Tiểu luận Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

pdf 14 trang yenvu 29/02/2024 1890
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Tiểu luận Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Tiểu luận: Hội nhập kinh tế quốc 
tế của Việt Nam 
1. Đặt vấn đề về đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt 
Nam
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan. 
Đây là một bước đi tất yếu, và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Đặc biệt, 
Đại hội X của Đảng đã khẳng định: “Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát 
triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách 
thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”. Theo xu thế chung của 
thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế 
quốc tế.
Chặng đường gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam từ 1986 
đến nay là một quá trình đồng hành đầy thử thách, khó khăn. Những thành công 
đạt được có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề và động lực để Việt Nam bước vào giai 
đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn. Hội nhập 
quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và 
quan hệ giữa con người với nhau. Ngày nay, quá trình hội nhập quốc tế đang 
diễn ra ngày càng nhanh hơn, mạnh hơn dưới sự tác động của nhiều nhân tố, 
trong đó kinh tế thị trường và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ 
là động lực hàng đầu.
Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra 
thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, 
thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, 
những kinh nghiệm quý bầu của các nước kinh tế phát triển và tạo được
môi 
trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn để bao giờ cũng có hai 
mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ 
thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Em xin chọn đề tài: 
“Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”. Do thời gian nghiên cứu và khả năng 
bản thân có hạn bài tiểu luận mới chỉ để cập một số vấn đề cơ bản về quá trình 
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và đề xuất một số quan điểm, giải pháp 
cá nhân để phát triển nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập kinh tế hiện nay.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế Quốc 
tế
1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là mở cửa 
kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, mở rộng 
không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong quan hệ 
kinh tế quốc tế. Hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội tại của sự 
phát triển kinh tế mỗi nước.
Hội nhập quốc tế là giai đoạn phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình áp 
dụng và tham gia xây dựng các quy tắc và luật lệ chung của cộng đồng quốc tế, 
phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những xu thế lớn và tất yếu trong quá trình 
phát triển của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế 
nhằm giải quyết những vấn đề chủ yếu:
Đàm phán cắt giảm thuế quan;
Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan;
Giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ;
Giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế;
Điều chỉnh các chính sách thương mại khác;
Triển khai các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tếcó tính chất toàn cầu.
1.2. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1. Hợp tác kinh tế song phương
Hợp tác kinh tế song phương có thể tồn tại dưới dạng một thoả thuận, một hiệp 
định kinh tế, thương mại, đầu tư hay hiệp định tránh đánh thuế hai lần, các thoả 
thuận thương mại tự do (FTAs) song phương...Loại hình hội nhập này thường 
hình thành rất sớm từ khi mỗi quốc gia có chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) được coi là cột mốc quan trọng đánh 
dấu sự thay đổi trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Đại hội được ví là 
“Đại hội của sự đổi mới”. Đại hội nhấn mạnh đến việc mở rộng giao lưu quốc tế 
để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế đất nước.
Tính đến hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước có 30 đối 
tác chiến lược, 13 đối tác toàn diện, ký kết 15 FTA ở cấp độ song phương và 
khu vực (trong đó đang thực thi 14 FTA, 1 FTA đã ký nhưng chưa có hiệu lực), 
và đang đàm phán 2 FTA. Trong số đó, nổi bật nhất là 3 FTA thế hệ mới gồm 
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp 
định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) và
Hiệp 
định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-
len (UKVFTA); và 1 FTA có quy mô lớn nhất thế giới trong khuôn khổ ASEAN 
là Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
1.2.2. Hội nhập kinh tế khu vực
Xu hướng khu vực
hóa xuất hiện từ khoảng những năm 50 của thế kỉ XX và 
phát triển cho đến ngày nay. Hội nhập kinh tế khu vực phân thành các cấp độ từ 
thấp đến cao: Khu vực Mậu dịch tự do (FTA), Liên minh Hải quan (CU), Thị 
trường chung (CM), Liên minh Kinh tế và tiền tệ (EMU).
1.3. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.1. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế
Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào 
công việc nội bộ của nhau;
Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực;
Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình;
Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Trong đó, nguyên tắc cơ bản và bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và 
định hướng Xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản 
sắc văn hoá dân tộc.
1.3.2. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế
-
Đó là sự liên hệ, phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau giữa các nền kinh tế 
quốc gia và nền kinh tế thế giới.
-
Là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại và đầu 
tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế.
-
Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh 
nhưng đồng thời cũng tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh hơn, gay gắt hơn.
-
Vừa tạo điều kiện thuận lợi
vừa yêu cầu và gây sức ép đối với các quốc gia 
trong công cuộc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế.
-
Tạo điều kiện cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ 
sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất.
-
Tạo điều kiện cho sự di chuyển hàng hóa, công nghệ, sức lao động, kinh 
nghiệm quản lý giữa các quốc gia.
1.3.3. Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế
-
Là một hình thức phát triển tất yếu và cao nhất của phân công lao động quốc 
tế;
-
Là sự tham gia tự nguyện của mỗi quốc gia thành viên trên cơ sở những điều 
khoản đã thỏa thuận trong hiệp định;
-
Là sự phối hợp mang tính chất quốc gia giữa các nhà nước độc lập có chủ 
quyền;
-
Là giải pháp trung hòa cho hai xu hướng tự do hóa thương mại và bảo hộ 
thương mại;
-
Là bước quá độ để thúc đẩy nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hóa góp 
phần giảm bớt những cuộc xung đột cục bộ, giữ gìn hòa bình, ổn định trong khu 
vực và trên thế giới.
1.3.4. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
Mở cửa thị trường cho nhau, thực hiện thuận lợi hóa, tự dó hóa thương mại và 
đầu tư.
-
Về thương mại hàng hóa: Các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như 
Quota, giấy phép xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm 
dần theo lịch trình thỏa thuận.
-
Về thương mại
dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn 
phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua 
liên doanh, hiện diện.
-
Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỉ lệ 
nội địa hóa, cân
bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tê, 
khuyên khích tự do hóa đầu tư
1.4. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Mục tiêu: 
Thực
 hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị -
xã hội, 
nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ 
thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đả m phát triển nhanh 
và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa 
dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao 
uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Quan điểm chỉ đạo: 
-
Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa 
quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc 
gia -
dân tộc là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận 
dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, 
nhất là mối quan hệ giữa tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế và hội nhập kinh
tế
 quốc tế ngày càng sâu rộng.
-
Hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các 
lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế 
quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức là 
lực lượng đi đầu. Nhà nước cần tập trung khuyến khích, tạo điều kiện cho sự 
phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản 
phẩm Việt Nam, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế.
-
Bảo đảm đồng bộ giữa đổi
mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh việc đổi 
mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; chủ động xử lý các vấn 
đề nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả quá trình thực hiện cam kết 
trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là trong những lĩnh vực, 
vấn đề liên quan đến ổn định chính trị -
xã hội.
-
Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với tiến trình hội nhập kinh tế 
quốc tế, giữ vững ổn định chính trị -
xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các 
hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới. Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà 
nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị -
 xã hội; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh 
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đổi mới 
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị -
xã hội, đặc biệt là 
công đoàn, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.
Chương 2: Thực trạng quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế 
của Việt Nam
2
.1. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội 
nhập quốc tế
Đại hội VI (1986) của Đảng đã mở đầu cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. 
Cũng chính từ Đại hội VI, bước đầu nhận thức về hội nhập quốc tế của Đảng ta 
được hình thành. Đảng cho rằng, "muốn kết hợp sức mạnh với dân tộc với sức 
mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế" và "
một đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc cách mạng khoa học -
kỹ thuật đang 
diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và 
đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa các lực lượng sản xuất".
Tiếp đến Đại hội VII, tư duy về hội nhập quốc tế tiếp tục được Đảng ta khẳng 
định, đó là, "cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp 
và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng 
sản xuất và xu hướng quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới để có những chủ 
trương đối ngoại phù hợp".
Tại Đại hội VIII (1996), lần đầu tiên thuật ngữ "Hội nhập" chính thức 
được đề cập trong Văn kiện của Đảng, đó là: "Xây dựng một nền kinh tế mở, hội 
nhập với khu vực và thế giới".
Tiếp theo đến Đại hội IX, tư duy về hội nhập được Đảng chỉ rõ và nhấn mạnh 
hơn "Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập 
kinh tế quốc tế". Để cụ thể hóa tinh thần này, ngày 27/11/2001 Bộ Chính trị 
khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW "Về hội nhập kinh tế quốc tế".
Đến Đại hội X, tinh thần hội nhập từ “Chủ động” được Đảng ta phát triển và 
nâng lên một bước cao hơn, đó là "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc 
tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác".
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tư duy nhận thức của Đảng về hội 
nhập đã có một bước phát triển toàn diện hơn, đó là từ "Hội nhập kinh tế quốc 
tế" trong các kỳ Đại hội trước chuyển thành "Hội nhập quốc tế". Đảng ta đã 
khẳng định, "Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế". Khẳng định và làm sâu 
sắc hơn tinh thần này, ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị 
quyết số 22/NQ-TW "Về hội nhập quốc tế".
Như
vậy, bằng việc ban hành Nghị quyết số 22 "Về hội nhập quốc tế" cho thấy 
nhận thức của Đảng và hội nhập quốc tế đã có một quá trình phát triển ngày một 
sâu sắc, toàn diện hơn. Toàn bộ nội dung của Nghị quyết đã xác định rõ hội 
nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập 
kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh 
tế.
2
.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với các mặt của đời sống 
kinh tế
Tích cực Tiêu cực 
• Thúc đẩy xuất khẩu; 
• Thu hút đầu tư nước ngoài; 
• Tăng trưởng kinh tế, việc làm; 
• Phát triển giáo dục, văn hóa, xã hội; 
• Thay đổi hệ thống pháp lý một cách 
rõ ràng, minh bạch hơn; 
• Tái cấu trúc nền kinh tế; 
• Hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu 
vực, thế giới; 
• Nâng cao vị thế của Việt Nam trên 
trường quốc tế, thúc đẩy quan hệ với 
các đối tác chủ chốt; 
• Tăng thu nhập bình quân đầu người. 
• Nhập khẩu tăng mạnh; 
• Chịu sức ép cạnh tranh lớn từ doanh 
nghiệp nước ngoài, dẫn đến nhiều 
ngành trong nước bị ảnh hưởng do tác 
động của việc mở cửa thị trường (sắt 
thép, dầu thực vật, các mặt hàng nông 
sản, các ngành dịch vụ 
• Không gian điều chỉnh chính sách bị 
thu hẹp; 
• Thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị 
giảm; 
• Nông dân bị tổn thương từ những 
cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh 
vực nông nghiệp; 
• Tăng khoảng cách giàu nghèo; 
• Ô nhiễm môi trường. 
2.3. Những thách thức Việt Nam gặp phải khi tham gia hội nhập kinh tế 
quốc tế 
2.3.1. Sức ép cạnh tranh trên thị trường quốc tế 
Thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ một nước đang phát triển 
có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh 
nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ 
nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống 
chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh. Cho nên, nước ta sẽ gặp khó 
khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc tế ở 3 cấp độ: sản 
phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. 
- Sản phẩm: cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn cả trong và ngoài nước với nhiều 
đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn. 
-
Doanh nghiệp: đối mặt với nguy cơ rủi ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh 
nghiệp luôn hiện hữu và trở nên rất tiềm tàng.
-
Quốc gia: Xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam do Diễn đàn 
Kinh tế Thế giới (WEF), GCI 4.0 năm 2019 xếp hạng Việt Nam ở vị trí 67/141 
quốc gia trên thế giới, và đứng ở vị trí 7/9 quốc gia ASEAN (Việt Nam vẫn chỉ 
đứng trên Lào và Campuchia). Sự thăng hạng này cho thấy năng lực cạnh tranh 
toàn cầu 4.0 của Việt Nam đã
được đánh giá là cải thiện vượt trội so với những 
lần đánh giá trước đó.
2.3.2. Sự phân phối lợi ích không đồng đều giữa các khu vực, các ngành, các 
vùng miền của đất nước
Trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu 
hoá đặt ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ 
trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và 
công bằng xã hội. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn 
bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu 
nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ. Sức ép toàn diện khi nước ta thực hiện các cam kết 
với WTO sẽ đè nặng lên khu vực nông nghiệp là nơi có tới gần 70% dân số và 
lực lượng lao động xã hội, đồng thời chúng ta còn sự hạn chế lớn về sức cạnh 
tranh của hàng hóa, về sự chưa phù hợp của nhiều chính sách... Trong tình hình 
như đã nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường, làm cho sự 
phân tầng, phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân
sự 
phát triển của đất nước.
2.3.3. Sự ràng buộc về các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính -
tiền tệ, đầu tư 
khi hội nhập quốc tế
Trong quá trình hội nhập quốc tế, nước ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc 
kinh tế, thương mại, tài chính -
tiền tệ,
đầu tư... chủ yếu do các nước phát triển 
áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý 
của các nước phát triển hàng đầu.
Dựa vào sức mạnh kinh tế và mức đóng góp vốn khống chế ở các thiết chế tài 
chính, tiền tệ và thương mại quốc tế, các nước này đặt ra các “luật chơi” cho 
phần còn lại của thế giới khi tham gia IMF, WB, WTO... Tự do hoá thương mại 
và tự do hoá kinh tế, đáng lẽ phải là cái đích cần vươn tới, thì bị họ xác định như 
xuất phát điểm, như điều kiện tiên quyết
đối với các nước đang phát triển trong 
tiến trình hội nhập quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế 
và sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở nên bất bình đẳng và 
bất
 hợp lý mà dĩ nhiên phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các nước đang 
phát triển trong đó có nước ta.
2.3.4. Đội ngũ cán bộ quản lý còn non kém
Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông cán bộ của ta 
còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu 
tố nước ngoài. Mặt khác, rào cản ngôn ngữ cũng là một thách thức lớn trong quá 
trình hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu hiểu biết về thị trường thế 
giới và luật pháp quốc tế, năng lực quản lý còn yếu, trình độ công nghệ hạn chế, 
nên không nắm bắt
được cơ hội mở cửa thị trường nước ngoài để đẩy mạnh phát 
triển, không tăng được thị phần trong thương mại quốc tế. Nếu không có sự 
chuẩn bị phù hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất 
khó khắc phục.
2.3.5. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa, bình ổn chính trị và chủ quyền quốc gia
Trên lĩnh vực văn hoá, quá trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị 
các giá trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là 
các giá trị văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt,
làm tổn hại bản sắc văn hoá dân 
tộc. Chưa bao giờ văn hoá nhân loại lại đứng trước một nghịch lý phức tạp như 
trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay: vừa có khả năng giao lưu rộng mở, vừa 
có nguy cơ bị nghèo văn hoá rất nghiêm trọng.
Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp 
hơn. Vấn đề gắn an ninh, quốc phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối 
ngoại trở thành nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay của nước ta. Hội 
nhập quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc giữa các nước sẽ 
tăng lên. Sự biến động trên thị trường, cũng như tình hình chính chính trị khu 
vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống chính trị trong nước
.
Trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện 
trước thách thức của một số nguy cơ đe doạ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, 
toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà nước... Đã 
xuất hiện những mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ thấp chủ
 quyền quốc gia; lấy một thị trường không biên giới để phủ nhận tính bất khả 
xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia Hội nhập quốc tế đối với nước ta rõ 
ràng không thể tách rời cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" của các thế 
lực chống đối trên nhiều
lĩnh vực.
Hiện nay, để đất nước phát triển, tất yếu cần tăng cường hội nhập quốc tế. Thế 
nhưng, bất cứ một nguồn vốn viện trợ nào, dù ODA hay FDI, cũng sẽ kèm theo 
những
 điều kiện. Giữ vững chủ quyền quốc gia chính là việc biết chấp nhận 
những điều kiện đó, song cũng phải biết cách hạn chế tối đa những tác động 
tiêu cực của chúng.
2.4. Thành tựu và hạn chế trong thực tiễn hội nhập quốc tế của Việt Nam
2.4.1. Thành tựu
-
Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với 
các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như ADB, IMF, WB, tham gia các tổ chức 
kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa 
phương (ASEAN, AFTA, ASEM, APEC, WTO). Đặc biệt, tiến trình hội nhập 
kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan trọng khi Việt Nam chính 
thức trở thành thành viên của WTO vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm 
đàm phán gia nhập Tổ chức này;
-
Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 
189 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới 
trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định 
thương mại song phương và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương 
với các nước và các tổ chức quốc tế
-
Trong 35 năm đổi mới và
hội nhập quốc tế, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc 
hậu, quy mô nhỏ bé, đến nay GDP của Việt Nam đạt 262 tỷ USD, tăng hơn 18 
lần, đứng thứ 44 trên thế giới. Trong bảng xếp hạng chỉ số quyền lực châu Á (
Asia Power Index) năm 2020 do Viện Lowy -
viện nghiên cứu chính sách đối 
ngoại hàng đầu của Ô-xtrây-li-a công bố vào ngày 19-10-2020, Việt Nam vượt
Niu Di-lân, xếp thứ 12 về sức mạnh tổng hợp trong số 26 quốc gia, vùng lãnh 
thổ được đánh giá;
-
Về xuất nhập khẩu: Hoạt động xuất nhập khẩu gia tăng mạnh mẽ. Phát triển 
xuất khẩu đã góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, 
nhất là đối với khu vực nông thôn. Phát triển xuất khẩu cũng có tác dụng tích 
cực trong việc nâng cao trình độ của người lao động và thúc đẩy chuyển dịch cơ 
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
-
Thông qua hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã 
tiếp thu được khoa học, công nghệ mới và cách quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh 
vực, qua đó góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh 
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhờ tranh thủ được các nguồn vốn đầu tư 
và viện trợ quốc tế, nhiều lĩnh vực hạ tầng như Bưu chính viễn thông, Công 
nghệ thông tin, Giao thông vận tải đã phát triển đáng kể, tạo tiền đề và cơ sở 
quan
trọng, đáp ứng yêu cầu, tạo thuận lợi cho hội nhập ở tất cả các lĩnh vực 
khác;
-
Việc hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế đã kích thích sự thay đổi tích cực 
hơn của cơ cấu xuất khẩu, chuyển dần từ sản phẩm thô sang công nghiệp chế 
biến và sản phẩm có hàm lượng công nghệ, giá trị tăng cao hơn, thúc đẩy tái cơ 
cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững, tạo điều kiện cho nền kinh tế và các 
doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận các yếu tố đầu vào như vốn, công nghệ, kinh 
nghiệm quản lý..., thay đổi tư duy sản xuất, làm ăn mới, thúc đẩy chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh;
-
Về thu hút FDI, ODA và kiều hồi: Việt Nam không chỉ là nước nhận FDI, mà 
còn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. FDI và ODA vào Việt Nam đã góp phần thúc 
đẩy tăng GDP, tăng vốn đầu tư phát triển xã hội, tăng kim ngạch xuất khẩu, phát 
triển kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
2.4.2 . Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã nêu 
trên, quá
trình hội nhập của Việt Nam còn những hạn chế cần khắc phục trong 
thời gian tới như sau:
-
Chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có giai đoạn, có khâu còn chưa 
được triển khai đồng bộ, đầy đủ;
-
Trong một số trường hợp, hội nhập kinh tế quốc tế còn
mang tính bị động, bị 
lôi cuốn theo tình thế và yêu cầu chính trị, chưa có nghiên cứu cơ sở khoa học 
và thực tiễn trong khi mức độ sẵn sàng và sự chuẩn bị của nền kinh tế nước ta 
chưa cao;
-
Chưa có chiến lược rõ ràng, chủ động khi tham gia các Hiệp định FTA, chưa 
chuẩn bị tốt các điều kiện cơ bản trong nước và chưa có được nỗ lực chung của 
toàn xã hội để tận dụng tối đa các cơ hội mà tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 
đem lại nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu 
quả và phát triển bền vững;
-
Các lợi ích quốc gia thu được từ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chưa tương 
xứng với tiềm năng của đất nước. Các hạn chế này đã tác động bất ợi tới phát 
triển kinh tế-xã hội trong thời gian qua và có thể gây tác động bất lợi lâu dài
tới 
nền kinh tế.
Chương
 3: Đề xuất giải pháp và kiến nghị Hội nhập kinh 
tế quốc tế của Việt Nam
3.1. Các định hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
-
Kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết 08, xây dựng kế hoạch thực hiện tiếp;
-
Thường xuyên cải thiện moi trường đầu tư kinh doanh trong nước;
-
Xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các liên kết kinh tế, các FTA mới, 
các cơ chế hợp tác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng;
-
Xây dựng và triển khai chiến lược, chính sách tự vệ, bảo vệ quyền lợi chính 
đáng của nhà nước và cá nhân.
3.2. Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của 
Việt Nam
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm tới ngày một sâu 
rộng hơn, không chỉ có những thời cơ, thuận lợi mà còn phải đối mặt với nhiều 
thách thức, khó khăn. Để hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng đi vào thực 
chất, hiệu quả hơn cần:
-
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần xuất phát từ yêu cầu bên trong của đất 
nước, phù hợp với sự chuẩn bị và mức độ sẵn sàng của nền kinh tế và các doanh 
nghiệp. Cần có sự thống nhất về quan điểm, nhận thức và hành động, nhất là cần 
xây dựng các căn cứ khoa học và thực tiễn để phục vụ tiến trình hội nhập kinh tế 
quốc tế;
-
Cần đảm bảo tầm nhìn dài hạn về các mục tiêu kinh tế, chính trị ngoại giao và 
mục tiêu chiến lược tổng thể trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế;
-
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đòi hỏi mức độ cam kết cao hơn cam kết 
gia nhập WTO cả về phạm vi và mức độ. Cần chủ động xem xét xây dựng, điều 
chỉnh khuôn khổ pháp lý trong nước để vừa phục vụ nhu cầu phát triển của đất 
nước, vừa hỗ trợ và tận dụng tốt nhất các cơ hội mà tiến trình hội nhập kinh tế 
quốc tế sẽ đem lại;
-
Cần chú trọng tăng cường chất lượng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập cũng 
như nâng cao năng lực nghiên
cứu và năng lực triển khai bao gồm cả quản trị;
-
Hội nhập kinh tế quốc tế cần gắn kết hơn với đổi mới kinh tế -
xã hội trong 
nước để nâng cao hiệu quả và tăng cường thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau vì mục tiêu 
phát triển chung của đất nước, nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng;
-
Hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài hòa với hội nhập 
trong các lĩnh vực khác, nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là trọng tâm, là nội 
dung chính và quan trọng nhất của Hội nhập quốc tế;
-
Kết hợp chặt chẽ giữa Hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững độc lập 
tự chủ, chủ quyền và an ninh quốc phòng; giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh 
thái...; Hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc 
lập, tự chủ;
Kết luận đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Có thể nói, hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và 
thách thức đan xen tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. 
Đặc biệt trong hoàn cảnh dịch bệnh COVID 19 diễn biến hết sức phức tạp cả thế 
giới đang gồng mình đối phó. Nó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế 
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Vậy nên cơ hội và thách thức chỉ trở 
thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ 
quan có tính quyết định rất lớn, trước hết đó là hiệu quả hoạt động lãnh đạo của 
Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước và tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết 
của toàn dân tộc. Thực tế đã chứng tỏ việc kiên định nhất quán đường lối đối 
ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng 
mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế với chủ trương chủ động 
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu đối với 
nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá sôi động hiện nay. Những thành tựu quan 
trọng giành được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là cơ sở để đất nước ta 
vững bước trên đường hội nhập và phát triển, sớm ra khỏi tình trạng kém phát 
triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, hướng tới mục tiêu chiến lược
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_hoi_nhap_kinh_te_quoc_te_cua_viet_nam.pdf