Tiểu luận Hội nhập kinh tế quốc tế và các thách thức

pdf 48 trang yenvu 07/03/2024 1150
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Hội nhập kinh tế quốc tế và các thách thức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Hội nhập kinh tế quốc tế và các thách thức

Tiểu luận Hội nhập kinh tế quốc tế và các thách thức
Tiểu luận 
Hội nhập kinh tế 
quốc tế và các thách 
thức p.2 
Lời nói đầu 
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển 
nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra 
ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc 
cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình 
thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia 
tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước 
nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của 
nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế 
có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như 
WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn 
cầu hoá đem lại. 
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước 
cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một 
mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối 
với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nứoc 
mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị 
cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. 
Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh 
tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và 
thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội 
nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra thời cơ 
phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập 
khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học 
công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế 
phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy 
nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế 
quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng 
cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của 
Đảng: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước “, chúng ta sẽ 
khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội nhập kinh tế 
quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Đây là đề tài rất sâu 
rộng, mang tính thời sự. Đã có rất nhiều nhà kinh tế đề cập đến vấn đề 
này. Bản thân em, một sinh viên năm thứ hai, khi được giao viết đề tài 
này cũng cảm thấy rất hứng thú và say mê. Tuy nhiên do sự hiểu biết 
còn hạn chế nên em chỉ xin đóng góp một phần nhỏ suy nghĩ của 
mình. Bài viết còn có rất nhiều sai sót, em kính mong thầy giúp đỡ em 
hoàn thành bài viết tốt hơn. 
Em xin chân thành cảm ơn. 
Phần nội dung 
I. Một số vấn đề lí luận về hội nhập kinh tế quốc tế: 
1. Khái niệm: 
 Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ 
nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các 
nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả. 
2. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế: 
2.1. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế: 
 Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế 
trong khu vực cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ theo những 
nguyên tắc của các tổ chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội nhập 
kinh tế quốc tế nói chung. 
 Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập: 
- Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia; tiếp cận thị trường các 
nước, cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong 
trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát 
triển. 
 Đối với từng tổ chức có nguyên tắc cụ thể riêng biệt. 
2.2. Nội dung của hội nhập (chủ yếu là nội dung hội nhập WTO): 
 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho 
nhau, thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư: 
- Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi 
thuế quan như QUOTA, giấy phép xuất khẩu..., biểu thuế nhập 
khẩu được giữ hiện hành và giảm dần theo lịch trình thoả thuận... 
- Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với 
cả bốn phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài 
lãnh thổ, thông qua liên doanh, hiện diện 
- Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu 
cầu về tỉ lệ nội địa hoá, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp 
cận nguồn ngoại tệ, khuyến khích tự do hoá đầu tư... 
3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam: 
 Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và 
đang là 1 trong những vẫn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Nước 
nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, khó 
tránh khỏi rơi vào lạc hậu. Trái lại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế 
tuy có phải trả giá nhất định song đó là yêu cầu tất yếu đối với sự phát 
triển của mỗi nước. Bởi với những tiến bộ trên lĩnh vực khoa học 
công nghệ, đặc biệt là công nghệ truyền thông và tin học, thì giữa các 
quốc gia ngày càng có mối liên kết chặt chẽ, nhất là trên lĩnh vực kinh 
tế. Xu hướng toàn cầu hoá được thể hiện rõ ở sự phát triển vượt bậc 
của nền kinh tế thế giới. Về thương mại: trao đổi buôn bán trên thị 
trường thế giới ngày càng gia tăng. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 
hai, giá trị trao đổi buôn bán trên thị trường toàn cầu đã tăng 12 lần. 
Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Công nghiệp nhường chỗ cho 
dịch vụ. 
 Về tài chính, số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới 
đã tăng gấp 3 lần trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh 
của các tổ chức kinh tế quốc tế là một phần của quốc tế hoá. Nó góp 
phần thúc đẩy nền kinh tế của các nước phát triển mạnh hơn nữa. 
 Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hoá các nước giàu luôn có 
những lợi thế về lực lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các 
nước nghèo có nền kinh tế yếu kém dễ bị thua thiệt, thường phải trả 
giá đắt trong quá trình hội nhập. 
 Là một nước nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm bị chiến 
tranh tàn phá, Việt Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế 
hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế tự túc 
nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếp xúc với nền kinh tế thị trường rộng 
lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn. Nhưng không vì thế mà chúng ta 
bỏ cuộc. Trái lại, đứng trước xu thế phát triển tất yếu, nhận thức được 
những cơ hội và thách thức mà hội nhập đem lại, Việt Nam, một bộ 
phận của cộng đồng quốc tế không thể khước từ hội nhập. Chỉ có hội 
nhập Việt Nam mới khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để 
tạo ra những thuận lợi phát triển kinh tế. 
 Chính vì vậy mà đại hội Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt 
Nam năm 1991 đã đề ra đường lối chiến lược: “ Thực hiện đa dạng 
hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối 
ngoại “. Đến đại hội đảng VIII, nghị quyết TW4 đã đề ra nhiệm vụ: ” 
giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên 
ngoài, xây dựng một nền kinh tế mới, hội nhập với khu vực và thế 
giới “. 
3.2 Thời cơ đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập: 
 Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều 
kiện cho Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội 
của hội nhập đem lại mà Việt Nam tận dụng được một cách triệt để sẽ 
làm bàn đạo để nền kinh tế sớm sánh vai với các cường quốc năm 
châu. 
3.2.1 Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập 
khẩu của Việt Nam: 
 Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau, vì vậy, 
khi Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ 
bạn hàng. Cùng với việc được hưởng ưu đãi về thuế quan, xoá bỏ 
hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện 
cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Chỉ tính 
trong phạm vi khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) kim ngạch 
xuất khẩu của ta sang các nước thành viên cũng đã tăng đáng kể. Năm 
1990, Việt Nam đã xuất khẩu sang ASEAN đạt 348,6 triệu USD, 
nhưng đến năm 1998 đạt 2349 triệu USD. Nếu thực hiện đầy đủ các 
cam kết trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công nghiệp chế biến có 
xuất xứ từ nước ta sẽ được tiêu thụ trên tất cả các thị trường các nước 
ASEAN. Nếu sau 2000 nước ta gia nhập WTO thì sẽ được hưởng ưu 
đãi dành cho nước đang phát triển theo quy chế tối huệ quốc trong 
quan hệ với 132 nước thành viên của tổ chức này. Do vậy, hàng của ta 
sẽ xuất khẩu vào các nước đó dễ dàng hơn. Đối với các nước EU cũng 
vậy, tiềm năng mở rộng thị trường hàng hoá Việt Nam tại các nước đó 
là rất lớn. Dĩ nhiên nước ta có bán được hàng ra bên ngoài hay không 
còn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, mẫu mã...hay nói cách khác là 
sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ra sao? Nếu hàng hoá Việt 
Nam có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, giá thành rẻ...thì việc chiếm lĩnh 
thị trường thế giới là tất yếu. Nhưng do hiện nay nước ta còn thiếu 
vốn, khoa học kĩ thuật chưa được cải tiến đồng bộ, do đó chất lượng 
hàng hoá chưa cao, giá thành chưa rẻ, mặc dù có được hưởng những 
ưu đãi về thuế. 
3.2.2 Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư 
nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ 
quốc tế: 
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế 
là cơ hội để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn 
các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng 
lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta làm ra sản phẩm tiêu thụ 
trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có cơ 
hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước 
ngoài. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp trong nước huy động và 
sử dụng vốn có hiệu quả hơn. 
Hiện nay đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào 
Việt Nam, trong đó có nhều công ty và tập đoàn lớn, có công nghệ 
tiên tiến. Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong 
nước theo hướng công nghiệp, phát triển lực lượng sản xuất và tạo 
nên công ăn việc làm. Tuy nhiên kể từ giữa năm 1997 đến nay, do 
tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, đầu tư trực tiếp 
nước ngoài vào nước ta có hướng suy giảm. Tuy vậy, kim ngạch 
xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tăng 
nhanh. Nếu như năm 1991 đạt 52 triệu USD thì năm 1997 là 1790 
triệu USD. 
- Viện trợ phát triển ODA: Tiến hành bình thường hoá quan hệ tài 
chính của Việt Nam, các nước tài trợ và các thể chế tài chính tiền tệ 
quốc tế đã tháo gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng 
khích lệ, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và nâng cấp hệ 
thống cơ sở hạ tầng. Tính đến 1999, tổng số vốn viện trợ phát triển 
cam kết đã đạt 13,04 tỉ USD. Tuy nhiên, vấn đề quản lý và sử dụng 
nguồn vốn ODA còn bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là tình trạng giải 
ngân chậm và việc nâng cao hiêu quả của việc sử dụng nguồn vốn 
ODA. 
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ 
Việt Nam: Trong những năm qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ 
đối ngoại song phương và đa phương, các khoản nợ nước ngoài cũ 
của Việt Nam về cơ bản đã được giải quyết thông qua câu lạc bộ 
Paris, London và đàm phán song phương. Điều đó góp phần ổn 
định cán cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các 
chương trình phát triển kinh tế xã hội trong nước. 
3.2.3. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp 
thu khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ 
kinh doanh: 
- Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kĩ thuật, công 
nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công 
nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho công cuộc 
xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Hội nhập kinh tế quốc tế là con 
đường để khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo 
ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả . Qua đó mà các kĩ 
thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng thời 
tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kĩ thuật, công nghệ nước ngoài 
nhằm phát triển năng lực kĩ thuật, công nghệ quốc gia. Trong cạnh 
tranh quốc tế có thể công nghệ này là cũ đối với một số nước phát 
triển, nhưng lại là mới, có hiệu quả tại một nước đang phát triển 
như Việt Nam. Do yêu cầu sử dụng lao động của các công nghệ đó 
cao, có khả năng tạo nên nhiều việc làm mới. Trong những năm 
qua, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, nhất là công nghệ thông tin 
và viễn thông phát triển mạnh làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới 
và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận và phát triển mới này. Sự 
xuất hiện và đi vào hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới và 
hiện đại như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình 
Dương, Hải Phòng...và những xí nghiệp liên doanh trong ngành 
công nghệ dầu khí đã chứng minh điều đó. 
Dĩ nhiên ngoài việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo cơ hội 
tiếp nhận tiến bộ kĩ thuật và công nghệ, nước ta vẫn có thể sử dụng 
ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu để nhập công nghệ mới về phục vụ 
các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song vì nước ta còn nghèo, dự 
trữ ngoại tệ rất hạn hẹp, kinh nghiệm tiếp cận thị trường bên ngoài 
chưa nhiều, trình độ thẩm định công nghệ lại kém và khả năng 
quản lý sản xuất kinh doanh với công nghệ cao còn yếu cho nên 
còn đường thích hợp hơn với nước ta hiện nay là tiếp tục đổi mới 
cơ chế và chính sách, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để lấy lại 
nhịp độ gia tăng thu hút đầu tư trực tiếp như những năm trước, qua 
đó tiếp nhân và chuyển giao công nghệ có hiệu quả hơn. 
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác 
đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn 
cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã 
được đào tạo ở trong và ngoài nước. Bởi mỗi khi liên doanh hay 
liên kết hay được đầu tư từ nước ngoài thì từ người lao động đến 
các nhà quản ký đều được đào tạo tay nghề, trình độ chuyên môn 
được nâng cao. Chỉ tính riêng trong các công trình đầu tư nước 
ngoài đã có khoảng 30 vạn lao động trực tiếp, 600 cán bộ quản lý 
và 25000 cán bộ khoa học kĩ thuật đã được đào tạo. Trong lĩnh vực 
xuất khẩu lao động tính đến năm 1999 Việt Nam đã đưa 7 vạn 
người đi lao động ở nước ngoài. 
3.2.4. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo 
dựng môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt 
Nam trên trường quốc tế. Đây là thành tựu lớn nhất sau hơn một thập 
niên triển khai các hoạt động hội nhập. 
 Trước đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu với Liên Xô và các 
nước Đông Âu, nay đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 166 quốc 
gia trên thế giới. Với chủ trương coi trọng các mối quan hệ với các 
nước láng giềng và trong khu vực Châu á Thái Bình Dương. Chúng ta 
đã bình thường hoá hoàn toàn quan hệ với Trung Quốc và các quốc 
gia trong khu vực Đông Nam á. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan 
trọng góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng môi trường quốc tế hoà 
bình, ổn định nhằm tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát 
triển đất nước. Ngoài ra đối với Mĩ chúng ta đã thiết lập quan hệ 
ngoại giao vào năm 1955. Tháng 7 Việt Nam, Mĩ đã kí kết hiệp định 
thương mại, đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình bình 
thường hoá nối quan hệ kinh tế giữa hai nước. 
3.2.5. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn 
lực nước ta với các nước: 
 Với dân số khoảng 80 triệu người, nguồn nhân lực nước ta khá 
dồi dào. Nhưng nếu chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng 
nhân lực trong nước sẽ bị lãng phí và kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế 
quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông, giao 
lưu với các nước. Ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động 
hoặc có thể sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế 
biến hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kĩ 
thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà t a chưa có. 
4. Thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội 
nhập kinh tế quốc tế: 
 Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích 
mà còn đặt nước ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện 
pháp ứng phó tốt thì sự thua thiệt về kinh tế và xã hội có thể rất lớn. 
Ngược lại, nếu chúng ta có chiến lược thông minh, chính sách không 
khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt, dành được lợi ích nhiều hơn cho 
đất nước. 
4.1. Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay: 
 Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù đã 
có những bước tiến quan trọng về tăng trưởng kinh tế. Song chất 
lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất, sức cạnh tranh của các sản 
phẩm, các doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp. 
4.1.1. Tình trạng phổ biến hiện nay là sản xuất còn mang tính tự phát, 
chưa bám sát nhu cầu thị trường. Nhiều sản phẩm làm ra chất lượng 
thấp, giá thành cao nên giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu thụ sản 
phẩm khó khăn, thậm chí có nhiều sản phẩm cung vượt quá cầu, hàng 
tồn kho lớn. Năng lực cạnh tranh hàng hoá, dịch vụ của nước ta nói 
chung còn thấp do trang thiết bị công nghệ của nhiều doanh nghiệp 
còn yếu kém, lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 30 năm, cộng thêm 
những yếu kém về quản lý, môi trường đầu tư kinh doanh (thủ tục 
hành chính chưa thông thoáng, chính phủ đầu tư quá cao so với các 
nước trong khu vực), hạn chế về cung cấp thông tin xúc tiến thương 
mại. 
4.1.2. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, 
tỉ lệ số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ liên tục còn nhiều thực trạng 
tài chính của nhiều doanh nghiệp thực sự đáng lo ngại: nhìn chung 
thiếu vốn, nợ nần kéo dài, tổng số nợ phải thu của các doanh nghiệp 
chiếm 24% doanh thu, nợ phải trả chiếm 133% tổng số vốn nhà nước 
các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp không xác định tự lực phấn 
đấu vươn lên mà còn dựa vào sự hỗ trợ, bảo hộ của nhà nước, chưa 
tích cực chuẩn bị theo yêu cầu tiến trình hội nhập khu vực và thế giới. 
 Tuy nhiên không thể đổ lỗi hoàn toàn cho các doanh nghiệp mà 
nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Chi phí sản xuất của các 
doanh nghiệp còn lớn đang làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm 
của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ có thể giảm chi phí đầu vào 
bằng cách đầu tư công nghệ mới, thay đổi phương thức quản lý triệt 
để tiết kiệm. Song họ không thể ngăn chặn được sự gia tăng của chi 
phí đầu vào do sự leo thang giá cả của không ít loại vật tư, nguyên 
liệu, điện nước, cước phí giao thông, viễn thông. Nhất là cước phí của 
các ngành có tính độc quyền. Chẳng hạn như giá truy cập internet trực 
tiếp có mức cước cao hơn các nước trong khu vực là 139%...Thêm 
vào đó hầu hết các sản phẩm của ta dù để xuất khẩu hay tiêu dùng đều 
phải nhập ngoại nguyên, phụ liệu nên chi phí đầu vào cao. Đã vậy 
hàng nhập khẩu ngoài việc phải chịu thuế nhập khẩu còn phải chịu 
thuế VAT dù chưa có giá trị tăng thêm. Trong khi đó thời gian hoàn 
thuế giá trị gia tăng lại chậm, do vậy làm khó khăn cho doanh nghiệp 
về vòng quay vốn, chịu lãi suất ngân hàng. Ngoài ra các doanh nghiệp 
còn phải chịu chi phí do sự sách nhiễu của một số cán bộ nhà nước 
thoái hoá biến chất. Hơn nữa sự rườm rà về thủ tục hành chính, thanh 
kiểm tra chồng chéo cũng làm tăng chi phí đầu vào của các doanh 
nghiệp. Do chi phí đầu vào cao nên giá thành sản phẩm quá cao so với 
khu vực và thế giới, dẫn đến ứ đọng, khó tiêu thụ, năng lực sản xuất 
không khai thác hết làm cho nhiều doanh nghiệp thua lỗ. 
 Điều đáng lo ngại nữa hiện nay là mặc dù thời điểm hội nhập 
với khu vực và thế giới đang đến gần, song tư tưởng đòi bảo hộ, chưa 
tích cực chuẩn bị còn phổ biến ở nhiều doanh nghiệp. Theo điều tra 
của phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam mới có 84% doanh 
nghiệp điều tra trả lời là có nhận được tin về hội nhập, 16% doanh 
nghiệp chưa có hiểu biết về quá trình hội nhập. Trong các doanh 
nghiệp sản xuất hàng công nghiệp chỉ có 23,8% doanh nghiệp có hàng 
hoá xuất khẩu, 13,7% doanh nghiệp có triển vọng xuất khẩu và 62,5% 
doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng xuất khẩu. Việc Trung 
Quốc, Đài Loan gia nhập WTO, việc 6 nước thành viên ASEAN cũ 
thực hiện AFTA từ 1/1/2002 và gần đây Nhật Bản kí thoả thuận với 
Singapo về thành lập khu vực tự do thương mại giữa hai nước, cũng 
như kế hoạch thành lập khu vực tự do thương mại giữa Trung Quốc 
và ASEAN vào 2010 sẽ tạo ra 1 số tuận lợi, song sẽ làm tăng cạnh 
tranh gay gắt về kinh tế giữa các nước trong khu vực cũng như đối với 
nền kinh tế nước ta về thương mại, đầu tư. 
4.1.3. Môi trường kinh doanh đầu tư ở Việt Nam mặc dù đang được 
cải tiến song nhìn chung còn chưa thuận lợi, còn nhiều khó khăn: 
khuôn khổ pháp lý chưa đảm bảo cho cạnh tranh bình đẳng giữa các 
thành phần kinh tế, sự độc quyền trong một số lĩnh vực của một số 
tổng công ti nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng còn yếu kém, sự 
thiếu minh bạch về cơ chế chính sách, chế độ thương mại còn nặng về 
bảo hộ, thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa thông thoáng. Các thể 
chế thị trường như thị trường vốn, sức lao động, thị trường công nghệ, 
thị trường bất động sản...còn sơ khai, chưa hình thành đồng bộ. 
4.1.4. Nguồn nhân lực Việt Nam dồi dao nhưng tay nghề kém, lợi thế 
về lao động rẻ có xu hướng đang mất dần: 
 Trước mắt, do giá nhân công còn rẻ và đang có thị trường rộng 
lớn nên ngành may mặc và giầy da là hai ngành có lợi thế cạnh tranh 
cao nhất trong nhóm năm sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh 
tranh. Tuy nhiên lợi thế về nhân công rẻ đang mất dần và giá nhân 
công các ngành này hiện đang cao hơn một số nước trong khu vực. 
Hơn thế nữa, để đào tạo nghề, nâng cao kĩ năng, trình độ tay nghề cần 
phải chi phí đầu tư lớn, điều này sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng 
lên, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá. 
 Như vậy nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều yếu kém, sức 
cạnh tranh thấp. 
4.2. Những nguy cơ của Việt Nam khi tham gia kinh tế quốc tế và khu 
vực: 
4.2.1. Nếu như những ưu đãi về hàng rào thuế quan và xoá bỏ phí 
thuế quan tạo điều kiện để nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu ra 
các nước thì nó cũng gây ra những thách thức khá nghiêm trọng đối 
với các doanh nghiệp Việt Nam: 
 Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta 
phải giảm dần thuế quan và gỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, thì hàng 
hoá nước ngoài sẽ ào ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất 
kinh doanh trong nước, kéo thoe hệ quả xấu về việc làm, thu nhập và 
đời sống của người lao động. Bởi hàng hoá Việt Nam do kĩ thuật và 
công nghệ và quản lý còn kém nên chất lượng thấp, giá thành lại cao. 
Trong khi đó, nước ngoài với dây chuyền công nghệ hiện đại, tay 
nghề lao động vững vàng, trình độ quản lý cao, vốn lớn nên sản phẩm 
làm ra mẫu mã đẹp, chất lượng tốt lại không phải nộp thuế khi xuất 
khẩu sang thị trường Việt Nam nên giá thành phù hợp. Sức cạnh tranh 
bấp bênh của các doanh nghiệp trong nước được thể hiện rõ. Ví dụ 
đường của ta xuất xưởng năm 1999 là 340 – 400 USD/tấn nhưng giá 
nhập khẩu chỉ có 260 – 300 USD/tấn (giá nhập khẩu rẻ hơn giá xuất 
xưởng 20 – 30%), giá săt thép trong nước sản xuất bình quân 300 
USD/tấn nhưng nhập khẩu chỉ 285 USD/tấn, giá xi măng Việt Nam là 
840 ngàn đồng/tấn trong khi nhập khẩu chỉ có 630 ngàn đồng/tấn. 
 Với vấn đề trên, nhiều doanh nghiệp trung bình và yếu kém 
thường đòi hỏi nhà nước thi hành chính sách càng lâu càng tốt. Tuy 
nhiên nếu đứng từ góc độ lợi ích toàn cục và lâu dài của quốc gia mà 
xem xét thì nhà nước không thể và không nên đáp ứng đòi hỏi của các 
doanh nghiệp đó. Bởi Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về 
tự do hoá thương mại. Khi đã tham gia vào các tổ chức kinh tế thế 
giới. Hơn nữa, việc thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch luôn là con 
dao hai lưỡi. Một chính sách bảo hộ có chọn lọc có điều kiện có thời 
hạn thích hợp thì sẽ kích thích các nhà sản xuất trong nước khẩn 
trương đổi mới, tích cực vươn lên để có sức cạnh tranh mạnh hơn. 
Trái lại, một chính sách bảo hộ quá mức thì rất có thể trở thành gậy 
ông đập lưng ông gây thiệt hại cả về kinh tế và xã hội. Chẳng hạn như 
việc hạn chế định lượng nhập khẩu xi măng năm 1999, làm cho giá xi 
măng thông dụng cao hơn giá xi măng nhập khẩu chưa có thuế là 
50%. Do đó năm 1999, toàn bộ xã hội phải trả thêm 220 triệu USD để 
bảo hộ ngành xi măng, trong đó gần 1/2 số tiền vào túi các nhà đầu tư 
nước ngoài. 
 Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế để đi đến tự do hoá 
thương mại tức là chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang 
bằng với các nước khác. Nhưng hiện tại chúng ta vẫn còn tụt hậu khá 
xa về kinh tế (nhất là trình độ công nghệ và thu nhập bình quân đầu 
người) so với các nước trong các tổ chức kinh tế mà ta sẽ và đã tham 
gia. Chẳng hạn so vơi AFTA, thu nhập bình quân đầu người của ta 
chưa bằng 1/3 của Indonexia, 1/100 của Singapo...Đây là một thách 
thức, bất lợi lớn đòi hỏi ta phải có nỗ lực và quyết tâm cao. Đã vậy, 
trên thị trường thế giới ta mới chỉ xuất khẩu các mặt hàng sơ chế như: 
dầu thô, gạo, cà phê...còn các sản phẩm công nghiệp chế biến nhất là 
sản phẩm chất lượng cao còn ít, sức cạnh tranh yếu. Trong khi đó giá 
mặt hàng nguyên liệu và sơ chế lại bấp bênh hay bị tác động xấu, bất 
lợi cho nước xuất khẩu. 
4.2.2. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ ảnh hưởng đến quyền độc lập tự 
chủ của một quốc gia: 
 Không it ý kiến cho rằng: nước ta hiện nay với xuất phát điểm 
kinh tế quá thấp, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, thị 
trường phát triển chưa đồng bộ, một bộ phận đáng kể của nền kinh tế 
chưa thoát khỏi lối sản xuất hàng hoá nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng 
suất lao động thấp, sức cạnh tranh kém. Trong khi đó các nước đi 
trước, nhất là các cường quốc tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về 
nhiều mặt. Do đó nếu chúng ta mở rộng quan hệ với các nước đó thì 
nước ta khó tránh khỏi sẽ bị lệ thuộc về kinh tế, và từ chỗ lệ thuộc về 
mặt kinh tế có thể đi đến không giữ vững được quyền độc lập tự chủ. 
 Độc lập tự chủ về thực chất là mỗi nước cần có sự tự lựa chọn 
còn đường và mô hình phát triển của mình, tự quyết định các chủ 
trương, chính sách kinh tế – xã hội, tự đề ra mục tiêu chiến lược và kế 
hoạch trong từng thời kì và các biện pháp thực hiện mục tiêu đó. 
Nhưng độc lập tự chủ không có nghĩa là đóng cửa với thế giới. Nếu 
đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, đẩy đất 
nước vào tình trạng chậm phát triển. Khi tình trạng chậm phát triển về 
kinh tế không được sớm khắc phục thì sẽ làm xói mòn lòng tin của 
nhân dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo ra nguy cơ tư 
bên trong đối với trật tự an toàn xã hội. Trái lại, mở rộng hợp tác kinh 
tế hai bên cùng có lợi, nước ta với các nước, các tổ chức quốc tế đan 
xen lợi ích với nhau, chúng ta sẽ có thêm thế lực để củng cố độc lập 
tự chủ của đất nước. “ Quốc gia nào muốn độc lập và giàu mạnh thì 
phải buôn bán với nhiều nước, còn quốc gia nào chỉ buôn bán với một 
nước thôi thì khó tránh khỏi bị phụ thuộc vào nước duy nhất ấy “ 
(Jose Marti) 
4.2.3 Hội nhập kinh tế quốc tế ảnh hưởng tới bản sắc văn hoá dân tộc: 
 Xu thế toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập với quốc tế thông qua 
“ siêu lộ “ thông tin với mạng internet, một mặt tạo điều kiện thuận lợi 
chưa từng có để các dân tộc, cộng đồng ở mọi nơi có thể nhanh chóng 
trao đổi với nhau về hàng hoá, dịch vụ, kiến thức...Qua đó góp phần 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ, mở 
mang sự hiểu biết về văn hoá của nhau. Mặt khác, quá trình trên cũng 
làm nảy sinh mối nguy cơ ghê gớm về sự đồng hoá các hệ thống giá 
trị và tiêu chuẩn, đe doạ, làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn 
hoá, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại của nhân loại. 
 Nguy cơ nói trên lại càng tăng gấp bội khi một siêu cường nào 
đó tự xem giá trị văn hoá của mình là ưu việt, từ đó nảy sinh thái độ 
ngạo mạn và ý đồ áp đặt các giá trị của mình cho các dân tộc khác 
bằng một chính sách có thể gọi là xâm lược văn hoá với nhiều biện 
pháp trắng trợn tinh vi. Trước tình hình đó chúng ta không thể lui về 
chính sách đóng cửa, khước từ giao lưu, trao đổi, đối thoại với bên 
ngoài. Ngược lại, chúng ta, với bản lĩnh vốn có của dân tộc: “ hoà 
nhập chứ không hoà tan “, tiếp thu những yếu tố nhân bản, hợp lí, 
khoa học tiến bộ của văn hoá các nước để làm giàu bản sắc văn hoá 
dân tộc. Đây sẽ là nhân tố khơi dậy tiềm năng sáng tạo làm nên những 
giá trị vật chất và tinh thần mới trong quá trình công nghiệp hoá - hiện 
đại hoá đất nước. Tuy nhiên chúng ta cũng tỉnh táo phản đối những 
văn hoá ngoại lai không phân biệt tốt hay xấu dẫn đến mất gốc, lai 
căng về văn hoá gây hậu quả xấu về tư tưởng đạo đức của các tầng 
lớp dân cư. 
 Như vậy chỉ có trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị ưu 
tú của văn hoá dân tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân 
loại thì văn hoá Việt Nam ngày nay mới có thể đóng được vai trò vừa 
là mục tiêu, vừa là động lực và sẽ điều tiết sự phát triển của kinh tế xã 
hội. 
5. Điều kiện để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế : 
5.1 Lợi thế cơ bản của nước ta khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế : 
- Vị trí địa lý thuận lợi 
Bản chất kinh tế của vị trí địa lý là địa tô chênh lệch. Vị trí địa 
lý thuận lợi sẽ cho phép thu được địa tô chênh lệch cao và ngược lại, 
vị trí địa lý không thuận lợi chỉ đem lại địa tô chênh lệch thấp. Vị trí 
địa lý thuận lợi là lợi thế “ so sánh “ – là một yếu tố quan trọng để 
phát triển kinh tế. 
Nước ta có một vị trí địa lý rất thuận lợi đó là: 
 Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam á, là 
nơi gặp gỡ của những luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn bao 
quanh tạo nên tự nhiên Việt Nam phong phú và đa dạng. Điều này có 
tác động sâu sắc đến cơ câu, quy mô và hướng phát triển kinh tế xã 
hội của Việt Nam. 
- Việt Nam nằm ở rìa đông của bán đảo Đông Dương, trở thành một 
đầu mối giao thông quan trọng từ ấn Độ Dương tới Thái Bình 
Dương. Vị trí này cho phép nước ta có thể dễ dàng phát triển các 
kinh tế thương mại, văn hoá, khoa học kĩ thuật với các nước trong 
khu vực và trên thế giới. 
- Việt Nam nằm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế 
sôi động nhất thế giới. Điều này tạo môi trường thuận lợi để Việt 
Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động phát triển kinh tế. 
Việt Nam có điều kiện giao lưu với những thị trường sôi động, học 
hỏi được những kinh nghiệm quý báu của các “ con rồng Châu á “. 
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng: 
Việt Nam có nhiều loại tài nguyên thiên nhiên, trong đó có 
nhiều loại có giá trị kinh tế lớn nhưng chưa được khai thác hoặc 
khai thác ở mức độ thấp, sử dụng chưa hợp lý. Đây là nguồn lực 
bên trong để phát triển kinh tế, đồng thời là đối tượng đầu tư của 
Tư Bản nước ngoài. 
- Tài nguyên nhân văn phong phú: bao gồm lực lượng lao động dồi 
dào và những hệ thống giá trị do con người tạo ra trong quá trình 
phát triển lịch sử của dân tộc. Đây là đối tượng đầu tư phát triển rất 
quan trọng của Tư Bản nước ngoài 
Những lợi thế trên đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho Việt 
Nam tiến vào thế giới. 
5.2. Nhiệm vụ cần phải thực hiện khi tham gia hội nhập: 
Trong nghị quyết, bộ Chính Trị đã nêu 9 nhiệm vụ cụ thể trong 
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: 
- Tuyên truyền, giải thích rộng rãi để đạt được nhận thức và hành 
động thông nhất trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, 
doanh nghiệp và nhân dân. 
- Xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể. 
- Chủ động và khẩn trương sử dụng cơ cấu kinh tế. 
- Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nên kinh tế thị trường định 
hướng XHCN. 
- Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực vững vàng về chính trị, có đạo 
đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ. 
- Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối 
ngoại. 
- Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố 
quốc phòng an ninh. 
- Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế 
giới (WTO). 
- Kiện toàn uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. 
II. Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam: 
1. Quan điểm, mục tiêu của đảng về hội nhập kinh tế quốc tế: 
1.1. Quan điểm: 
Nhận thức được xu thế và yêu cầu chung về toàn cầu hoá của 
thời đại, đại hội VI của Đảng (12/1996) trong khi ký quyết định 
chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp 
sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN; thì cũng đồng 
thời chủ trương: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự 
phân công lao đông quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và 
khoa học kĩ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước 
ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. 
 Trong nghị quyết 07, Bộ Chính Trị đã nêu ra quan điểm chỉ đạo 
về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế: 
- Quán triệt chủ trương được xác định tại đại hội Đảng IX: Chủ động 
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa 
nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, đảm bảo độc lập tự chủ 
và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ 
gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. 
- Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp toàn dân, quá trình vừa hợp 
tác vừa đấu tranh; vừa đề phòng tư tưởng thụ động vừa phải chống 
tư tưởng đơn giản, nôn nóng... 
- Đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý phù hợp với trình độ phát triển 
của đất nước. 
1.2. Bộ Chính Trịnh: “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở 
rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để 
đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN; 
thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, 
trước mắt là thực hiện kế hoạch nhiệm vụ đưa ra trong chiến lược phát 
triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 và kế hoạch 5 năm 2001 – 2005.” 
2. Những chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy tiến 
trình hội nhập kinh tế quốc tế. 
Để thực hiện những mục tiêu theo những quan điểm trên, chính 
phủ đã ban hành những chính sách nhằmm thúc đẩy tiến trình hội 
nhập. 
- Nhà nước ban hành hệ thống luật đồng bộ bao gồm: luật đầu tư, 
luật lao động, luật thương mại, luật ngân hàng, luật hải quan, luật 
bưu chính viễn thông, luật xây dựng, luật khoa học công nghệ, luật 
tài nguyên...Sửa đổi và bổ sung pháp luật và pháp lệnh hiện hành 
về thuế, khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại 
Việt Nam...Cải tiến việc ban hành văn bản pháp luật... 
- Đối với những chính sách: Nhà nước ban hành chính sách thương 
mại, tài chính, tiền tệ, đầu tư...để kích thích mở rộng thị trường, 
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp...tạo điều kiện cho 
nước ta hội nhập kinh tế quốc tế. 
3. Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: 
3.1. Con đường hội nhập: 
 Theo quan điểm của đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng 
bước, dần dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Một lộ trình “ 
quá nóng “ về mức độ %, thời hạn mở của thị trường vượt quá khả 
năng chịu đựng của nền kinh tế sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt 
doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước, kéo theo nhiều 
hậu quả khó lường. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là lộ trình càng 
dài càng tốt, bởi kéo dài quá trình hội nhập sẽ đi liền với duy trì quá 
lâu chính sách bảo hộ bao cấp của nhà nước, gây tâm lý trì trệ, ỷ lại, 
không dốc sức cải tiến quản lý công nghệ, kéo dài tình trạng kém hiệu 
quả, yếu sức cạnh tranh của nền kinh tế. 
 Xác định lộ trình hội nhập là rất quan trọng. Đây không chỉ là 
xác định thời gian mở cửa thị trường trong nước mà còn là xác định 
mục tiêu nền kinh tế nước ta: phát huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị 
phần ngày càng lớn trên thương trường quốc tế, thâm nhập ngày càng 
nhiều vào thị trường các nước cả về hàng hoá và đầu tư dịch vụ. 
 Tháng 12/1987, Quốc hội nước ta thông qua luật đầu tư nước 
ngoài tại Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại các quan hệ 
với quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng tài chính thế giới, đến tháng 
10/1993 đã bình thường hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính 
tiền tệ lớn nhất thế giới. 
 Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày 
1/1/1996 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu 
dịch tự do ASEAN, tức AFTA. Cùng tháng 7/1995 công nghệ đã kí 
kết hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học kĩ thuật và một số 
lĩnh vực khác với công đồng Châu Âu (EU). Đồng thời bình thường 
hoá quan hệ với Mĩ. Khoảng tháng 3/1996, Việt Nam tham gia với tư 
cách thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEAM). 
Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của diễn 
đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC). Tháng 
7/2000, hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã được kí kết. 
Trước đó từ cuối năm 1994, nhà nước ta đã gửi đơn xin gia nhập tổ 
chức thương mại thế giới (WTO) và hiện đang trong quá trình đàm 
phán để được kết nạp vào tổ chức này. 
3.1.1. Việt Nam gia nhập ASEAN – Hiệp hội các nước Đông Nam á: 
3.1.1.1.Quá trình gia nhập: 
 Ngày 25/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của 
ASEAN. 
 Ngày 15/12/1995 Việt Nam chính thức tham gia thực hiện 
AFTA bằng việc kí nghị định thư tham gia hiệp định CEPT để thành 
lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN. 
 Việt Nam bắt đầu thực hiện hiệp định CEPT từ ngày1/1/1996 và 
sẽ kết thúc vào ngày 1/1/2006. 
 Tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ trình với các nước 
ASEAN bốn danh mục hàng hoá theo quy định của CEPT: danh mục 
loại trừ hoàn toàn, danh mục loại trừ tạm thời, danh mục cắt giảm 
thuế ngay, danh mục nông sản chưa chế biến và chế biến nhạy cảm 
cao. 
 Những mặt hàng đưa vào thực hiện CEPT là những mặt hàng có 
thế mạnh xuất khẩu của ta hoặc những mặt hàng chưa có trao đổi 
buôn bán gì với ASEAN. 
3.1.1.2. Những lợi ích và những bất cập đối với nước ta khi gia nhập 
ASEAN/AFTA/CEPT: 
 Những đánh giá sơ bộ về thực trạng sản xuất kinh doanh của các 
doanh nghiệp trong nước trong mối liên hệ với việc thực hiện CEPT 
cho thấy sự bất lợi của các doanh nghiệp trong nước nếu Việt Nam 
phải thực hiện cắt giảm thuế quan và bỏ các rào cản phi thuế. Hiệu 
quả sản xuất trong nước còn thấp do sự lạc hậu trong các thiết bị máy 
móc...Cơ chế KHH tập trung trong thời gian dài trước đây đã tạo cho 
các nhà sản xuất trong nước có thói quen ỷ lại vào chính sách bảo hộ 
mậu dịch, ít quan tâm đến khả năng cạnh tranh, thị trường tiêu thụ và 
vấn đề hiệu quả sản xuất. Các doanh nghiệp chưa có định hướng cụ 
thể về biện pháp điều chỉnh sản xuất để tồn tại và phát triển trong môi 
trường mở cửa không còn hàng rào bảo hộ. Nhiều doanh nghiệp 
không có định hướng xuất khẩu một cách khả thi, kế hoạch xuất khẩu 
thì chỉ là những chỉ tiêu xuất khẩu dựa trên kế hoạch về sản lượng so 
sánh với dự kiến về kế hoạch tiêu dùng trong nước mà không có 
những phân tích so sánh cụ thể dựa trên tiêu chí về giá thành, chất 
lượng, khả năng tiêu thụ. Tuy nhiên cũng có một số ngành sản xuất 
trong nước thật sự có tiềm năng cạnh tranh, một số doanh nghiệp phần 
nào nắm được một số thay đổi trong môi trường kinh doanh theo cơ 
chế thị trường, kịp thời đầu tư công nghệ mới. Đối với các ngành này 
nếu được áp dụng những biện pháp, định hướng đúng đắn và thích 
hợp thì sẽ có khả năng phát triển sản xuất và xuất khẩu. 
 Với thực trạng phát triển hiện nay của các ngành sản xuất trong 
nước, phương án thích hợp nhất để thực hiện AFTA/CEPT cần được 
lựa chọn đối với Việt Nam là Việt Nam sẽ thực hiện AFTA trong 
khuôn khổ các quy định của CEPT, đồng thời đẩy mạnh chuyển dịch 
cơ cấu phù hợp với các lợi thế tương đối của Việt Nam trong tương 
quan so sánh với các nước ASEAN; tập trung phát triển nhanh những 
ngành có lợi thế ss. Tuy nhiên vẫn tiếp tục duy trì bảo hộ có thời hạn 
hoặc theo những mức độ khác nhau cho phần lớn các ngành của nền 
kinh tế quốc dân, để có thể đạt được một trình độ phát triển nhất định 
trước khi mở cửa thị trường trong nước theo CEPT, chỉ hạn chế sản 
xuất với một số ít các ngành mà Việt Nam không có khả năng cạnh 
tranh. 
 Điều thuận lợi là hàng xuất khẩu của ta khi nhập vào các nước 
ASEAN sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi nhưng đây cũng là một vấn 
đề có những thách thức riêng của nó. Bởi khi ta được hưởng ưu đãi thì 
cũng phải dành ưu đãi về thuế suất cho bạn. Khi đó nếu hàng hoá của 
ta chất lượng không bằng bạn, giá cao hơn thì các doanh nghiệp của ta 
rất dễ mất đi thị trường trong nước. Chẳng hạn như mặt hàng gạo, 
mặc dù ta là nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới chỉ sau Thái 
Lan. Khi được hưởng thuế quan ưu đãi, kể cả sau khi đã nộp thuế 
nhập khẩu, nếu giá thành bán lẻ của gạo Thái Lan vẫn thấp hơn giá 
thành bán lẻ của ta (mà gạo Thái Lan phải ngon hơn gạo ta), thì người 
tiêu dùng với mức sống ngày càng tăng như hiện nay chọn mua gạo 
Thái Lan để ăn. Và gạo của ta lúc đó chỉ còn là thị phần của những 
người có thu nhập thấp hoặc để xuất khẩu. 
3.1.2. Việt Nam hội nhập vào APEC – Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu 
á - Thái Bình Dương: 
 Ngày 15/6/1996 Việt Nam đã làm đơn xin gia nhập diễn đàn 
hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) và 11/1998 đã trở 
thành thành viên chính thức của tổ chức này, một tổ chức hiện gồm có 
21 thành viên, trong đó bao gồm cả các nền kinh tế phát triển, đang 
phát triển và chuyển đổi (từ kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thị 
trường). Mục tiêu của APEC cũng là phát triển bền vững thông qua 
các chương trình thúc đẩy mở cửa sản xuất thuận lợi hoá thương mại 
đầu tư hợp tác kinh tế kĩ thuật theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, 
tự nguyện cônh khai và không phân biệt đối xử giữa các thành viên 
cũng như các đối tác không là thành viên. Các cam kết mang tính tự 
nguyện nhưng việc thực hiện là bắt buộc, do tuyên bố ở cấp cao và 
hàng năm được đưa ra kiểm điểm. Các vấn đề chính trị tuy được quan 
tâm nhưng thường được bàn một cách không chính thức. 
3.1.3. Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU): 
- Trên lĩnh vực thương mại, Việt Nam và các nước thuộc Liên minh 
Châu Âu (EU) đã có mối quan hệ khá lâu song chúng được phát 
triển và mở rộng trong những năm gần đây, sau khi Việt Nam và 
EU chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao 2/1990, quan hệ buôn 
bán hai chiều Việt Nam – EU có bước phát triển khả quan, kim 
ngạch xuất nhập khẩu gia tăng. Năm 1993, EU tăng gấp 10 lần 
QUOTA nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam so với năm 1992. Trị 
giá kim ngạch 2 chiều giữa Việt Nam – EU đã đạt 1 tỉ USD 
- Ngày 31/5/1995 Việt Nam và EU đã kí hiệp định khung hợp tác 
Việt Nam – EU. Ngày 17/7/1995, hiệp định khung hợp tác Việt 
Nam – EU đã được kí chính thức ở Brucxen. 
- Khi tham gia kí kết hiệp định này, Việt Nam được hưởng một số 
ưu đãi: 
- Hiệp định cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc (MNF), 
đặc biệt là quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) thường được 
dành cho các nước đang phát triển. Điều này có ý nghĩa thực tế 
lớn, vì trong khi Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO, 
Việt Nam vẫn được hưởng các quy chế ưu đãi này. Sau đó, hiệp 
định đưa ra một số biện pháp tạo điều kiện thuận lợi buôn bán, 
thương thuyết với tổ chức mậu dịch thế giới. 
- Cải thiện môi trường kĩ thuật Việt Nam thông qua việc tạo thuận 
lợi cho Việt Nam tiếp cận công nghệ EU. 
- Liên minh Châu Âu đang chuẩn bị mở một trung tâm thông tin 
thương mại của EU tại Việt Nam. 
- Các tổ chức xúc tiến thương mại của các nước Châu Âu đã và 
đang có nhiều dự án hợp tác với phòng thương mại và công 
nghiệp Việt Nam lập các trung tâm đào tạo nhà doanh nghiệp 
cho Việt Nam, tổ chức hội chợ, triển lãm Châu Âu tại Việt Nam, 
tư vấn kinh doanh, thoả thuận hợp tác, đẩy mạnh hoạt động xúc 
tiến thương mại và đầu tư. Cuối năm 1995, phòng thương mại 
và công nghiệp Việt Nam đã kí 32 bản thoả thuận với các tổ 
chức hữu quan ở nước ngoài nhằm hợp tác, đẩy mạnh, xúc tiến 
thương mại và đầu tư, trong đó có 8 bản thoả thuận được kí với 
các tổ chức EU. Hiện tại phòng thương mại và công nghiệp Việt 
Nam đang xây dựng trung tâm thông tin dữ liệu, hợp tác với 
hiệp hội thương mại nước ngoài mới thành lập tại Việt Nam. 
- Ngày 15/12/1992 hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam 
và EU đến 1/1/1993 bắt đầu có hiệu lực. Theo hiệp định này, Việt 
Nam được xuất khẩu sang EU 151 chủng loại mặt hàng, tổng số 
hạn ngạch theo hiệp định là 21298 tấn với kim ngạch khoảng 450 
triệu USD. Hiệp định hàng dệt may Việt Nam – EU đã tạo cho Việt 
Nam nhiều khả năng xuất khẩu sang EU hơn. Trong 3 năm qua, 
kim ngạch hàng dệt may xuất vào EU đã tăng từ 130 triệu USD 
năm 1992 lên 249 triệu USD năm 1993, 285 triệu USD năm 1994 
và từ 340 – 350 triệu USD năm 1995. 
- Ngày 1/8/1995 Việt Nam và EU đã kí rtao đổi thư điều chỉnh hiệp 
định, tăng hạn ngạch và biên bản thoả thuận về mở rộng thị trường 
hàng dệt may. 
Như vậy, từ khi Việt Nam kí hiệp định dệt may Việt Nam – EU, 
Việt Nam chưa phải là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế và 
do đo Việt Nam vẫn phải chịu những hạn ngạch thuế quan phi ưu đãi 
của EU. đây là những trở ngại lớn đối với xuất khẩu của Việt Nam 
vào thị trường EU từ thời điểm đó đến cuối năm 1995 sau khi hiệp 
định khung hợp tác Việt Nam – EU được kí kết. 
3.1.4. Quá trình hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO): 
 Tháng 12/1994, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập hiệp định 
chung về thương mại và thuế quan (GATT), tiền thân của tổ chức 
thương mại thế giới (WTO). Năm 1995 Việt Nam chính thức đề nghị 
gia nhập WTO. 
 WTO là tổ chức thương mại quốc tế mang tính chất toàn cầu có 
mục đích cơ bản là: thương lượng để thiết lập các luật lệ chung đảm 
bảo thông thoáng cho thương mại cũng như cho các lĩnh vực hợp tác 
kinh tế quốc tế khác, và một môi trường kinh doanh có thể dự đoán 
được, theo dõi việc thực hiện cam kết của các thành viên, đảm bảo 
tính công khai về thương mại và các luật lệ về hợp tác quốc tế WTO, 
cho phép có sự phân biệt đối xử giữa các nước thành viên và không 
phải là thành viên. 
 Việc thực hiện các cam kết mang tính ràng buộc pháp lý và nếu 
vi phạm có thể bị trả đũa. Các thành viên kém phát triển và đang phát 
triển được hưởng một số ưu đãi nhưng mức độ và thời gian hưởng ưu 
đãi trong từng lĩnh vực tuỳ thuộc vào kết quả đàm phán của từng nước 
với WTO. 
 Hiện nay Việt Nam đã tiến hành nhiều phiên họp với nhóm cộng 
tác viên về Việt Nam gia nhập WTO, tập trung vào việc minh bạch 
hoá, thương mại – dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư. Trong thời gian 
qua, một số thành viên của WTO như: EU, Mĩ, Thuỵ Sĩ...đã bắt đầu 
gửi đề nghị về đàm phán mở cửa thị trường cho Việt Nam. Tháng 
8/2000 vừa qua ta đã kí hiệp định thương mại với Hoa Kỳ: sẽ tạo điều 
kiện thuận lợi cho việc nước ta gia nhập WTO. 
3.2 Một số kết quả đã đạt được: 
 Trong tiến trình hội nhập, Việt Nam đã kí kết một số hiệp định: 
hiệp định khung Việt Nam – EU, hiệp định buôn bán hàng dệt may 
Việt Nam – EU, hiệp định Việt – Mĩ...tham gia một số tổ chức kinh tế 
khu vực và thế giới như: ASEAN, APEC...đã đưa đến cho Việt Nam 
những thành quả kinh tế rất cao. 
 Thông qua các hiệp ước song phương và đa phương đến nay, 
nước ta đã có quan hệ thương mại với 154 nước ở khắp các châu lục. 
Kim ngạch xuất khẩu của nước ta tăng từ 677,8 Rup/USD năm 1986 
lên 14,3 tỉ USD năm 2000. Trong cùng thời gian, kim ngạch nhập 
khẩu tăng từ 1,83 tỉ Rup/USD lên 15,2 tỉ USD. Từ chỗ nhập siêu 
tương đối lớn vào cuối những năm 80 đến nay, cán cân xuất nhập 
khẩu gần đạt đến độ cân bằng. Từ chỗ có rất ít mặt hàng đạt kim 
ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD đến cuối những năm 90 nước ta 
đã có những mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỉ USD như dầu thô, gạo, 
hàng dệt may, giày dép, chế biến thuỷ sản. 
 Thông qua các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, hàng hoá 
Việt Nam chiếm thị phần ngày càng lớn, tăng tính đổi mới để cạnh 
tranh của các doanh nghiệp trong nước, thu hút vốn đầu tư từ nước 
ngoài... 
III. Quan điểm có tính chỉ đạo và giải pháp thực hiện quá trình 
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: 
1. Tầm vĩ mô: 
1.1. Hệ thống pháp luật phải đồng bộ: 
- Tham gia vào hội nhập kinh tế với những nguyên tắc cơ bản của 
các tổ chức kinh tế, chúng ta phải có một hệ thống pháp luật đồng 
bộ và chặt chẽ để đảm bảo thực hiện những nguyên tắc đó. 
Nhà nước phải đề ra những bộ luật rõ ràng, cụ thể về đầu tư, 
thuế xuất nhập khẩu, quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong 
và ngoài nước...Có như vậy mới tạo ra được một môi trường thuận lợi 
để phát triển kinh tế. 
1.2. Điều chỉnh một số chính sách: 
 Một nền kinh tế muốn phát triển được không chỉ dựa vào những 
điều kiện tài nguyên thiên nhiên sẵn có mà còn cần phải có những 
quan điểm chỉ đạo, chính sách cải cách kinh tế hợp lý. Những chính 
sách đó bao gồm trên tất cả các lĩnh vực: thương mại – dịch vụ, đầu 
tư, tài chính – tiền tệ... 
1.2.1. Chính sách thương mại 
 Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những phương 
hướng để tiếp tục phát triển kinh tế trong chiến lược 10 năm 2001 – 
2010 của nước ta. Một nội dung quan trọng của hội nhập là mở của thị 
trường trong nước hướng ra thị trường quốc tế. Tức là các vấn để 
thương mại giữa các bên cần phải có sự quan tâm đặc biệt. Các cam 
kết trong các hiệp định thương mại quốc tế đặt ra những yêu cầu phải 
điều chỉnh quy chế thương mại của Việt Nam. 
 Cải cách thương mại theo hướng mở cửa và tự do hoá luôn là 
một nội dung quan trọng hàng đầu của mọi chương trình cải cách cơ 
cấu. Các quốc gia thực hiện cải cách thương mại thường nhằm 1 trong 
hai mục đích: khắc phục khủng hoảng cán cân thanh toán hoặc tạo lập 
môi trường thuận lợi cho tăng trưởng nhanh chón và bền vững. Với 
Việt Nam trong những năm qua đã thực hiện 3 cuộc cải cách thương 
mại. Cuộc cải cách lần thứ nhất từ 1988 – 1992 do tình thế cấp bách 
với mục tiêu chính là khắc phục khủng hoảng kinh tế. Lần cải cách 
thứ hai được thực hiện một cách bài bản hơn trong chương trình 
ESAF và SAC, có sự hỗ trợ của IMF và WB trong thời gian từ 1994 
đến 1997, dựa trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên sau cuộc cải cách này, 
chế độ thương mại của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế và đặt Việt 
Nam ở tư thế bất lợi vì phải mở cửa và cạnh tranh với bên ngoài. 
Đến cuộc cải cách lần thứ 3, theo chương trình PRVS và PRSC cuối 
thập kỉ 90 và đầu những năm 2000 đã thực sự đem lại cho Việt Nam 
những điều kiện thuận lợi để hội nhập: 
 Trong năm 1999, thống nhất với Nh

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_hoi_nhap_kinh_te_quoc_te_va_cac_thach_thuc.pdf