng kinh tế Châu Âu lúc mới thành lập năm 1957 không quan tâm đến các vấn đề chính trị như quyền con người. Do xu hướng hoà nhập hướng đến một Liên minh Châu Âu thống nhất kể từ năm 80 của thế kỷ XX đã tạo điều kiện để dân chủ và quyền con người trở thành vấn đề cơ bản trong pháp lý Châu Âu. Từ 6 thành viên ban đầu, hiện nay có 27 quốc gia thành viên. Liên minh được thành lập với tên gọi hiện nay theo Hiệp ước về Liên minh châu Âu năm 1992, thường gọi là Hiệp ước Maastricht . Hiệp ước Liên hiệp Châu Âu, hay còn gọi là Hiệp ước Maastricht, ký ngày 7 tháng 2 năm 1992 tại Maastricht (Hà Lan), nhằm mục đích: Thành lập liên minh kinh tế và tiền tệ vào cuối thập niên 1990, với một đơn vị tiền tệ chung và một ngân hàng trung ương độc lập, Thành lập một liên minh chính trị bao gồm việc thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung để tiến tới có chính sách phòng thủ chung, tăng cường hợp tác về cảnh sát và luật pháp. Hiệp ước Amsterdam: (còn gọi là Hiệp ước Maastricht sửa đổi, ký ngày 2 tháng 10 năm 1997 tại Amsterdam) đã có một số sửa đổi và bổ sung trong một số lĩnh vực chính như: những quyền cơ bản, không phân biệt đối xử; tư pháp và đối nội; chính sách xã hội và việc làm; chính sách đối ngoại và an ninh chung. Hiệp ước Nice (11 tháng 12 năm 2000): là văn bản đầu tiên của Liên minh trong đó một loạt các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa xã 5 hội của công dân Châu Âu cũng như bất cứ người nào sống ơ Châu Âu được ghi nhận. Hiệp ước Nice tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để đón nhận các thành viên mới đồng thời tăng cường vai trò của Nghị viện châu Âu, thành lập Lực lượng phản ứng nhanh (RRF). Hiến chương về các quyền cơ bản của Liên minh Châu Âu được Hội nghị thượng đỉnh Nice thông qua vào năm 2000. Hiến chương này đưa ra các quy định về các quyền kinh tế, chính trị, văn hoá Cơ chế bảo vệ quyền con người trong EU: Các điều khoản về quyền con người vẫn không được bảo đảm thực hiện bởi cơ chế riêng. Các cơ quan chính thực thi quyền con người: Hội đồng Liên minh Châu Âu: Báo cáo hàng năm về quyền con người do Hội đồng Liên minh Châu Âu công bố, thể hiện vai trò của chính sách về quyền con người đối với EU. Từ năm 1975, người đứng đầu nhà nước, hoặc đứng đầu chính phủ, các ngoại trưởng, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban châu Âu có các cuộc họp thường kỳ để bàn quyết định những vấn đề lớn của EU. Cơ chế này gọi là Hội đồng châu Âu hay Hội nghị Thượng đỉnh EU. Hội đồng Bộ trưởng chính là cơ quan lãnh đạo tối cao của Liên minh châu Âu. Nghị Viện Châu Âu: đi đầu trong việc tiếp tục đề cao quyền con người trong chương trình nghị sự của EU và công bố báo cáo thường niên về quyền con người. Năm 1980, Nghị Viện Châu Âu lập ra nhóm làm việc về nhân quyền. Năm 1984 thành lập Tiểu ban nhân quyền; Ủy ban về các vấn đề dân sự và đối nội: Soạn thảo các báo cáo về nhân quyền trong nội bộ các nước trong và ngoài EU. Hiệp ước Nice: ra đời 11 tháng năm 2000 tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để đón nhận các thành viên mới đồng thời tăng cường vai trò của Nghị viện châu Âu, thành lập Lực lượng phản ứng nhanh (RRF). 6 Tòa án EU: không phải là cơ quan chuyên trách giải quyết khiếu kiện về nhân quyền, nhưng để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật trong khi giải thích và áp dụng các điều khoản trong Hiệp ước của Liên minh thì tòa án đôi khi phải giải quyết các vụ việc có ít nhiều liên quan đến quyền con người. Trong trường hợp này, Tòa án hay tham khảo các cơ chế khác trong khu vực Nhìn chung Cơ chế bảo vệ quyền con người trong EU chưa hoàn thiện và phát triển đầy đủ, Tòa án EU không phải là tòa chuyên trách giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến vấn đề nhân quyền. Tuy nhiên có hệ thống cưỡng chế mạnh mẽ trong việc đảm bảo các quyền xã hội, điều chỉnh quyền lợi của công nhân trong thị trường lao động, mặc dầu xuất phát điểm từ quyền lợi kinh tế, cộng đồng này đã phát triển thẩm quyền khu vực đối với các quyền xã hội. 2.1.3. Hội đồng Châu Âu – PACE (Parliamentary Assembly of the Council of Europe) Hoạt động của Hội đồng Châu Âu về quyền con người: Hội đồng Châu Âu là tổ chức chính trị lâu đời nhất của EU, được 10 nước Tây Âu thành lập vào ngày 5.5.1949; năm 1989, có thêm các nước Trung và Đông Âu. Nga trở thành thành viên của Tổ chức này vào năm 1996. Khác với Liên hiệp Châu Âu gồm 25 quốc gia thành viên Tây, Đông và Bắc Âu, Hội đồng Châu Âu có 46 quốc gia thành viên, trong đó có 21 quốc gia Trung và Đông Âu. Mục tiêu của Hội đồng Châu Âu: là kết hợp chặt chẽ giữa các quốc gia thành viên nhằm mục đích bảo vệ an ninh dân chủ, nhân quyền và Nhà nước Pháp quyền. Kể từ năm 1989, Hội đồng Châu Âu thực hiện nhiệm vụ là giúp đỡ các quốc gia dân chủ hậu cộng sản ở Trung và Đông Âu tiến hành cải cách chính trị song song với cải cách kinh tế, và trao truyền kiến thức trên các lĩnh vực nhân quyền, dân chủ cơ sở, giáo dục, văn hóa, môi trường. Hội đồng Châu Âu là tổ chức đã ban hành nhiều điều ước về quyền con người Hiến Chương xã hội Châu Âu 1961, Công ước Châu Âu về ngăn ngừa tra tấn 1987 và 7 Công ước khung về bảo vệ người thiểu số 1994, Công ước Châu Âu về quyền con người 1952 chủ yếu đề cập đến quyền các quyền dân sự và chính trị. Cơ chế bảo vệ quyền con người trong Hội đồng Châu Âu Cơ chế bảo vệ quyền con người dựa trên Hiến Chương Xã Hội: Hiến chương Xã hội Châu Âu ra đời năm 1961 nhằm bổ sung thêm các quyền về kinh tế, xã hội. Những năm 80, cùng với sự quan tâm ngày càng nhiều về vấn đề kinh tế xã hội toàn cầu, Hiến chương Châu Âu đã được chú ý hơn và được sửa đổi hai lần vào năm 1988 và năm 1995. Theo Hiến chương xã hội EU: gồm 19 loại quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội. Hiến chương hoạt động dựa trên một hệ thống các báo cáo của các quốc gia, những văn bản này không mang tính ràng buộc pháp lý cao mà chủ yếu mang tính chất khuyến nghị. Do đó, tính hiệu quả của cơ chế đảm bảo thực hiện Hiến chương XHCA là thấp. Điều này có thể được lý giải là do Hiến chương Xã hội Châu Âu về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội nên việc đảm bảo thực hiện các quyền này còn gặp nhiều khó khăn do trình độ phát triển của các quốc gia thành viên khác nhau. Vì vậy, Hiến chương không thể đưa ra các điều khoản tạo ra sức ép về mặt pháp lý và chính trị đủ mạnh để buộc các quốc gia kí kết tuân theo. Cơ chế bảo vệ quyền con người do Công ước Châu Âu về nhân quyền lập ra Sau chiến tranh thế giới II, các nước Châu Âu bị tàn phá nặng nề bởi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Các nước nhận thấy cần thiết phải thiết lập lại hoà bình và an ninh trong khu vực, và tôn trọng quyền con người. 5/5/1949 Hội đồng Châu Âu ra đời thông qua hội nghị được tổ chức ở Hague từ ngày 7-10 tháng 5 năm 1948 với sự tham nhiều đại diện của các phong trào khác nhau do Wiston Churchil làm chủ tịch danh dự. Mục tiêu hoạt động của Hội đồng Châu Âu là: Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là một trong những mục đích cao nhất của HĐCA. 8 Điều 3, được coi là điều lệ của HĐCA: “mỗi thành viên phải chấp nhận các nguyên tắc pháp quyền và nguyên tắc các cá nhân thuộc phạm vi thẩm quyền tài phán của mình được hưởng các quyền tự do cơ bản của con người”. Các văn bản pháp lý về quyền con người: Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản 1950 và 14 Nghị định thư bổ sung. Công ước Châu Âu về quyền con người: Công ước được thông qua ở Rome vào ngày 4/11/1950 và có hiệu lực vào ngày 3/9/1953. Hiện tại, số quốc gia tham gia công ước đã lên đến hơn 40, trong đó có cả Man- ta, Ai-xơ-len, Síp. Để tham gia công ước, quốc gia đó phải là thành viên của Hội đồng Châu Âu. Các quyền được nêu trong CƯ là các quyền dân sự, chính trị. Trong lời mở đầu của Công ước, các quốc gia khi tham gia vào đó đã thể hiện tinh thần chung: : “ các chính phủ Châu Âu có cùng ý tưởng và cùng truyền thống chính trị, đạo đức, luật pháp sẽ tiến hành những bước đi đầu tiên để cùng nhau đảm bảo việc thực hiện các quyền nhất định được nêu trong tuyên ngôn thế giới về quyền con người”. Theo Công ước các quốc gia phải bảo vệ các quyền cá nhân của thành viên của các dân tộc thiểu số, nhưng cũng cần tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số có thể duy trì và phát triển nền văn hoá bản sắc của họ. Các Nghị định thư bổ sung: Trải qua quá trình phát triển, người ta thấy cần thiết phải đưa thêm một số quyền vào Công ước và cần sửa đổi bổ sung để Công ước được thực thi ngày càng có hiệu quả hơn. 14 Nghị định thư đã được kí kết góp phần làm cho Công ước được hoàn chỉnh. Trong số 14 nghị định thư thì có hai loại chính đó là nghị định thư bổ sung các quyền và nghị định thư liên quan đến cải cách và cơ cầu tổ chức. Các cơ quan: Trong Công ước, một hệ thống đảm bảo việc thực hiện các quyền được ghi nhận trong CƯ được thành lập bao gồm: UBCA về quyền con người (European Commission on HRs) 9 Tòa Án Châu Âu về quyền con người (European Court on HRs) UB Bộ trưởng của HĐCA (Committee of Ministers) Liên quan đến các vấn đề về cơ chế bảo vệ quyền con người thì NDT 11 là quan trọng nhất. Từ NDT 11, vị trí pháp lí, cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, cơ chế hoạt động của các cơ quan trong khuôn khổ CƯ, đặc biệt là Tòa Án nhân quyền Châu Âu có nhiều nét mới tiến bộ hơn. Với Nghị thư thứ 11, Uỷ ban Châu Âu về quyền con người và Toà án Châu Âu về quyền con người đã được thay thế bằng toà án thường trực Châu Âu về quyền con người. Như vậy UB bộ trưởng không còn chức năng tài phán nữa, chỉ có quyền giám sát việc thi hành phán quyết của Toà, và xin ý kiến tư vấn của Toà. Toà án nhân quyền Châu Ấu đã trở thành cơ quan duy nhất bảo đảm thực hiện công ước. Toàn bộ quá trình xử lý vụ việc đều do Toà đảm nhiệm, bao gồm từ khâu tiếp nhận đơn kiện đến khâu đưa ra phán quyết cuối cùng. Cơ cấu, thẩm quyền và thủ tục hoạt động của Toà án Châu Âu: Toà án quyền con người Châu Âu là công cụ chính bảo vệ quyền con người ở Châu Âu, đặt tại Strasbourg. Đến nay thẩm quyền bắt buộc của toà án này được tất cả các thành viên của Hội đồng Châu Âu ghi nhận. Toà có số lượng thẩm phán bằng số lượng của quốc gia thành viên của Hội đồng Châu Âu. Trong mỗi vụ việc sẽ có một người nắm giữ vị trí thẩm phán quốc gia để tham gia hỗ trợ tìm hiểu pháp luật quốc gia. Để đơn kiện được chấp nhận cần đảm bảo bốn điều kiện: Có được vi phạm một quyền đựơc ECHR và các nghị định thư bổ sung bảo vệ; Người thưa kiện là nạn nhân của sự vi phạm này; Không còn một biện pháp hữu hiệu trong nước nào nữa; Đơn kiện được thực hiện dưới 6 tháng sau khi các biện pháp trong nước đã hết. Nếu được chấp nhận thì một Hội đồng gồm 7 thẩm phán sẽ xem xét nội dung của vụ việc. Nếu vụ việc không có vai trò quan trọng hay là vấn đề liên quan đến 10 quyền tài phán thì khi đó phán quyết cuả Hội đồng là phán quyết cuối cùng. Nếu Hội đồng thẩm phán không đưa ra được quyết định thì vụ việc sẽ được kháng cáo tại hội đồng mở rộng gồm 17 thẩm phán. Cơ cấu của Toà án mới: sau nghị định thư 11, vị trí pháp lý, thẩm quyền, cơ cấu tổ chức của Toà có nhiều tiến bộ. Toà vừa thực hiện chức năng của Uỷ ban nhân quyền, Toà án cũ, làm một phần chức năng của Uỷ ban Bộ trưởng, vừa là cơ quan điều tra, vừa đưa ra phán quyết cuối cùng. Toà án bao gồm các thẩm phán với số lượng bằng với số lượng quốc gia thành viên của công ước, đứng đầu là Chánh án và hai Phó chánh án. Ngoài ra, giúp việc cho Toà có ban thư ký, đứng đầu là thư ký trưởng. Hội đồng nghị viện Châu Âu bầu thẩm phán, nhiệm kỳ thẩm phán: 6 năm, và 3 năm bầu lại ½ số thẩm phán. (Đ 22-23). Các thẩm phán hoạt động độc lập và không đại diện cho quốc gia (Đ.21) Toà được tổ chức như sau: + Hội đồng Toà toàn thể; + 5 Hội đồng thẩm phán. Mỗi hội đồng có uỷ ban trực thuộc (mỗi uỷ ban gồm ba thẩm phán ) và Toà chuyên trách gồm 7 thẩm phán; + Toà Đại Tụng (gổm 17 thẩm phán ). Thẩm quyền xét xử của Toà án mới: Điều kiện để Toà án mới có thẩm quyền xét xử: các quốc gia không phải đưa ra tuyên bố công nhận thẩm quyền của Toà như trước đây mà quốc gia nào phê chuẩn Nghị định thứ số 11 thì đương nhiên đã công nhận thẩm quyền tài phán của Toà án mới. Phạm vi thẩm quyền xét xử của Toà: Thẩm quyền của Toà án mới được mở rộng đến tất cả các vấn đề liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước và các Nghị định thư bổ sung (điều 32 Nghị định thư số 11). Thẩm quyền đưa ra ý kiến tư vấn Chỉ được bổ sung trong NDT 2(1970) 11 Đưa ra ý kiến tư vấn về những vấn đề pháp lí có liên quan đến việc giải thích CƯ về quyền con người theo yêu cầu của UBBT (Đ 47) Chủ thể đưa vụ kiện ra Toà án và quy định thụ lý đơn kiện Các quốc gia, cá nhân, nhóm cá nhân, tổ chức phi chính phủ đều có thể gửi đơn kiện trực tiếp ra Toà mà không cần qua một cơ quan nào cả và không cần phải có tuyên bố của quốc gia có liên quan chấp nhận thẩm quyền của Toà án. Toá án mới sẽ thụ lý đơn kiện quốc gia và đơn kiện cá nhân nếu xét thấy tất cả các biện pháp trong nước đã được sử dụng hết theo những quy định của luật pháp quốc tế được thừa nhận rộng rãi và trong khoảng thời gian 6 tháng kể từ ngày có quyết định cuối cùng trong nước. Tuy nhiên, đơn kiện cá nhân muốn được thụ lý cần đáp ứng thêm các điều kiện sau: không phải đơn nặc danh, vấn đề khiếu kiện về cơ bản chưa được Toà án xem xét trước đó và chưa được gửi đến một cơ quan điểu tra hoặc hoà giải quốc tế nào khác và phải chứa đựng những thông tin mới có liên quan (điều 35 công ước sửa đổi). Thủ tục Trình tự giải quyết khiếu nại Toà nhận đơn trực tiếp. Đơn kiện cá nhân sẽ được giao cho các Hội đồng (section) giải quyết. Đơn kiện cá nhân và đơn kiện quốc gia không bị từ chối được chuyển đến cho toà chuyên trách (chamber) gồm 7 thẩm phán. Toà chuyên trách sẽ quyết định việc thụ lý đơn kiện và xem xét cả nội dung của đơn kiện. Toà Đại Tụng (Grand Chamber ) gồm 17 thẩm phán được tòa chuyên trách yêu cầu xét xử vụ việc trong 2 trường hợp đặc biệt sau : Thứ nhất, Tòa chuyên trách nhường thẩm quyên xét xử: Giải pháp để giải quyết vấn đề trước Toà chuyên trách có thể gây ra hậu quả trái với phán quyết đã được đưa ra trước đây. Thứ hai, vụ việc làm phát sinh vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến việc giải thích và áp dụng công ước và các Nghị định thư có liên quan (điều 30 công ước) Kèm theo đk Điều 72 Điều lệ Toà án: các bên liên quan không phản đối trong vòng một tháng kể từ khi ý định này được thông báo. 12 Ngoài ra Toà Đại Tụng còn có thể xem xét lại phán quyết của Tòa chuyên trách khi có khiếu kiện trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày Toà chuyên trách đưa ra phán quyết, khi vụ việc phát sinh 1 vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến việc giải thích và áp dụng công ước và các Nghị định thư có liên quan; Vụ việc gây ra tình hình nghiêm trọng ảnh hưởng đến đến tình hình chung (điều 43 Công ước sửa đổi). Khi đó một uỷ ban gồm 5 thẩm phán của Toà Đại Tụng sẽ xem xét việc chấp nhận yêu cầu và nếu chấp nhận thì Toà Đại Tụng sẽ có trách nhiệm đưa ra phán quyết cuối cùng. Phán quyết của tòa là phán quyết cuối cùng, các quốc gia liên quan phải tuân thủ. Thi hành phán quyết Phán quyết cuối cùng sẽ được chuyển tới Uỷ ban Bộ Trưởng. Uỷ ban Bộ trưởng sẽ giám sát việc thi hành phán quyết của Toà án. Việc thi hành hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của quốc gia. Nếu quốc gia thua kiện không thực hiện phán quyết thì bằng các biện pháp cần thiết, UBBT sẽ đưa vào Chương trình Nghị sự của UBBT trong vòng 6 tháng tiếp theo. Nếu quốc gia cương quyết không thực hiện phán quyết của Tòa thì quốc gia đó sẽ bị trục xuất ra khỏi Hội đồng Châu Âu. Cơ chế bảo vệ quyền con người do Công ước Châu Âu về quyền con người lập ra có một số ưu điểm, nhược điểm: Ưu điểm: + Hệ thống văn bản pháp lý hoàn thiện + Các cơ quan thực thi công ước hoạt động tương đối hiệu quả. + Có chế tài cưỡng chế thực thi các phán quyết đối với các quốc gia thành viên. + Tạo điều kiện cho cá nhân đưa đơn kiện đến các cơ quan giám sát thực hiện Công ước để bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản của mình khỏi sự vi phạm từ phía nhà nước sau khi quá trình xét xử ở quốc gia không hiệu quả. 13 + Cơ chế này còn cho phép các quốc gia có quyền kiện bất cứ quốc gia thành viên nào khi xảy ra sự vi phạm các quyền con người được ghi nhận trong Công ước. Nhược điểm: + chỉ giải quyết các quyền về dân sự chính trị, không giải quyết các quyền kinh tế, văn hoá. + Nội dung đơn kiện phải liên quan đến sự vi phạm một trong các quyền được đặt ra trong CƯ CÂ về quyền con người. 2.2 Cơ chế nhân quyền châu Mỹ. 2.2.1 Nguồn gốc và lịch sử hình thành CƯNQ Liên Mỹ Do thuộc là thuộc địa lâu đời của các cường quốc Tây Âu, nền văn hóa và các thiết chế chính trị của các nước Mỹ La Tinh đã chịu nhiều ảnh hưởng của các nước thực dân Tây Âu. Từ khi giành độc lập vào đầu thế kỷ 19 các nước này đã trở thành “sân sau” của Mỹ. 5/1948, Hội nghị Liên Mỹ 9 tại Bogotas đã thông qua Hiến chương thành lập Tổ chức các nước châu Mỹ (OSA) (tiền thân là Liên minh quốc tế các nước cộng hòa châu Mỹ thành lập năm 1890). Hiến chương này được bổ sung bởi 4 nghị định thư từ năm 1967 đến năm 1993. Trong hiến chương này, quyền con người cũng được đề cập đến nhưng còn rất chung. Đến năm 1959, UB nhân quyền Liên Mỹ được thành lập gồm 7 thành viên hoạt động với tư cách cá nhân do Hội đồng của OSA bầu ra. Năm 1969, CƯLM được thông qua, chính thức hóa vai trò của UBLM và thành lập Tòa án nhân quyền Liên Mỹ. CƯLM này có hiệu lực vào năm 1978. Nhưng năm 1979, đại hội đồng của OSA đã phê chuẩn quy chế mới cho UB, vì trong thực tế, một số thành viên của OSA không tham gia phê chuẩn CƯLM. Đến nay OSD có 34 quốc gia thành viên, trong đó có 25 quốc gia thành viên đã phê chuẩn công ước Liên Mỹ. Nhân tố đặc rất đặc thù đưa đến sự hình thành cơ chế nhân quyền ở Châu Mỹ là tình trạng các chế độ độc tài quân sự cầm quyền ở nhiều nước và luôn có đe dọa đảo chính quân sự. Các chế độ độc tài quân sự thường vi phạm nghiêm trọng 14 quyền con người. Sự ra đời của cơ chế quyền con người của châu Mỹ một phần cũng thể hiện cuộc đấu tranh của nhiều lực lượng xã hội nhằm có được chế độ dân sự ở nước mình. Mặt khác, CƯLM ra đời còn do ảnh hưởng sâu sắc của nước Mỹ đối với châu lục này. Thông qua OSA Mỹ cho ra đời Tuyên bố châu Mỹ về các quyền nghĩa vụ của công dân, gây áp lực ngoại giao đối với các chình phủ có hành đông vi phạm nhân quyềnMặc dù ko phải lúc nào Mỹ cũng ủng hộ các hoạt động và các chuẩn mực về quyền con người ở trong khu vực nhưng rõ ràng vai trò của Mỹ vẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng thúc đẩy xây dựng CƯLM. 2.2.2 Cơ cấu tổ chức cơ chế khu vực châu Mỹ Công ước nhân quyền châu Mỹ có 2 cơ quan đảm bảo thực thi là UB nhân quyền và tòa án nhân quyền. a) UB nhân quyền UB nhân quyền Liên Mỹ được OSA thành lập năm 1959. UB NQLM là một cơ quan độc lập của OAS với chức năng chính là thúc đẩy và giám sát cũng như bảo về nhân quyền và hoạt động với chức năng là thực thể đưa ra các ý kiến tư vấn cho OAS (Điều 1 Quy chế UBNQLM). Cơ cấu thành phần UBNQLM gồm 7 thành viên. Đây là những người có tư cách đạo đức và phẩm chất tốt, có chuyên môn cao về lĩnh vực quyền con người đã được công nhận (điều 1.3 Quy chế UB và Điều34 CƯ). 7 người này hoạt động riêng với tư cách cá nhân, không đại diện cho quốc gia, Đại Hội Đồng của Tổ chức lựa chọn từ một danh sách các ứng cử viên mà chính phủ các nước đệ trình (Điều 36 CƯ). Nhiệm kì của 7 thành viên là 4 năm và có thể được bầu lại 1 lần và không thể có 2 thành viên cùng là công dân của một nước thành viên (Điều 37 CƯ). Ban Thư kí chung của OAS sẽ giải quyết những công việc hành chính khác nếu như UB đề nghị. (Điều 40CƯ). Thẩm quyền chức năng của UB 15 UB sẽ góp mặt vào tất cả các vụ việc của Toà án (Điều 57 CƯ). Xem xét các khiếu kiện cá nhân, các nhóm cá nhân hoặc tổ chức chính phủ, buộc tội các quốc gia thành viên vi phạm CƯNQCM (Điều 24CƯ). Các quốc gia bắt buộc phải chấp nhận thẩm quyền này chứ không được lựa chọn. Xem xét khiếu kiện quốc gia. Về thủ tục này, các quốc gia có thể tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của UB vào bất kì lýc nào, trong một thời điểm xác định hoặc không xác định, trong một vụ việc cụ thể (Điều 45 CƯ). Một khi đã phê chuẩn CƯNQCM thì cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận thủ tục khiếu nại cá nhân, còn thủ tục khiếu kiện giữa các quốc gia là lựa chọn. - Quá trình thụ lí đơn kiện Trước tiên, một đơn kiện để được chấp nhận thì phải tuân theo nguyên tắc của CƯNQCM đó là một đơn kiện chỉ được chấp nhận khi tất cả các biện pháp của nội bộ quốc gia đã được sử dụng hết và phải được gửi lên trong vòng 6 tháng kể từ ngày quốc gia đưa ra quyết định cuối cùng (Điều 46 CƯ). Trong trường hợp nguyên đơn muốn đưa vụ kiện lên UB của Liên Hợp Quốc hoặc Uỷ ban của khu vực, mà trước đó họ đã đệ đơn lên một cơ quan quốc tế khác, thì đơn kiện sẽ được tuyên bố là không được chấp nhận (Điều 47 CƯ) Khi đơn kiện đã được chấp nhận, đầu tiên, UB phải thiết lập các dữ kiện, có thể tiến hành điều tra để quốc gia liên quan cung cấp tất cả thông tin cần thiết (Điều 48.1d CƯ). Trong trường hợp khẩn cấp có thể đề ra những thủ tục khẩn cấp hoặc các giải pháp thân thiện để giải quyết vụ việc. Nếu giải pháp thân thiện không giải quyết được vụ việc , UB phải tiến hành báo cáo về các dữ kiện, các kết luận thu được và đưa ra các khuyến nghị phù hợp (Điều 50 CƯ). Nếu trong vòng 3 tháng vụ việc chưa được giải quyết hoặc đệ trình lên Toà án, UB có thể đưa ra kết luận của mình, nếu các thành viên đồng ý với đa số phiếu (Điều 51 CƯ). 16 Có thể đưa ra khuyến nghị hoặc đặt thời hạn để quốc gia đó tiến hành những biện pháp khắc phục cần thiết. Khi hết thời hạn, UB sẽ quyết định xem các biện pháp đã thực hiện đủ chưa, và có cần làm báo cáo không. Như vậy, trong việc giải quyết các đơn kiện, tranh chấp về nhân quyền, UB chỉ có chức năng đưa ra các khuyến nghị, thậm chí nếu có định ra thời hạn, biện pháp để các quốc gia vi phạm thực hiện thì cũng không có cơ chế đảm bảo thực thi. Nếu quốc gia không thực hiện thì UB chỉ đưa ra các báo cáo lên Tổ chức chứ không đưa ra những biện pháp cưỡng chế hay trừng phạt nào. b) Toà án Nhân quyền Liên Mỹ (TANQLM) TANQLM là một thể chế tài phán độc lập có mục đích là việc áp dụng và giải thích CƯNQCM. TA thực thi chức năng của mình phù hợp với CƯNQCM và quy chế TANQLM (Điều 1 Quy chế TANQLM). a. Thành phần của Toà Toà gồm 7 thẩm phán và luôn chỉ có 7 thẩm phán được chọn ra với tư cách cá nhân (Điều 52 CƯ; Điều 4 Quy chế Đây là những người mang những phẩm chất cao nhất về đạo đức và năng lực. Các ứng viên có thể là công dân của bất kì quốc gia nào của OAS. Một quốc gia thành viên có thể đề cử một danh sách gồm 3 thẩm phán nhưng một trong ba ứng viên này phải không được mang quốc tịch nước đề cử (Điều 53 CƯ; Điều 7.3 Quy chế). Các quốc gia không được hạn chế quyền ứng cử của các thẩm phán. Tuy nhiên có điều kiện là không được có 2 thẩm phán cùng mang quốc tịch của một quốc gia thành viên. Nhiệm kì của thẩm phán là 6 năm và có thể được bầu lại một lần (ĐIều 54 CƯ; Điều 5.1 Quy chế). Thẩm phán ad hoc (Điều 10 Quy chế) Trong trường hợp liệu một thẩm phán là công dân của một quốc gia là một bên trong vụ việc có được tham gia xét xử vụ đó k đó không, thì TA đã quy định quốc gia liên quan đó có thể chỉ định một thẩm phán đặc biệt (adhoc) (Điều 55CƯ). Cụ thể: 17 Nếu một thẩm phán là công dân của một bên trong vụ kiện thì thẩm phán đó vẫn có quyền tham gia. Nếu một trong các thẩm phán được yêu cầu tham gia vụ kiện cũng là công dân một bên trong vụ việc, thì bất kì bên nào khác cũng có thể đề cử một thẩm phán ad hoc. Nếu các thẩm phán tham gia vụ việc không có ai là công dân của các bên vụ việc thì các quốc gia liên quan có thể bổ nhiệm một thẩm phán ad hoc. Tòa sẽ chỉ định và thiết lập Ban thư kí của riêng mình (Điều 58 CƯ) Ban thư kí này hoạt động dưới sự chỉ đạo của Thư Kí của Toà án nhưng theo các nguyên tắc của Tổng thư kí của OAS (Điều 59 CƯ; Điều 14 quy chế). b. Thẩm quyền của Toà và thủ tục hoạt động -Thẩm quyền của Toà: Thẩm quyền của Toà bao gồm quyền tài phán (adjudicatory) và quyền tư vấn (advisory). (Điều 2 Quy chế TANQLM). Thẩm quyền tài phán của Toà được điều chỉnh bởi các điều khoản 61, Điều 62, và Điều 63 của CƯNQCM. (Điều 2.1 Quy chế). Thẩm quyền tư vấn của Toà được điều chỉnh bởi Điều 64 của CƯNQCM. (ĐIều 2.2 Quy chế). - Thẩm quyền tài phán: Chỉ có các quốc gia thành viên và UBNQLM mới có quyền đệ trình các vụ việc lên Toà án (Điều 61 CƯ). Toà không tiếp nhận đơn cá nhân. Thẩm quyền này của Toà mang tính lựa chọn. Điều này có nghĩa là các quốc gia thành viên CƯ có quyền chấp nhận hay không chấp nhận thẩm quyền của Toà. Nếu chấp nhận, các quốc gia có thể ra tuyên bố mặc nhiên chấp nhận thẩm quyền của Toà, các quốc gia có thể ra tuyên bố mặc nhiên chấp nhận thẩm quyền của Toà khi có các quốc gia khác khiếu nại hoặc chấp nhận thẩm quyền theo từng trường hợp. (Điều 62 CƯ). Thẩm quyền đưa ra “các biện pháp tạm thời”: 18 -Nếu Toà án phát hiện thấy có vi phạm, Toà có thể tạo điều kiện để phục hồi quyền lợi của bên bị hại, và có thể yêu cầu bên bị đơn khắc phục tình trạng bị vi phạm và chi trả các phí tổn (Điều 63 CƯ). Thẩm quyền tư vấn: Tòa còn có thể đưa ra các ý kiến tư vấn cho các quốc gia. Các quốc gia thành viên có thể xin TA ý kiến tư vấn không chỉ về các vấn đề liên quan đến CƯ mà còn cả những vấn đề liên quan đến bảo vệ con người ở các quốc gia Châu Mỹ (Điều 64 CƯ). Và bất cứ thành viên nào của OAS đều có thể yêu cầu Toà án cho ý kiến tư vấn về sự phù hợp giữa nội luật của quốc gia đó với Công ước nhân quyền Châu Mỹ hay bất cứ điều ước nhân quyền nào ở Châu này. Phán quyết của Toà. Các quốc gia thành viên phải chịu ràng buộc với phán quyết của Toà và yêu cầu của Toà đối với các quốc gia liên quan về việc bồi thường thiệt hại là bắt buộc (Điều 68 CƯ). Cơ chế đảm bảo thực thi phán quyết của Toà: Nếu quốc gia liên quan không tuân thủ các phán quyết của Toà, Toà sẽ làm báo cáo hàng năm lên Đại Hội Đồng OAS về mọi việc, đồng thời đưa ra các khuyến nghị (ĐIều 65 CƯ). Cũng có thể coi báo cáo là một hình thức trừng phạt nhất định, tuy nhiên chưa đạt hiệu quả cao. Thủ tục hoạt động của Toà: Toà có hai cuộc họp thường kì trong 1 năm (Điều 1 năm (Điều 22.1 Quy chế; Điều 11 Quy định về thủ tục hoạt động của Toà ). Có thể có các phiên họp đặc biệt do đa số các thẩm phán đề nghị hoặc do Chủ tịch của Toà đề nghị (Điều 22.3 Quy chế; Điều 12 Quy định) Trong quá trình thụ lí một đơn kiện, Ít nhất 5 thẩm phán phải tham gia vào các buổi đưa ra ý kiến (deliberations). (Điều 23.1 Quy chế; Điều 13 Quy định). Các buổi thảo luận, đưa ra ý kiến này sẽ được giữ bí mật, chỉ có các thẩm phán mới có thể tham gia. (Điều 14.2 Quy định; Điều 24.2 Quy chế). 19 Tất cả các thẩm phán đều tham gia phiên toà (hearings), các phiên toà này là công khai (Điều 24.2 Quy chế; Điều 14.1 Quy định). Các quyết định kể cả trong những buổi thảo luận này hay trong bất cứ một phiên họp và phiên toà nào đều được quyết định bởi phiếu của đa số thẩm phán (Điều 23.2 Quy chế; Điều 15.3 Quy định). Phiếu của các thẩm phán hoặc là đồng ý hoặc là phản đối, phiếu trắng không được chấp nhận (Điều 23.2 Quy chế; Điều 15.1 Quy định). Trong trường hợp không xác định được đa số phiếu thì phiếu của Chủ tịch sẽ là quyết định (Điều 23.3 Quy chế; ĐIều 15.4 Quy chế). Cơ sở pháp lý 3 Cơ sở pháp lý bao gồm : Hiến chương các tổ chức châu Mỹ Tuyên ngôn châu Mỹ về quyền và nghĩa vụ của con người. Công ước nhân quyền châu Mỹ Ngoài ra còn 1 số nghị định thư: nghị định thư bổ sung của công ước nhân quyền về các quyền văn hóa, kinh tế xã hội, nghị định thư về chống bạo lực đối với phụ nữ 4 Đánh giá và mối liên hệ với cơ chế nhân quyền của LHQ Đánh giá: Ưu điểm: quyền của UBNQLM và của TANQLM thì có quyền rộng hơn so với quyền của UBNQCA. (trong một trường hợp nhất định họ có thể vào tận lãnh thổ quốc gia liên quan để khảo sát tình hình ). UBNQLM có quyền xem xét các khiếu kiện của các cá nhân, các nhóm cá nhân hoặc tổ chức chính phủ, buộc tội các quốc gia thành viên vi phạm CƯLM(điều 24) và các quốc gia bắt buộc phải chấp nhận thẩm quyền này chứ ko được quyền lựa chọn. Nhược điểm: trong khi UBNQCA chỉ quan tâm đến những vụ việc có tính chất cải thiện luật pháp về quyền con người và ít khi có ngoại lệ. Các chính phủ hữu quan ở châu Âu thường cộng tác đầy đủ với UBNQ châu Âu. Thì UBNQ châu Mỹ lại quan đến các vấn đề khác như: bắt bớ tùy tiện trên phạm vi rộng, sử dụng hành 20 hình một cách có hệ thống, không thực hiện các biện pháp bồi thường mang tính tư pháp, những hiện tượng vi phạm trắng trợn các tiêu chuẩn văn minh. Các chính phủ liên quan ở khu vực này thường có thái độ đối đầu hơn là cộng tác với UBNQ châu Mỹ. Như vậy cơ chế nhân quyền châu Mỹ chưa thực sự có hiệu quả trong vấn đề đảm bảo thực thi quyền con người. 2.3 Cơ chế nhân quyền châu Phi 2.3.1 Nguồn gốc và lịch sử hình thành Hiến chương Châu Phi về con người và quyền con người. Trong 3 công ước khu vực về quyền con người, Hiến chương châu Phi về con người và quyền con người ra đời muộn nhất, nên ít nhiều cũng sẽ chịu ảnh hưởng từ hai công ước trước. Năm 1961, hội nghị châu Phi về Nguyên tắc luật tại Lagos đã thông qua “luật Lagos”, “mời các chi nghiên cứu khả năng thông qua công ước châu Phi về quyền con người” Đây là bước mở đầu một tiến trình hơn 20 năm tiếp theo, mà sự kết thúc là sự ra đời của Hiến chương châu Phi về con người và quyền con người năm 1981. Năm 1963, hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo các quốc gia châu Phi ở Addis Ababa đã thông qua hiến của tổ chức thống nhất châu Phi (OAU). Năm 1967, tại khóa họp 23 của UB nhân quyền LHQ đã thảo luận việc thành lập các UB nhân quyền khu vực, tạo cơ sở cho 5 nước châu Phi ký kết và xem xét việc thành lập ủy ban nhân quyền châu Phi. Tháng 3 năm 1969, hai sự kiện đã diễn ra tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của UB châu Phi. Đầu tiên là việc UB thường trực về quyền con người của các nước Arab được thành lập. Thêm vào đó, tháng 9 năm 1969, LHQ đã tổ chức một cuộc hội thảo bàn về việc xây dựng các UB khu vực, mà trọng điểm là châu Phi, với sự góp mặt của 20 nước châu Phi cũng như các đại diện từ Hội đồng châu Âu và Liên đoàn Arab. 21 Nhưng phải đến 7/1979, OAU mới đạt được bước tiến quan trọng khi Hội đồng những người đứng đầu nhà nước và chính phủ thông qua “quyết định về quyền con người và quyền dân tộc ở châu Phi” tại Monrovia. Tháng 11UBNQ châu Phi được thành lập gồm 11 thành viên, có chức năng phát huy và bảo vệ quyền con người theo các văn bản pháp luật quốc tế, đồng thời viết báo cáo và khuyến nghị để trình lên Tổ chức thống nhất Châu Phi OAU. Hai năm sau, hiến chương châu Phi về con người và quyền con người được phê chuẩn và có hiệu lực năm 1986. Hiến chương châu Phi ra đời hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của thực tiễn châu Phi. So với châu Âu và châu Mỹ thì châu Phi phải nằm dưới ách thực dân lâu dài hơn, nhiều nước châu Phi có được độc lập hàng thập kỷ kể từ sau khi LHQ được thành lập. Chính vì thế, họ phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của chủ nghĩa thực dân, kéo theo những khó khăn về kinh tế, bất ổn xã hội triền miên và tất nhiên vấn đề nhân quyền không được quan tâm nhiều. “kể từ năm 1970 hơn 30 cuộc chiến tranh đã diễn ra ở Africa mà nguyên nhân chủ yếu đều xuất phát tuef chính nội bộ quốc gia đó. Chỉ riêng trong năm 1996, 14 trong số 53 nước châu Phi đã phải chịu đau khổ do xung đột vũ trang gây raCác cuộc xung đột lâu nãy đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nỗ lực của châu Phi nhằm duy trì sự ổn định lâu dài, sự thịnh vượng và hòa bình cho người dân”. Tiếp đó những năm 90 là thời kỳ khủng hoảng kinh tế xã hội ở châu Phi. Kinh tế châu Phi bắt đầu phụ thuộc vào phương Tây. Các nước phương Tây thì ngày càng gắn chặt nhân quyền với viện trợ. Thậm chí họ còn sẵn sàng cắt giẳm hoặc ngưng viện trợ nếu phát hiện thấy có hiện tượng vi phạm quyền con người (trường hợp của Uganda, Liberia, Equatoria guinea) Đây cũng chính là một động lực thúc đẩy sự ra đời của HC châu Phi. Tiếp đến là thực tiễn luật pháp của châu Phi yêu cầu phải có một cơ chế mới đưa việc bảo vệ nhân quyền trở thành một nguyên tắc pháp luật thay thế luật pháp của các nước thực dân để lại. 2.3.2 Cơ sở pháp lý 22 Các văn bản pháp lý về quyền con người: The African Charter on Human and Peoples' Rights Hiến chương nhân quyền châu Phi được Hội đồng lãnh đạo các quốc gia và chính phủ của OAU thông qua vào 1981 và có hiệu lực 5 năm sau – 1986. Hiến chương bao gồm một phạm vi rộng hơn về quyền so với cả Công ước nhân quyền châu Âu cũng như Công ước nhân quyền châu Mĩ. Hiến chương châu Phi bao gồm cả quyền cá nhân và tập thể. Rules of Procedure of the African Commission on Human and Peoples' Rights: Điều lệ thủ tục của Ủy ban nhân quyền châu Phi được Ủy ban nhân quyền châu Phi thông qua 6/10/1995 và phù hợp với điều 42.2 Hiến chương. 2.3.3 Cơ chế thực thi quyền con người của châu Phi Ủy ban nhân quyền châu Phi: The African Commission on Human and Peoples' Rights Cơ cấu và chức năng: Ủy ban nhân quyền châu Phi bao gồm 11 thành viên được lựa chọn từ các cá nhân châu Phi có uy tín nhất, được biết đến với tinh thần đạo đức, liêm chính, chí công vô tư cao về các vấn đề liên quan đến nhân quyền và quyền con người. Các thành viên của Ủy ban được chính phủ của họ đề cử và được Hội đồng lãnh đạo quốc gia và chinh phủ của OAU bầu với nhiệm kì 6 năm 1 lần và thành phần Ủy ban không có nhiều hơn 1 người đến từ cùng một quốc gia ( điều 33,34 Hiến chương châu Phi). Ủy ban là cơ quan chính trong việc thi hành Hiến chương châu Phi. Ủy ban nhóm họp 2 năm 1 lần và có thể nhóm họp các hội nghị bất thường nếu cần thiết. Các cuộc nhóm họp thường được tổ chức vào tháng 3 / tháng 4 và tháng 10/ tháng 11 và kéo dài trong 15 ngày. Chúng đã được tổ chức tại rất nhiều các quốc gia châu Phi, bao gồm Benin, Algeria, Rwanda, Burundi và The Gambia. Ban thư kí Ủy ban được đặt trụ sở tại Banjul, Gambia. Thư kí của Ủy ban châu Phi, được Tổng thư kí của OAU chỉ định chịu trách nhiệm trước 23 Tổng thư kí OAU về các vấn đề tài chính và hành chính. Ủy ban châu Phi trình báo cáo hàng năm về các hoạt động của Ủy ban cho Hội đồng OAU mỗi năm và phụ thuộc vào cơ quan này để thi hành các quyết định và nghị quyết của mình. Ủy ban nhân quyền châu Phi có nhiệm vụ chính: 1. xem xét báo cáo các chính phủ đệ trình lên liên quan đến vấn đề nhân quyền ở quốc gia đó; 2. xem xét khiếu kiện về nhân quyền - communications được cá nhân và các tổ chức phi chính phủ đệ trình. ( Communication là từ dùng để chỉ các khiếu kiện liên qua đến quyền con người thường được gửi đến cơ quan nhân quyền quốc tế như Ủy ban châu Phi. Communication là một văn bản tóm tắt những gì đã xảy ra, giải thích sự kiện được cho là sự vi phạm nhân quyền, và yêu cầu được bồi thường). 3. Tán thành các nghị quyết tại các cuộc họp định kì; ( Ủy ban châu Phi nhóm họp 2 lần 1 năm để xem xét báo cáo quốc gia và nghe các khiếu kiện về quyền con người. Tại các cuộc họp này, thành viên Ủy ban cũng sẽ bàn bạc những mối lo về nhân quyền hiện tại và xem xét các vấn đề thủ tục. Thường tuyên bố sẽ được soạn thảo và nêu bật ý kiến của Ủy ban châu Phi về các vấn đề này. Các tuyên bố này được gọi la resolution nghị quyết. 4. đưa ra các khuyến nghị cho các chính phủ về vấn đề nhân quyền; 5. chỉ định các báo cáo viên đặc biệt để điều tra các vần đề quyền con người; 6. tổ chức các hội nghị và hội thảo Theo điều 45 đoạn 1 Hiến chương châu Phi, Ủy ban Châu Phi hướng đến: 1. Nâng cao nhân quyền và quyền con người và đặc biệt: a) thu thập văn bản pháp lý, thực hiện các nghiên cứu về các vấn đề của châu Phi liên quan đến lĩnh vực quyền con người, tổ chức các hội nghị và hội thảo, phổ biến thông tin, khuyến khích các tổ chức địa phương và quốc gia liên quan đến vấn đề quyền con người, 24 và nếu có vụ việc xảy ra, bày tỏ quan điểm và khuyến nghị của mình đến các chính phủ các nước. b) trình bày các nguyên tắc, quy tắc nhằm giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền con người và các tự do cơ bản; mà các chính phủ châu Phi có thể thiết lập luật pháp. c) hợp tác với các tổ chức trên phạm vi quốc tế và khu vực châu Phi với mục đích nâng cao và bảo vệ quyền con người; Đoạn 2, 3 và 4 của Điều 45 cũng đưa ra các chức năng đặc biệt quan trọng trong việc thi hành các quyền thuộc Hiến chương châu Phi: 1. đảm bảo sự bảo vệ quyền con người theo các điều kiện được đưa ra trong bản Hiến chương châu Phi; 2. giải thích điều khoản của Hiến chương theo yêu cầu của các quốc gia thành viên OAU; của OAU hay một tổ chức châu Phi khác được OAU công nhận; 3. thi hành bất cứ nhiệm vụ nào do Hội đồng lãnh đạo các quốc gia và chính phủ giao cho. Thủ tục tiếp nhận đơn khiếu kiện từ cá nhân và tổ chức phi chính phủ: Một trong những chức năng cơ bản của Ủy ban là nhằm bảo vệ quyền con người và đảm bảo các tự do cơ bản trong Hiến chương theo các điều kiện đặt ra. Để đạt được điều này, Ủy ban được trao quyền, nhận và xem xét: các khiếu kiện được đệ trình bởi một quốc gia thành viên khẳng định một quốc gia thành viên khác của Hiến chương đã vi phạm một trong những điều khoản trong Hiến chương ( điều 48-49) các khiếu kiện khác của các cá nhân và tổ chức khẳng định rằng quốc gia thành viên đã vi phạm một hay nhiều hơn những quyền lợi được đảm bảo trong Hiến chương. ( điều 55). 25 Các khiếu kiện từ các cá nhân và tổ chức đệ trình lên Ủy ban theo điều 55 của Hiến chương được coi là nằm trong cơ cấu của thủ tục đệ trình bằng văn bản ( điều 102 – 120 của điều lệ thủ tục Ủy ban). Người viết đơn khiếu kiện có thể rút đơn khiếu kiện vào bất kì lúc nào. Ủy ban trong những trường hợp như thế sẽ ngừng các thủ tục xem xét khiếu kiện và không đưa ra bất kì quyết định nào. Nhận đơn khiếu kiện: Các đơn khiếu kiện đển Ủy ban thường được chuyển thẳng tới Ban thư kí của Ủy ban đặt trụ sở tại Banjul, Gambia. Khi đơn khiếu kiện được tiếp nhận, nó sẽ được đăng ký theo số thứ tự file trong phòng đăng kí khiếu kiện của Ủy ban được lưu giữ tại Ban thư ký. Số lượng các đơn khiếu kiện được viết theo cách phản ánh được tổng số lượng các đơn khiếu kiện đã được nhận. Vì thế, nếu một đơn khiếu kiện được đánh số 18/90, “18” ám chỉ đây là đơn khiếu kiện số 18 mà Ủy ban nhận được kể từ khi bắt đầu và “90” ám chỉ năm mà đơn khiếu kiện số 18 được tiếp nhận. Cần lưu ý rằng việc đăng ký đơn khiếu kiện không được đảm bảo rằng nó sẽ được Ủy ban seize. Seizure: Khi đơn khiếu kiện được đăng kí, Ủy ban sẽ nhận chúng. Theo điều 55 của Hiến chương “ trước mỗi phiên họp của Ủy ban, Thư ký của Ủy ban chuẩn bị một danh sách các đơn khiếu kiện được đệ trình lên Ban thư ký, . Và chuyển chúng tới các thành viên của Ủy ban, những người sẽ quyết định đơn khiếu kiện nào sẽ được Ủy ban xem xét”. Điều 102 (2) của điều lệ thủ tục Ủy ban “ không một đơn khiếu kiện nào liên quan đến quốc gia không phải là thành viên của Hiến chương sẽ được Ủy ban tiếp nhận hoặc cho vào danh sách” 26 Vì thế, khi Ban thư ký Ủy ban nhận được một đơn khiếu kiện theo điều 55 chống lại một quốc gia thành viên của Hiến chương, ngay khi được đăng ký, một bản tóm tắt được làm và gửi đến các thành viên Ủy ban. Một lá thư được viết đến nguyên đơn- người khiếu kiện cho biết việc tiếp nhận đơn khiếu kiện. không một lá thư nào được gửi đến quốc gia thành viên trong quá trình này. Ban thư ký phải đợi phản hồi từ ít nhất 7/11 thành viên cho biết họ đã tiếp nhận và chấp nhận lệnh nắm giữ đơn khiếu kiện. Nếu Ban thư ký không nhận được đủ số lượng tối thiểu 7 phản hồi, đơn khiếu kiện sẽ được trình lên các thành viên Ủy ban trong phiên họp tiếp theo. Trong phiên họp này, Ủy ban sẽ quyết định có nên tiếp nhận đơn khiếu kiện hay không bằng cách quyết định nó có khẳng định được một vi phạm prima facie đối với Hiến chương không. Điều 55(2) Hiến chương “ một đơn khiếu kiện sẽ được Ủy ban xem xét nếu đại đa số thành viên quyết định như thế”. Nếu đại đa số thành viên Ủy ban (trong trường hợp là 6) quyết định Ủy ban tiếp nhận, Ban thư kí sẽ được yêu cầu thông báo cho các bên ( bên nguyên đơn và quốc gia liên quan) rằng đơn khiếu kiện sẽ được xem xét hay tiếp nhận vào phiên họp tiếp theo của Ủy ban, và họ có thời hạn 3 tháng kể từ ngày lá thư được viết đệ trình các ý kiến về quyết định này. Chỉ có ở quá trình này, quốc gia thành viên mới được cho biết đến đơn khiếu kiện. Điều kiện tiếp nhận đơn khiếu kiện: Điều 56 Hiến chương đưa ra các điều kiện áp dụng đối với các nhân và các đơn khiếu kiện như sau: đơn khiếu kiện phải chỉ ra tên người ngay cả trong trường hợp người đó yêu cầu giấu danh tính. Người đệ trình đơn kiện phải chỉ ra tên của mình. 27 Nếu người viết đơn muốn được giữ danh tính, cá nhân đó phải tuyên bố thế và đơn kiện sẽ được đánh số theo thứ tự chữ cái trong bảng alphabet, như B. Đơn khiếu kiện sẽ được ghi là B v the State Party liên quan. Ngươì viết cũng phải nêu nguyên nhân cho lí do muốn giấu danh tính. Nếu người viết đơn là 1 tổ chức phi chính phủ, tên cảu người đại diện của tổ chức đó sẽ được yêu cầu. tên và địa chỉ sẽ làm sựu trao đổi giữa người viết và Ủy ban dễ dàng hơn. Nếu không có tên và địa chỉ cảu người khiếu kiện, đơn khiếu kiện sẽ không được xem xét. Đơn khiếu kiện phải phù hợp với Hiến chương của OAU. Đơn khiếu kiện phải viện dẫn các điều khoản của Hiến chương châu Phi khẳng định đã bị vi phạm hoặc các nguyên tắc không thể bị vi phạm của Hiến chương. Một đơn kiện mà không chỉ ra được một vi phạm prima facie đối với Hiến chương, như “ tự do, công bằng, công lý và giá trị”, sẽ không được xem xét. Đơn khiếu kiện không được viết với ngôn từ mang tính xúc phạm , làm mất thể diện đến quốc gia liên quan và các cơ quan tổ chức của quốc gia đó cũng như OAU. Người viết phải nêu được các sự việc trong vụ việc của mình mà không xúc phạm đến ai cả. Ngôn từ chính trị và thô tục đều không cần thiết. Đơn khiếu kiện không được dựa trên tin tức được phổ biến trên thông tin đại chúng. Người viết phải có khả năng tìm hiểu và khẳng định sự thật của sự việc trước khi yêu câu Ủy ban can thiệp. Đơn khiếu kiện được gửi sau khi đã sử dụng hết các biện pháp trong nước, nếu không thủ tục này sẽ kéo dài quá mức. Đơn khiếu kiện không được liên quan đến các vụ kiện đã được giải quyết phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc hoặc Hiến chương của OAU hoặc các điều khoản của Hiến chương này. Tiếp nhận đơn khiếu kiện: 28 Khi đơn khiếu kiện được Ủy ban nắm giữ, quyết định liên quan đến việc tiếp nhận sẽ được đưa ra. Điều 56 Hiến chương nêu ra 7 điều kiện để đơn khiếu kiện có thể được tiếp nhận theo điều 55 để được xem xét. Về vấn đề nguyên tắc, tất cả các điều kiện đều phải được xem xét cho một đơn khiếu kiện để khẳng định có thể tiếp nhận. Nếu một điều kiện không được tính đến, đơn khiếu kiện sẽ được tuyên bố là không được tiếp nhận và vụ việc sẽ dừng tại đây. Quyết định tiếp nhận có thể được đưa ra sau khi bản tóm tắt đã được gửi đến cho quốc gia có liên quan và quốc gia đó có cơ hội để giải thích. Quốc gia thành viên và người viết đơn khiếu kiện phải có giới hạn thời gian 3 tháng để đệ trình ý kiến của mình. Sau khi nghiên cứu các tranh luận được 2 bên trình bày, Ủy ban sẽ đưa ra quyết định dựa trên các nguyên tắc của luật nhân quyền quốc tế nhằm bảo vệ cá nhân khỏi sự encroachment của quốc gia. Khi quyết định tiếp nhận đơn khiếu kiện, quyết định này sẽ được chuyển đến cả nguyên đơn và quốc gia liên quan. Về nguyên tắc, quyết định tiếp nhận đơn kiện là cuối cùng. Ví dụ, nếu đơn kiện bị tuyên bố không được tiếp nhận, lí do cho sự khôgn tiếp nhận sẽ được nêu rõ và sẽ kết thúc xem xét đơn khiếu kiện. Tuy nhiên, một đơn khiếu kiện được tuyên bố không được tiếp nhận có thể được xem xét vào thời điểm sau đó nếu nguyên đơn có thể cung cấp thông tin . Mặt khác, nếu đơn khiếu kiện được tuyên bố là được tiếp nhận, các bên sẽ được thông tin và được yêu cầu gửi giải thích của mình. Giải pháp thân thiện: Nếu cả 2 bên bày tỏ nguyện vọng giải quyết hòa bình, Ủy ban sẽ chỉ định một báo cáo viên, thường là một thành viên Ủy ban đã thụ lý vụ việc này, hoặc là một thành viên Ủy ban có 29 trách nhiệm cho các hoạt động ở các quốc gia liên quan hay một nhóm các thành viên ủy ban. Nếu đạt được giải quyết hòa bình, một báo cáo bao gồm giải quyết này sẽ được trình bày với Ủy ban trong phiên họp của Ủy ban. Vụ việc sẽ tự động kết thúc. Mặt khác, nếu không thảo thuận nào đạt được, một báo cáo được đệ trình lên Ủy ban bởi các thành viên Ủy ban liên quan và Ủy ban sẽ quyết định việc xem xét vụ việc. Xem xét vụ việc: Ủy ban tiến hành xem xét các vấn đề cụ thể của vụ việc, để xem xét các khẳng định của nguyên đơn và phản hồi của quốc gia liên quan về các điều khoản của Hiến chương và các khái niệm nhân quyền quốc tế. Trong suốt phiên họp, các bên sẽ tự do trình bày miệng hay băn bản lên Ủy ban. Một số quốc gia cử đại diện đến phiên họp của Ủy ban để bác lại
File đính kèm:
- tieu_luan_co_che_nhan_quyen_noi_chung_va_co_che_nhan_quyen_k.pdf