Tiểu luận Đặc điểm, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Đặc điểm, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Đặc điểm, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin. Giai cấp công nhân ra đời cùng với sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848), Mác-Ăngghen đã nhấn mạnh: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là giai cấp không có tư liệu sản xuất, không có vai trò gì trong tổ chức quản lý lao động xã hội, là giai cấp làm thuê, bán sức lao động để hưởng thụ phần của cải ít ỏi, đó là giai cấp bị áp bức, bóc lột. Trong các giai cấp đương đầu với chủ nghĩa tư bản, chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng nhất. Chính địa vị kinh tế-xã hội đó đã quy định vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người làm cuộc cách mạng xã hội đánh đổ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ hình thái xã hội dựa trên nền tảng chế độ tư hữu, và xây dựng xã hội mới lấy chế độ công hữu về tư liệu sản xuất làm nền tảng, không có người bóc lột người. Trước sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, nhiều người đã dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nhân dịp này, những người cơ hội và các thế lực phản động tăng cường phê phán, đả kích chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Vì vậy, vấn đề làm sáng tỏ vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong tình hình hiện nay là vô cùng bức thiết. Giai cấp công nhân Việt Nam hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi thực dân Pháp tiến hành và đẩy mạnh các cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam và Đông Dương. Các cuộc khai thác thuộc địa này đã dẫn đến sự ra đời một số ngành công nghiệp, dịch vụ làm biến đổi cơ cấu kinh tế và do đó làm biến đổi cơ cấu xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam lớn dần lên trong quá trình biến đổi đó. Đầu thế kỷ XX, giai cấp công nhân Việt Nam chủ yếu xuất thân từ những người nông dân bị tư sản Pháp và địa chủ phong kiến cướp ruộng đất làm cho phá sản, mất tư liệu sản xuất. Công nhân Việt Nam bị hai tầng áp bức của đế quốc và phong kiến. Vì thế, họ vừa có tinh thần yêu nước nồng nàn, vừa từng bước được giác ngộ ý thức giai cấp, tinh thần đấu tranh giai cấp. Mặc dù số lượng còn ít, trình độ nghề nghiệp thấp, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình đó là đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng, xóa bỏ ách thống trị của thực dân, phong kiến. Đất nước ta thật sự bước vào công cuộc đỏi mới từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986). Với chủ trương lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm và chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân trong thời kỳ đổi mới cũng ngày càng phát triển. Đặc biệt, trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã không ngừng phát triển, lớn mạnh và trở thành lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vai trò, đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là việc làm có nhiều ý nghĩa và vô cùng cần thiết. Do đó, tôi đã chọn đề tài: “Đặc điểm, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam” cho tiểu luận của mình về học phần Chuyên đề lý luận chủ nghĩa xã hội (nhóm 1). PHẦN NỘI DUNG Chương 1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm giai cấp công nhân. Mác-Ăngghen đã chỉ rõ: “Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”. Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự tiến triển của lịch sử, giai cấp công nhân cũng luôn luôn phát triển với những biểu hiện và đặc trưng mới. Mác và Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về người công nhân trong quá trình phát triển lịch sử đó của giai cấp công nhân. Những thuật ngữ chung nhất để nói về giai cấp công nhân là: giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, giai cấp lao động, lao động làm thuê. Những thuật ngữ có nội dung hẹp hơn để chỉ các loại công nhân trong các ngành khác nhau là: công nhân nông nghiệp, công nhân công nghiệp, công nhân khai khoáng Những thuật ngữ để chỉ người công nhân ở những giai đoạn phát triển khác nhau của công nghiệp là: công nhân thủ công, công nhân công trường thủ công, công nhân hiện đại. Đi sâu hơn nữa, Mác còn phân biệt các loại công nhân khác nhau trong nền công nghiệp hiện đại như: công nhân thực sự đứng máy công tác (thợ chính), người giúp việc, công nhân cao cấp Dù giai cấp công nhân có bao gồm những loại công nhân khác nhau như thế nào đi nữa thì theo Mác và Ăngghen vẫn chỉ có hai tiêu chí cơ bản nói lên thế nào là người công nhân. Một là, về nghề nghiệp, về phương thức lao động đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp, ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Mác và Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh tiêu chí này vì chính điều này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản. Tiêu chí thứ hai này nói lên đặc trưng cơ bản của người công nhân dưới chế độ tư bản. Căn cứ vào tiêu chí này mà Mác và Ăngghen đã gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản. Sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền thì nó không còn ở vào địa vị bị áp bức, bóc lột nữa. Nó đã trở thành giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Nó đã cùng toàn thể nhân dân lao động trở thành những người làm chủ những tư liệu sản xuất cơ bản nhất đã được công hữu hóa. Nó vẫn là giai cấp công nhân nhưng không còn là giai cấp vô sản như trước. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân được đặc trưng chủ yếu bằng tiêu chí thứ nhất, bằng phương thức lao động của họ. Còn về tiêu chí thứ hai, nếu xét toàn bộ giai cấp, thì giai cấp công nhân đã là người làm chủ, nhưng trong điều kiện tồn tại nhiều thành phần kinh tế thì còn có một bộ phận công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp tư nhân. Những người này về danh nghĩa tham gia làm chủ cùng toàn bộ giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhưng xét về mặt cá nhân, họ vẫn là những người làm công ăn lương và với những mức độ nhất định, họ vẫn bị những chủ sở hữu tư nhân bóc lột về giá trị thặng dư. Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể coi những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp là công nhân. Còn những người làm công ăn lương phục vụ trong các ngành khác như y tế, giáo dục, văn hóa, dịch vụ (không liên quan trực tiếp đến sản xuất công nghiệp) là người lao động nói chung, được thu hút vào các tổ chức công đoàn nghề nghiệp, nhưng không phải là công nhân. Tóm lại, những quan điểm của Mác về hai tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn là cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Căn cứ vào hai tiêu chí trên chúng ta có thể định nghĩa: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay. Ở các nước tư bản, họ là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là những người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu, là giai cấp lãnh đạo xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người; giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu; xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Ph.Ăngghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”. Leenin cũng đã chỉ rõ: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Học thuyết Mác - Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự luận chứng khoa học về địa vị kinh tế - xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp đó, về những mục tiêu và con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Học thuyết ấy chứng minh rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định bởi những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan, đó là: “sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đó là: làm cuộc cách mạng xã hội lật đổ giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản, thiết lập nhà nước của giai cấp vô sản, xóa bỏ bóc lột, thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Điều đó đã được Mác và Ăngghen luận chứng một cách sâu sắc trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản với những lý lẽ như sau: Thứ nhất, do địa vị kinh tế - xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Và với tính cách như vậy, nó là nhân tố quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi có chính quyền, giai cấp công nhân đại biểu cho phương thức sản xuất mới, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong sự kết hợp thống nhất của chúng. Thứ hai, giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, được nền đại công nghiệp rèn luyện, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản năng, họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Trong cuộc cách mạng ấy, họ chỉ mất có xiềng xích và được cả thế giới về mình. Thứ ba, địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng làm việc đó. Đó là khả năng đoàn kết, thống nhất giai cấp, khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử của mình, khả năng hành động chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách mạng; khả năng đoàn kết các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống tư bản; khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế theo chủ nghĩa quốc tế vô sản. Để làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải được lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học soi sáng, giai cấp công nhân phải tự xây dựng thành chính đảng, phải có chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn, phải lôi cuốn, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân lao động đi theo mình làm cách mạng. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, bước đầu tiên giai cấp công nhân phải làm một cuộc cách mạng xã hội, giành chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản. Bước thứ hai là khi đã có chính quyền, giai cấp công nhân phải cùng toàn thể nhân dân lao động từng bước xây dựng xã hội mới dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tiến tới xã hội không có giai cấp. Trong khi luận chứng về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý luận của Mác chỉ nêu lên phương hướng và những vấn đề có tính quy luật chung nhất. Còn trong tình hình thực tế, để một cuộc cách mạng có thể nổ ra cần có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định. Chương 2. Đặc điểm, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam 2.1. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam Trên cơ sở tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là hơn 20 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước và kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học về giai cấp công nhân, Hội nghị Trung ương sáu khóa X của Đảng (28-1-2008) đã đưa ra khái niệm khoa học về giai cấp công nhân. Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”. Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, lớp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp (1924-1929). Cùng với quá trình phát triển của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhất là qua 25 năm đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ giai cấp công nhân quốc tế. Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng: Thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp có truyền thống yêu nước và ý thức tự tôn dân tộc. Sinh ra và lớn lên trong lòng dân tộc vốn có truyền thống yêu nước và tự tôn dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam sớm tiếp thu và được thừa hưởng truyền thống quý báu đó. Mặc dù mới ra đời, còn non trẻ, song giai cấp công nhân đã sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau khi các phong trào cứu nước đứng trên lập trường Cần Vương, lập trường tư sản và tiểu tư sản thất bại. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, truyền thống tốt đẹp ấy đã hội tụ và kết tinh thành bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Yêu nước, tự tôn dân tộc trong thời đại mới là yêu chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân là người đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ hai, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để. Giai cấp công nhân Việt Nam có được đặc điểm trên là do: ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác và thống nhất, được chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ mục tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân đã lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân giành thắng lợi, thống nhất nước nhà và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Bước vào thời kỳ mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi khó lường, một lần nữa tinh thần và bản chất cách mạng triệt để của giai cấp công nhân Việt Nam lại được thể hiện và phát huy với tư cách là người đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, giai cấp công nhân Việt Nam là thành viên và là lực lượng lãnh đạo khối liên minh công – nông – trí thức thông qua Đảng tiền phong của mình. Xuất thân từ nông dân lao động, bị thực dân phong kiến bóc lột, bần cùng hóa, giai cấp công nhân có mối quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, thông qua Đảng tiền phong của mình, giai cấp công nhân thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với cách mạng và sự nghiệp đổi mới, đồng thời là hạt nhân của khối liên minh giai cấp: công – nông – trí và khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Thứ tư, giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giác ngộ về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam không chỉ là động lực chủ yếu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà còn là động lực mạnh mẽ và là lực lượng đi đầu, lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Thứ năm, cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, đội ngũ công nhân trí thức Việt Nam từng bước hình thành và phát triển. Việc hình thành đội ngũ công nhân trí thức không chỉ là sự bổ sung vào lực lượng giai cấp công nhân những công nhân có trình độ cao mà còn làm cho giai cấp công nhân được nâng cao về trình độ và có sự thay đổi về tính chất lao động – lao động điều khiển những công nghệ tự động hóa của nền kinh tế tri thức. 2.2. Vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam 2.2.1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, một thứ chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm nhiều đến phát triển một nền công nghiệp ở nước thuộc địa, do vậy làm cho giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm. Mặc dù số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng ở nước ta. Điều đó được lý giải bởi những điều kiện sau đây: Một là, giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. Ở giai cấp công nhân, nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm một, khiến động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân được nhân lên gấp bội. Hai là, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong không khí sôi sục của một loạt phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Các phong trào này đã có tác dụng to lớn đối với việc giáo dục, nuôi dưỡng và cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất và quyết tâm đập tan xiềng xích nô lệ của toàn thể nhân dân ta. Nhưng tất cả các phong trào ấy đều thất bại và sự nghiệp giải phóng dân tộc lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối. Ba là, tấm gương cách mạng Nga và phong trào cách mạng ở nhiều nước khác đã cổ vũ giai cấp công nhân non trẻ Việt Nam đứng lên nhận lấy sứ mệnh lãnh đạo cách mạng nước ta và đồng thời cũng là chất xúc tác để nhân dân ta dễ tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, đi theo con đường cách mạng của giai cấp công nhân. Từ đó, giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Bốn là, giai cấp công nhân Việt Nam, mà tuyệt đại bộ phận là xuất thân từ nông lao động và những tầng lớp lao động khác nên có mối liên hệ tự nhiên rất mật thiết với giai cấp nông dân và những tầng lớp lao động khác. Mối liên hệ giai cấp ấy cùng mối liên hệ đồng bào ruột thịt của những người dân Việt Nam mất nước lúc đó là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân tập hợp được rộng rãi các giai cấp và tầng lớp nhân dân Việt Nam để xây dựng nên khối liên minh công nông và khối đoàn kết dân tộc, là điều kiện thuận lợi cho sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nông dân và toàn thể dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Tất cả những điều kiện ấy hội tụ lại đã đưa giai cấp công nhân Việt Nam lên địa vị lịch sử là người duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ở nước ta, giai cấp công nhân trước hết phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phải lãnh đạo cuộc cách mạng đó thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, đấu tranh giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, không có người bóc lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam được biểu hiện ở nhiều mặt. Họ không chỉ có sứ mệnh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp mà còn có sứ mệnh là bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và phát triển lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân đang thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình: lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới cho hòa bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân. “Giai cấp công nhân Việt Nam thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thông qua Đảng tiên phong của mình thực hiện sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; là hạt nhân của liên minh công-nông-trí thức và khối đại đoàn kết các dân tộc ở nước ta”. Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X của Đảng đã xác định rõ ràng và cụ thể hơn: “Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI một lần nữa đã nhấn mạnh đến sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời đề ra phương hướng xây dựng giai cấp công nhân trong thời gian tới: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. 2.2.2. Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong thực tế, được thể hiện bằng những vai trò cụ thể của giai cấp công nhân Việt Nam. Vai trò đó được thể hiện trong những lĩnh vực cơ bản sau đây: Trong lĩnh vực kinh tế: giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng sản xuất hàng đầu; là đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến nên đã đóng góp lớn lao vào thành tựu của nền kinh tế quốc dân; là một lực lượng góp phần quan trọng đến tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta; giai cấp công nhân nước ta tác động có tính quyết định đến việc đưa nông dân nước ta lên sản xuất lớn, xây dựng nông thôn mới. Trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng và an ninh: giai cấp công nhân Việt Nam là chỗ dựa và cơ sở xã hội-chính trị tin cậy của hệ thống chính trị; giai cấp công nhân Việt Nam là nòng cốt trong liên minh công-nông-trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giai cấp công nhân Việt Nam góp phần quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc và giũ gìn trật tự, an ninh xã hội. Trong lĩnh vực văn hóa-xã hội: giai cấp công nhân Việt Nam hăng hái trong phong trào thi đua lao động sáng tạo; giai cấp công nhân Việt Nam tích cực tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao; giai cấp công nhân Việt Nam là tấm gương của lối sống mới văn hóa công nghiệp. Tóm lại, xuất phát từ sứ mệnh lịch sử to lớn của mình mà giai cấp công nhân Việt Nam có những vai trò cụ thể, trực tiếp trong thực tiễn thật đặc biệt và quan trọng. Trong những năm đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân Việt Nam đã thể hiện khá rõ vai trò của mình từ tổng thể những thành tựu trong lĩnh vực kinh tế, chính trị và quốc phòng an ninh, văn hóa và xã hộiQua đó góp phần quyết định đến thắng lợi của công cuộc đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ đó, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam dần được thực hiện. Tuy vậy, vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng của mình, với nội dung sứ mệnh lịch sử to lớn của giai cấp này, với đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước. Từ đó trong thực tế, làm cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam giảm tính thuyết phục hoặc làm cho sự nhìn nhận vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân như là cái lý tưởng cần vươn tới chứ không phải là cái đã, đang thực hiện ở nước ta. PHẦN KẾT LUẬN Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu, khóa X đã chỉ rõ: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”. Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, có sứ mệnh lịch sử là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy việc xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của mỗi người công nhân và của toàn xã hội. Qua 25 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên. Đã hình thành ngày càng đông đảo đội ngũ công nhân trí thức, đời sống của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện, giai cấp công nhân đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Để khắc phục những nhược điểm ấy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân nước ta trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là: “Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực sáng tạo và ứng dụng công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới...”. Nhìn tổng quát, lợi ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn đặc biệt là bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân ngày càng tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng, ngang tầm với sứ mệnh lịch sử của mình. Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Tăng cường xây dựng giai cấp công nhân có giác ngộ và bản lĩnh chính trị, có trình độ học vấn và nghề nghiệp ngày càng cao trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Thực hiện chủ trương đó, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ra Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28-1-2008 về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết nêu rõ: “ Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động; trong đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định”. Để phát huy hơn nữa vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, cần tiếp tục quán triệt, cụ thể hóa và thực hiện sáng tạo hơn nữa những giải pháp mà Đảng ta đã nêu ra trong Văn kiện Hội nghị Trung ương sáu khóa X. Đó là: Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hóa giai cấp công nhân; quan tâm, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho giai cấp công nhân; bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính đáng của công nhân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn và các tổ chức chính trị-xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân.
File đính kèm:
- tieu_luan_dac_diem_vai_tro_va_su_menh_lich_su_cua_giai_cap_c.doc
- BÌA LÓT.doc
- BÌA.doc
- mục lục.doc
- TLTK.doc