Tiểu luận Khiếu nại của công dân từ lá đơn xin minh oan cho vợ (Vụ án Dương Thị Nga)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Khiếu nại của công dân từ lá đơn xin minh oan cho vợ (Vụ án Dương Thị Nga)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Khiếu nại của công dân từ lá đơn xin minh oan cho vợ (Vụ án Dương Thị Nga)
bộ giáo dục và đào tạo HỌC VIỆN QUẢN Lí GIÁO DỤC TIỂU LUẬN Khiếu nại của công dân từ lá đơn xin minh oan cho vợ (Vụ án Dương Thị Nga) Họ và tờn : NGUYỄN TUẤN VƯƠNG Lớp : Chuyờn viờn khúa VII Hà Nội, thỏng 12 - 2006 lời cảm ơn Qua đợt học tập tại lớp bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà nước chương trình Chuyên viên chính khóa I, để hoàn thành tiểu luận này tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các Thầy Cô giáo Học viện Quản lí Giáo dục , sự quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện về thời gian, kinh phí của trường Đại học Mỏ - Địa chất cùng với tinh thần học tập nghiên cứu nghiêm túc của tập thể lớp chuyên viên khoá VII. Trong điều kiện hạn hẹp về thời gian, tài liệu và nguồn thông tin nên nội dung tiểu luận chắc chắn còn nhiều hạn chế. Vì vậy tôi mong các Thầy Cô giáo chỉ bảo, có sự cảm thông, chia sẻ và châm chước, mong được các bạn đồng nghiệp góp ý kiến để tiểu luận có thêm nội dung thiết thực. Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo, các bạn đồng nghiệp và các đơn vị đào tạo đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành tốt khoá học. Học viên Nguyễn Tuấn Vương mục lục Trang Mục lục 3 Phần mở đầu 4 I. Mô tả tình huống 6 II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống 10 III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả 11 1. Phân tích nguyên nhân 11 2. Hậu quả của sự việc trên 19 IV Kết quả của việc giải quyết tình huống 21 v Những nhận xét, đánh giá về cách xử lý tình huống đã được tiến hành trong thực tiễn. 28 VI Kết luận và kiến nghị 30 Tài liệu tham khảo 32 Lời nói đầu Từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà được thành lập năm 1945, Đảng và Nhà nước đã rất chú trọng và quan tâm đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ tiếp tục cải cách bộ máy theo quan điểm xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lợi Nhà nước thuộc về dân. Nhà nước ta thường xuyên chăm lo đến việc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhân dân có quyền nêu ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của mình đối với các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp và chính đáng theo quy định của pháp luật. Trong hiến pháp năm 1992, Nhà nước ta cũng đã xác định công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội.Tại luật khiếu nại, tố cáo cũng đề cập: công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan Nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan quản lý hành chính Nhà nước. Trước tình hình thực tế hiện nay, việc ban hành và thực hiện các quyết định hành chính ở địa phương cơ sở còn nhiều vấn đề đáng quan tâm liên quan đến quyền và trách nhiệm của công dân, đặc biệt là những khiếu nại tố cáo trong thời gian gần đây. Nguyên nhân của tình hình khiếu nại, tố cáo một mặt là do quyết định của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước (chủ yếu là cơ sở và địa phương) còn nhiều sơ hở, sai sót chưa triệt để tuân thủ pháp luật và chỉ thị của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Mặt khác, do việc chấp hành các quy định của một bộ phận công dân chưa thật sự nghiêm túc còn biểu hiện vi phạm pháp luật mà các cơ quan bảo vệ pháp luật đã phối hợp chặt chẽ trong công tác điều tra, phát hiện truy tố đưa ra xét xử nghiêm minh, rất nhiều vụ án đem lại hiệu quả lớn có ý nghĩa nghiêm chặn và giáo dục, được nhân dân đồng ý ủng hộ, tin tưởng vào sự nghiêm minh của pháp luật đã được xét xử trong thời gian diễn ra ở các địa phương trong cả nước. Đáng chú ý là đơn đề nghị minh oan cho vợ của ông Dương Văn Thực, sinh năm 1945, trú quán tại bản Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, gửi các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, các cơ quan quản lý Nhà nước, cũng như các cơ quan thông tin đại chúng. Vụ án 200.000đ do các cơ quan tiến hành tố tụng quận Hoàn Kiếm, Hà Nội điều tra, truy tố và xét xử đối với Dương Thị Nga về hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản công dân đã vấp phải sự phản đối quyết liệt của dư luận xã hội vì những kết luận thiếu căn cứ mà đã được Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội sau khi nghiên cứu, đánh giá vụ án đã có phán quyết chính thức vụ án này. Sau mỗi vụ giải quyết khiếu nại, có rất nhiều vấn đề đặt ra được nghiên cứu và trao đổi. Nhưng vấn đề đặt ra mà dư luận và các nhà quản lý quan tâm là nguyên nhân xảy ra, trách nhiệm của từng đơn vị và của từng cá nhân có liên quan, đồng thời là các biện pháp đề ra về công tác quản lý nhà nước, quản lý cán bộ công chức của các đơn vị có liên quan rút ra từ vụ việc đó. I. Mô tả tình huống 1. Tóm tắt vụ án Bà Dương Thị Nga, 47 tuổi ở xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La về viện K (Hà Nội) khám bệnh điều trị khối u vùng hạ vị (theo Giấy giới thiệu của Trung tâm y tế huyện Sông Mã ngày 14/10/2002), ngày 18/10/2002, trong lúc ngồi chờ đến lượt khám bệnh thì bà bị Đội Công an điều tra quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội đọc lệnh bắt khẩn cấp về tội: ngày 12/10/2002 bà đã lừa đảo, chiếm đoạt 200.000đ của bà Phạm Thị Lê - Theo đơn tố cáo của công dân Phạm Thị Lê, 50 tuổi, trú quán tại huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (Trung tá Bùi Đình Doãn - phó trưởng công an quận Hoàn Kiếm vì đã ký Lệnh bắt khẩn cấp và tạm giam bà Dương Thị Nga.). Ngay sau đó, bà bị Đội Công an điều tra quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội tra còng số 8 và dẫn giải về Công an phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm Hà Nội trước hàng trăm cặp mắt ngỡ ngàng của những bệnh nhân đang chờ đến lượt khám bệnh. Tại nhà tạm giam, bị can Dương Thị Nga tỏ ra ngoan cố, không chịu khai báo, không chịu thật thà nhận tội đã lừa đảo, chiếm đoạt 200.000đ của bà Phạm Thị Lê, cho nên các đồng chí công an điều tra dưới sự chỉ đạo kiên quyết và trực tiếp của thiếu tá Nguyễn Mạnh Hùng - phó trưởng Công an quận Hoàn Kiếm, các đồng chí Hà Đăng Hải - đội phó đội cảnh sát điều tra; Doãn Bửu Hiệp - đội phó đội cảnh sát điều tra; Lê Huy Dương - điều tra viên đã phải dùng nhiều biện pháp nghiệp vụ, kể cả những biện pháp mạnh để khai thác những chứng cứ về hành vi của bị can trong việc lừa đảo, chiếm đoạt 200.000 đ của công dân Phạm Thị Lê, nhằm hoàn tất hồ sơ vụ án lừa đảo, chiếm đoạt tài sản công dân trong thời gian ngắn nhất. Nhận được tin vợ mình bị bắt ở Hà Nội, ông Dương Văn Thực - chồng bà Dương Thị Nga đã gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc vợ của ông – bà Dương Thị Nga bị bắt oan, kèm theo đơn khiếu nại của ông còn có Giấy xác nhận của chính quyền địa phương – Uỷ ban nhân dân xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xác nhận rằng : Cho đến ngày 13/10/2002 bà Ngọc vẫn ở xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La nên không thể thực hiện được hành vi lừa đảo ngày 12/10/1999. Nhưng các cơ quan bảo vệ pháp luật ở quận Hoàn Kiếm vẫn kiên quyết hoàn tất và hoàn tất các thủ tục điều tra và thụ lí vụ án để có thể đưa ra xét xử trong thời gian ngắn nhất, nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân Phạm Thị Lê ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương; Mặt khác, nhằm tăng cường pháp chế XHCN, giữ nghiêm kỷ cương phép nước. Chỉ trong vòng một tháng, sau khi có kết quả điều tra của công an Quận, ông Đặng Đình Sơn - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm và bà Vũ Thị Kim Thư - Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, chịu trách nhiệm kiểm sát viên thụ lí vụ án, đã thống nhất nội dung bản cáo trạng và đề nghị Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm mở phiên toà xét xử vụ án lừa đảo, chiếm đoạt tài sản công dân. Tại phiên toà, sau khi đã thực hiện xong các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định trong Bộ luật tố tụng Hình sự, ông Vũ Ngọc Tuyên, Chánh án Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, chủ toạ phiên toà đã đưa ra căn cứ pháp lý của vụ việc là Bộ luật Hình sự, Điều139. “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Ông Vũ Ngọc Tuyên cũng tuyên rằng: Xét về nhân thân, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, cho nên Toà tuyên phạt bị cáo Dương Thị Nga 04 tháng tù giam, đồng thời bồi thường cho bà Phạm Thị Lê ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương số tiền là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Trong lúc vợ bị ngồi tù, ông Dương Văn Thực - chồng bà Dương Thị Nga vẫn kiên trì đi gõ cửa các cơ quan pháp luật, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các cơ quan thông tin báo chí để kêu oan cho vợ. Bản tin thời sự 6 giờ sáng ngày 7/1/2003 của Đài tiếng nói Việt Nam đưa ra công luận về vụ án của bà Dương Thị Nga 47 tuổi ở xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La về bệnh viện K (Hà Nội) khám bệnh bị bà Phạm Thị Lê 50 tuổi ở Đồng Quang - Gia Lộc - Hải Dương tố cáo là lừa đảo chiếm đoạt 200.000đ, sau đó bị Công an quận Hoàn Kiếm, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm và Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm bắt người, giam giữ, truy tố và xét xử với mức án 04 tháng tù giam Vụ việc bắt người, giam giữ, truy tố và xét xử oan sai kể trên lại xảy ra giữa thủ đô Hà Nội đã được dư luận xã hội, đặc biệt là nhân dân Hà Nội hết sức quan tâm; Dư luận rất bức xúc bởi lẽ: không hiểu tại sao một vụ việc bắt người, giam giữ, truy tố và xét xử oan sai kể trên lại xảy ra giữa thủ đô Hà Nội, lại do đồng thời cả ba cơ quan bảo vệ pháp luật là Công an quận Hoàn Kiếm, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm và Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm mắc sai phạm; các cơ quan đó sai phạm là do không hiểu biết pháp luật hay là do chịu sự tác động của những yếu tố khác ? II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống - Giải quyết những rắc rối trong việc bắt, giam giữ công dân, điều tra, truy tố, xét xử công dân trái pháp luật của các cơ quan bảo vệ pháp luật; - Bảo vệ lợi ích chính đáng của gia đình công dân trong việc bị bắt, bị giam giữ, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật; - Giải quyết hài hoà giữa tính pháp lý với lợi ích kinh tế của công dân; - Xử lí kỉ luật đối với những cán bộ, công chức nhà nước vi phạm pháp luật khi thực thi công vụ; - Tăng cường pháp chế XHCN, kỷ cương phép nước. III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả 1. Phân tích nguyên nhân Trước hết ta phải nắm vững quy định của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thông qua ngày 15/4/1992 (đã sửa đổi, bổ xung theo Nghị quyết số: 51, Quốc hội khoá 10, tháng 12/2001 ) . Luật khiếu nại, tố cáo đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 2/12/1998 (đã sửa đổi, bổ xung năm 2005) và luật có liên quan. Việc ông Dương Văn Thực, chồng bà Dương Thị Nga đã gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc vợ của ông – bà Dương Thị Nga bị bắt oan là việc làm đúng quy định pháp luật về các quyền công dân trong Hiến pháp năm 1992 (đã SĐ). Tại Điều 74, Chương V, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (đã SĐ) quy định: "Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác ". Liên quan đến việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tại Điều139, Chương XIII “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Liên quan đến trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định tại Điều 255, Chương XXV: ” Những bản án và quyết định được thi hành 1. Những bản án và quyết định được thi hành là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm: a) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; b) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; c) Những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. 2. Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị, kháng cáo”. Dư luận xã hội bức xúc vì một vụ việc bắt người, giam giữ, truy tố và xét xử oan sai kể trên lại do đồng thời cả ba cơ quan bảo vệ pháp luật là Công an quận Hoàn Kiếm, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm và Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm mắc sai phạm; Vấn đề xã hội quan tâm, cần được lí giải ở đây là: + Có đúng là bà Dương Thị Nga đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân hay không ? + Nếu đúng là bà Dương Thị Nga đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng số lượng tiền chiếm đoạt chỉ là 200. 000 đ, thì hành vi đó đã đủ để cấu thành tội phạm, đủ để truy cứu truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa ? + Việc làm đó có trái với quy định của Bộ luật Hình sự 1999 tại Điều139, Chương XIII “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản “ hay không ? + Nếu việc làm đó trái với quy định pháp luật (Bộ luật Hình sự 1999) thì việc giải quyết, xử lí với những cá nhân sai phạm của 3 cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ như thế nào ? Qua thực tế các cơ quan nhà nước khi giải quyết vụ việc, dù ở mức độ nào cũng phải ra quyết định, các quyết định hành chính đóng một vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, thông qua các quyết định được ban hành theo luật định, các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện thẩm quyền của mình trong việc điều hành, quyết định hành chính trực tiếp phản ánh ý chí của quyền lực nhà nước, thể hiện ý chí quyền lực đơn phương của cơ quan nhà nước, các cơ quan, tổ chức Nhà nước uỷ quyền ban hành các quyết định trên cơ sở pháp luật và nhằm thực hiện theo trình tự và hình thức văn bản theo quy định của pháp luật. Việc ban hành các quyết định hành chính là nhiệm vụ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm định ra chính sách, quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các quy định pháp luật hành chính cụ thể, nhằm thực hiện các nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của quyền hành pháp nhà nước. Do đó phải đề cao trách nhiệm vật chất cá nhân và cơ quan ra quyết định. Cấp càng cao khi ra quyết định càng đòi hỏi phải có luận cứ nghiêm túc, quyết định sáng tạo hay quan liêu phụ thuộc vào năng lực, tư duy của cá nhân và cơ quan quản lý nhà nước. Với đặc điểm như trên, quyết định hành chính là hành vi của các cơ quan hành chính Nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức được uỷ quyền nhằm đưa ra các quyết định chung hay tình trạng pháp lý cụ thể cá biệt cho công dân hay tập thể hoặc tổ chức. Nguyên tắc quản lý nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi mọi hành động của cơ quan quản lý nhà nước trong đó có hoạt động ra các quyết định hành chính phải phù hợp với pháp luật hiện hành về nội dung và trình tự ban hành, đó là mọi quyết định hành chính được ban hành trên cơ sở hiến pháp, pháp luật, văn bản của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên phải nhằm thực hiện Hiến pháp, pháp luật. Mặt khác các quyết định hành chính phải đảm bảo được nguyện vọng của nhân dân và thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể. Tuy nhiên trong thực tế còn nhiều quyết định hành chính chưa tuân thủ pháp luật của cấp trên dẫn đến tình trạng khiếu nại của công dân trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Tính hợp pháp và tính hợp lý quyết định hành chính có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, khi ban hành quyết định hành chính các cơ quan hành chính nhà nước bảo đảm được tính hợp pháp và tính hợp lý chỉ khi đó văn bản đưa ra mới có khả năng thực thi, được xã hội chấp nhận. Tính hợp pháp của quyết định hành chính được thể hiện ở chỗ các quyết định hành chính phải phù hợp với nội dung và mục đích của luật, nghĩa là các quyết định hành chính không được trái với hiến pháp, pháp luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, các quyết định đó phải được ban hành trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan hoặc chức vụ, yêu cầu này đòi hỏi mỗi cơ quan chỉ có quyền hạn ban hành quyết định, giải quyết các vấn đề nhất định do pháp luật quy định (chức năng, nhiệm vụ), không lạm quyền, lẩn tránh trách nhiệm. Việc phân định rõ thẩm quyền của mỗi cấp cơ quan nhà nước bảo đảm cho cơ quan thực hiện trách nhiệm một cách chủ động, không can thiệp trái thẩm quyền vào quyền hạn của cơ quan khác, để tránh lạm quyền, lẩn tránh trách nhiệm, làm mất trật tự trong quản lý hành chính nhà nước. Quyết định hành chính nhà nước phải được ban hành xuất phát từ những lý do xác thực, bức xúc nghĩa là chỉ khi nào trong đời sống xã hội xuất hiện có nhu cầu, các sự kiện được pháp luật quy định cần phải ban hành thi cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền mới ban hành quyết định nhằm quy định chung hoặc áp dụng pháp luật cho các trường hợp cụ thể (ví dụ như trong vụ án Dương Thị Nga). Ba ngày sau, khi vụ việc được phát trên bản tin thời sự 6 giờ ngày 7/1/2003, ngày 10/1/2003 Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã ra Quyết định số 01/KN/QĐ kháng nghị Bản án sơ thẩm số 438 ngày 2/12/2002 của Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, đề nghị Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xử lại vụ án theo trình tự giám đốc thẩm. Cùng ngày, Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã ra Quyết định số: 01/QĐ-GĐT tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù và quyết định trả lại tự do ngay cho bị cáo Dương Thị Nga). Quyết định hành chính nhà nước chỉ bảo đảm tính hợp pháp là chưa đủ mà phải bảo đảm tính hợp lý thì mới có tính thực thi cao, tính hợp lý của quyết định hành chính phải đảm bảo hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân. Yêu cầu này đòi hỏi sự cân đối hợp lý giữa Nhà nước và xã hội, coi lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích của xã hội với lợi ích của công dân là tiêu chí để đánh giá tính hợp lý của quyết định hành chính. Quyết định hành chính phải có tính cụ thể và phù hợp với từng vấn đề, với các đối tượng thực hiện, một quyết định có hiệu lực và khả năng thực thi cao khi nó ban hành đúng lúc, phù hợp với nhu cầu quản lý, trong trường hợp không cần thiết mà vẫn ban hành quyết định thì không những không mang lại hiệu quả mà thậm chí còn gây thiệt hại về vật chất và tinh thần của đối tượng quản lý. Trong trường hợp vụ án bà Dương Thị Nga, giả sử bà Dương Thị Nga có lừa đảo thật 200.00đ của bà Lê thì chỉ cần xử phạt hành chính là xong, vì theo pháp luật hiện hành thì: nếu số tiền lừa đảo chưa đến 500.000đ thì không cần thiết phải có Quyết định bắt khẩn cấp của Công an quận Hoàn Kiếm, cũng không đến mức Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm phải ra quyết định truy tố “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” ( Điều 139, BLHS 1999)”. Bà Dương Thị Nga chưa bao giờ bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản và giả sử bà Dương Thị Nga có lừa đảo thật 200.00đ của bà Lê thì cũng không thể gây ra “hậu quả nghiêm trọng”. Thế nhưng, người ta vẫn cố tình “Hình sự hoá ” một vụ việc cỏn con đó bằng sự phối hợp của 3 cơ quan với một loạt các biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật : - Quyết định bắt khẩn cấp của Công an quận Hoàn Kiếm; - Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm phải ra quyết định truy tố; - Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm mở ngay một phiên toà để xét xử và phán quyết phạt tù Dương Thị Nga 04 tháng tù giam. Chính vì các quyết định của các cơ quan thi hành pháp luật quận Hoàn Kiếm, Hà Nội ra không đúng lúc, không đúng pháp luật nên bị dư luận xã hội và nhân dân trong cả nước bất bình. Quyết định thi hành chính phải đảm bảo tính hệ thống toàn diện, nội dung quyết định phải đảm bảo các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, các biện pháp phải đồng bộ, phù hợp với biện pháp trong các quyết định có liên quan. Xem một quyết định có hợp pháp hay không khi nó đã đảm bảo tính hợp pháp, điều đó có nghĩa là trước khi ra quyết định hành chính phải hợp pháp không thể vì lý do hợp lý mà ban hành các quyết định trái với pháp luật. Đáng ra việc khiếu nại của công dân không xảy ra nếu trước đó ở một cơ quan quản lý nhà nước ra các quyết định đúng đắn, tuân thủ pháp luật, chấp hành cơ quan quản lý cấp trên, đảm bảo hài hoà hợp lý giữa lợi ích của Nhà nước, tập thể và lợi ích công dân. Mặt khác, phải phát hiện sớm và xử lý nghiêm minh đối với cơ quan đơn vị, cá nhân ra quyết định hành chính vi phạm pháp luật. Diễn biến của vụ án Dương Thị Nga xảy ra ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội như đã trình bày ở phần trên, nhưng ở đây muốn nói đến công tác quản lý cán bộ còn thiếu sót ở một cơ quan chức năng thi hành pháp luật mà còn để xảy ra vi phạm pháp luật, điều này cũng nói lên sự quan tâm giáo dục thường xuyên cho cán bộ chưa được coi trọng, không quản lý theo dõi được cán bộ nên không kịp thời phát hiện các sai sót trong công tác nghiệp vụ chuyên môn. Chính vì vậy trong công tác về thu thập chứng cứ của vụ án Dương Thị Nga của công an, Viện kiểm sát quận Hoàn Kiếm lại có những thiếu sót nghiêm trọng đã vi phạm các điều 47, 48, 79 của Bộ luật tố tụng hình sự, làm cho việc đánh giá chứng cứ phiến diện không đầy đủ, thiếu khách quan, đặc biệt Dương Thị Nga có những giấy tờ của chính quyền địa phương chứng minh là bà Dương Thị Nga không hề có mặt tại Hà Nội vào ngày xảy ra vụ án; Ông Dương Văn Thực, chồng bà Dương Thị Nga đã gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó có cho công an quận Hoàn Kiếm kèm theo đơn khiếu nại của ông còn có Giấy xác nhận của chính quyền địa phương – Uỷ ban nhân dân xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Nhưng hồ sơ truy tố ra trước toà không thấy những giấy tờ này. Vì khi quy tội cho một đối tượng thì trước hết phải tìm cách gỡ tội, sau đó mới kết tội đó là đạo lý của những người thi hành pháp luật. Khi xét xử Toà án lại không triệu tập ông Dương Văn Thực - chồng bà Dương Thị Nga để thẩm phán làm rõ lời khai tại cơ quan điều tra là ngày 12/10/2002 bà Dương Thị Nga đang bị ốm ở Sơn La cũng là một thiết sót của cơ quan xét xử. Trong công tác, tổ chức cán bộ là khâu then chốt, là sự sắp xếp đầy tính khoa học và nghệ thuật về sự thiết lập các mối liên hệ giữa con người với con người để thực hiện các mục tiêu đề ra, cần căn cứ vào khả năng, kinh nghiệm và năng lực của mỗi người cụ thể để sắp xếp công việc cho phù hợp, yếu tố quan trọng trong tổ chức cán bộ là làm rõ chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi người, những người có liên quan trong vụ án này nến thể hiện rõ điều nói ở trên thì vụ án có thể không xảy ra. Trong tình huống cụ thể này, nguyên nhân của tình huống thể hiện khái quát ở các khía cạnh sau : - Thiếu xót trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước ở các cấp, đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật trong hoạt động, điều hành, sử dụng thẩm quyền, công tác kiểm tra, kiểm soát. - Sự bất cập trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vụ việc. - Sự thiếu trách nhiệm, sự yếu kém về năng lực công tác và cũng có thể liên quan đến phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức trong giải quyết vụ việc. 2. Hậu quả của sự việc trên Nếu không giải quyết thoả đáng những rắc rối trong việc bắt, giam giữ công dân, điều tra, truy tố, xét xử công dân trái pháp luật của các cơ quan bảo vệ pháp luật, thì sẽ gây bất bình trong dư luận xã hội, nhân dân sẽ thiếu tin tưởng vào các cơ quan bảo vệ pháp luật; Nếu không giải quyết thoả đáng vụ việc kể trên, sẽ không bảo vệ được các quyền và lợi ích chính đáng của gia đình công dân, nhân dân sẽ mất niềm tin vào pháp luật của Nhà nước; Nếu không xử lí kỉ luật nghiêm khắc đối với những cán bộ, công chức nhà nước vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam giữ công dân, điều tra, truy tố, xét xử công dân nói riêng, khi thực thi công vụ nói chung, nhân dân sẽ mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước; Nếu không giải quyết thoả đáng vụ việc kể trên, không xử lí kỉ luật nghiêm khắc, đúng người đúng tội thì pháp chế XHCN sẽ suy giảm, kỷ cương phép nước sẽ bị buông lỏng. Đồng chí Phạm Chuyên - Giám đốc công an thành phố Hà Nội đã làm việc với đồng chí Trần Mai Hạnh - Uỷ viên Trung ương Đảng, Tổng giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam về vụ án Dương Thị Nga xảy ra ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội và thống nhất một số việc trong đó có nói rõ: "Đây là vụ án nhỏ nhưng gây xôn xao và bức xúc trong dư luận vì vi phạm đến quyền công dân, vì lẽ đó với trách nhiệm là cơ quan quản lý cấp trên, công an thành phố Hà Nội giao cho cơ quan công an thành phố phối hợp cơ quan có trách nhiệm của Đài tiếng nói Việt Nam cùng trao đổi, thẩm tra, đánh giá các tài liệu, chứng cớ để cung cấp cho cơ quan bảo vệ luật pháp cấp trên có thẩm quyền xử lý đúng pháp luật và sớm công khai trước công luận những thông tin đầy đủ chính xác về vụ việc này". IV. Kết quả của việc giải quyết tình huống Sau khi vụ việc được đưa ra công luận, lãnh đạo công an thành phố chỉ thị cho công an quận Hoàn Kiếm tiến hành kiểm tra xem xét một cách nghiêm túc với tinh thần xử lý nghiêm minh các cán bộ công an có sai phạm và công khai xin lỗi trước dân. Ba ngày sau khi vụ việc được phát trên bản tin thời sự lúc 6 giờ ngày 7/1/2003, ngày 10/1/2003, Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã ra Quyết định số: 01/KN/QĐ kháng nghị Bản án sơ thẩm số: 438 ngày 2/12/2002 của Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm Hà Nội, đề nghị Uỷ ban phẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử lại vụ án theo trình tự giám đốc thẩm. Cùng ngày, Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã ra Quyết định số 01/QĐ-GĐT tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù và quyết định trả lại tự do ngay cho bị cáo Dương Thị Nga. Tháng 01 năm 2003, Thanh tra Bộ công an, Công an Hà Nội, Viện Kiểm sát nhân dân Hà Nội đã cử đoàn công tác lên xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La để tiến hành lấy lời khai để làm rõ thêm một số tình tiết, và Đài tiếng nói Việt Nam cũng đã cử phóng viên lên xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La để thu thập tài liệu, điều tra, xác minh về vụ án. Thực hiện đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và theo pháp luật ngày 21/2/2003, Đài tiếng nói Việt Nam đã bàn giao tài liệu vụ án bà Dương Thị Nga cho đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số cơ quan có thẩm quyền theo yêu cầu, trong đó có Biên bản vụ việc, chữ ký, dấu xác nhận của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Công an xã Chiềng Sơ và Trưởng bản cùng các nhân chứng xác nhận gồm có ba nội dung: - "Bà Dương Thị Nga nhân thân tốt, chưa từng có tiền án, tiền sự, gia đình chấp hành nghiêm chính sách, pháp luật nhà nước và các quy định của bản, xã được bà con dân bản quý mến". - Bà Dương Thị Nga đau yếu bệnh nặng cần được chữa trị kịp thời. - Thời gian 12/10/2002 mà theo bà Phạm Thị Lê khai bị bà Nga lừa vay tiền để chiếm đoạt 200.000đ ở Hà Nội thì ba Nga lại có mặt tại xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Nghĩa là bà Nga ngoại phạm vụ án này. Ngày 28/4/2003, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã mở phiên toà dưới sự chủ toạ của Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hà Nội để xét xử giám đốc thẩm vụ án hình sự bị cáo Dương Thị Nga, tham dự còn có ông Hoàng Ngọc Cẩm, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội theo sự uỷ quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội. Sau khi xem xét, nghiên cứu toàn bộ hồ sơ Bản án sơ thẩm số: 438 ngày 2/12/2003 của Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội và tài liệu bổ sung của Thanh tra Bộ công an, Công an Hà Nội, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã kết luận: " Căn cứ vào toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như các tài liệu do cơ quan thanh tra Bộ công an, Công an Hà Nội, Viện kiểm sát nhân dân Hà Nội xác minh khiếu nại của ông Dương Văn Thực và bà Dương Thị Nga, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội nhận thấy rằng: - Việc điều tra thu thập chứng cứ và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng quận Hoàn Kiếm đã vi phạm nghiêm trọng trình tự và thủ tục tố tụng hình sự và áp dụng chưa đúng quy định của pháp luật hình sự về đường lối xử lý vụ án; - Các chứng cứ, tài liệu hiện có không đủ căn cứ để kết luận Dương Thị Nga là người đã có hành vi lừa đảo chiếm đọat 200.000đ của bà Phạm Thị Lê, lẽ ra phải hủy toàn bộ bản án đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại theo quy định tại Điều 255, Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng xét thấy quy định tại Điều 139, Chương XIII, Bộ luật Hình sự đã được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999 và mục C điểm 3, Nghị quyết số: 32/1999/NQ-QH10 ngày 21/12/1999 của Quốc hội khoá 10 thì trường hợp này phải đình chỉ vụ án hình sự, bởi số tiền chiếm đoạt là dưới 500.000đ và đến nay vẫn chưa đủ chứng cứ xác định ai là người chiếm đoạt số tiền 200.000đ của bà Lê, theo quy định tại Điều 139 của Bộ luật hình sự năm 1999 và Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính thì việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác giá trị dưới 500.000đ và không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự thì không phải là tội phạm và thuộc quyền của cơ quan điều tra xử lý theo thủ tục hành chính". Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, Bản án sơ thẩm số: 438 ngày 2/12/2002 của Toà án quận Hoàn Kiếm đã kết án bà Dương Thị Nga phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân, do đó đã buộc bà Dương Thị Nga phải bồi thường cho bà Phạm Thị Lê số tiền là 200.000đ. Nay, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thấy chưa đủ căn cứ kết luận Dương Thị Nga có hành vi chiếm đoạt số tiền của bà Lê do đó xác định và Nga không phải bồi thường cho bà Lê 200.000đ và số tiền 580.000 đ cơ quan điều tra đã lập biên bản thu giữ phải được trả lại toàn bộ cho bà Dương Thị Nga. Ngoài ra, theo tài liệu xác minh của cơ quan công an và Viện kiểm sát Hà Nội, khi bị tạm giam bà Dương Thị Nga, có ký gửi tại cơ quan công an quận Hoàn Kiếm số tiền là 1.640.000đ với sự đồng ý của bà Dương Thị Nga, Công an quận Hoàn Kiếm đã trích một số tiền trong số 1.640.000 đ này để bà Nga chi tiêu, khám bệnh, mua thuốc và trả bà Lê. Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thống nhất với ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu tại phiên toà giám đốc thẩm là việc công an quận Hoàn Kiếm giữ và xử lý số tiền này không theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mà theo thủ tục hành chính tư pháp, do đó yêu cầu công an quận Hoàn Kiếm có trách nhiệm thanh toán số tiền này với Dương Thị Nga theo đúng quy định của pháp luật hành chính. Qua việc xét xử giám đốc thẩm vụ án này, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thấy cần kiến nghị với cơ quan chức năng xem xét để xử lý theo đúng quy định của pháp luật đối với những cán bộ có thiếu sót nghiêm trọng trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án này. Từ các nhận định trên và căn cứ vào các Điều 254, 255 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 139 Bộ luật Hình sự đã được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/ 01/ 2000 và mục C điểm 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 của Quốc hội khoá 10, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định: 1. Huỷ bỏ toàn bộ bản án sơ thẩm số 438 ngày 2/12/2002 của Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm và đình chỉ vụ án hình sự. 2. Tuyên bố không đủ căn cứ chứng minh Dương Thị Nga phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân, trả lại cho chị Nga toàn bộ số tiền bị tạm giữ 580.000đ (năm trăm tám mươi nghìn đồng). 3. Bài học đắt giá của các cơ quan tư pháp từ vụ án Dương Thị Nga ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Công an quận Hoàn Kiếm đã công bố quyết định kỷ luật đối với những cán bộ vi phạm trong vụ án Dương Thị Nga. - Cảnh cáo đối với thiếu tá Nguyễn Mạnh Hùng - Phó trưởng Công an quận Hoàn Kiếm; Hà Đăng Hải - Đội phó đội cảnh sát điều tra; Doãn Bửu Hiệp - Đội phó Đội cảnh sát điều tra; Lê Huy Dương - điều tra viên. - Miễn chức vụ Đội phó của Hà Đăng Hải và Doãn Bửu Hiệp; Điều tra viên Lê Huy Dương chuyển công tác khác. - Khiển trách đối với Trung tá Bùi Đình Doãn - Phó trưởng công an quận Hoàn Kiếm vì đã ký giấy bắt khẩn cấp và tạm giam bà Dương Thị Nga. + Kỷ luật về Đảng: - Cảnh cáo đối với các Đảng viên Nguyễn Mạnh Hùng, Hà Đăng Hải, Lê Huy Dương. - Khiển trách đối với Đảng viên Nguyễn Hữu Hiệp - Phê bình đối với Bùi Đình Doãn. Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm cũng đã có kỷ luật đối với các ông bà: + Kỷ luật về Đảng: - Cảnh cáo đối với Đảng viên Vũ Ngọc Tuyên - Chánh án Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm. - Cảnh cáo đối với Vũ Thị Kim Thư - Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm và kiểm sát viên thụ án. + Xử lý hành chính: - Chuyển bà Vũ Thị Kim Thư sang phụ trách án dân sự - Khiển trách đối với Đặng Đình Sơn - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm . Ngày 17/7/2003, đoàn công tác đã trở lại xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La để gặp vợ chồng bà Dương Thị Nga và ông Dương Văn Thực, buổi gặp có đại diện lãnh đạo xã Chiềng Sơ huyện Sông Mã chứng kiến đoàn công tác thực hiện theo thủ tục pháp luật quy định về quyết định dân sự trong bản án giám đốc thẩm ngày 28/4/2003 của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội. Thay mặt các cơ quan khối nội chính quận Hoàn Kiếm, Trung tá Hoàng Công Khôi đã thẳng thắn thừa nhận những sai phạm của một số cán bộ "Chúng tôi mong muốn anh Thực, chị Nga và mọi người có sự tha thứ, sự rộng lượng với những thiếu sót ấy, để cho các cơ quan nội chính quận Hoàn Kiếm có cơ hội phấn đấu ngày càng trưởng thành vững mạnh". Đồng thời trả lại cho bà Nga hai khoản tiền 580.000đ mà Toà sơ thẩm giữ lại để thi hành án và 200.000đ gửi lưu ký tại Công an quận Hoàn Kiếm. Bà Nga đã chấp nhận 10.000.000đ (Mười triệu đồng) tiền bồi thường thiệt hại có chứng kiến của Phó chủ tịch và Trưởng công an xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Từ vụ án nhỏ, nhưng lại gây ra tiếng vang lớn khi có đơn của ông Dương Văn Thực kêu oan cho vợ, các cơ quan bảo vệ pháp luật cấp thành phố và trung ương đã tổ chức nhiều cuộc họp để xem xét cụ thể vụ án (riêng cấp Trung ương đã có tới 7 cuộc họp). Ngày 24/4/2003, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã mở phiên toà xét xử, nhận định việc điều tra, thu thập chứng cứ, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự áp dụng chưa đúng quy định của pháp luật hình sự về đường lối xét xử của vụ án. Những chứng cứ ngoại phạm của bị cáo lại bị bỏ ra ngoài hồ sơ, hoặc không được các cơ quan tố tụng làm rõ. Vụ án này được sự quan tâm của dư luận, của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đó là tính khách quan, công minh của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, của các cơ quan bảo vệ pháp luật cấp trên trong tố tụng hình sự. Trung tá Hoàng Đình Khôi - Trưởng công an quận Hoàn Kiếm đã nói: "Mọi việc đã giải quyết xong, nhưng những bài học của các cơ quan tư pháp về vụ án này thì quá đắt: 10 cán bộ của các cơ quan công an, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân bị kỷ luật bởi một việc rất đơn giản". - Thứ nhất, thông thường bất cứ vụ án nào dù đơn giản như vụ án Dương Thị Nga để tránh những trường hợp như vậy đòi hỏi lực lượng công an quận mà mũi nhọn chủ công là các đơn vị trinh sát phải điều tra xem xét triệt để, không được đơn giản hoá, rút gọn thủ tục như trước ngày vụ án của Dương Thị Nga là một sai lầm lớn nhất của cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác bắt giam xử lý. - Thứ hai, phải củng cố lại toàn bộ quy trình về công tác điều tra, đồng thời quản lý cán bộ, quản lý điều tra viên, cán bộ lãnh đạo theo dõi quản lý giám sát công việc của cấp dưới, vụ án vừa qua là do điều tra viên vi phạm quy trình nhưng cán bộ không nắm bắt được. - Vụ án Dương Thị Nga đã khép lại và việc bà được đền bù 10 triệu đồng chứng tỏ sự dân chủ và quyền công dân ngày càng được đảm bảo, điều đó đòi hỏi những người làm công tác điều tra xét xử phải thận trọng, tuân thủ đúng quy định của pháp luật và phải thực hiện đúng các nguyên tắc trong quá trình điều tra xét xử theo pháp chế xã hội chủ nghĩa. V. Những nhận xét, đánh giá về cách xử lý tình huống đã được tiến hành trong thực tiễn. Sau khi vụ việc được đưa ra công luận, lãnh đạo công an thành phố đã chỉ thị cho Công an quận Hoàn Kiếm tiến hành kiểm tra, xem xét một cách nghiêm túc với tinh thần xử lý nghiêm minh các cán bộ công an có sai phạm và công khai xin lỗi trước dân; Cách xử lý đó là hoàn toàn hợp lí, xử lý như vậy là một việc làm cần thiết và kịp thời của lãnh đạo công an thành phố Hà Nội, việc làm đó thể hiện tính nghiêm minh của lãnh đạo cấp trên ngành công an, tính nghiêm minh của pháp chế XHCN, thể hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam . Khi vụ việc được công bố trên hệ thống thông tin đại chúng, sau 3 ngày Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã ra Quyết định kháng nghị Bản án sơ thẩm số: 438 của Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm Hà Nội, đề nghị Uỷ ban phẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử lại vụ án theo trình tự giám đốc thẩm. Đồng thời ra Quyết định số: 01/QĐ-GĐT tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù và quyết định trả lại tự do ngay cho bị cáo Dương Thị Nga. Đây là một việc làm kịp thời, đúng pháp luật tố tụng của Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hà Nội; Cách xử lý đó dựa vào cơ sở pháp lý là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật Tổ chức Toà án năm 2002 để giải quyết vụ việc toà án cấp dưới xét xử oan sai, việc làm đó thể hiện tính nhân đạo, tính nghiêm minh của pháp chế XHCN, vừa thể hiện nguyên tắc độc lập trong xét xử, vừa thực hiện nguyên tắc tập trung trong hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp Việt Nam . Thanh tra Bộ công an, Công an Hà Nội, Viện Kiểm sát nhân dân Hà Nội đã cử đoàn công tác lên xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La (Tháng 01 năm 2003) để thu thập tài liệu, điều tra, xác minh về vụ án. Cách xử lý đó là một việc làm cần thiết, đúng pháp luật ( theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) và các quy định về chuyên môn, nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân và ngành công an để giải quyết vụ việc các cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân cấp dưới có những biểu hiện vi phạm pháp luật tố tụng ( điều tra, truy tố, xét xử oan sai), việc làm đó thể hiện tính nhân đạo, tính nghiêm minh của pháp chế XHCN Sau khi Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số cơ quan có thẩm quyền đã nhận được tài liệu xác minh thêm của vụ án bà Dương Thị Nga, trong đó có Biên bản vụ việc, chữ ký, dấu xác nhận của chính quyền xã Chiềng Sơ cùng các nhân chứng xác nhận là bà Nga có đầy đủ chứng cứ ngoại phạm vụ án này. Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã mở phiên toà để xét xử giám đốc thẩm vụ án hình sự bị cáo Dương Thị Nga và đã kết luận: - Việc điều tra thu thập chứng cứ và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng quận Hoàn Kiếm đã vi phạm nghiêm trọng trình tự và thủ tục tố tụng hình sự; - Các chứng cứ, tài liệu hiện có không đủ căn cứ để kết luận Dương Thị Nga là người đã có hành vi lừa đảo chiếm đọat 200.000đ của bà Phạm Thị Lê; Do đó bà Nga không phải bồi thường cho bà Lê 200.000đ và số tiền 580.000 đ mà cơ quan điều tra đã lập biên bản thu giữ phải trả lại toàn bộ cho bà Dương Thị Nga. Việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác giá trị dưới 500.000đ thì không phải là tội phạm và thuộc quyền của cơ quan điều tra xử lý theo thủ tục hành chính". Trên cơ sở đó, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định: 1. Huỷ bỏ toàn bộ Bản án sơ thẩm số: 438 ngày 2/12/2002 của Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm và đình chỉ vụ án hình sự. 2. Tuyên bố không đủ căn cứ chứng minh Dương Thị Nga phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân, trả lại cho chị Nga toàn bộ số tiền bị tạm giữ 580.000đ (năm trăm tám mươi nghìn đồng). Những kết luận trên của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội là hoàn toàn hợp tình, hợp lý, dư luận xã hội rất đồng tình, ủng hộ qua việc xử lý đó, vì cách xử lý đó đã dựa trên cơ sở pháp lý là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật Tổ chức Toà án năm 2002; Quyết định trên có căn cứ pháp lý là các Điều 254, 255 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 139 Bộ luật Hình sự đã được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999 và mục C điểm 3 Nghị quyết số 32/1999/NQ- QH10 của Quốc hội khoá X; Hơn thế nữa, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội còn dựa trên những tài liệu xác minh thêm của vụ án bà Dương Thị Nga, trong đó có Biên bản vụ việc, chữ ký, dấu xác nhận của chính quyền xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La cùng các nhân chứng xác nhận là bà Nga có đầy đủ chứng cứ ngoại phạm vụ án này để giải quyết vụ việc. Sau phiên toà xét xử giám đốc thẩm vụ án hình sự của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, Công an quận Hoàn Kiếm đã công bố quyết định kỷ luật đối với những cán bộ vi phạm trong vụ án Dương Thị Nga. Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm cũng đã có kỷ luật đối với các cán bộ vi phạm trong vụ án Dương Thị Nga; Bao gồm cả Chánh án Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm; Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm và kiểm sát viên thụ án; Cách xử lý đó là một việc làm kịp thời, đúng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của thành phố Hà Nội; Cách xử lý đó dựa vào cơ sở pháp lý là Luật Tổ chức Toà án năm 2002 và Quy chế làm việc của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân để giải quyết vấn đề cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước vi phạm pháp luật gây thiệt hại lợi ích của công dân, việc làm đó thể hiện tính nhân đạo, tính nghiêm minh của pháp chế XHCN, mặt khác còn góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đây cũng là một bài học đắt giá của các cơ quan tư pháp từ vụ án Dương Thị Nga ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đây cũng là bài học về lối làm việc, cần phải giải quyết khiếu kiện của một dân một cách nhanh chóng và quyết liệt chứ không được chậm trễ như thế, việc còn lại phải xử lý những người làm sai trong vụ án này, cần phải xử lý nghiêm và công bằng. VI. Kết luận Có lẽ trong lịch sử tư pháp Việt Nam hiếm có vụ án nào mà giá trị vật chất có 200.000VNĐ lại trở thành một vụ việc mang tính "kỳ án" như vụ án Dương Thị Nga và được dư luận đặc biệt quan tâm. Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, trong một phiên họp của Quốc hội đã nói về vụ án Dương Thị Nga: " việc bắt, giam giữ và xét xử thì rất nhanh, còn giải quyết thì rất chậm". Trả lời câu hỏi của ông Nguyễn Thiện Cát, Đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh đã nói : " Nếu cứ nói vụ án này không quan trọng thì tôi không đồng ý, vấn đề không phải ở chỗ 200.000đ mà ở chỗ đã vi phạm vào quyền công dân; quyền bất khả xâm phạm về thân thể công dân là vô giá. Tội bắt người và xét xử mà vi phạm đến quyền của công dân là to nhất và quan trọng nhất. Ngay từ đầu, tôi đã có công văn yêu cầu giải quyết, không yêu cầu giải quyết như thế nào, theo hướng nào mà yêu cầu phải làm ngay, giải quyết ngay. Một tháng sau, tôi lại có hai công văn nữa yêu cầu phải giải quyết, nhưng bắt và xét xử thì rất nhanh mà giải quyết thì quá chậm. Tuy nhiên tôi cũng biết các cơ quan phải lên tận Sơn La điều tra lại. Nhưng theo tôi hiểu thì vụ án này đã được giải quyết mặc dù rất chậm. Đây cũng là bài học về lối làm việc, cần phải giải quyết khiếu kiện của một dân một cách nhanh chóng và quyết liệt chứ không được chậm trễ như thế, việc còn lại phải xử lý những người làm sai trong vụ án này, cần phải xử lý nghiêm và công bằng. Tôi không nói xử lý nặng hay nhẹ mà yêu cầu phải xử lý thật công bằng, với dân thì xử lý như vậy còn cán bộ làm sai thì lờ đi là không được". Với những kiến thức đã tiếp thu được qua quá trình học tập, nghiên cứu, được sự giúp đỡ của các giảng viên Học viện Quản lý giáo dục cũng như giảng viên ngoài học viện, kết hợp với thực tế công tác tại cơ quan, bản thân đã lắng nghe tiếp thu kiến thức và có một số ý kiến cá nhân xung quanh vấn đề giải quyết khiếu nại và trong việc giải quyết vụ án Dương Thị Nga trong tình hình hiện nay góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý chân thành của các giảng viên và các bạn quan tâm đến vấn đề này. Tài liệu tham khảo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi). Nxb Chính trị quốc gia, H 2002. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII. Nxb Chính trị quốc gia, 1991. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1-1993). Nxb Chính trị quốc gia, H 1993. Bộ luật dân sự nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, H 2002. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002. Nxb Chính trị quốc gia, H 2002. Luật khiếu nại, tố cáo. Nxb Chính trị quốc gia, H 1998. Bộ luật hình sự nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, H 2000. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, H 2003. Nghị quyết số 32/1999/NQ- QH10 của Quốc hội khoá X; H 2000. Tài liệu bồi dưỡng về Quản lý hành chính nhà nước chương trình chuyên viên – Tập I, II, Học viện Hành chính Quốc gia .H. 2005.
File đính kèm:
- tieu_luan_khieu_nai_cua_cong_dan_tu_la_don_xin_minh_oan_cho.doc