Tiểu luận Hàng hoá, giá cả và giá trị
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Hàng hoá, giá cả và giá trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Hàng hoá, giá cả và giá trị
TIỂU LUẬN: Hàng hoá, giá cả và giá trị Một trong những vấn đề trung tâm của phần thứ 1, quyển thứ nhất, bộ Tư Bản mà Mác đã phát hiện ra là vấn đề tính chất hai mặt của lao động kết tinh trong hàng hoá, Mác viết: “Tôi là người đầu tiên đã chứng minh một cách có phê phán tính chất hai mặt đó của lao động chứa đựng trong hàng hoávà toàn bộ khoa Kinh tế chính trị xoay quanh vấn đề này”. Trước Mác, các nhà kinh tế chính trị học Tư sản cổ điển đã góp phần lớn vào việc phát triển lý luận lao động tạo ra giá trị và đã trực tiếp xây dựng nên lý luận đó nhưng họ không hiểu được thực chất của giá trị. Mác đã cải tạo di sản nhận được và phát hiện ra rằng hai thuộc tính của hàng hoá (giá trị sử dụng và giá trị trao đổi) có mâu thuẫn và khẳng định được hàng hoá là sự thống nhất biện chứng của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Chính ông là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá: lao động cụ thể và lao động trừu tượng, lao động tư nhân và lao động xã hội. Nhờ phát hiện này, lần đầu tiên trong lịch sử học thuyết kinh tế chính trị, Mác đã xây dựng được học thuyết giá trị - lao động một cách hệ thống và hoàn chỉnh. Đồng thời dựa vào phát hiện này, Mác đã trình bày một cách khoa học và hệ thống các phạm trù kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa mà trước đó chưa ai có thể làm được. Và đây cũng chính là chìa khoá để giải quyết một loạt các vấn đề khác trong kinh tế chính trị như chất và lượng giá trị hàng hoá; nguồn gốc của giá trị và giá trị sử dụng;... Mác đã khắc phục những hạn chế của các nhà kinh tế chính trị học cổ điển, thực hiện một cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế chính trị để đưa nó trở thành một môn khoa học. Học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện ở Anh và Pháp vào cuối thế kỷ XVIII. Học thuyết này là tư tưởng kinh tế tư sản phát sinh trong thời kỳ hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các nhà kinh tế học của trường phái này lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu các vấn đề của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đặt ra. Các nhà kinh tế chính trị học cổ điển Anh như W. Petty, A. Smith và D. Ricardo cũng đã nghiên cứu về giá trị lao động. Nhưng Mác đã bác bỏ những tư tưởng sai lầm, kế thừa và phát triển những tư tưởng tiến bộ của các nhà kinh tế chính trị học cổ điển Anh.Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động trước hết là sự phát triển lý luận giá trị lao động của trường phái kinh tế chính trị học cổ điển Anh được bắt đầu ở W. Petty và kết thúc ở D. Ricardo. Đại biểu thứ nhất của trường phái kinh tế chính trị học cổ điển Anh là W. Petty. W. Petty là một trong những người sáng lập ra kinh tế cổ điển ở Anh và ông cũng là người có công đầu tiên trong việc nêu ra nguyên lý giá trị lao động. Lý luận giá trị lao động của W. Petty được bắt đầu ở việc nghiên cứu về giá cả. Ông đã đưa ra ba phạm trù về giá cả hàng hoá trong tác phẩm "Bàn về thuế khoá và lệ phí". Đó là giá cả tự nhiên, giá cả nhân tạo và giá cả chính trị. Giá cả tự nhiên? Theo ông, giá cả tự nhiên là giá trị hàng hoá. Nó do lao động của người sản xuất tạo ra. Lượng của giá cả tự nhiên, hay giá trị, tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác bạc. Lượng giá trị do thời gian lao động quyết định. Nếu như giá cả tự nhiên là giá trị hàng hoá, thì giá cả nhân tạo là giá cả thị trường của hàng hoá chỉ là giá cả nhân tạo chứ không phải là giá cả tự nhiên. Theo ông, giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường. Còn về giá cả chính trị, W. Petty cho rằng đó là một loại đặc biệt của giá cả tự nhiên . Nó cũng là chi phí lao động để sản xuất hàng hoá, nhưng trong điều kiện chính trị xã hội không thuận lợi. Vì vậy chi phí lao động trong giá cả chính trị thường cao hơn so với chi phí lao động trong giá cả tự nhiên bình thường. ông cho rằng, giá cả chính trị (giá cả thị trường) phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngẫu nhiên nên khó xác định, còn giá cả tự nhiên (tức giá trị) là do thời gian lao động hao phí quyết định và năng suất lao động có ảnh hưởng đến mức hao phí đó. Như vậy, W. Petty là người đầu tiên đã tìm thấy cơ sở của giá cả tự nhiên là lao động, thấy được quan hệ giữa lượng giá trị và năng suất lao động. Lượng của giá trị tự nhiên, hay giá trị, tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác vàng và bạc. Do vậy, Mác đánh giá: lý luận giá tri lao động của W. Petty còn có những hạn chế do chưa phân biệt được phạm trù giá trị , giá trị trao đổi và giá cả. Ông chỉ giới hạn lao động tạo ra giá trị trong lao động khai thác vàng và bạc. Theo Ông, giá trị hàng hoá chính là sự phản ánh giá trị tiền tệ cũng như ánh sáng mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng mặt trời vậy. Đây chính là ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương trong tư tưởng của W. Petty. Và cũng từ đó, W. Petty lại vấp phải sai lầm nữa là Ông đã lẫn lộn lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị với lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị sử dụng, nghĩa là Ông đã đồng nhất lao động trừu tượng với lao động cụ thể. Và từ đó, Ông có ý định đo giá trị bằng lao động và đất đai. Ông có luận điểm nổi tiếng là: "lao động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải". Đây chính là sai lầm lớn của ông vì coi hai yếu tố xác định giá trị là lao động và tự nhiên mặc dù ông đã tìm ra được nguồn gốc của giá trị sử dụng. Đại biểu thứ hai của trường phái kinh tế chính trị học cổ điển Anh là A. Smith. A. Smith đã phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Đây là bước tiến đáng kể trong lý thuyết giá trị lao động so với W. Petty và phái trọng nông. Trước hết, ông chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, và Ông khẳng định giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi. Khi phân tích giá trị hàng hoá, ông còn cho rằng, giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi của hàng hoá, trong quan hệ số lượng với hàng hoá khác, còn trong nền sản xuất hàng hoá phát triển, nó được biểu hiện ở tiền. A. Smith chỉ ra lượng giá trị hàng hoá là do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định. Lao động giản đơn và lao động phức tạp ảnh hưởng khác nhau đến lượng giá trị hàng hoá. Trong cùng một thời gian, lao động chuyên môn, phức tạp sẽ tạo ra một lượng giá trị nhiều hơn lao động không có chuyên môn hay lao động giản đơn. A. Smith đưa ra hai định nghĩa về giá cả là giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Về bản chất, giá cả tự nhiên là biểu hiện tiền tệ của giá trị. Còn giá cả thực tế mà qua đó hàng hoá được bán gọi là giá cả thị trường. Nó có thể cao hơn, thấp hơn hay trùng hợp với giá cả tự nhiên. Theo ông, giá cả tự nhiên có tính chất khách quan, còn giá cả thị trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Ngoài giá cả tự nhiên, giá cả thị trường còn phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu và các loại độc quyền khác. Như vậy, A. Smith đã khẳng định rằng giá trị do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết định. Lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị. Với định nghĩa này, ông là người đứng vững trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động . Song bên cạnh những công lao đóng góp trong việc biểu hiện lý thuyết lao động – giá trị A. Smith còn gặp phải một số hạn chế chưa nhất quán trong khi phân tích giá trị. Ông cho rằng, giá trị là do lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá này quyết định, và giá trị do lao động tạo ra chỉ đúng trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị do các nguồn thu nhập tạo thành, nó bằng tiền lương cộng với lợi nhuận và địa tô. Ông viết: "Tiền lương, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như là của bất kỳ giá trị trao đổi nào". Giá trị hàng hoá = Tiền lương + Lợi nhuận + Địa tô. Giá trị = V + M. Như vậy, A. Smith đã loại bỏ C ra khỏi giá trị hàng hoá vì C là cái đã được phân giải thành tiền lương giai đoạn trước. Tư tưởng này xa rời lý thuyết giá trị - lao động. Đại biểu thứ ba của trường phái kinh tế chính trị học cổ điển Anh là D. Ricardo. Ông là người gần gũi với Mác nhất trong các quan điểm lý luận về giá trị của D. Ricardo chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống quan điểm của Ông. D. Ricardo định nghĩa: "Giá trị hàng hoá hay số lượng của một hàng hoá nào khác mà hàng hoá đó trao đổi là do số lượng lao động tương đối, cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định". D. Ricardo đã phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị. Ông chỉ rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng không phải là thước đo của nó. Do đó, lao động tạo nên giá trị hàng hoá. Theo D. Ricardo, bởi vì giá trị trao đổi là giá trị tương đối được biểu hiện ở số lượng nhất định của hàng hoá khác (thay tiền tệ) nên D. Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh giá trị tương đối, còn tồn tại giá trị tuyệt đối. Đó là thực thể của giá trị, là số lượng lao động kết tinh, giá trị trao đổi là hình thức cần thiết và có khả năng duy nhất để biểu hiện giá trị tuyệt đối. D. Ricardo, gạt bỏ những chỗ thừa và mâu thuẫn trong lý thuyết kinh tế của A.Smith. Theo D. Ricardo, không phải chỉ trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn , mà ngay cả trong nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, giá trị vẫn do lao động quyết định. Ông chỉ ra rằng, trong cơ cấu giá trị hàng hoá phải bao gồm ba bộ phận là C + V + M, chứ không thể loại C ra khỏi giá trị sản phẩm như A. Smith đã làm. D. Ricardo cho rằng giá trị hàng hoá không chỉ do lao động trực tiếp tạo ra, mà còn do lao động cần thiết trước đó nữa như máy móc, nhà xưởng. Tuy nhiên, ông chỉ mới biết đến C1 , và chưa phân tích được sự chuyển dịch C vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào. Ông có ý kiến kiệt xuất rằng: "tính hữu ích không phải là thước đo giá trị trao đổi mặc dù hàng hoá rất cần thiết giá trị này" và “ giá trị tuỳ thuộc vào điều kiện sản xuất khó khăn hay thuận lợi". Theo D. Ricardo, giá trị trao đổi hàng hoá được quy định bởi lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá, lượng lao động đó tỷ lệ thuận với lao động tạo ra hàng hoá. Ông cho rằng hàng hoá có ích sở dĩ có giá trị trao đổi là do hai nguyên nhân: tính khan hiếm và lượng lao động cần thiết để sản xuất ra chúng. Về điểm này, D. Ricardo là người đầu tiên đã phân biệt được lao động cá biệt và lao động xã hội, nhưng ông nhầm lẫn khi cho rằng giá trị hàng hoá được điều tiết bởi lượng lao động lớn nhất hao phí trong những điều kiện xấu, trong khi Mác cho rằng trong điều kiện trung bình của xã hội. Trong lý luận của mình, D. Ricardo còn phân biệt giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Cũng ở vấn đề biến động giá cả, D. Ricardo cho rằng giá cả không phải do cung cầu quyết định mà cung cầu chỉ có ảnh hưởng đến giá cả. D. Ricardo đã chứng minh được dự đoán thiên tài trước đây của W.Petty là giá cả hàng hoá giảm đi khi năng suất lao động tăng lên. D. Ricardo cũng gạt bỏ sai lầm của A.Smith là lao động trong nông nghiệp có năng suất cao hơn và sự tăng lên của của cải làm cho giá trị của nó giảm. Lý luận giá trị của D. Ricardo được bắt đầu từ việc gạt bỏ tính không triệt để, không nhất quán trong cách xác định giá trị của A.Smith, là giá trị bằng lao động mua được. Ông kiên định với quan điểm: Lao động là nguồn gốc của giá trị. Công lao to lớn của ông là đã xây dựng lý luận khoa học của mình trên quan điểm đó. Tuy nhiên, D. Ricardo lại có hạn chế : Ông chưa vượt qua được cửa ải nhận thức ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Mặc dù ông và A. Smith biết rằng lao động tạo ra giá trị là một thứ lao động không kể hình thái của nó (chỉ cảm nhận nó mà chưa sờ được vào). Khác với A. Smith, D. Ricardo cho rằng quy luật giá trị vẫn hoạt động trong chủ nghĩa tư bản (điều này là đúng), nhưng Ông đồng nhất hoá giá trị và giá cả sản xuất. Ông cũng chưa hiểu được giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị. Và cũng như các nhà kinh tế học tư sản nói chung, D. Ricardo chỉ chú ý phân tích mặt lượng giá trị, ít chú ý đến mặt chất và hoàn toàn không phân tích hình thái giá trị. Tóm lại, D. Ricardo đã đứng vững trên cơ sở lý luận giá trị lao động. Mác đã đánh giá: "Nếu A. Smith đã đưa khoa học kinh tế chính trị vào hệ thống, thì D. Ricardo đã kết cấu toàn bộ khoa học kinh tế chính trị bằng một nguyên lý thống nhất, nguyên lý chủ yếu quyết định của ông là thời gian lao động quyết định giá trị". Khoa KTCT cổ điển về c bản đã giải quyết được nhiệm vụ thứ nhất; nó phát hiện ra lao động ẩn nấp đằng sau giá trị trao đổi và xác định sự phụ thuộc lẫn nhau giữa lao động và giá trị trao đổi (T183 – Kim đồng) Năm 1867, quyển I bộ Tư bản ra đời và trong chương "Hàng hoá", Mác trình bày lý luận giá trị lao động. Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là công lao lớn nhất của Mác, thực hiện một cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị, là cơ sở để nghiên cứu các vấn đề quan trọng khác trong kinh tế chính trị học. Nguyên tắc đi từ trừu tợng đến cụ thể Cơ sở lý luận là sự tổng hợp lại nhờ t duy lý luận các tài liệu do trực quan sinh động đem lại, ở đây cái trừu tợng phản ánh những mối liên hệ phổ biếnnhất, đơn giản nhất nhng có vai trò quyết định trong cái cụ thể nghiên cứu 2. Phơng pháp biện chứng là đỉnh cao của t duy khoa học Có thể nói giá trị của phép biện chứng duy vật không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của những ngời sáng tạo ra nó mà giá trị đó đợc thể hiện ở chỗ “Giải pháp những vấn đề mà t tởng tiến tới của loài ngời đặt ra”, soi sáng các nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại, đó là nhiệm vụ giải phóng con ngời khỏi mọi hình thức áp bức bóc lột, khỏi sự tha hoá. Mác khẳng định:Các nhà triết học trớc đây chỉ tìm mọi cách giải thích thế giới bằng những cách khác nhau, song cái chính là cải tạo thế giới. Có thể nói rằng cho đến nay, phép biện chứng duy vật vẫn là cơ sở thế giới quan, phơng pháp luận khoa học duy nhất đáp ứng đợc nhiệm vụ lịch sử đó mà cha có mặt học thuyết nào có thể thắng thế đợc, không chỉ những ngời Macxít chân chính là ngay cả một số học giả t sản cũng thừa nhận vai trò của học thuyết đó. Chỉ có phép biện chứng duy vật mới có sự giải thích khoa học về những quá trình vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và t duy, nắm đợc quy luật vận động của lịch sử, đem lại một giải pháp khoa học cho những vấn đề cho cuộc sống đặt ra và đặt ra phơng hớng giải quyết những vấn đề đó một cách khoa học. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở sự thừa nhận thôi cha đủ. Ngày nay, khoa học và thực tiễn luôn vận động, biến đổi nên triết học Mác-Lênin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng cũng cần đợc bổ sung và phát triển nếu chúng ta không muốn lạc hậu so với thực tiễn. Phép biện chứng duy vật vừa là yêu cầu của thực tiễn xã hội, vừa là yêu cầu của nội tại học thuyết đó. Có phát triển đợc và thông qua phát triển, học thuyết đó mới bảo vệ mình và mới phát huy đợc tác dụng và những giá trị của nó. Trớc Mac-Ănghen trong cuộc đấu tranh trờng kỳ của các phái trào lu triết học, nhân loại đã biết đến nhiều nhà duy vật và biện chứng lớn, đánh dấu những bớc phát triển mới của t duy triết học của con ngời trên con đờng tìm tới chân lý. Thế nhng tất cả các nhà triết học đó do sự hạn chế của các điều kiện khách quan và chủ quan đều cha đem lại choloài ngời một thế giới toàn bộ triệt để, một phơng pháp luận khoa học cách mạng ở các vị trí đó ta thờng bắt gặp tính không nhất quán, duy vật khi giải thích vấn đề này, nhng lại duy tâm khi giải thích vấn đề khác, duy vật nhng lại siêu hình, không biện chứng hoặc biện chứng nhng lại tiến tới duy tâm. Điều quan trọng nhất là tất cả các nhà triết học trớc Mác để đứng lại ở nhận thức lĩnh vựctự nhiên và khi chuyển sang nhận thức vấn đề xã hội họ đều không tránh khỏi rơi vào duy tâm, sai lầm, phản khoa học. Mác-Ănghen là những ngời đầu tiên thống nhất chủ nghĩa duy vật biện chứng hay phép biện chứng duy vật. phép biện chứng ra đời đánh dấu bớc phát triển mới về chất trong lĩnh vực triết học, đó là học thuyết triết học hoàn bị, triệt để thống nhất đợc xây dựng trên lập trờng thế giới quan mới. Nó bao hàm cả lĩnh vự tự nhiên xã hội và t duy con ngời. Phép biện chứng duy vật không phải là tổng số những nguyên lý, quy luật, phạm trù mà các nhà kinh điển của chúng ta tạo ra là sự liên hệ hữu cơ có nguyên tắc của các tri thức đã đựoc xác lập trong hệ thống ấy. Giá trị thời đại của học thuyết ấy là ở chỗ nó là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phơng pháp, giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính khoa học và cách mạng. Phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở, năng động, nó dành cả một phơng hớng rộng lớn cho sự chứng minh của khoa học, cho sự bù đắp của tri thức nhân loại, là sự hớng dẫn và là động lực cho con ngời trong việc cải tạo tự nhiên xã hội và t duy. Phép biện chứng ra đời từ sự sáng tạo và đồng thời cũng đặt ra yêu cầu sáng tạo trong việc vận dụng nó trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Nếu nh trớc đây phép biện chứng đôi khi do các nhà duy tâm nghiên cứu và các nhà duy vật dù là phản đối phép siêu hình thì bây giờ phép biện chứng đó đã tìm thấy ngời bạn đồng hành tin cậy duy nhất của mình là chủ nghĩa duy vật. Nếu nh trớc đây lý luận và phơng pháp đôi khi bị tách rời nhau, thì bây giờ chúng đẫ trở thành sự thống nhất gắn bó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong phép biện chứng duy vật đã trở thành học thuyết thống nhất của tồn tại và nhận thức, trở thành phơng pháp luận chung nhất của việc nhận thức và cải tạo thế giới. Lênin khẳng định phép biện chứng duy vật là”học thuyết về sự phát triển, dới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện” Phép biện chứng duy vật không giống bất cứ một học thuyết triết học nào khác, bởi vì nó không phải là sản phẩm của phơng pháp t duy mà nó là sự phản ánh khách quan thế giới vật chất, là sự kích thích những giá trị t tuởng, văn hoá nhân loại, nó kế thừa tiếp thu có phân hoá những hạn chế của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch sử, đồng khái quát những thàng tựu mới nhất của khoa học tự nhiên. Học thuyết đó luôn lấy thực tiễn làm cơ sở, điểm xuất phát của mình. Thực tiễn vừa là cơ sở, vừa là mục đích, động lực, tiêu chuẩn để đánh giá sức bền của nó. Chính hơi thở của thực tiễn đã làm cho phép biện chứng duy vật luôn sống động, phát triển. Lênin chỉ rõ: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Trong quá trình xây dựng hệ thống triết học của mình các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác luôn đấu tranh không khoan nhợng chống lại mọi luận điệu xuyên tạc của kẻ thù và bảo vệ những quan điểm khoa học của mình. Vấn đề thứ nhất: Hàng hoá và sản xuất hàng hoá. Để thực hiện cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị, trước hết Mác đã bắt đầu từ việc nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng cách tiếp cận vào sản xuất hàng hoá. Sở dĩ Mác lựa chọn cách này vì ông cho rằng, một mặt sản xuất hàng hoá là cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản, mặt khác sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất hàng hoá phát triển cao và hàng hoá là một hình thái nguyên tố của của cải trong xã hội tư bản. Hàng hoá mà Mác lấy làm điểm xuất phát để nghiên cứu chứa đựng mầm mống mâu thuẫn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phương pháp nghiên cứu đó của Mác thực sự khoa học, vừa logic, vừa hợp lịch sử. Theo Mác, hàng hoá là một sản phẩm của lao động để có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người và dùng để trao đổi với nhau. Sản xuất hàng hoá là một phạm trù lịch sử, chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện: Sự phân công lao động xã hội và tính tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng "mông muội", xoá bỏ dần nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và kinh tế của xã hội. Vấn đề thứ hai: Hai thuộc tính của hàng hoá. Theo Mác, trong lịch sử có ba loại hình sản xuất hàng hoá gồm: sản xuất hàng hoá giản đơn, sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa và sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa. Ba loại hình sản xuất hàng hoá này tuy có bản chất khác nhau nhưng hàng hoá đều có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của một vật là do công dụng của vật đó mang lại, để thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người. giá trị sử dụng chỉ được thể hiện khi sử dụng hay tiêu dùng hàng hoá. Nó là nội dung của của cải, không kể hình thức xã hội của cải đó như thế nào. Với ý nghĩa như vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Nhưng không phải vật nào có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi trước hết là tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác. Ví dụ 1 rìu = 20 kg thóc. Sở dĩ hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau như rìu và thóc lại có thể trao đổi được với nhau vì giữa chúng có một cái chung. Đó là chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra rìu và thóc, người thợ thủ công và người nông dân đều phải hao phí lao động. Hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh rìu với thóc, để trao đổi chúng với nhau. Sở dĩ phải trao đổi theo tỷ lệ nhất định vì người lao động sản xuất ra rìu và người lao động sản xuất ra thóc cho rằng hao phí lao động để sản xuất ra 1 cái rìu bằng hao phí lao động để sản xuất ra 20 kg thóc. Vậy, "giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá được kết tinh trong hàng hoá". Vật gì không chứa đựng lao động của con người sẽ không có giá trị. Giá trị trao đổi chính là hình thức biểu hiện của giá trị. Từ sự phân tích ở trên có thể thấy, thực chất của hoạt động trao đổi là sự so sánh lao động trao đổi giữa những người sản xuất với nhau. Vì vậy, giá trị biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá, quan hệ giữa người với người không còn là quan hệ "thuần tuý" mà còn là quan hệ giữa vật với vật bằng lợi ích kinh tế. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với sản xuất hàng hoá. Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì còn tồn tại phạm trù giá trị. Như vậy, giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính của hàng hoá. Từ việc phân tích bản chất của hàng hoá được thể hiện ở sự thống nhất chặt chẽ, nhưng lại mâu thuẫn giữa hai thuộc tính này, Mác đã lần ra được tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Vấn đề thứ ba: Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Theo Mác, sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính như trên vì lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Mác chính là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động, và Ông nhấn mạnh rằng đấy là điểm xuất phát để hiểu KTCT. Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định, có mục đích riêng, đối tượng riêng, thao tác riêng, phương tiện riêng và kết quả riêng. Chính cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Ví dụ như lao động cụ thể của người thợ máy, thợ dệt, thợ cơ khí... Mỗi lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định. Tất cả lao động cụ thể các loại hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, những hình thức của lao động cụ thể phụ thuộc vào sự phát triển của kỹ thuật, của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Ví dụ như lao động khai thác mỏ trước kia là lao động thủ công, ngày nay là lao động cơ khí, khoa học kỹ thuật càng phát triển thì các hình thức lao động cụ thể càng phong phú và đa dạng. Lao động cụ thể khác nhau làm cho các hàng hoá khác nhau về giá trị sử dụng. Nhưng giữa những hàng hoá đó có điểm chung giống nhau, nhờ đó, có thể trao đổi được với nhau, đó là giá trị do lao động trừu tượng tạo nên. Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá đã gạt bỏ hình thức biểu hiện cụ thể của nó để quay về cái chung đồng nhất, đó là sự hao phí sức lao động, tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh của con người. Mác viết: "Nếu như không kể đến tính chất nhất định của hoạt động sản xuất và do đó đến tính có ích của lao động thì trong lao động ấy chỉ còn lại có một cái là sự tiêu phí sức lao động của con người". Nếu lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng thì lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hoá. Chỉ có sản xuất sản phẩm để bán thì lao động sản xuất hàng hoá mới có tính chất là lao động trừu tượng. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá phản ánh tính chất tự nhiên và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hoá. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của mỗi người. Họ là người sản xuất độc lập. Lao động của họ vì vậy có tính tư nhân và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân. Mặt khác, lao động của người sản xuất hàng hoá lại là lao động xã hội, là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công xã hội. Sự phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá về sản xuất lẫn tiêu dùng. Việc trao đổi hàng hoá không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy lao động cụ thể về lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội. Trong nền sản xuất hàng hoá, giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn. Đó là hai mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn: Mâu thuẫn thứ nhất là sản phẩm do người sản xuất hàng hoá nhỏ tạo ra và nhu cầu của xã hội không ăn khớp nhau, có thể không đủ cung cấp cho xã hội, hoặc vượt quá nhu cầu xã hội. Khi sản xuất lớn hơn nhu cầu sẽ dẫn đến một số hàng hoá không bán được, nghĩa là không thực hiện được giá trị . Mâu thuẫn thứ hai là mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hoá cao hơn so với mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận. Khi đó, hàng hoá một là không bán được (đúng với mức lao động tiêu hao), hai là nếu bán được thì không thu hồi đủ lao động bỏ ra. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội chứa đựng khả năng "sản xuất thừa" và là mầm mống của mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản . Vấn đề thứ tư: Lượng giá trị hàng hoá. Như trên đã phân tích, giá trị hàng hoá là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Vậy lượng giá trị hàng hoá là do lượng lao động tiêu hao để làm ra hàng hoá đó quyết định. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính theo thời gian lao động. Trong điều kiện thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hoá, nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau, do đó thời gian lao động để sản xuất ra hàng hoá là không giống nhau, tức là hao phí lao động cá biệt khác nhau. Như vậy, lượng giá trị hàng hoá không phải tính bằng thời gian lao động cá biệt mà tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. "Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động đòi hỏi để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó, trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với một trình độ thành thạo trung bình và có một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó". Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá do thời gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận loại hàng hoá đó trên thị trường quyết định. Tuy nhiên, thời gian lao động xã hội cần thiết là một lượng không cố định và do đó, lượng giá trị hàng hoá cũng không cố định mà nó phụ thuộc vào năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động xã hội được đo bằng số sản phẩm được tạo ra trong một đơn vị thời gian hay số thời gian lao động để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động càng cao, thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng ít, khối lượng lao động kết tinh trong một đơn vị sản phẩm càng nhỏ và do đó, giá trị của sản phẩm càng bé và ngược lại. Như vậy, lượng giá trị của một hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Lượng giá trị hàng hoá là do thời gian lao động xã hội cần thiết quyết định. Vậy làm thế nào để trao đổi ngang giá những hàng hoá là sản phẩm của lao động phức tạp, phải tốn công đào tạo, học tập rèn luyện, với hàng hoá là sản phẩm của lao động giản đơn, chỉ cần có sức lao động bình thường cũng tạo ra được. Theo Mác: "Lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn được nhân lên, thành thử một lượng lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương đương với một lượng lao động giản đơn lớn hơn". Như vậy, khi trao đổi, người ta lấy lao động giản đơn làm đơn vị tính toán và quy tất cả lao động phức tạp thành lao động giản đơn. Tuy nhiên lao động giản đơn ở đây phải được hiểu là lao động giản đơn trung bình xã hội cần thiết. Từ đó lượng giá trị hàng hoá được đo bằng thời gian lao động giản đơn trung bình xã hội cần thiết. Tiếp theo, một vấn đề được đặt ra là lượng giá trị hàng hoá sẽ bao gồm những gì? Theo Mác, để sản xuất hàng hoá không chỉ cần lao động sống (lao động hiện tại), mà còn cần cả các yếu tố sản xuất khác như công cụ , nguyên nhiên vật liệu (lao động vật hoá). Do đó, lượng giá trị hàng hoá bao gồm cả giá trị cũ, tức là giá trị những tư liệu sản xuất được dùng để sản xuất hàng hoá (C), và giá trị mới, tức là hao phí lao động sống của người sản xuất hàng hoá trong quá trình tạo ra sản phẩm (V + M). Tức lượng giá trị hàng hoá = c + v + m. Như vậy, từ việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, Mác đã tìm ra được những bộ phận cấu thành lượng giá trị hàng hoá. Ông đã khẳng định rằng lượng giá trị hàng hoá được đo bằng thời gian lao động giản đơn trung bình xã hội cần thiết (hao phí lao động xã hội cần thiết). Từ đó, Mác đã tìm ra quy luật giá trị , quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vấn đề thứ năm: Quy luật giá trị . Trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, sản xuất là việc riêng của từng người nên nhìn bề ngoài tưởng như họ hoàn toàn hoạt động tự do, không bị ràng buộc bởi một sức mạnh nào. Sự thực, mọi hoạt động của họ trong lĩnh vực sản xuất, lưu thông đều bị quy luật giá trị chi phối. Quy luật giá trị là quy luật kinh tế khách quan, quan trọng của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nó quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị . Giá cả thị trường lên xuống một cách tự phát xoay quanh giá trị hàng hoá và biểu hiện sự tác động của quy luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hoá: giá cả của hàng hoá phụ thuộc vào giá trị . Hàng hoá nào có hao phí lao động để sản xuất ra nó nhiều thì giá trị cao và do vậy, giá cả thị trường sẽ cao và ngược lại. Ngoài ra giá cả còn phụ thuộc vào quan hệ cung cầu, tình trạng độc quyền. Theo Mác, đây là vẻ đẹp của quy luật giá trị . Đối với mỗi hàng hoá riêng biệt, giá cả của nó có thể cao hơn, thấp hơn hoặc bằng giá trị của nó, nhưng tổng giá cả = tổng giá trị . Trên cơ sở việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động, từ sự phân tích về lượng giá trị hàng hoá và quy luật giá trị của sản xuất và trao đổi hàng hoá, Mác đã khái quát được lượng giá trị hàng hoá = c + v + m, trong đó: C - tư bản bất biến. Theo Mác , tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và di chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. V - tư bản khả biến. Đây là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động, không tái hiện ra nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng. M - giá trị thặng dư. Đây là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không . Từ đó ta thấy rằng, tham gia vào việc tạo ra giá trị thặng dư bao gồm hai yếu tố là tư bản khả biến và tư bản bất biến, trong đó tư bản khả biến dùng để mua sức lao động có vai trò trực tiếp, còn tư bản bất biến đóng vai trò gián tiếp. Nếu ký hiệu giá trị thặng dư là M, thì giá trị mới sẽ là v + m. Vậy, giá trị của hàng hoá được sản xuất trong các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa được tách ra thành ba bộ phận là c, v và M. Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động thể hiện trong hàng hoá đã giúp Mác tìm ra chiếc chìa khoá để xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến (Mác là người đầu tiên chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến). Sự phân chia đó đã vạch rõ thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa, chỉ có lao động của công nhân (kể cả số công nhân trí tuệ cao làm thuê) mới trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Mác cũng đã tìm ra quy luật tích luỹ tư bản ngày càng tăng. Để tăng thêm quy mô của giá trị thặng dư, các nhà tư bản đã không ngừng mở rộng sản xuất, không chỉ tiến hành tái sản xuất giản đơn mà là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất theo quy mô lớn hơn trước, với một lượng tư bản lớn hơn trước. Muốn vậy, phải biến một lượng giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Và việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản, hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản. Tích luỹ tư bản chính là tư bản hoá giá trị thặng dư. Khi quy mô của tư bản tăng lên thì cấu tạo của tư bản cũng có sự thay đổi và Mác sử dụng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản, ký hiệu là c/v, để phản ánh một quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản , cấu tạo hữu cơ của tư bản luôn tăng lên. Tóm lại, từ việc phân tích tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, Mác đã tìm ra được quy luật giá trị thặng dư và quy luật tích luỹ tư bản ngày càng tăng trong sản xuất tư bản chủ nghĩa để từ đó vạch trần bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa đối với công nhân làm thuê. Tiếp tục quá trình nghiên cứu về kinh tế chính trị, xuất hiện các học thuyết kinh tế của các trường phái kinh tế chính trị sau Mác. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, những khó khăn về kinh tế và những mâu thuẫn vốn có và thất nghiệp ngày càng tăng lên làm cho mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng trở nên phức tạp và gay gắt. Trong thời kỳ này, sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác với bản chất cách mạng và khoa học đã chỉ ra xu hướng vận động tất yếu của xã hội loài người. Vì vậy nhiều trường phái tư sản mới xuất hiện như trường phái tân cổ điển, bao gồm trường phái "giới hạn" thành Viên ( áo), trường phái "giới hạn" Mỹ,..., trường phái Keynes, trường phái theo "chủ nghĩa tự do mới",... Tuy ra đời và phát triển sau học thuyết kinh tế chính trị Mac - xit nhưng những lý luận của các trường phái này vẫn không nhận ra được tính đúng đắn, tính khoa học của lý luận Mác. Họ vẫn rơi vào những sai lầm ấu trĩ trong lý luận ở một số điểm cụ thể như sau: - Trường phái tân cổ điển ủng hộ tự do cạnh tranh, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế . Họ tin tưởng chắc chắn vào cơ chế thị trường tự phát sẽ đảm bảo thăng bằng cung cầu, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển. Ngoài ra, họ dựa vào yếu tố tâm lý chủ quan để giải thích các hiện tượng và quá trình kinh tế - xã hội. Lý thuyết này phủ nhận lý thuyết giá trị lao động của Mác, cho rằng ích lợi quyết định giá trị . Quan điểm sai lầm này lại tiếp tục được vận dụng trong lý thuyết "năng suất giới hạn" của trường phái giới hạn Mỹ. - Trường phái Keynes tuy có đóng góp rất nhiều cho lý luận kinh tế chính trị học nhưng họ vẫn có những hạn chế: tư tưởng "lạm phát có điều tiết" của Keynes góp phần làm tăng sự trầm trọng của lạm phát, một căn bệnh nan giải của kinh tế hiện đại. Ngoài ra, công cụ lãi suất điều tiết đầu tư cũng không có hiệu quả và nhiều khi còn có tác động ngược lại. Trong lý thuyết của Keynes có đưa ra sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế , tuy nhiên ông lại quá đề cao vai trò kinh tế của nhà nước, bỏ qua vai trò của thị trường tự do, của bàn tay vô hình, của cân bằng tổng quát. Như vậy, các nhà kinh tế chính trị học sau Mác mặc dù đã được trải qua những biến động kinh tế đa dạng mà trước đó chưa xảy ra nhưng những tư tưởng của họ vẫn chứa đựng những điểm sai lầm. Điều đó càng khẳng định công lao cũng như khả năng thiên tài của Mác trong việc nghiên cứu và đưa ra những lý luận, quan điểm phù hợp với sự vận động, phát triển của nền kinh tế. Và như vậy, một lần nữa ta khẳng định luận điểm nổi tiếng của Mác: "Tôi là người đầu tiên đã phát hiện ra tính hai mặt của lao động và toàn bộ khoa kinh tế chính trị xoay quanh vấn đề này".
File đính kèm:
- tieu_luan_hang_hoa_gia_ca_va_gia_tri.pdf