Tiểu luận Hàng hóa sức lao động

pdf 14 trang yenvu 13/08/2024 580
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Hàng hóa sức lao động", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Hàng hóa sức lao động

Tiểu luận Hàng hóa sức lao động
Tiểu luận 
Hàng hóa sức lao 
động 
 Lời mở đầu 
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta dần dần chuyển 
nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị 
trường, nhiều thị trường của nước ta đã từng bước được hình 
thành và phát triển, song trình độ phát triển còn thấp so với các 
nước và sự phát triển của nó còn thiếu đồng bộ. Một trong 
những thị trường được hình thành đó là thị trường sức lao động 
(hay còn gọi là thị trường lao động). Cho đến nay vẫn còn chưa 
có nhận thức rõ và thống nhất về thị trường sức lao động. Trước 
đổi mới, chúng ta hầu như không thừa nhận thị trường sức lao 
động. Trong điều kiện hiện nay, việc thừa nhận nó là tất yếu. Bộ 
Luật Lao động đã được ban hành ngày 23/6/1994 và tiếp đó là 
một loạt các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Bộ 
Luật Lao động đã có những tác động tích cực đến việc hình 
thành khuôn khổ pháp lý cho thị trường này. Sức lao động được 
coi là một hàng hoá đặc biệt, tiền lương được coi là mức giá của 
sức lao động và được quyết định bởi sự thoả thuận giữa hai bên. 
Cả người lao động và người sử dụng lao động đều có những 
quyền cơ bản đảm bảo cho việc tham gia thị trường lao động. 
Để hiểu rõ hơn vấn đề nên em chọn nghiên cứu đề tài: “Hãy 
chứng minh sức lao động là hàng đặc biệt, ý nghĩa nghiên 
cứu vấn đề” 
Nội dung 
I. sự chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá 
1. Khái niệm sức lao động: 
Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ 
thể con người, nó được vận dụng vào quá trình lao động sản 
xuất. 
2. Những điều kiện biến sức lao động thành hàng hoá 
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố 
hàng đầu của quá trình lao động sản xuất. Nhưng không phải 
bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá. Sức lao động chỉ biến 
thành hàng hoá khi có hai điều kiện sau: 
Một là; người lao động phải được tự do về thân thể, do đó 
có khả năng chi phối sức lao động của mình. Sức lao động chỉ 
xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá, nếu nó do bản 
con người có sức lao động đưa ra bán. Muốn vậy, người có sức 
lao động phải có quyền sở hữu năng lực của mình. Việc biến sức 
lao động thành hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu 
nô và chế độ phong kiến. 
Hai là; người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất 
không thể tự tiến hành lao động sản xuất. Chỉ trong điều kiện ấy, 
 người lao động mới buộc phải bán sức lao động của mình, vì 
không còn cách nào khác để sinh sống. 
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu đẫn đến 
chỗ sức lao động biến thành hàng hoá. 
 Dưới chủ nghĩa tư bản, đã xuất hiện đầy đủ hai điều kiện 
đó. Một mặt, cách mạng tư sản đã giải phóng người lao động 
khỏi sự lệ thuộc về thân thể vào chủ nô và chúa phong kiến. Mặt 
khác, do tác động của quy luật giá tr ị và các biện pháp tích luỹ 
nguyên thuỷ của tư bản đã làm phá sản những người sản xuất 
nhỏ, biến họ trở thành vô sản và tập trung tư liệu sản xuất vào 
trong tay một số ít người. Việc mua bán sức lao động được thực 
hiện dưới hình thức thuê mướn. 
Quan hệ làm thuê đã tồn tại khá lâu trước chủ nghĩa tư 
bản, nhưng không phổ biến và chủ yếu được sử dụng trong việc 
phục vụ nhà nước và quốc phòng. Chỉ đến chủ nghĩa tư bản nó 
mới trở nên phổ biến, thành hệ thống tổ chức cơ bản của toàn bộ 
nền sản xuất xã hội. Sự cưỡng bức phi kinh tế được thay thế 
bằng hợp đồng của những người chủ sở hữu hàng hoá, bình 
đẳng với nhau trên cơ sở “thuận mua, vừa bán”. Điều đó đã tạo 
ra khả năng khách quan cho sự phát triển tự do cá nhân của các 
công dân và đánh dấu một trình độ mới trong sự phát triển tự do 
cá nhân của các công dân và đánh dấu một trình độ mới trong sự 
phát triển của văn minh nhân loại. 
Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện chủ yếu 
quyết định sự chuyển hoá tiền thành tư bản. 
 II. hàng hoá Sức lao động là hàng hoá đặc biệt 
Cũng như mọi hàng hoá khác, hàng hoá - sức lao động 
cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. 
- Giá trị hàng hoá sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao 
động cũng giống như các hàng hoá khác được quy định bởi số 
lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản 
xuất ra sức lao động. Nhưng, sức lao động chỉ tồn tại trong cơ 
thể sống của con người. Để sản xuất và tái sản xuất ra năng lực 
đó, người công nhân phải tiêu dùng một số lượng tư liệu sinh 
hoạt nhất định. Như vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để 
sản xuất ra sức lao động sẽ quy thành thời gian lao động xã hội 
cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy, hay nói một 
cách khác, số lượng giá trị sức lao động được xác định bằng số 
lượng giá trị những tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống của 
người có sức lao động ở trạng thái bình thường. 
Khác với hàng hoá thông thường, giá trị hàng hoá sức lao 
động bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó thể hiện ở 
chỗ: nhu cầu của công nhân không chỉ có nhu cầu về vật chất 
mà còn gồm cả những nhu cầu về tinh thần (giải trí, học 
hành,). Nhu cầu đó, cả về khối lượng lẫn cơ cấu những tư liệu 
sinh hoạt cần thiết cho công nhân không phải lúc nào và ở đâu 
cũng giống nhau. Nó tùy thuộc hoàn cảnh lịch sử của từng nước, 
từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được của 
mỗi nước, ngoài ra còn phụ thuộc vào tập quán, vào điều kiện 
địa lý và khí hậu, vào điều kiện hình thành giai cấp công nhân. 
 Nhưng, đối với một nước nhất định và trong một thời kỳ 
nhất định thì quy mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người 
lao động là một đại lượng nhất định. Do đó, có thể xác định do 
những bộ phận sau đây hợp thành: một là, giá trị những tư liệu 
sinh hoạt cần thiết để duy trì sức lao động của bản thân người 
công nhân; hai là, phí tổn học việc của công nhân; ba là, giá trị 
những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho gia đình người công nhân. 
Như vậy, giá trị sức lao động bằng giá trị những tư liệu 
sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao 
động cho người công nhân và nuôi sống gia đình của anh ta. 
 Để nêu ra được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong 
một thời kỳ nhất định, cần nghiên cứu sự tác động lẫn nhau của 
hai xu hướng đối lập nhau. Một mặt là sự tăng nhu cầu trung 
bình xã hội về hàng hoá và dịch vụ, về học tập và trình độ lành 
nghề, do đó làm tăng giá trị sức lao động. Mặt khác là sự tăng 
năng suất lao động xã hội, do đó làm giảm giá trị sức lao động. 
Trong điều kiện tư bản hiện đại, dưới tác động của cuộc cách 
mạng khoa học – kỹ thuật và những điều kiện khác , sự khác 
biệt của công nhân về trình độ lành nghề, về sự phức tạp của lao 
động và mức độ sử dụng năng lực trí óc và tinh thần của họ tăng 
lên. Tất cả những điều kiện đó không thể không ảnh hưởng đến 
các giá trị sức lao động. Không thể không dẫn đến sự khác biệt 
theo ngành và theo lĩnh vực của nền kinh tế bị che lấp đằng sau 
đại lượng trung bình của giá trị sức lao động. 
 - Giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động. Giá trị sử dụng 
của hàng hoá sức lao động cũng giống như các hàng hoá khác 
chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá 
trình người công nhân tiến hành lao động sản xuất. 
 Nhưng tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động được 
thể hiện đó là: 
Thứ nhất, sự khác biệt của giá trị sử dụng của hàng hoá 
sức lao động so với giá trị sử dụng của các hàng hoá khác là ở 
chỗ, khi tiêu dùng hàng hoá sức lao động, nó tạo ra một giá trị 
mới lớn hơn giá trị của thân giá trị sức lao động. Phần lớn hơn 
đó chính là giá trị thặng dư. Như vậy, hàng hoá sức lao động có 
thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó là đặc điểm cơ bản 
nhất của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động so với các 
hàng hoá khác. Nó là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn của 
công thức chung của tư bản. Như vậy, tiền chỉ thành tư bản khi 
sức lao động trở thành hàng hoá. 
Thứ hai, con người là chủ thể của hàng hoá sức lao động vì 
vậy, việc cung ứng sức lao động phụ thuộc vào những đặc điểm 
về tâm lý, kinh tế, xã hội của người lao động. Đối với hầu hết 
các thị trường khác thì cầu phụ thuộc vào con người với những 
đặc điểm của họ, nhưng đối với thị trường lao động thì con 
người lại có ảnh hưởng quyết định tới cung. 
 III. ý nghĩa nghiên cứu vấn đề 
Việc nghiên cứu hàng hoá sức lao động có ý nghĩa quan 
trọng trong việc xây dựng thị trường lao động ở Việt Nam. Đảng 
 và Nhà nước ta đã thừa nhận sức lao động là hàng hoá (khi có 
đủ các điều kiện trở thành hàng hoá) cho nên việc xây dựng thị 
trường sức lao động là tất yếu. Phát triển nền kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề cốt lõi, trọng tâm của 
Đảng ta. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở 
nước ta đòi hỏi phải có sự phát triển đồng bộ các loại thị trường 
và Nghị quyết Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh phải tiếp tục tạo 
lập đồng bộ các yếu tố thị trường, thị trường lao động từ chỗ 
không tồn tại đã bắt đầu hình thành và phát triển. 
Thị trường sức lao động là thị trường mà trong đó các dịch 
vụ lao động được mua bán thông qua một quá trình để xác định 
số lượng lao động được sử dụng cũng như mức tiền công và tiền 
lương. Thị trường lao động là một trong những loại thị trường 
cơ bản và có một vị trí đặc biệt trong hệ thống các thị trường của 
nền kinh tế. Quá trình hình thành và phát triển cũng như sự vận 
động của thị trường lao động có những đặc điểm hết sức riêng 
biệt. Thị trường lao động cũng như các loại thị trường khác tuân 
thủ theo những quy luật của thị trường như quy luật cung cầu, 
quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh. Điểm khác biệt lớn nhất ở 
đây là do tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động (như đã 
trình bày ở trên). 
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban 
hành hệ thống các chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển 
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tạo ra nhiều điều kiện thuận 
lợi để các ngành, cách hình thức kinh tế, các vùng phát triển, tạo 
 nhiều việc làm đáp ứng một bước yêu cầu việc làm và đời sống 
của người lao động, do đó cơ hội lựa chọn việc làm của người 
lao động ngày càng được mở rộng. Đại hội VIII của Đảng nêu 
rõ: “Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi 
nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc cho người lao 
động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân 
công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân 
bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên 
các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. 
Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Giảm đáng kể 
tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn” ( 
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, trang 114-115) 
vì vậy người lao động từ chỗ thụ động, trông chờ vào sự bố trí 
công việc của Nhà nước (trong thời kỳ bao cấp), người lao động 
đã trở nên năng động hơn, chủ động tự tìm việc làm trong các 
thành phần kinh tế. Các quan hệ lao động – việc làm thay đổi 
theo hướng các cá nhân được tự do phát huy năng lực của mình 
và tự chủ hơn trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp với quan hệ 
cung cầu lao động trên thị trường. 
Người sử dụng lao động được khuyến khích làm giàu hợp 
pháp, nên đẩy mạnh đầu tư tạo việc làm. Khu vực kinh tế tư 
nhân được thừa nhận và khuyến khích phát triển, mở ra khả 
năng to lớn giải quyết việc làm tạo ra nhiều cơ hội cho người lao 
động bán sức lao động của mình. 
 Ngày nay, vai trò của Nhà nước trong giải quyết việc làm 
đã thay đổi cơ bản. Thay vì bao cấp trong giải quyết việc làm, 
Nhà nước tập trung vào việc tạo ra cơ chế, chính sách thông 
thoáng, tạo hành lang pháp luật, xoá bỏ hàng rào về hành chính 
và tạo điều kiện vật chất đảm bảo cho mọi người được tự do đầu 
tư phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm, tự do hành nghề, hợp 
tác và thuê muớn lao động. Cơ hội việc làm được tăng lên và ít 
bị ràng buộc bởi các nguyên tắc hành chính và ý chí chủ quan 
của Nhà nước. Từng bước hình thành cơ chế phân bố lao động 
theo các quy luật của thị trường lao động, đổi mới cơ chế và 
chính sách xuất khẩu lao động. 
Theo Luật Lao động, Nhà nước đã chuyển hẳn từ cơ chế 
quản lý hành chính về lao động sang cơ chế thị trường. Việc 
triển khai bộ luật này đã góp phần quan trọng vào công cuộc xây 
dựng đất nước và ổn định xã hội trong thời gian qua. Nhà nước 
cũng đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật: Luật Đầu tư 
nước ngoài, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật khuyến 
khích đầu tư trong nước, nên đã thúc đẩy các yếu tố của các 
thị trường, trong đó thị trường sức lao động hình thành, mở ra 
tiềm năng mới giải phóng các tiềm năng lao động và tạo mở 
việc làm. Đồng thời với các cải tiến trong quản lý hành chính, 
hộ khẩu, hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, 
tiền tệ hoá tiền lương, tách chính sách tiền lương, thu nhập khỏi 
chính sách xã hội đã góp phần làm tăng tính cơ độn g của lao 
động. 
 Quan hệ cung - cầu về lao động trên thị trường sức lao 
động ở nước ta hiện nay có những biểu hiện sau: 
Một là, trên phạm vi cả nước, cung lớn hơn cầu về lao 
động và tình trạng này tiếp tục kéo dài trong những năm tới, dẫn 
đến sức ép rất lớn về việc làm, vì chúng ta thiếu vốn đầu tư 
nghiêm trọng, chiến lược lựa chọn công nghệ thích hợp chưa 
được xác định rõ ràng, cơ cấu kinh tế đang trong quá trình 
chuyển dịch, nhưng diễn ra chậm chạm và khó khăn. Cung lớn 
hơn cầu về lao động còn do lao động còn tăng với tỷ lệ cao 
3,2%-3,5%/năm, dẫn đến mỗi năm có khoảng 1,1 triệu thanh 
niên bước vào tuổi lao động. Số này tham gia vào thị trường lao 
động ngày một đông và với khả năng tự giải quyết việc làm rất 
khác nhau, nhưng có điểm thường là không được đào tạo nghề. 
Vì vậy, công tác dạy nghề và phổ cập nghề trở thành vấn đề cấp 
bách và có tính chiến lược, là khâu then chốt nâng cao chất 
lượng và sức cạch tranh của lao động trên thị trường. 
Hai là, lao động nông thôn chiếm hơn 70% lao động của 
cả nước, nếu chỉ làm thuần nông, tự cung, tự cấp, thì số lao động 
thiếu hoặc không có việc làm lên đến 30%. Số này sẽ tự phát di 
chuyển ra thành phố hoặc khu công nghiệp tập trung để tìm 
kiếm việc làm, làm cho cung về lao động trên thị trường lao 
động càng lớn. 
Ba là, quan hệ cung cầu về lao động còn căng thẳng về 
mặt kết cấu, dẫn đến tình trạng “thất nghiệp kết cấu”. Điều này 
thể hiện ở chỗ: một số ngành tiềm năng còn lớn, có khả năng 
 thành hiện thực (về vốn, kết cấu hạ tầng, kỹ thuật, công nghệ, thị 
trường tiêu thụ) như lâm nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ và du 
lịch ở một số vùng miền núi, đồng bằng sông Cửu Long, ven 
biển vẫn thiếu lao động, nhưng khả năng di dân và di chuyển lao 
động đến rất hạn chế. 
Trong khi đang có xu hướng lao động bị đẩy ra ở một số 
lĩnh vực, thì đồng thời một số lĩnh vực và hình thức khác lại 
xuất hiện khả năng thu hút thêm lao động như kinh tế hộ gia 
đình, khu vực phi kết cấu, doanh nghiệp nhỏ, nhưng lại chưa có 
chính sách khuyến khích thoả đáng. Đặc biệt là thiếu một đội 
ngũ lao động có trình độ cao để làm việc trong một số lĩnh vực 
áp dụng công nghệ mới hoặc trong các khu chế xuất, các đơn vị 
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 
Chính sự thiếu ổn định trong quan hệ cung cầu trên thị 
trường sức lao động đang là nhân tố làm cho thị trường này hoạt 
động kém hiệu quả. Người lao động khi được tiếp nhận vẫn 
chưa thực sự gắn bó và yên tâm với công việc. Người sử dụng 
lao động chưa thực sự tin tưởng vào người lao động. Hiện tượng 
này không chỉ dẫn đến mất cân đối cung cầu mà còn làm cho chi 
phí lao động tă ng lên, tiền lương không thể hiện được giá trị 
đích thực của sức lao động. Tâm lý bất ổn còn dẫn đến sức hút 
của các doanh nghiệp và tổ chức nhà nước mạnh hơn so với các 
công ty và tổ chức cá nhân, trong khi khả năng tạo thêm việc 
làm mới lại chủ yếu thuộc về khu vực tư nhân. 
 Kết luận 
Như vậy sức lao động là hàng hoá đặc biệt. Trong thời 
gian tới cần phải có những giải pháp hoàn thiện cơ chế chính 
sách đi đôi với nâng cao chất lượng nguồn lao động tạo điều 
kiện thuận lợi cho mọi người lao động được tự do bán sức lao 
động, tự do di chuyển sức lao động giữa các vùng, các miền 
khác nhau  nhằm phát huy hết tiềm năng nguồn lực lao động 
của nước ta với mục đích xây dựng một thị trường lao động sôi 
động, ổn định và có hiệu quả tác động tích cực đến sự phát triển 
kinh tế. 
Tài liệu tham khảo 
1. Giáo trình Kinh tế chính trị 
2. Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2002 
3. Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2002 
4. Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2003 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_hang_hoa_suc_lao_dong.pdf