Tiểu luận Điện Biên Phủ trên không - Mười hai ngày đêm lịch sử

pdf 23 trang yenvu 29/03/2024 1560
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Điện Biên Phủ trên không - Mười hai ngày đêm lịch sử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Điện Biên Phủ trên không - Mười hai ngày đêm lịch sử

Tiểu luận Điện Biên Phủ trên không - Mười hai ngày đêm lịch sử
1 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP 
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 
................. 
TIỂU LUẬN 
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG 
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 
Đề tài: Điện Biên Phủ trên không - mười hai ngày đêm lịch sử. 
GVHD : TS.Nguyễn Minh Tiến 
SVTH : Trương Thị Thúy Vi 
2 
MỞ ĐẦU 
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
Nhân dân Việt Nam luôn tự hào với trang sử vẻ vang của dân tộc mình. Từ ngàn 
xưa, chúng ta tự hào là con rồng cháu tiên, dòng dõi Lạc Hồng. Chúng ta phải vượt bao 
khó khăn thử thách để dựng nước và giữ nước. Thời cuộc xoay vòng, chiến tranh- hòa 
bình-chiến tranh, nước ta phải gánh chịu ách đô hộ nặng nề tàn bạo của giặc Tàu giặc 
Tây hơn ngàn năm, nhưng người Việt Nam chúng ta không bao giờ chịu khuất phục, 
chấp nhận nỗi nhục mất nước. bao lớp cha anh đã kiên cường chống trả, bất khuất hi 
sinh chẳng tiếc chi xương máu mang về bao chiến công hiển hách, dựng nên trang sử 
vàng để lại niềm tự hào cho con cháu ngàn đời. 
Trải qua những trận đánh trường kì gian khổ, giành lấy chiến thắng oai hùng 
chúng ta mới thực sự độc lập thống nhất đất nước vào ngày 30-4-1975, ngày miền Nam 
hoàn toàn giải phóng. Từ Bắc vào Nam, biết bao trận chiến vang dội, nhưng hẳn không 
ai trong chúng ta không biết đến trận chiến “Điện Biên Phủ trên không - mười hai ngày 
đêm lịch sử”, một chiến thắng làm thay đổi cách nhìn của thế giới đối với nước Việt 
Nam nhỏ nhưng không “nhỏ” này. Là thế hệ trẻ, được sinh ra khi đất nước đã hòa bình, 
đang trên tiến trình phát triển và hội nhập, được hưởng những điều kiện sống tốt đẹp hơn 
những thế hệ cha anh đi trước, những người sinh ra trong thời cuộc loạn lạc, chiến tranh 
triền miên, cuộc sống gian lao, khó nhọc, nạn đói, mù chữ thường xuyên đối diện với 
cái chết bom đạn. Nghĩ lại thấy mình thật may mắn, là những sinh viên khi tiếp xúc với 
môn đường lối Đảng Cộng Sản, chúng em lại càng hứng thú, muốn biết rõ những đường 
lối, những sự hi sinh cũng như những điều làm nên chiến thắng quang vinh cho hôm nay 
hòa bình của cha ông, tầng lớp trẻ chúng em bắt đầu nghiên cứu đi sâu vào các trận 
chiến, để hiểu sử ta như Bác Hồ đã dạy: 
“Dân ta phải biết sử ta 
Cho tường gốc tích nước nhàViệt Nam”. 
3 
 “Điện Biên Phủ trên không - mười hai ngày đêm lịch sử” là đề tài nghiên cứu 
mà em đã chọn phục vụ nhu cầu mở rộng kiến thức và đó cũng là đề tài tiểu luận mà 
nhóm đã chọn để hoàn thành nhiệm vụ học tập môn đường lối này. 
2. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 
 Làm rõ nguyên nhân dẫn đến chiến tranh và nắm bắt những diễn biến của trận 
chiến. 
 Phân tích đường lối chỉ đạo của Đảng trong trận chiến. 
 Thống kê kết quả và rút ra bài học kinh nghiệm. 
3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
 Bối cảnh lịch sử của nước ta giai đoạn trước trận chiến. 
 Nguyên nhân dẫn đến trận chiến. 
 Diễn biến cuộc chiến giữa ta và địch. 
 Kết quả. 
 Bài học kinh nghiệm. 
 Đường lối chỉ đạo của Đảng trong suốt thời gian chiến tranh. 
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Từ nguồn tài liệu, các sách báo tham khảo, hình ảnh, video clip kí sự liên quan, 
nhóm đã viết lại bằng sự hiểu biết của mình những thông tin của trận chiến, song vì có 
những thông tin đòi hỏi sự chính xác cao nên có những phần nội dung nhóm xin phép 
trích dẫn toàn bộ nguyên văn từ các nguồn. 
4 
NỘI DUNG 
1. BỐI CẢNH 
Từ sau năm 1965, trước nguy cơ sụp đổ của của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của 
chiến lược chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ phát động chiến lược "chiến tranh cục bộ" 
vào miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với 
miền Bắc. Trước tình thế đó, trung ương Đảng đã phát động cuộc kháng chiến chống 
Mỹ cứu nước trong toàn quốc, “kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế 
quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, 
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa 
bình thống nhất nước nhà”. 
Miền Bắc vừa tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại, 
vừa đảm bảo tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng, ra sức 
tăng gia sản xuất, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc 
chiến tranh giải phóng miền Nam. 
Trong khi đó, nhiệm vụ hàng đầu của miền Nam đó là đấu tranh giữ vững và phát 
triển thế tiến công – kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. Tiếp tục kiên trì phương 
châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp 
công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là 
hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã hội chủ 
nghĩa là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại chiến 
tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ và ra sức tăng cường lực lượng về mọi mặt nhằm đảm 
bảo chi viện đắc lực cho miền Nam để giữ vững chiến tuyến, đủ sức đánh bại “chiến 
tranh cục bộ”. Nhiệm vụ của 2 miền là không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó với 
nhau. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là: “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ 
xâm lược”. 
5 
2. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CHIẾN TRANH. 
Vào tháng 10 năm 1972 lẽ ra giữa ta và Mỹ đã đi tới một hiệp định chấm dứt 
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam như đã thỏa thuận, nhưng phía Mỹ đã bội ước, 
đưa máy bay chiến lược B52 ném bom ra miền Bắc với các nguyên nhân sau: 
Nguyên nhân chính là Mỹ muốn gây sức ép với ta trên bàn đàm phán tại Pari, 
muốn thay đổi lại nội dung hiệp định được dự thảo trước đó, buộc ta phải ký bản hiệp 
định do Mỹ soạn thảo có lợi cho chúng. 
Sau thất bại của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Để giữ thể diện và danh dự 
của một siêu cường quân sự, Mỹ đã mở một cuộc tiến công chiến lược trên không ra 
miền Bắc bằng B52 nhằm: 
 Làm lung lay ý chí chiến đấu của quân dân ta. 
 Phá hoại kinh tế miền Bắc và công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. 
 Đưa miền Bắc về “thời kì đồ đá”, ngăn cản sự chi viện vào miền Nam. 
 Giải quyết những mâu thuẫn trong nước Mỹ lúc bấy giờ. 
Mỹ biết rằng khó thể xoay chuyển hoàn toàn tình thế chỉ bằng một cuộc tập kích 
ác liệt. Để khỏi bị mang tiếng là bỏ rơi “đồng minh”, Mỹ đã cố gắng làm tròn nghĩa vụ 
với chính quyền Sài Gòn khi quyết định dùng nấc thang quân sự cuối cùng để chứng tỏ 
họ đã cố gắng hết sức vì quyền lợi của “đồng minh”. 
Vả lại với một siêu cường quân sự như Mỹ, từ lâu đã có tham vọng muốn làm bá 
chủ thế giới, muốn hình thành trật tự thế giới một cực trong đó Mỹ đứng đầu. Với một 
nước tư bản mạnh như vậy khi để thua tại chiến trường Việt Nam – một nước nông 
nghiệp lạc hậu thì không có tư cách để thống trị thế giới. 
3. DIỄN BIẾN 
 Ngày 13/12: do thái độ ngoan cố, lật lọng của chính quyền Mỹ Kit xinh Giơ, cố 
vấn đặc biệt của tổng thống Mỹ tuyên bố đình chỉ vô thời hạn Hội nghị Pari về Việt 
Nam. 
 Ngày 17/12: Ních xơn chính thức ra lệnh mở cuộc tiến công bằng không quân 
vào Hà Nội và Hải Phòng. Chiến dịch mang tên Lainơbêchcơ II. Về phía ta đã chuẩn bị 
6 
sẵn sàng. Bộ Tổng Tham mưu ra lệnh cho Quân chủng Phòng không - Không quân 
chuyển vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất, đề phòng B 52 đánh từ vĩ tuyến 20 
trở ra. 
 Sáng 18/12: Bộ Tổng Tham mưu điện cho các đơn vị: cần đề phòng địch dùng 
B- 52 đánh phá các mục tiêu trọng điểm. Các binh chủng pháo cao xạ, tên lửa, radda, 
không quân, pháo binh sẵn sàng chiến đấu kịp thời đánh trả máy bay, tàu chiến địch. Tổ 
chức quan sát, báo động, có kế hoạch sơ tán đào hầm hào, phối hợp với công an và nhân 
dân làm tốt công tác bảo vệ an ninh, bảo vệ tài sản... 10 giờ 15 phút, một chiếc máy bay 
trinh sát không người lái của địch bay từ hướng Tây Bắc vào trinh sát Hà Nội. Các đơn 
vị ra đa phát hiện báo cáo về Tổng trạm radda và sở chỉ huy Quân chủng Phòng Không 
Vào lúc 18 giờ 30 phút ngày 18.12.1972, Mỹ bắt đầu tấn công Việt Nam với 67 chiếc 
B52 nhằm Việt Nam thẳng tiến mở đầu trận Điện Biên Phủ trên không. Đến khoảng 19 
giờ 15 phút trên toàn miền Bắc Việt nam đã có lệnh báo động do trung đoàn 291 tại 
Nghệ An đã kịp thời phát hiện, và bắt đầu có sự chuẩn bị. 
19 giờ 40 phút, Mỹ bắt đầu trút hàng tấn bơm B52 xuống Hà Nội. Cuộc tập kích 
của không quân Mỹ diễn ra liên tục trong ngày với trọng tâm là các cuộc ném bơm vào 
ban đêm, ban ngày các máy bay chiến thuật liên tục đánh phá các sân bay, các trận địa 
tên lửa và các trạm rada phòng không Việt Nam. 
Vào 20 giờ 13 phút, tiểu đoàn 59 đã bắn rơi chiếc máy bay đầu tiên do ta cũng đã 
có sự chuẩn bị từ trước, lực lượng không quân chặn ở vùng ngoài, lực lượng pháo cao xạ 
và lưới lửa tự vệ đã tạo điều kiện thuận lợi để bộ đội tìm tên lửa hủy diệt B52. 
 Đêm 18 rạng ngày 19/12, đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc 
Phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã đến ngay một số đơn vị phòng 
không - không quân và khu vực Đông Anh, Yên Viên nơi vừa bị B- 52 của giặc Mỹ ném 
bom, động vien thăm hỏi bộ đội và nhân dân Thủ đô. 
 Rạng ngày 19/12: 4 giờ 30 phút rạng sáng ngày 19 - 12, địch ném bom đợt thứ 
3 vào các khu vực Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam (Mễ Trì), xã Nhân Chính, nhà 
7 
máy Cao su Sao Vàng... Các trận địa tên lửa, pháo phòng không với các đơn vị dân quân 
tự vệ Thủ đô bắn hàng ngàn viên đạn các loại tiêu diệt một máy bay F4. 
Cùng thời gian này, Tiểu đoàn 77 Trung đoàn Tên lửa 257 đánh một trận thật xuất 
sắc, bắn rơi tại chỗ một máy bay B- 52 D. Qua đó, ta đã gấp rút tổ chức kiểm điểm, rút 
được kinh nghiệm và theo số liệu, ta đã bắn rơi được 5 chiếc B52. 
 19h45 phút ngày 19/12 đến 5h20 phút ngày 20/12, máy bay B52 tiếp tục ném 
bom Hà Nội, Hải Phòng. Riêng ở Hà Nội 87 lần chiếc B52 và hơn 200 lần chiếc máy 
bay cường kích ném 3 đợt bom xuống 68 điểm thuộc nội ngoại thành. 
Vào đêm 20/12: lực lượng không quân ta đã xuất kích đánh vào đội hình máy bay 
chiến thuật của Mỹ, tạo điều kiện để tiêu diệt B52. Ngay trong đêm, lực lượng phòng 
không miền Bắc Việt Nam đã phóng 36 tên lửa SAM trong suốt 3 đợt tấn công, ta đã 
bắn rơi 4 máy bay B-52G và 2 máy bay B-52B, 1 máy bay B-52D bị bắn hỏng. 
 Đến ngày 21/12: Ở Hà Nội đã có 7 trung đoàn pháo cao xạ, các phân xưởng sửa 
chữa vũ khí, khí tài tên lửa đã được bố trí ngay sát trận địa để phục vụ kịp thời mọi tình 
huống. Tuy nhiên, sau đêm 21/12, số lượt B52 tấn công Hà Nội đã giảm sút nhiều, 
chúng chỉ đánh mỗi đêm 1 lượt với 1 máy bay B52, nâng số máy bay B52 bị bắn hạ 
trong 6 ngày đầu là 17 chiếc, 5 máy bay F111 và 24 máy bay khác và bắt sống 12 phi 
công của Mỹ. 
 Kể từ đêm 22/12, tần suất, cường độ tấn công B52 và máy bay chiến thuật của 
Mỹ có dấu hiệu giảm sút. 2 giờ 38 phút sáng 22 - 12, bộ đội rađa đã phát hiện chính xác 
các tốp B52 và máy bay chiến thuật Mỹ ở hướng Tây Nam. Lần này địch sử dụng 24 
chiếc B52 và 36 máy bay chiến thuật vào đánh phá sân bay, bệnh viện Bạch Mai, ga 
Giáp Bát, Gia Lâm, Văn Điển... và các trận địa tên lửa, 18 lần chiếc F 111 hoạt động xen 
kẽ ở độ cao thấp nhằm bất ngờ đánh phá vào các mục tiêu đã trinh sát.Vao 3 giờ 42 
phút, các kíp chiến đấu của tiểu đoàn 57 bộ đội phòng không Hà Nội đã bình tĩnh, dũng 
cảm vận dụng kinh nghiệm chiến đấu của các đêm trước, đồng loạt nổ súng bắn rơi tại 
chỗ 1 máy bay B- 52 ở chợ Bến, Mỹ Đức, Hà Tây. Cùng thời điểm này, tiểu đoàn 71 
8 
bắn rơi tại chỗ 1 máy bay B52 ở Thanh Miện- Hải Hưng.3 giờ 46 phút, tiểu đoàn tên lửa 
93 lại bắn rơi 1 chiếc B52 ở khu vực Quỳnh Côi, Thái Bình. 
 21 - 22/12, tại trận địa Vân Đồn (Hà Nội), các chiến sĩ tự vệ nhà máy Liên Cơ 
Hà Nội bằng 19 viên đạn 14,5 ly ngay loạt đạn đầu đã bắn rơi 1 máy bay F 111 "cánh 
cụp cánh xòe" của Mỹ. 
 Ngày 23/12/1972: 
Ban ngày, 54 lần chiếc máy bay chiến thuật của không quân Mỹ đánh phá các khu 
vực ngoại thành Hà Nội. Mai Dịch, Trạm Trôi, Hoài Đức (Hà Tây). Ban đêm 33 chiếc 
B-52 đánh Đồng Mỏ (Lạng Sơn ) và khu vực Bắc Giang; 30 chiếc máy bay F4 và F105, 
11 máy bay F111 đánh vào Yên Viên, Giáp Bát, Đa Phúc và các sân bay Nội Bài, Yên 
Bái. Hướng biển, có 7 máy bay chiến thuật của Hải quân Mỹ vào đánh Uông Bí, Phà 
Rừng, Sở Dầu và sân bay Kiến An (Hải Phòng ).Ta bắn 4 máy bay trong đó có 2 B52, 1 
F4, 1A7. 
 Ngày 24/12: Ban ngày, địch huy động 44 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh 
phá khu vực Thái Nguyên (Cao Ngạn và dọc đường số 1), Sen Hồ, Việt Yên (Hà 
Bắc).Ban đêm, từ 19 giờ 50 phút, địch dùng 33 lần chiếc B- 52 đánh phá ác liệt ga Kép, 
Bắc Giang, phối hợp với 39 lần chiếc máy bay chiến thuật yểm hộ đánh phá các sân bay 
Yên Bái, ga Kép và khu vực Vĩnh Tuy (Hà Nội).Quân và dân miền Bắc chiến đấu giởi 
đã bắn rơi 5 chiếc máy bay - trong đó có 1 B52, 2 F4, 2 A7. 
- Do bị thất bại nặng nề và lấy cớ nghỉ lễ Nôen, 24 giờ ngày 24 - 12, địch tạm 
ngừng cuộc tập kích để củng cố lực lượng, ổn định tinh thần bọn giặc lái, rút kinh 
nghiệm tìm thủ đoạn và cách đánh mới. 
 Ngày 25/12: Từ 0 giờ ngày 25/12/1972, không quân địch ngừng ném bom miền 
Bắc nhân dịp lễ Noen. Sáng 25, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân 
triệu tập Hội nghị quân chính tổ chức rút kinh nghiệm chiến đấu gai đoạn 1 và phổ biến 
tình hình nhiệm vụ giai đoạn tới. 
- Qua 7 ngày chiến đấu ngoan cường dũng cảm, bộ đội tên lửa, pháo phòng không 
hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ cùng bộ đội rađa, không quân và các lực lượng phòng 
9 
không ba thứ quân đã bắn rơi 53 máy bay địch, có 18 B52, 5 F111. Trong đó Quân 
chủng Phòng không - Không quân bắn rơi 31 chiếc (tên lửa bắn rơi 23 chiếc có 17 chiếc 
B - 52, không quân bắn rơi 1 chiếc F4, Pháo phòng không bắn rơi 7 chiếc). Lực lượng 
phòng không đại phương, dân quân tự vệ bắn rơi 22 chiếc, trong đó có 4 chiếc F 111 và 
pháo 100 ly được công nhận bắn rơi 1 chiếc B- 52. 
 Ngày 26/12: 13 giờ ngày 26, địch sử dụng 56 lần chiếc máy bay cường kích các 
loại vào ném bom dữ dội các khu vực trận địa tên lửa và trạm biến thế Đông Anh. Tiểu 
đoàn tên lửa 72, trung đoàn 285 đã bắn rơi 1 máy bay F4.Từ 22 giờ 05 phút ngày 26/12, 
địch sử dụng 105 lần chiếc B52 và 110 lần chiếc máy bay chiến thuật hộ tống đánh ồ ạt, 
liên tục vào nhiều mục tiêu trên cả 3 khu vực Hà Nội, Hải Phòng và Thái NGuyên (Mỹ 
tập trung 66 lần chiếc B52 vào đánh phá Hà Nội, 21 lần chiếc B- 52 đánh Thái Nguyên 
và 18 lần chiếc B- 52 đánh Hải Phòng). Từ các trận địa ở khu vực ngoại thành, ba tiểu 
đoàn tên lửa (57, 76, 88) đã tập trung bắn rơi 1 máy bay B52. Sau ít phút các tiểu đoàn 
(57, 58, 79, 85, 87, 94) lập tức bắn rơi tại chỗ 2 máy bay B52, một chiếc rơi xuống xã 
Định Công (Thanh Trì). Đại đội 74 pháo 100 milimét, trung đoàn 252 cũng bắn rơi 1 
B52. Trận đánh làm suy sụp tinh thần và ý chí của Nhà Trắng. Lầu Năm góc và bọn giặc 
lái Mỹ. 
 Ngày 27/12: Sáng ngày 27/12, địch điên cuồng cho 100 lần chiếc máy bay 
chiến thuật chia làm 3 đợt đánh phá dữ dội vào các khu vực nội, ngoại thành Hà Nội như 
nhà máy dệt 8 - 3, ga và kho Văn Điển, cầu Đuống, Gia Lâm, đài phát thanh Mễ Trì, các 
trận địa tên lửa, rađa... Đại đội 61 tiểu đoàn 20 bắn rơi 1 máy bay F4. Cùng ngày 27, 
không quân ta cất cánh hai lần bắn rơi 2 chiếc máy bay F4 của Mỹ. Từ 19 giờ đến 22 giờ 
ngày 27/12, địch tăng cường huy động 36 lần chiếc máy bay B52, có 66 lần chiếc máy 
bay chiến thuật yểm hộ, tập trung đánh phá các khu vực: Đông Anh, Yên Viên, Bạch 
Mai, Khuyến Lương, Đa Phúc, Dục Nội, Cổ Loa; Xen kẽ giưa các đợt hoạt động của 
B52 địch dùng 17 lần chiếc F 111 tiếp tục thay nhau đánh phá, gây nhiều tội ác đối với 
nhân dân ta. 23 giờ ngày 27/12, bộ đội tên lửa bảo vệ Hà Nội đánh trả quyết liệt tốp B- 
52. Bằng 32 quả đạn, các đơn vị tên lửa phòng không của ta đã bắn tan xác 4 máy bay 
10 
B52 trong đó có 2 chiếc máy bay rơi tại chỗ.Vao 23 giờ 02 phút ngày 27/12, hai tiểu 
đoàn tên lửa (71, 72) bắn tiêu diệt tốp máy bay B- 52 từ hướng Tây lao vào đánh phá Hà 
Nội. Bằng 2 quả đạn theo phương pháp bám chính xác vào giữa nền dải nhiễu đậm, 
chiếc B52 chưa kịp cắt bom đã bị trúng đạn bốc cháy rơi xuống làng Ngọc Hà, đường 
Hoàng Hoa Thám (Hà Nội). Đây là chiếc B52 duy nhất chưa kịp cắt bom đã bị bắn rơi. 
Trong đó tiểu đoàn 59 và tiểu đoàn 77 cũng bắn rơi 2 chiếc máy bay B52 lúc 23 giờ 04 
phút và 24 giờ 06 phút ngày 27/12. 
 Ngày 28/12: Từ 10 giờ đến 17 giờ ngày 28 tháng 12, địch huy động 131 lần 
chiếc máy bay chiến thuật các loại đánh vào trận địa của bộ đội Phòng không - Không 
quân ở khu vực nội, ngoại thành. Quân và dân Thủ đô đánh trả quyết liệt. Không quân ta 
cất cánh đánh một trận xuất sắc bắn rơi 1 máy bay RA- 5C.Cùng ngày Bộ Tổng Tham 
mưu thông báo: Tổng thống Mỹ Níchxơn đã phải chấp thuận nối lại các phiên họp Hội 
nghị Pari. Chính phủ ta chấp nhận. Tối 28/12, Trung đoàn 274 được lệnh cơ động tăng 
cường ra Thủ đô Hà Nội. Những quả đạn tên lửa từ Quân khu 4 được chuyển ra chi viện 
nhanh chóng cho mặt trận Hà Nội.Từ 20 giờ đến 22 giờ, địch sử dụng khoảng 60 lần 
chiếc máy bay chiến lược B- 52 đánh phá khu vực Đông Anh, đa Phúc, Cầu Đuống, Yên 
Viên, Gia Lâm. 21 giờ 41 phút, phi công Vũ Xuân Thiều được lệnh của Sở chỉ huy 
Không quân, lái chiếc máy bay MIG 21 cất cánh từ sân bay Cẩm Thuỷ, do Sở chỉ huy 
sân bay Thọ Xuân và rađa dẫn đường vòng ra phía sau đội hình B52 đuổi địch đến vùng 
trời Sơn La. Phát hiện được B52 bám sát ở cự ly gần, Vũ Xuân Thiều xin công kích, 
quyết tiêu diệt địch. Sau khi bắn cháy máy bay địch, Vũ Xuân Thiều cũng anh dũng hy 
sinh. Ban ngày, địch sử dụng 36 chiếc máy bay của không quân chiến thuật Mỹ đánh 
phá nhà máy điện Cao Ngạn, Đồng Hỷ và khu vực cây số 4 Bắc Thái Nguyên. 23 giờ 16 
phút, địch huy động 60 lần chiếc B52 đánh vào 3 khu vực: 30 B- 52 đánh khu gang thép 
Thái Nguyên và khu Trại Cau, 18 chiếc B52 đánh khu vực Đồng Mỏ (Lạng Sơn), 12 
chiếc B52 đánh Kim Anh (Vĩnh Phú). Ta bắn rơi 2 máy bay, trong đó Tiểu đoàn tên lửa 
79 bảo vệ Hà Nội chiến đấu anh dũng bắn rơi 1 máy bay B52, 1 máy bay F4. Đây là trận 
11 
đánh kết thúc chiến dịch 12 ngày đêm "Điện Biên Phủ trên không" bảo vệ Thủ đô Hà 
Nội cuối tháng chạp năm 1972. 
 Ngày 30/12: 7giờ sáng, Níchxơn buộc phải ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở 
ra và họp lại Hội nghị Pari về Việt Nam. Cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn bằng máy 
bay B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng kéo dài 12 ngày, đêm đã bị thất bại hoàn toàn. 
 Ngày 27/01/1973: Hiệp định Paris về lập lại hòa bình tại Việt Nam được kí kết. 
4. KẾT QUẢ 
Sự kiện năm 1972 kết thúc dưới phần thắng thuộc về quân đội nhân dân Việt 
Nam, buộc tổng thống Mĩ, Richard Nixon, đề nghị nối lại đàm phán tại Paris và nhanh 
chóng kí hiệp định paris. 
 Thiệt hại của Pháp: 
Dù quân Pháp đã phải gia tăng quân số lên đến 16 nghìn người, họ đã không thể 
nào lật ngược thế cờ. Toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bị bắt làm tù 
binh. Thiệt hại về phía Pháp là 1.747 người chết, 5.240 người bị thương, 1.729 người 
mất tích và 11.721 bị bắt làm tù binh. Ngoài ra còn có 2 phi công Mỹ chết và 1 bị 
thương. 
 Thiệt hại của nước ta: 
Thiệt hại về phía Quân đội Nhân dân Việt Nam về cơ sở vật chất: 100% số nhà 
máy điện bị đánh phá, 1.500/1.600 công trình thủy lợi và gần 100 km đê xung yếu bị hư 
hại; Hầu hết cầu cống quan trọng và toàn bộ 6 tuyến đường sắt đều bị đánh hỏng; 3/6 
thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên) và 23/30 thị xã, 96/116 thị trấn, 
3.987/5.788 xã, 350 bệnh viên, gần 1.500 bệnh xá, 1.300 trường học bị tàn phá nặng nề; 
trong đó có 12 thị xã, hơn 300 xã, 10 bệnh viện, 11 ga xe lửa đầu mối bị hủy diệt hoàn 
toàn. 
Dù quân và dân ta đã dành được chiến thắng trong chiến dịch năm 1972 ấy nhưng 
thiệt hại mà nước ta phải gánh chịu là không hề nhỏ, những gì đã diễn ra tại Hà Nội, Hải 
Phòng không thể nào quên với không chỉ những ai đã sống tại đây mà còn bao gồm nhân 
dân cả nước trong thời kỳ của công cuộc bảo vệ đất nước. Tạ khu vực nội thành Hà Nội 
12 
và vùng lân cận cho đến tận ngay nay, xác những chiếc máy bay năm ấy vẫn hiện hữu 
không chỉ nhắc nhớ trận chiến năm 1972 mà còn răng dạy thế hệ sau lòng quả cảm kiên 
cường, bất khuất của dân ta, họ đã làm nên một trận đánh lịch sử, tạo ra một hiệu ứng 
lớn trên thế giới với một nước nhỏ, chưa phát triển về kinh tế cũng như quân sự đã phải 
chống trả những đợt tấn công mãnh liệt của đế quốc Mĩ. Trong 12 ngày, Mỹ đã thả hơn 
36.000 tấn bom, một vụ tàn phá dữ dội, vượt quá khối lượng bom đã ném trong toàn bộ 
thời kì từ 1969 đến 1971, người chết, phố phường tan hoang nhưng trong ý chí sắt đá 
của người Việt Nam ta vẫn giữ vững lòng tin, hòa chung một tiếng nói thiêng liêng: Tổ 
quốc. Bất cứ thế lực siêu cường nào cũng đều phải trả giá đắt nếu động đến hai chữ 
thiêng liêng đó của người Việt ta. 
Ở Việt Nam sự kiện này thường được gọi là "12 ngày đêm" và báo chí, truyền 
thông hay dùng hình tượng "Điện Biên Phủ trên không" để nhấn mạnh ý nghĩa thắng lợi 
cuối cùng và to lớn của sự kiện. 
 Sự phản đối của quốc tế: 
Chiến dịch ném bom bị phản đối rất mạnh mẽ trên khắp thế giới, các nước XHCN 
gây áp lực để yêu cầu chính phủ của mình chính thức lên án các cuộc ném bom. Trung 
Quốc và Liên Xô đều đặn thể hiện sự bất bình trước việc tái ném bom, nhưng họ đã 
không có một động thái nào khác. Thực tế, các chỉ trích mạnh mẽ hơn lại là ở các nước 
phương Tây. Tại Paris, báo Le Monde so sánh với cuộc ném bom Guernica, cuộc ném 
bom hủy diệt Guernica do Phát-xít Đức thực hiện trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Tờ 
báo lớn nhất của Anh, the Daily Mirror, bình luận: "Việc Mỹ quay lại ném bom Bắc 
Việt Nam đã làm cho cả thế giới lùi lại vì ghê sợ". Các chính phủ Vương quốc Liên hiệp 
Anh và Bắc Ireland Anh, Ý và Thụy Điển đã lên tiếng. Một trong những phản ứng dữ 
dội nhất là của Thủ tướng Thụy Điển, ông đã lên án cuộc ném bom là một tội ác chống 
lại loài người trên qui mô đạo đức của sự tàn bạo của phát xít tại trại tập trung Treblinka. 
Palme còn đích thân đến một cửa hàng tổng hợp để thu thập chữ ký cho một kiến nghị 
toàn quốc đòi chấm dứt ném bom - để gửi tới Nixon. 
13 
5. BÀI HỌC KINH NGHIỆM 
Mọi việc làm dù lớn hay nhỏ, thì sau khi làm ta cũng tự rút ra những ý nghĩa khác 
nhau, đều để lại cho ta những điều mà ta phải thường xuyên suy đi ngẫm lại, tại sao ta 
làm được như thế và liệu điều mà ta đã làm đã để lại ý nghĩa to lớn như thế nào? Và điều 
này cũng không ngoại lệ đối với những trận chiến oanh liệt của nhân dân ta, những trận 
chiến đã đi vào sử sách của nhân loại và dã để lại ấn tượng khó quên trong lòng nhân 
dân. Chính vì điều này mà trận Điện Biên Phủ trên không này cũng để lại nhiều ý nghĩa 
vô cùng to lớn, vô cùng sâu sắc. 
Sau khi ký hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, nhưng 
Mỹ lật lọng, đánh phá miền Bắc, nên ta mở chiến dịch Điện Biên Phủ trên không năm 
1972, đã làm Mỹ thất bại nặng nề dẫn đến hiệp định Pari năm 1973. Hiệp định Pari nêu 
rõ Mỹ tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy 
chiến dịch Điện Biên Phủ trên không đã đánh dấu bước ngoặc mới, đó còn thể hiện tinh 
thần ”không có gì quý hơn độc lập tự do” của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong cả 
nước. Là thắng lợi rực r của chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng, của đường 
lối chính trị, quân sự ngoại giao đứng đắn, sáng tạo của Đảng ta. 
Đại thắng oanh liệt Điện Biên Phủ trên không năm 1972 đã chấm dứt cuộc chiến 
tranh xâm lược do thực dân Pháp gây ra và được đế quốc Mỹ giúp sức" là bước nhảy vọt 
cách mạng của cuộc kháng chiến, một nửa đất nước được giải phóng, mở ra thời kỳ cách 
mạng mới, đưa miền bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh giải phóng miền nam, 
đưa giang sơn về một mối. Trên nền bước ngoặt vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 
1945 mở ra kỷ nguyên mới, thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đưa 
lại sự kết thúc hết sức vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm 
lược và đã mở đường đi tới Chiến dịch Hồ Chí Minh, Đại thắng mùa xuân năm 1975 và 
những thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ 
nghĩa. Để lại bài học kinh nghiệm về bảo vệ Thủ đô. Đó là bài học phát huy sức mạnh 
tổng hợp của toàn dân thực hiện tốt công tác phòng không nhân dân (PKND), chủ động 
phòng tránh, bảo tồn được tài sản Nhà nước, tính mạng và tài sản của nhân dân, hạn chế 
14 
tổn thất đến mức thấp nhất, giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của Thủ đô; đồng 
thời, kiên quyết tổ chức lực lượng đánh địch bằng sức mạnh của lực lượng phòng không 
3 thứ quân với cách đánh sáng tạo, độc đáo, bắn rơi nhiều máy bay (đặc biệt là B-52), 
bắt sống nhiều giặc lái. Bài học kinh nghiệm này là di sản quý báu cho các thế hệ ngày 
nay và mai sau để bảo vệ Thủ đô. 
Đó cũng là thắng lợi có ý nghĩa thời đại của phong trào cách mạng thế giới, của 
lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình, của nhân dân yêu 
chuộng tự do, công lý trên toàn thế giới. 
Thắng lợi của 12 ngày đêm chiến đấu quyết liệt bảo vệ thủ đô Hà Nội đánh dấu 
bước phát triển về nghệ thuật tổ chức và sử dụng lực lượng phòng không của quân đội 
ta. Trước đối tượng là lực lượng không quân Mỹ, trang bị hiện đại, sức cơ động cao, sức 
hủy diệt lớn, bên cạnh việc chuẩn bị tốt bản lĩnh chính trị kiên cường, ta đã sớm chủ 
động tổ chức nghiên cứu, dự đoán đúng âm mưu, thủ đoạn hoạt động các loại máy bay 
của địch cả về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật. Đặc biệt là ta xác định đúng đối tượng 
tác chiến chủ yếu là máy bay B-52 (lực lượng răn đe chiến lược) để nghiên cứu, tìm ra 
cách đánh chúng và giao nhiệm vụ cho các đơn vị tập trung tiêu diệt. Đây là quyết định 
hết sức sáng suốt, táo bạo, chính xác, phù hợp với khả năng tác chiến của các lực lượng 
phòng không ta. Bài học về xây dựng, tổ chức lực lượng phòng không ba thứ quân làm 
nên thắng lợi của Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”, bảo vệ thủ đô Hà Nội, Hải 
Phòng và các mục tiêu trọng điểm trên miền Bắc còn được nghiên cứu, phát triển vận 
dụng trong điều kiện tác chiến phòng không chiến tranh công nghệ cao. 
Thắng lợi của trận Điện Biên Phủ trên không là thắng lợi của tư tưởng chiến lược 
tiến công, tính tích cực chủ động, mưu trí sáng tạo của quân và dân ta. Lần đầu, trong 
lịch sử 30 năm tiến hành chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975), quân và 
dân ta đã tiến hành một chiến dịch phòng không quy mô lớn chống lại một cuộc tập kích 
chiến lược bằng B52 và đây cũng là cuộc tập kích lớn chưa từng có trong lịch sử chiến 
tranh hiện đại. Bằng chiến dịch này, ta đã giáng một đòn quyết định vào ưu thế của 
không lực Hoa Kỳ, trong đó nòng cốt là lực lượng không quân chiến lược. 
15 
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh 
dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để 
phát triển đất nước nhanh và bền vững; Giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với đẩy mạnh đa 
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế; Nắm vững thông lệ và luật pháp quốc tế; 
nêu cao tinh thần cảnh giác chống mọi âm mưu can thiệp vào nội bộ nước ta; Và tinh 
thần đoàn kết quốc tế vì mục tiêu hoà bình, độc lập và phát triển của mỗi nước, mỗi dân 
tộc. Chiến thắng đó đã cho chúng ta một bài học kinh nghiệm về sự tuyệt đối tin tưởng 
vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu; bài học về tiến hành cuộc chiến tranh 
toàn dân, toàn diện; bài học về xây dựng và phát huy ý chí quyết chiến, quyết thắng của 
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc; bài học về phát 
huy sức sáng tạo, tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, tạo nên sức mạnh tổng hợp 
chiến thắng kẻ thù; đó là bài học của sự quả cảm, khao khát độc lập tự do, xả thân chiến 
đấu cho lý tưởng cao đẹp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 
Có nhiều yếu tố tạo ra sức mạnh làm nên chiến thắng của Bộ đội phòng không-
không quân , trong đó yếu tố quyết định nhất chính là nhân tố chính trị, tinh thần. Nhân 
tố đó bắt nguồn từ đường lối đúng đắn của Đảng, từ tính ưu việt của chế độ Xã hội chủ 
nghĩa, lòng yêu Tổ quốc, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, từ truyền thống của dân tộc 
và ý chí quyết chiến, quyết thắng của bộ đội ta. Nhân tố đó được thể hiện đầy đủ trong 
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ những ngày đầu địch sử dụng máy bay B52 
trên chiến trường miền Nam: “Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền. Dù chúng có 
B57, B52 hay B gì đi chăng nữa ta cũng đánh Mà đã đánh là nhất định thắng”. Lời 
dạy trên đã biến thành quyết tâm của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng, nhanh chóng 
thấm sâu tới cán bộ, chiến sĩ, biến thành hành động cụ thể chuẩn bị cho đánh thắng B52. 
Cùng với quá trình đó, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng cũng tập trung chỉ đạo sát 
sao các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị nhằm làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận 
thức đúng đắn âm mưu, thủ đoạn của địch, tính chất gay go, ác liệt của cuộc đối đầu lịch 
sử; mỗi người phải nêu cao tinh thần yêu nước, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, 
khắc sâu lòng căm thù tội ác của đế quốc Mỹ đối với nhân dân ta; từ đó củng cố ý chí 
16 
quyết tâm chiến đấu, khắc phục mọi biểu hiện hữu khuynh, dao động, thiếu lòng tin vào 
chiến thắng. Bởi vậy, các đơn vị bước vào cuộc chiến đấu với tư thế chủ động cả về tổ 
chức, chính trị và tư tưởng, với tâm lý vững vàng, quyết đánh và quyết thắng. Trong 
điều kiện hạn chế về vũ khí, trang bị kỹ thuật, Bộ đội Phòng không-Không quân đã vượt 
qua gian khổ, tìm tòi, sáng tạo, làm chủ khoa học kỹ thuật; vừa đánh máy bay địch, vừa 
củng cố trận địa, tổ chức tốt công tác bảo đảm, kiên trì chịu đựng, vượt qua mọi thử 
thách, đoàn kết giúp đ , chi viện lẫn nhau, quyết tâm đánh thắng. Tình đồng chí, đồng 
đội, tình quân dân gắn bó trong từng trận đánh; từ lãnh đạo, chỉ huy các cấp đến chiến sĩ, 
từ những phân đội chiến đấu đến các trạm xưởng, đâu đâu cũng sôi sục khí thế quyết 
tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Với sức mạnh của lòng dũng cảm, trí thông minh, 
sáng tạo, trong hoàn cảnh ác liệt, các đơn vị đã dự kiến chính xác các thủ đoạn của địch; 
điều động lực lượng, tập trung hoả lực, làm chủ tình thế, tạo cho chúng từ bất ngờ này 
đến bất ngờ khác; từ hung hãn ban đầu chuyển sang lúng túng, bị động và thất bại. Sức 
mạnh của ý chí quyết tâm dám đánh và biết đánh của quân và dân ta đã hạ gục "Pháo đài 
bay B-52",vô hiệu hoá phương tiện chiến tranh hiện đại, buộc chúng phải nhận lấy thất 
bại thảm hại. Và chính thắng lợi đó đã cho chúng ta bài học kinh ngiêm vô cùng quý giá. 
Bài học đó dạy cho chúng ta, đặc biệt là các cán bộ, chiến sĩ trước tiên là lòng yêu nước, 
trung thành với Đảng, một lòng phục vụ vì nhân dân. Từ lý tưởng thiêng liêng ấy chúng 
ta mới có thể toàn tâm toàn lực rèn luyện một ý chí và kĩ thuật thật tốt trong mọi lúc 
cũng có thể chiến đấu bảo vệ nước nhà. Cũng như các chiến sĩ Phòng không- Không 
quân lúc xưa, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, 
tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở; tăng cường 
đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong thực hiện 
nhiệm vụ, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Không chỉ thế, là những người 
con đất Việt, chúng ta phải tự hào về truyền thống dân tộc, tự tin vào Đảng để từ đó mới 
có thể thống nhất về ý chí và hành động, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, tự lực, tự 
cường, vươn lên làm chủ vũ khí, khắc phục những biểu hiện hoang mang, dao động, 
thiếu tin tưởng vào vũ khí, trang bị và cách đánh của Đảng và thắng lợi như trận” Điện 
17 
Biên Phủ trên không” này là việc không khó. Ngoài ra, chiến thắng đó còn thể hiện được 
bộ máy tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, hết lòng vì Tổ quốc, nhân dân, luôn có lý luận và 
trí tuệ, đạo đức và lối sống cách mạng tuyệt vời. Trong đó các nhà lãnh đạo luôn vững 
mạnh về chất lượng, giữ vững nguyên tắc, nề nếp, chế độ sinh hoạt; đẩy mạnh tự phê 
bình và phê bình; giữ nghiêm kỷ luật và sự đoàn kết, thống nhất; phát huy vai trò của 
các tổ chức, các lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ. Quả thật những điều trên để làm 
được phài qua rèn luyện thời gian dài, nổ lực hết mình và ý chí phải vững chắc mới có 
thể đạt được. Song trong thời chiến, Đảng và bộ đội ta đã trưởng thành rất nhanh qua 
mỗi trận chiến dù thất bại hay thành công vẫn luôn kiên trì, nhẫn nại, không chủ quan, 
đặc biệt là sử trưởng thành trong trận chiến này rất đáng để chúng ta học hỏi mãi mãi. 
6. ĐƯỜNG LỐI CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CỦA ĐẢNG TRONG 
CUỘC CHIẾN. 
Với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân và dân Thủ đô, dưới sự 
lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đã vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân trên 
mặt trận đất đối không, vừa sản xuất, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn 
miền Nam, vừa dũng cảm chiến đấu, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế 
quốc Mỹ mà đỉnh cao là trận “Điện Biên Phủ trên không”, buộc Mỹ phải tuyên bố chấm 
dứt ném bom đánh phá đối với miền Bắc nước ta. 
Chiến dịch này còn có một ý nghĩa tâm lý nặng nề cho giới quân sự Hoa Kỳ: đây 
là chiến dịch mà phía Mỹ đã chủ động lựa chọn mục tiêu, thời điểm, phương thức chiến 
đấu và đặc biệt là sử dụng sở trường của mình để chống lại sở đoản của đối phương 
(trình độ khoa học công nghệ), một cuộc đấu mà đối phương sẽ không thể sử dụng yếu 
tố "du kích" - một cách hình tượng: phía Mỹ thách đấu và được quyền lựa chọn vũ khí 
và đã thất bại. 
Trong đêm đó, lực lượng phòng không Bắc Việt Nam đã đã phóng 36 tên lửa 
SAM trong suốt 3 đợt tấn công. Lưới lửa được tổ chức và điều khiển rất khôn ngoan. 
Đôi khi quân đội nhân dân Việt Nam không tấn công biên đội đầu tiên trên vùng trời 
mục tiêu mà dùng nó để xác định đường bay và các điểm lượn vòng, tiếp đó các biên đội 
18 
sau phải chịu hỏa lực mạnh ở gần các điểm thả bom, nơi mà họ phải bay ổn định, và trên 
đường rút khỏi mục tiêu. Trong đêm đó, 4 máy bay B-52G và 2 máy bay B-52B bị bắn 
rơi, một máy bay B-52D bị bắn hỏng. 
Chiến dịch này đã phá hoại nặng nề nhiều cơ sở vật chất, kinh tế, giao thông, công 
nghiệp và quân sự ở miền Bắc Việt Nam nhưng đã không làm thay đổi được lập trường 
của lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 
Kế thừa, phát triển sáng tạo bài học kinh nghiệm đánh thắng chiến tranh phá hoại 
của đế quốc Mỹ để bảo vệ thủ đô trong điều kiện mới bằng sức mạnh tổng hợp của cả 
nước và lực lượng, thế trận PKND Thủ đô được chuẩn bị chu đáo từ thời bình, nhất định 
chúng ta sẽ đánh bại âm mưu TCĐK của các thế lực thù địch, bảo vệ trường tồn Thủ đô 
nghìn năm văn hiến 
Thắng lợi của sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, Chính phủ; tài thao 
lược của Quân ủy Trung ương trong quá trình thực hiện phương hướng mà Chủ tịch Hồ 
Chí Minhkính yêu đã chỉ ra: "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào". Thực hiện ý kiến 
chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, do chuẩn bị từ nhiều năm trước, cho nên chúng ta đã 
không bị bất ngờ khi phải đối phó với cuộc tập kích chiến lược bằng B52 của đế quốc 
Mỹ vào thủ đô Hà Nội và Hải Phòng. Ngay từ năm 1966, khi B52 ra đánh đèo Mụ Giạ, 
Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã chỉ thị cho Quân chủng Phòng không-Không 
quân nghiên cứu cách đánh B52. Cuối năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: 
Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội.→ Phải dự kiến mọi tình 
huống càng sớm càng tốt để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị. Mỹ nhất định thua 
nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội. Quán triệt tinh thần đó, Quân 
ủy Trung ương đã chỉ đạo các LLVT mà trực tiếp là Quân chủng Phòng không - Không 
quân xây dựng kế hoạch tác chiến phòng không chống địch tập kích bằng B52 vào Hà 
Nội 
Bộ Tổng tham mưu đã chỉ đạo biên soạn tài liệu cách đánh B52 để huấn luyện cho 
các đơn vị phòng không, không quân: 
 Tiến hành điều chỉnh lực lượng; 
19 
 Bổ sung vũ khí trang bị; 
 Điều các đơn vị phòng không chủ lực về các địa bàn trọng điểm; 
 Xây dựng thế trận phòng không 3 thứ quân; 
 Chấn chỉnh công tác bảo đảm phục vụ chiến đấu... 
Các đơn vị tên lửa, ra-đa, phòng không đều chủ động triển khai nghiên cứu cách 
đánh B52 tại chỗ, đồng thời đưa một số đơn vị vào Khu 4 trực chiến để đúc rút kinh 
nghiệm. 
Bộ Tổng tham mưu đã điều hẳn một trung đoàn tên lửa vào Khu 4, thậm chí trong 
chiến dịch Quảng Trị đưa tới 4 trung đoàn vào tham chiến cùng với các lực lượng phòng 
không tại chỗ nhằm tìm ra cách đánh B52 hiệu quả nhất. 
Không chỉ chuẩn bị về vật chất mà công tác chuẩn bị về chính trị tinh thần nhân 
dân và bộ đội cũng được tiến hành khẩn trương. →Việc xây dựng QĐND toàn diện, 
trong đó lấy xây dựng về chính trị làm nền tảng, đã phát huy mạnh mẽ, cao độ nhân tố 
con người - nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cuộc đọ sức thần kỳ trong "12 ngày 
đêm Hà Nội". 
Đầu tháng 9-1972, ba tháng trước khi cuộc tập kích chiến lược bằng không quân 
của Mỹ vào thủ đô Hà Nội và Hải Phòng diễn ra → ta đã hoàn thành việc xây dựng kế 
hoạch chiến dịch đánh B52. Những nội dung quan trọng như: 
 Công tác chuẩn bị; 
 Điều chỉnh bố trí lực lượng; 
 Nghệ thuật tác chiến chiến dịch phòng không... về cơ bản đã được xác định. 
Chính vì vậy mà khi cuộc tập kích chiến lược của không quân địch diễn ra, ta đã 
không bị bất ngờ về chiến lược, chiến dịch cũng như cả về chiến thuật. 
Ngày đầu tiên, B52 vào đánh phá Hà Nội, Bộ Tổng tham mưu đã phát lệnh báo 
động trước 25 phút; còn những ngày sau đó, ta thường phát hiện B52 vào đánh Hà Nội 
trước 30 phút. 
20 
Nhờ phán đoán đúng âm mưu của địch, hạ quyết tâm kịp thời và chính xác, → 
triển khai công tác chuẩn bị một cách đồng bộ, quân và dân ta đã giành được thế chủ 
động ngay từ đầu và duy trì nó trong suốt quá trình chiến dịch diễn ra. 
Mỗi chiếc B52 là một trung tâm tác chiến điện tử và đi theo nó thường có từ 15 
đến 19 máy bay gây nhiễu khác nhau, → các LLVT ta đã tìm ra cách đánh hay, phù hợp 
điều kiện thực tế về trang bị. 
Bộ đội rađa qua thực tế chiến đấu đã tách được B52 ra khỏi nền nhiễu và tách 
được B52 ra khỏi lực lượng hộ tống. 
Trong một khối nhiễu dày đặc, bộ đội tên lửa đã khắc phục được những hạn chế 
về tính năng binh khí kỹ thuật, biết phân biệt được mục tiêu thật và giả, tránh được tên 
lửa tự dẫn của máy bay địch, nhận diện được B52,→ tạo cho mình thế trận có lợi nhất để 
tiêu diệt mục tiêu; 
Quân và dân ta đã nghiên cứu phát hiện ra điểm mạnh, yếu của địch, bảo đảm lực 
lượng nào cũng có thể hạ được máy bay, vũ khí nào cũng phát huy được tác dụng... 
Trong chiến dịch phòng không cuối tháng 12-1972, ta đã huy động được sức 
mạnh tổng hợp của thế trận phòng không nhân dân, đối phó có hiệu quả với những thủ 
đoạn đánh phá nham hiểm của địch. 
Cách đánh sáng tạo và hiệu quả trong chiến dịch này là kết quả được đúc rút từ 
nhiều năm chống chiến tranh phá hoại, đặc biệt là những kinh nghiệm được bộ đội ra-đa, 
tên lửa, phòng không tích lũy, thậm chí được trả bằng xương máu qua những năm tháng 
trực chiến và nghiên cứu cách đánh B52 trên chiến trường Khu 4. 
Để bảo đảm chắc thắng và giành thế chủ động ngay từ trận đầu, công tác nghiên 
cứu khoa học, bảo đảm vật chất, kỹ thuật cũng được các lực lượng vũ trang ta chuẩn bị 
công phu với nỗ lực rất lớn. hệ số kỹ thuật của tên lửa bảo đảm 100%, của pháo phòng 
không là 95% và của rađa là 96,5%. →Ta đã tập trung một lực lượng phòng không chủ 
lực mạnh nhất cho chiến dịch, bao gồm: ba sư đoàn phòng không: 361, 363, 375; 23 tiểu 
đoàn tên lửa; 13 trung đoàn cao xạ; bốn trung đoàn không quân; bốn trung đoàn rađa; ba 
trung đoàn, hai tiểu đoàn phòng không của các quân khu Việt Bắc, Hữu Ngạn, Tả Ngạn. 
21 
Ngoài ra còn có 346 đội (1.428 khẩu pháo) phòng không của dân quân, tự vệ. Toàn bộ 
lực lượng này được bố trí thành thế trận chiến dịch vững chắc, hiểm hóc tại các địa bàn 
trọng yếu ở trong và các vùng lân cận Hà Nội, Hải Phòng. 
Cũng trong chiến dịch này, ta đã xây dựng được một thế trận phòng không ba thứ 
quân vững chắc và duy trì được sự phối hợp hiệp đồng tác chiến chặt chẽ giữa các lực 
lượng. Bên cạnh các lực lượng phòng không chủ lực, tại thủ đô Hà Nội ta đã tổ chức 
được 92 trận địa tập trung pháo phòng không tầm thấp và bốn đại đội cao xạ tầm trung 
(loại 100 mm), nhiều trận địa được bố trí trên các tòa nhà cao tầng, gần các mục tiêu 
trọng điểm, đón lõng trên các đường bay của địch... Ngoài ra còn có 1.122 tổ đội dân 
quân, tự vệ phối hợp đánh trả máy bay địch. Nội dung cơ bản của chiến dịch phòng 
không tháng 12-1972 bao hàm cả hai mặt: Chủ động tích cực đánh địch, tiêu diệt lực 
lượng tiến công chiến lược B52 của chúng và triệt để phòng tránh, sơ tán làm giảm hiệu 
quả đánh phá của địch xuống mức thấp nhất. Công tác phòng tránh, sơ tán được quân và 
dân ta thực hiện một cách chủ động và triệt để bao trùm các mặt: tổ chức vận động nhân 
dân sơ tán ra khỏi các trọng điểm đánh phá; chỉ đạo củng cố và xây dựng hầm hố trú ẩn; 
tổ chức tốt hệ thống thông tin - thông báo, quan sát báo động; triển khai các phương án 
khắc phục hậu quả. Đối với LLVT, ngoài việc phối hợp với nhân dân thực hiện các nội 
dung nêu trên còn phải triển khai xây dựng các trận địa dự phòng, các sân bay dã chiến; 
sơ tán các xưởng trạm, tập kết vũ khí, đạn dược, nhất là vấn đề đạn tên lửa... Trước khi 
cuộc tập kích chiến lược bằng B52 diễn ra; Hà Nội đã huy động 370 ô-tô các loại chở 
hơn 30 vạn người ra khỏi nội thành, đưa số người sơ tán khỏi nội thành lên tới gần 55 
vạn. Những nhà máy, xí nghiệp không thể sơ tán, đã được ngụy trang, bảo vệ chu đáo. Ở 
đâu có người, có tài sản, ở đó đều có hầm trú ẩn. Bên cạnh mạng lưới tình báo quốc gia, 
ra-đa cảnh giới, Hà Nội còn có 36 còi báo động, 36 đài quan sát của thành phố, 414 trạm 
quan sát của các khu, huyện, hình thành mạng lưới quan sát rộng khắp từ xa đến gần. Tổ 
chức hoàn chỉnh hệ thống cấp cứu phòng không bốn tuyến với 266 trạm ở các khu, 
huyện và 64 đội cấp cứu, 11 đội phẫu thuật lưu động. 
22 
Nhờ chủ động làm tốt công tác sơ tán phòng tránh, ta đã hạn chế được thiệt hại về 
người và của; nhất là tại một trung tâm đầu não như Hà Nội. Thắng lợi của trận Điện 
Biên Phủ trên không là thắng lợi của tư tưởng chiến lược tiến công, tính tích cực chủ 
động, mưu trí sáng tạo của quân và dân ta. Lần đầu, trong lịch sử 30 năm tiến hành chiến 
tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975), quân và dân ta đã tiến hành một chiến 
dịch phòng không quy mô lớn chống lại một cuộc tập kích chiến lược bằng B52 và đây 
cũng là cuộc tập kích lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh hiện đại. Bằng chiến 
dịch này, ta đã giáng một đòn quyết định vào ưu thế của không lực Hoa Kỳ, trong đó 
nòng cốt là lực lượng không quân chiến lược. 
23 
KẾT LUẬN 
Đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Tinh thần quyết chiến quyết thắng 
của quân đội là một trong những nhân tố quyết định đã đưa chiến dịch Điện Biên Phủ, 
và nói chung cả chiến cuộc Đông Xuân trên khắp các mặt trận đến thắng lợi rực r . 
Chiến thắng “Điện Biên phủ trên không” mãi mãi trở thành dấu son chói lọi trong truyền 
thống chống ngoại xâm của dân tộc ta. Chiến thắng đó đã trở thành truyền thống vẻ vang 
và mềm tin vững chắc trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của bộ đội 
Phòng không - Không quân. Ba mươi sáu năm nhìn lại, chúng ta càng thấy tự hào về ý 
nghĩa lịch sử và thời đại của chiến thắng “Điện Biên phủ trên không”. Đây là một trong 
những chiến thắng vĩ đại nhất của dân tộc ta trong thế kỷ 20, là trang sử vẻ vang của 
truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước trong thời đại mới. truyền thống yêu 
nước của nhân dân ta vẫn luôn được phát huy, dù đó là thời chiến hay thời bình. Chiến 
tranh thì cùng nhau chiến đấu, hòa bình thì cùng nhau xây dựng và bảo vệ. 
Ra sức phấn đấu học tập và rèn luyện trau dồi đạo đức tác phong chính là nghĩa 
vụ của mọi người, đặc biệt là sinh viên học sinh, những chủ nhân tương lại của đất nước. 
Cũng nhờ học các môn chính trị, hiểu rõ đường lối của đảng, nguyên lí của chủ nghĩa 
Mác Lênin, tư tưởng Hố Chí Minh và đặc biệt là trình độ lí luận khoa học chính trị được 
nâng cao. Do đó, cuối tập tiểu luận này, em xin được phép gửi lời cảm ơn chân thành 
đến Trường Đại Học Công Nghiệp, khoa Lý Luận Chính Trị, đặc biệt là thầy giảng viên- 
tiến sĩ: NGUYỄN MINH TIẾN, đã tận tình truyền đạt kiến thức cho chúng em, giúp 
chúng em nhận ra tầm quan trọng của chính trị, của sự lí luận, cho chúng em hiểu thế 
nào là lý luận thật sự. Một lần nữa xin cảm ơn thầy. 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_dien_bien_phu_tren_khong_muoi_hai_ngay_dem_lich_su.pdf