Tiểu luận Đổi mới tư duy đối ngoại trong quan hệ với các nước lớn

pdf 17 trang yenvu 13/08/2024 400
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Đổi mới tư duy đối ngoại trong quan hệ với các nước lớn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Đổi mới tư duy đối ngoại trong quan hệ với các nước lớn

Tiểu luận Đổi mới tư duy đối ngoại trong quan hệ với các nước lớn
Học viện ngoại giao 
Khoa: Chính trị quốc tế và ngoại giao 
Môn:Chính sách đối ngoại 
Tiểu Luận 
Đề tài: 
Đổi Mới Tư Duy Đối Ngoại Trong Quan Hệ Với 
Các Nước Lớn 
Sinh viên thực hiện: Nghiêm Thị Chuyên 
 Lớp : H33 
Hà Nội ,tháng 4 năm 2009 
 1 
MỤC LỤC: 
Phần một: I.Bối cảnh chung.2 
II .Quá trình đổi mới tư duy đối ngoại..4 
Phần hai: I.Nước lớn và vai trò của nước lớn trong quan hệ quốc tế.5 
II.Tác động của các nước lớn đến Việt Nam7 
III.Đổi mới tư duy đối ngoại trong quan hệ với các nước lớn.8 
Phần ba: Kết luận chung14 
Danh mục tài liệu tham khảo 16 
 2 
Phần một: Mở đầu 
I/Bối cảnh chung 
1. Tình hình quốc tế 
Những năm cuối thập kỷ 80s của thế kỷ XX là dấu mốc quan trọng của 
việc bùng nổ những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật.Cách mạng khoa học kỹ 
thuật phát triển nhanh và mạnh làm động lực thúc đẩy sự phát triển của lực 
lượng sản xuất,đồng thời đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế 
giới,quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội.Cho đến cuối thế kỷ XX và 
những năm đầu thế kỷ mới,nền kinh tế thế giới đã thực sự bước sang giai 
đoạn của nền kinh tế tri thức.Đây là tiền đề đầu tiên cho quá trình toàn cầu 
hoá mà hiện nay đang trở thành xu hướng phát triển trên mọi lĩnh vực của 
đời sống.Bên cạnh xu hướng toàn cầu hoá,một xu hướng lớn đang nổi lên và 
phát triển mạnh mẽ là tự do hoá thương mại.Điều này tác động đến các quốc 
gia không chỉ về mặt kinh tế mà còn về cả chính trị ,xã hội,an ninh và quan 
hệ quốc tế.Trong môi trường đó nổi lên một vài nhân tố nổi bật là các nước 
lớn như Mỹ,Nhật Bản,Trung Quốc và liên minh châu Âu EUĐó là những 
đối thủ cạnh tranh lớn nhất của nền kinh tế toàn cầu và chính họ đang phần 
lớn năm giữ và chi phối nhiều tổ chức kinh tế thế giới và tất nhiên chi phối 
luôn cả cục diện chính trị thế giới và chi phối việc hoạch định chính sách đối 
ngoại của nhiều nước. 
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh,khi thế giới còn chia thành hai cực đối 
đầu thì mục tiêu chủ yếu của khối các nước tư bản chủ nghĩa(TBCN) là ngăn 
chặn sự mở rộng của chủ nghĩa xã hội (CNXH),còn mục tiêu của các nước 
XHCN mà Liên Xô đứng đầu là xây dựng CNXH và đấu tranh chống chủ 
nghĩa đế quốc,vì hoà bình,giải phóng dân tộc và CNXH.Nhưng sau sự sụp 
 3 
đổ hàng loạt của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu,CNXH 
đang tạm thời lâm vào thoái trào và TBCN đang phát huy manh mẽ sức 
mạnh của mình thì xu thế đối đầu đã không còn nữa.Các quốc gia đã chuyển 
sang xu thế đối thoại và thoả hiệp với nhau nhằm đạt được các mục tiêu và 
lợi ích chung cũng như lợi ích của riêng quốc gia họ.Đấu tranh và hợp tác 
giữa các nước lớn trên thế giới đan xen phức tạp,thế giới đang trong quá 
trình hình thành một trật tự mới.Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn 
tại và phát triển có mặt sâu sắc hơn,nội dung và biểu hiện có nhiều nét 
mới.Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục diễn ra dưới nhiều 
hình thức. 
2. Tình hình khu vực châu Á-thái Bình Dương và Đông 
Nam Á 
Những điều chỉnh chính sách của các nước lớn đến khu vực này sau 
chiến tranh lạnh đã và đang đem đến những tác động mạnh mẽ đến tình hình 
khu vực.Một số nền kinh tế mới nổi và có tốc độ phát triển nhanh chóng 
trong nhóm NICs đã trở thành hiện tượng trong khu vực.Hiệp hội các quốc 
gia Đông Nam Á ASEAN đã dần phát huy vai trò của mình trong khu vực và 
trong các vấn đề quốc tế.Việt Nam sau khi nhận thấy được lợi ích của mình 
trong đó,đã thay đổi cách nhìn kỳ thị và lạnh nhạt trước đây và gia nhập vào 
tổ chức này.Bên canh đó,vấn đề Campuchia còn là một điểm nhức nhối 
trong khu vực.Chúng ta cần thiết phải có biện pháp thích hợp cho vấn đề này 
để duy trì hoà bình và ổn định trong khu vực. 
3.Tình hình trong nước 
Sau giải phóng, Việt Nam đã đi lên xây dựng và phát triển đất nước 
theo con đường XHCN.Tuy nhiên,trong quá trình đó,chúng ta đã vấp phải 
không ít những sai lầm trong chính sách mà nguyên nhân chính là do chủ 
quan duy ý chí,áp dụng máy móc,không khoa học học thuyết chủ nghĩa xã 
 4 
hội khoa học vào thực tiễn quốc gia.Do đó,suốt hơn chục năm trời,nền kinh 
tế của chúng ta đã có những biểu hiện trì trệ và phát triển lệch lạc.Là một 
nước XHCN với xuất phát điểm kinh tế thấp và cộng thêm những thiệt hại 
sau chiến tranh,Việt Nam khó lòng có thể “Tiến nhanh,tiến mạnh,tiến vững 
chắc lên chủ nghĩa xã hôi” như trong nghị quyết Đại hội IV đề ra.Thậm 
chí,sau hơn 10 năm,sản xuất trong nước ngày càng đi xuống,không đủ đáp 
ứng cho nền kinh tế.Vấn đề lương thực rơi và tình trạng thiếu hụt trầm 
trọng.Ngoài ra,Việt Nam còn đang bị rơi vào thế bị bao vây cô lập về kinh tế 
khiến chúng ta không có nhiều tiền đề phát triển.Nguy cơ Việt Nam rơi vào 
một cuộc khủng hoảng toàn diện là điều rất dễ xảy ra.Và một điều hết sức 
quan trọng là khi Liên Xô đã không còn,người anh cả đỡ đầu cho Việt Nam 
đã không còn,chúng ta không thể có ai để dựa vào dù là trên yếu tố tinh 
thần,thì Việt Nam cần phải biết chuyển mình sao cho hợp với tình hình thời 
đại. 
Tất cả những gì đã phân tích ở trên cho thấy Việt Nam đang ở trong một 
tình huống rất khó khăn,chỉ có một con đường duy nhất là phải đổi mới để 
phát triển. 
II/Quá trình đổi mới 
Có thể nói là đổi mới tư duy của giới lãnh đạo Việt Nam đã bắt đầu từ 
Nghị quyết 32 của Bộ chính trị “tình hình thế giới và chính sách đối ngoại 
của Đảng và Nhà nước ta” (tháng 7/1986).Thông qua nghị quyết,lãnh đạo 
Việt Nam đã phân tích và nhận thấy rõ tình hình thế giới đang biến chuyển 
nhanh và mạnh,chúng ta không thể chủ quan duy ý chí mà bỏ qua những 
nhân tố bên ngoài đó,cần phải thay đổi để đưa ra những đối sách thích hợp 
hơn.Tiếp đó là đường hướng đổi mới được vạch ra ra trong các kỳ Đại hội 
 5 
VI,VII,VIII... cho đến nay.Đây là cuộc đổi mới sâu rộng trên mọi lĩnh vực 
kinh tế ,chính trị văn hoá,xã hội và ngoại giao.Tuy nhiên,trong khuôn khổ 
bài tiểu luận này tôi chỉ đi phân tích những đổi mới trong tư duy đối ngoại 
của các nhà hoạch định chính sách Việt Nam đặc biệt là trong quan hệ với 
các nước lớn. 
Phần II: Nội dung chính 
I/Nước lớn và vai trò của nó trong quan hệ 
quốc tế 
Đầu tiên chúng ta cần thống nhất cách hiểu thế nào là nước lớn.Theo 
Đại Từ điển tiếng Việt thì “cường quốc là nước mạnh có vai trò trong quan 
hệ quốc tế”; “siêu cường là nước lớn và rất mạnh về chính trị,quân sự,kinh tế 
vượt trội hơn nước khác”.Theo đó,nước lớn có thể hiểu ‘là một số cường 
quốc chủ yếu của thế giới đương đại”1.Một nước lớn hội tụ nhiều yếu tố,như 
dân số,diện tích,nền kinh tế phát triển,quốc phòng an ninh vững mạnh và 
đóng vai trò chi phối thế giới trên một số lĩnh vực nhất địnhTheo tiêu chí 
đó thì hiện nay trên thế giới có các cường quốc là:Pháp,Đức,Anh,Nga,Trung 
Quốc,Nhật Bảnvà một siêu cường lớn mạnh nhất là Mỹ. 
Trong xu thế toàn cầu hoá,một quốc gia,dân tộc được xem là cường 
quốc chỉ khi nào quốc gia đó có đủ năng lực làm chủ hệ thống hội 
nhập,nghĩa là tham gia được càng nhiều các cam kết đa phương và song 
phương ,cũng như có năng lực quản lý tốt sự cam kết đó trên nhiều phương 
1 Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và quan hệ với Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, 
PGS.TS Nguyễn Xuân Sơn-TS Nguyễn Văn Du.NXB chính trị quốc gia,chương 1,trang 14 
 6 
diện khác nhau.Trong khi thế giới ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau thì việc làm 
chủ các quan hệ đó đang trở thành tiêu chuẩn đánh giá thang bậc sức mạnh 
của một quốc gia.Các nước lớn đóng vai trò là ‘những diễn viên chính trên 
sân khấu thế giới”. 
Sau khi trật tư thế giới hai cực tan rã ,Thế giới phát triển theo hướng đa 
cực trong tình trạng một siêu cường là Mỹ và nhiều cường quốc 
như:EU,Nhật,Trung Quốc,NgaTrong đó,Mỹ đang vươn lên và trở thành 
cường quốc số một thế giới với tham vọng thiết lập trật tự thế giới đơn cực 
do Mỹ lãnh đạo.Tuy nhiên,ham muốn của Mỹ gặp phải rất nhiều cản trở từ 
phía các nước khác.Các nước Tây Âu,Nhật Bản,Nga và Trung Quốc đang cố 
gắng thiết lập một trật tự thế giới đa cực nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia và tìm 
chỗ đứng tốt nhất,xây dựng khuôn khổ quan hệ mới ,ổn định lâu dài,xác lập 
các điều kiện quốc tế mới có lợi hơn ,qua đó thể hiện vai trò của mình trong 
đời sống quốc tế.Để làm những điều này,họ thực hiện các biện pháp cân 
bằng chiến lược,tạo môi trường hoà bình ổn định thông qua xu hướng đối 
thoại,thoả hiệp ,tránh đối đầu.Quan hệ giữa các nước lớn thể hiện rõ hai mặt 
hợp tác và cạnh tranh,tiếp xúc và kiềm chế. 
Cục diện thế giới vừa mâu thuẫn ,vừa hợp tác,vừa cạnh tranh sẽ tồn tại 
trong một thời gian dài.Và vai trò của các nước lớn trong đời sống quan hệ 
quốc tế ngày càng được nâng cao.Vì thế,nhận thức đúng vai trò,vị trí của các 
nước này sẽ giúp cho các nước vừa và nhỏ như Việt Nam có những đối sách 
linh hoạt,phù hợp với từng đối tượng,cân bằng quan hệ giữa các nước lớn để 
không rơi vào vòng xoáy phụ thuộc hoàn toàn,không rơi vào tình thế bị cô 
lập và bị lợi dụng và có thể tận dụng mối quan hệ với các nước này để phát 
triển. 
 7 
II/Tác động của các nước lớn đến Việt Nam 
Sau khi CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã,Việt Nam và 
một số các nước XHCN còn lại rơi vào tình thế hết sức khó khăn.Sự tập hợp 
lực lượng trên thế giới không còn theo trục ý thức hệ tư tưởng .Lợi ích quốc 
gia,dân tộc chi phối mọi quan hệ quốc tế.Vì lợi ích của mình mà các nước 
lớn có xu hướng thoả hiệp,liên kết và nhân nhượng lẫn nhau trong cán cân 
quyền lực thế giới.Việt Nam không thể đứng ngoài quy luật đó,chúng ta cần 
hội nhập và thay đổi cách nhìn về hội nhập. 
Ngày nay,toàn cầu hoá đã trở thành một xu thế khách quan,tác động đến 
mọi quốc gia dân tộc ,nó đem đến cho mỗi quốc gia cả thời cơ và thách 
thức.Trước xu thế này,Đảng và nhà nước ta đã chủ trương chủ động và tích 
cực hội nhập kinh tế quốc tế,thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ đi 
đôi với đa phương hoá,đa dạng hoá quan hệ quốc tế.Trong xu thế toàn cầu 
hoá,những nước nhỏ,yếu ngày càng phải chịu nhiều sức ép cạnh tranh gay 
gắt hơn,đồng thời phải đối mặt với nhiều bất trắc hơn về an ninh quốc 
phòng,nhất là khi các nước này có liên quan và vướng mắc vào bàn cờ các 
nước lớn.Ví dụ như trường hợp của bán đảo Triều Tiên,khu vực Ban-căng, 
hay các nước Trung ĐôngTrong bối cảnh đó,Đảng và Nhà nước ta đã xác 
định mục tiêu là giữ vững ổn định chính trị,duy trì môi trường hoà bình để 
phát triển,từng bước tham gia hội nhập quốc tế. 
Mục tiêu hội nhập không thể đạt được nếu ta xem nhẹ vai trò của mối 
quan hệ với các nước lớn.Chúng ta đã giải quyết mối quan hệ này như thế 
nào?Những cách làm đó,những ý tưởng đó đã thật sự đổi mới chưa? Trong 
phần tiếp theo,tôi sẽ trình bày những chính sách mang tính đổi mới của Việt 
Nam trong mối quan hệ với các nước lớn. 
 8 
III/Đổi mới tư duy đối ngoại trong mối quan hệ 
với các nước lớn. 
1. Chính sách chủ động và cân bằng quan hệ với các 
nước lớn 
Trước những biến đổi không ngừng của tình hình thế giới ,tình hình khu 
vực cũng như tình hình trong nước,và sự cần thiết phải củng cố và xây dựng 
nước Việt Nam XHCN theo hướng lâu dài và vững mạnh,những nhà lãnh 
đạo của ta đã kịp thời đổi mới tư duy đối ngoại,xây dựng chính sách đối 
ngoại rộng mở,độc lập tự chủ với mục tiêu hàng đầu là tạo môi trường quốc 
tế thuận lợi cho sự phát triển của đất nước.Đảng và Nhà nước ta đã nêu ra 
“giữ vững hoà bình,mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị và hợp tác ,tạo điều 
kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ 
quốc,đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân 
thế giới vì hoà bình,độc lập dân tộc ,dân chủ và tiến bộ xã hội”1.Theo đó có 
thể hiểu,Việt Nam theo đuổi chính sách đối ngoại hoà bình,bình đẳng và 
cùng có lợi với tất cả các nước trên thế giới,không phân biệt chế độ chính trị 
khác nhau.Đến kỳ Đại hội VIII,chúng ta đã ra được một chính sách khá rõ 
ràng và cụ thể, kế thừa và phát huy nhưng tư tưởng đổi mới trước đó: “Việt 
Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,phấn đấu vì 
hoà bình,độc lập và phát triển”2.Chúng ta cần phải đẩy mạnh quan hệ với các 
nước đặc biệt là các nước lớn để có thể tận dụng tối đa nguồn lực bên ngoài 
để phát triển đất nước. “Quan hệ với các nước lớn là một trong những chủ 
trương quan trọng trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hiện 
nay.Nếu chúng ta tận dụng được lợi thế trong quan hệ này sẽ đưa lại nhiều 
1 Đảng cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII 
2 Đảng cộng sản Việt Nam :Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII 
 9 
cơ hội thuận lợi phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất 
nước,nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế”1. 
Vấn đề lớn đặt ra trước mắt đối với Việt Nam là phải nắm vững và kịp 
thời những thay đổi trong cục diện thế giới và chính sách của các nước lớn 
đối với khu vực châu Á –Thái Bình Dương và Đông Nam Á.Trong khi các 
nước nước thoả hiệp với nhau,họ có lợi ích đan xen với nhau thì chúng ta 
phải biết cân bằng làm sao cho không để vì quan hệ với nước lớn này làm 
phương hại đến lợi ích và ảnh hưởng xấu đến quan hệ với các nước lớn 
khác,đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ của họ đối với Việt Nam. 
Thế giới càng đi vào xu thế đối thoại,thoả hiệp thì mâu thuẫn bên trong 
lòng nó càng gay gắt,tuy nhiên việc xử lý những mâu thuẫn đó là điều hết 
sức nhạy cảm.Việt Nam muốn tận dụng được tốt những yếu tố ủng hộ từ bên 
ngoài này thì cần có chính sách mềm dẻo và cân bằng quan hệ giữa các cặp 
Trung-Mỹ; Nga-Mỹ ;Nga-Trung; Trung-Nhậtvà các quan hệ tay ba như 
Nga-Trung-Ấn; Mỹ-Nhật-Trung; Mỹ-Nhật-NgaĐặc biệt chú trọng đến các 
cặp:Nga-Mỹ;Trung-Mỹ và Trung-Ấn,để từ đó tìm ra cách thức giải quyết 
hoà hợp mối quan hệ này,không làm mất lòng nước nào và không bị lôi kéo 
vào liên minh cùng bất kỳ nước nào.Một khi đã tận dụng được các mối quan 
hệ này Việt Nam sẽ có thể thu hút được vốn đầu tư,công nghệ,thị 
trường ,kinh nghiệm quản lý tiên tiến,để từ đó thoát ra khỏi tình trạng khủng 
hoảng kinh tế kéo dài đã nhiều năm,phá thế bị bao vây cấm vận,chuẩn bị tiền 
đề và bước vào xây dựng công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước. 
Một nguyên tắc nền tảng khi Việt Nam thực hiện chính sách cân bằng 
quan hệ với các nước lớn là tôn trọng độc lập chủ quyền,toàn vẹn lãnh 
thổ,không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,bình đẳng cùng có 
lợi.Theo đó,những nước vốn là thù địch của nhau trong thời kỳ chiến tranh 
1 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toànquốc lần thứ IX 
 10
lạnh thì nay đã từng bước đi đến bình thường hoá quan hệ,xây dựng một 
khuôn khổ mới thúc đẩy hợp tác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.Đối với 
Việt Nam điều này thể hiện khá rõ nét và tích cực.Cùng với việc bình thường 
hoá quan hệ Việt- Trung năm 1991 thì đến 4 năm sau đó,chúng ta dã chủ 
động thúc đẩy và hoàn thiện tiến trình bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ-
cường quốc số 1 thế giới và từng là kẻ thù của chúng ta trong suốt những 
năm chiến tranh.Bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Mỹ và Trung Quốc 
là một bước tiến quan trọng của ngoại giao Việt Nam.Đây là cơ hội để ta 
phát triển kinh tế vì Mỹ là thị trường lớn nhất thế giới và có vai trò chi phối 
lớn trong kinh tế thế giới,còn Trung Quốc -quốc gia láng giềng có dân số 
đông nhất Thế giới,ngày nay lại đang phát triển mạnh mẽ và trở thành một 
cường quốc kinh tế và quân sự.Dưới đây tôi sẽ đi phân tích qua những cơ 
hội mà chúng ta nhận được khi hài hoà được mối quan hệ với Mỹ và Trung 
Quốc-2 nhân tố có ảnh hưởng mạnh đến đời sống quan hệ quốc tế hiện nay. 
Nhân tố Trung Quốc trong đời sống quan hệ quốc tế ngày càng thể hiện 
tiếng nói của mình.Vì thế ,Việt Nam cần chủ động thúc đẩy việc hợp tác với 
Trung quốc trên nhiều lĩnh vực.Đồng thời giải quyết những vấn đề còn tồn 
tại trên cơ sở bình đẳng ,tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ 
của nhau theo nguyên tắc láng giềng thân thiện và cùng tồn tại hoà 
bình.Thực tế cho thấy từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay,đã có rất 
nhiều chuyến thăm cấp cao giữa hai Đảng, hai Nhà nước.Qua đó thể hiện 
quan hệ đang ngày càng được thúc đẩy và tiến triển tốt đẹp.Quan hệ kinh tế 
giữa Việt Nam và Trung Quốc không ngừng được cải thiện,kim ngạch buôn 
bán 2 chiều từ 226 triệu USD năm 1992 lên đến 2,957 tỷ USD năm 2000,đến 
năm 2008,con số này đã lên đến hơn 17 tỷ USD1.Có thể thấy là việc bình 
thường hoá quan hệ với Trung quốc đã mang đến cho Việt Nam một cơ hội 
1 
 11
phát triển kinh tế mới,một môi trường láng giềng ổn định,tạo thuận lợi cho 
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước của Việt Nam. 
Sau khi hoàn thành tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt -Mỹ và ký 
kết hiệp định thương mại Việt Mỹ.Việt Nam đã có cơ hội để tiếp cận với thị 
trường tiềm năng nhất thế giới này và ngoài ra còn mở rộng quan hệ thương 
mại với các đối tác khác vốn chịu sự chi phối của Mỹ.Kim ngạch buôn bán 
hai chiều giữa Việt Nam và Hoa Kỳ năm 2004 là 4,8 tỷ USD1 và trong năm 
2008 vừa qua lên đến hơn 15 tỷ USD2.Và vì Mỹ có một vai trò vị thế quan 
trọng trong kinh tế quốc tế nên không thể không duy trì mối quan hệ bình 
thường nếu muốn phát triển.Ngay trong việc Việt Nam đàm phán gia nhập tổ 
chức thương mại quốc tế WTO thì nhân tố Mỹ cũng là nhân tố gây khó khăn 
nhất .Vậy càng khẳng định việc chúng ta xây dựng mối quan hệ với Mỹ là 
đúng đắn,có lợi cho cả hai bên. 
2. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ 
với các nước lớn 
Theo như quan điểm triết học Mác-Lênin,mọi sự vật hiện tượng đều có 
tính chất hai mặt của nó.Quan hệ quốc tế cũng vậy,khi chúng ta thiết lập 
quan hệ hợp tác với một quốc gia không có nghĩa là hợp tác hoàn toàn,mà 
bên trong đó phải bao gồm cả yếu tố đấu tranh.Vì các quốc gia khác nhau có 
thể có chung một lợi ích nào đó nên hợp tác với nhau,nhưng mỗi nước lại có 
những lợi ích của riêng mình,nên không thế đánh đồng tất cả.Hơn thế 
nữa,kết hợp giữa hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế ,đặc biệt là 
trong quan hệ với các nước lớn có ý nghĩa quan trọng trong vấn đề an ninh 
và phát triển ,bảo vệ chủ quyền của đất nước.Phương châm “nắm vững hai 
mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế”đề ra ở hội nghị Trung ương 
1 
2 
 12
3 khoá VII được Đảng và Nhà nước ta áp dụng rất sâu rộng trong quan hệ 
với tất cả các nước đặc biệt là với các nước lớn.Hội nghị Trung ương 8 khoá 
IX cũng nhấn mạnh “lấy việc giữ môi trường hoà bình ,ổn định để phát triển 
kinh tế -xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc”;kiên định các nguyên tắc 
chiến lược đi đôi với sự vận dụng linh hoạt sách lược,phương châm “thêm 
bạn ,bớt thù”,vừa hợp tác,vừa đấu tranh.Như sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh 
đã dặn dò cụ Huỳnh Thúc Kháng khi Người đi công tác nước ngoài “dĩ bất 
biến,ứng vạn biến”.Tuỳ từng tình hình và giai đoạn mà mặt đấu tranh hay 
hợp tác được ưu tiên nhiều hơn.Trong mối quan hệ với nước lớn cần phải xử 
lý khôn khéo mà cương quyết,giữ vững độc lập chủ quyền trong quan hệ đối 
ngoại,không nên quá nhấn mạnh mặt hợp tác hoặc đấu tranh.Trong trật tự 
thế giới mới đang được hình thành ,quan hệ quốc tế được điều chỉnh theo 
hướng hoà giải ,gác bất đồng ,hợp tác và đấu tranh cũng như tập hợp lực 
lượng theo tình huống,theo vấn đề và khu vực.Trong bối cảnh đó,Việt Nam 
là một trong số những nước đang phát triển vừa là đối tượng được tranh 
thủ ,vừa là đối tượng bị các nước lớn hy sinh. 
Sớ dĩ phải kết hợp 2 mặt hợp tác và đấu tranh vì chúng ta luôn phải đối 
mặt với những nguy cơ đến từ bên ngoài, âm mưu diễn biến hoà bình của 
các thế lực thù địch hay sự can thiệp về chính trị thông qua con đưòng kinh 
tế của các nước lớn.Và suy cho cùng thì tất cả đều xuất phát từ nguyên tắc 
và lợi ích cao nhất của quốc gia là giữ vững độc lập chủ quyền,toàn vẹn 
lãnh thổ và phát triển kinh tế. Để làm tốt điều này,theo như PGS.TS Nguyễn 
Xuân Sơn và TS Nguyễn Văn Du nêu trong cuốn “Chiến lược đối ngoại của 
các nước lớn và quan hệ với Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI” 
đã nêu rõ: 
 Đấu tranh kiên quyết với những âm mưu thủ đoạn lợi dụng hợp 
tác kinh tế để hoạt động “diễn biến hoà bình” nhằm phá hoại tư 
 13
tưởng ,can thiệp vào chính trị,hoạt động phá hoại lật đổ,đề cao kinh tế 
tư nhân,áp đạt phương thức kinh tế tư bản,phủ nhận thành phần kinh 
tế nhà nước xã hội chủ nghĩa thành chủ nghĩa tư bản. 
 Khai thác triệt để những lợi thế trong quan hệ với các nước lớn 
có lợi cho ta,đồng thời tạo thế cân bằng trong quan hệ với các nước 
lớn,khai thác tối đa những lợi ích song trùng với từng nước lớn đồng 
thời hạn chế những tiêu cực nảy sinh từ các mối quan hệ song phương 
này. 
 Nguyên tắc cơ bản và bao trùm trong quan hệ với các nước lớn 
của ta là tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của 
nhau,hợp tác trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. 
3. Chủ động tham gia toàn cầu hoá,hội nhập kinh tế quốc 
tế ,tận dụng các lợi thế trong quan hệ với các nước lớn phục vụ sự 
nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước 
Xu thế toàn cầu hoá hiện nay đã tác động mạnh mẽ đến mọi quốc 
gia,dân tộc,bất chấp ranh giới về địa lý, lịch sử, kinh tế, chính trị, văn 
hoáVà hội nhập trở thành một tất yếu với tất cả các quốc gia trên thế 
giới để phát triển.Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá,hiện 
đại hoá ,ngày càng nhận thức đầy đủ những thời cơ và thách thức do toàn 
cầu hoá mang lại.Bởi thế,Đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam đã rất đổi 
mới khi đưa ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu 
vực”.Đây có thể được coi là một phương hướng lớn trong đời sống đối 
ngoại để thích ứng với sự phát triển sôi động của nền kinh tế toàn cầu 
hiện nay. 
Công cuộc đổi mới của ta diễn ra trong bối cảnh cuộc cách mạng 
khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, nền kinh tế tri thức ngày càng 
khẳng định vị thế quyết định.Và chúng ta cần có vốn,có công nghệ để 
 14
thực hiện tíến trình đổi mới ấy.Với sự hài hoà quan hệ và tận dụng triệt 
để quan hệ với các nước lớn,chúng ta mới có thể thu hút được nhiều 
nguồn vốn FDI và ODA và củng cố được mối quan hệ và lòng tin đối với 
một số tổ chức kinh tế tài chính toàn cầu: WB,ADB,IFMTừ đó tạo tiền 
đề phát triển cho kinh tế Việt Nam. 
Tuy nhiên,chúng ta vẫn phải có những đối sách thích ứng để tránh bị 
phụ thuộc vào các nước lớn.Chúng ta phát triển đất nước bằng cách kết 
hợp sức mạnh bên trong và sức mạnh thời đại.Dựa vào sức mình là chính 
và tranh thủ,tận dụng mọi nguồn lực bên ngoài để phát triển 
. 
Phần ba: Kết luận chung 
Chủ trương của Việt Nam là xác lập cân bằng quan hệ với các nước 
lớn,đặt nền móng cho việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự 
chủ ,rộng mở,đa phương hoá,đa dạng hoá quan hệ quốc tế sau chiến tranh 
lạnh là hoàn toàn đúng đắn.Nhờ đó mà chúng ta đã giải quyết hoà bình 
các mâu thuẫn còn tồn tại và bình thường hoá quan hệ ngoại giao với 2 
nước lớn là Mỹ và Trung Quốc.Từ đó,chúng ta phá được thế bị bao vây 
cấm vận ,tạo dựng được môi trường hoà bình ổn định cho phát triển kinh 
tế xã hội.Thành tựu to lớn và bao trùm trong tiến trình hội nhập quốc tế 
của Việt Nam là làm cho thế và lực của nước ta tăng lên rõ rệt,độc lập 
chủ quyền ,an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm,vị 
thế nước ta được nâng lên.Lần đầu tiên,Việt Nam thiết lập được quan hệ 
 15
bình thường với các nước lớn,các nhóm nước và các trung tâm kinh tế-tài 
chính lớn trên thế giới. 
Nền kinh tế Việt Nam từ sau đổi mới đã bước sang một trang hoàn 
toàn khác.Việt Nam được đánh giá là một trong số những quốc gia có tỷ 
lệ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới,đời sống nhân dân ngày càng 
được cải thiện,môi trường an ninh-chính trị-xã hội tương đối ổn định đã 
làm cho vị thế củaViệt Nam trên trường quốc tế ngày càng được củng cố 
và nâng cao. 
 16
Danh mục tài liệu tham khảo: 
1. “Văn kiện đại hội thời kỳ đổi mới(Đại hội VI,VII,VIII,IX)” 
 Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 
2. “Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và quan hệ với Việt Nam 
trong hai thập niên đấu thế kỷ XXI” 
 PGS.TS: Nguyễn Xuân Sơn;TS:Nguyễn Văn Du-Nhà xuất bản 
Chính trị quốc gia 
 3. “Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới(1975-2002)” 
TS:Vũ Dương huân-Học viện quan hệ quốc tế 
4. Giáo trình “Chính sách đối ngoại Việt Nam II” 
 TS:Nguyễn Vũ Tùng-Học viện quan hệ quốc tế 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_doi_moi_tu_duy_doi_ngoai_trong_quan_he_voi_cac_nuo.pdf