Tiểu luận Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội
Bài làm Qua 61 năm giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đặc biệt hơn 20 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc ta lên vị thế mới trong cộng đồng quốc tế. Và ngày hôm nay chúng ta lại thêm một lần nữa làm rõ và chứng minh luận điểm "Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội" là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam. 1. Độc lập Dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội là gì? Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập theo lập trường phong kiến và tư sản. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là: Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại; xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc nào phải do quốc gia - dân tộc đó giải quyết, không có sự can thiệp từ bên ngoài. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội căn nguyên kinh tế sâu sa của tình trạng bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ với đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm chỉ có thể tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển củ Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó. Đảng đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn toàn không cân sức với "hai đế quốc to", mở ra thời kỳ phi thực dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế giới. Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xưng đáng tiêu biểu bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tính độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong khu vực và trên thế giới. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đau tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù hợp với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới. 2. Cơ sở khách quan của sự lựa chọn "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội" Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy ở khắp nơi của đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng, vẫn là nhân dân giàu lòng yêu nước, có truyền thống chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng ủng hộ và tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ phu, các nhà lãnh đạo các phong trào chống thực dân Pháp đều có trí dũng, không thiếu quyết tâm, nhưng cả họ, cả giai cấp phong kiến và đại diện cho thế lực tư sản khi đó đều không giải quyết được vấn đề dân tộc ở nước ta vì không tập hợp được lực lượng toàn dân tộc và quan trọng hơn là không bắt kịp nhịp sống của thời đại Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc trở nên là yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - Xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong "tình hình đen tối như không có đường ra". Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại là tập hợp được lực lượng toàn dân để giải phóng dân tộc. Nhưng rồi chính lịch sử đã có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định phải bị thay thế bằng chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó đã chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến và đã bành trướng ra khắp thế giới. Các nước tư bản phát triển khi ấy đang là "trung tâm vũ trụ", chi phối và làm mưa làm gió mọi mặt đời sống xã hội loài người. Chính vào thời điểm mà chủ nghĩa tư bản như đang cực thịnh ấy thì Cách mạng Tháng Mười nổ ra. Sự đột phá Tháng Mười mở đầu cho một xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Cách mạng Tháng Mười "rung chuyển thế giới" đã làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của thời đại thay đổi, vai trò lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi; và vì vậy con đường để giải quyết mâu thuẫn của xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng thay đổi. Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam - nơi mà "chính sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm các việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi". Hơn ai hết, chính Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm cho Cách mạng Việt Nam. Từ tuổi thanh niên, Nguyễn Sinh Cung đã là một trong những người con yêu nước ưu tú nhất, tiêu biểu nhất cho dân tộc. Tất cả ý nghĩa cuộc sống đối với Nguyễn Sinh Cung lúc đó là cứu nước, giải phóng dân tộc, cứu đồng bào khỏi kiếp đọa đầy đau khổ. Người coi đấy là lẽ sống thiêng liêng nhất. "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu". Đối với Người, tất cả mọi kế sách đều vô nghĩa nếu không nhằm độc lập dân tộc, tự do cho đồng bào. Cả cuộc đời, Người "chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi mục đích cũng chỉ để tìm đường cứu nước. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Lê-nin trước tiên cũng vì tìm thấy ở "Luận cương của Lê-nin về các vấn đề dân tộc thuộc địa" là "cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Năm 1941, trong tình hình "nước sôi, lửa bỏng"
File đính kèm:
- tieu_luan_doc_lap_dan_toc_gan_lien_voi_chu_nghia_xa_hoi.docx