Tiểu luận Lý luận chung về gia đình: Liên hệ với thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay

pdf 21 trang yenvu 01/02/2024 1570
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Lý luận chung về gia đình: Liên hệ với thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Lý luận chung về gia đình: Liên hệ với thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay

Tiểu luận Lý luận chung về gia đình: Liên hệ với thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO 
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 
Học phần: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC 
ĐỀ TÀI: 
Lý luận chung về gia đình - liên hệ với 
thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay. 
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 202 
Giảng viên hướng dẫn : Trần Thị Thu Hường 
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Thương 
Lớp/Khoa : CT47C1 
Mã sinh viên : CT47C1-0034 
2 
MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU.......3 
I. Tính cấp thiết của đề tài 3 
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3 
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .4 
IV. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4 
V. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài ...5 
NỘI DUNG ..5 
Phần I: Lý luận .5 
Phần II: Liên hệ thực tiễn và liên hệ bản thân ...12 
KẾT LUẬN ...20 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 
3 
MỞ ĐẦU 
I. Tính cấp thiết của đề tài: 
 Gia đình là môi trường quen thuộc đối với tất cả mọi người khi bất cứ cá 
nhân nào cũng đều có thể trực tiếp tham gia vào quá trình tạo lập, xây dựng một 
gia đình. Mỗi một gia đình được coi là một tế bào của xã hội, bao gồm nhiều lĩnh 
vực phong phú nhưng cũng rất phức tạp, đầy mâu thuẫn và biến động. Do đó, gia 
đình là vấn đề trọng yếu mà toàn nhân loại với mọi dân tộc trong mọi thời đại đều 
dành sự quan tâm sâu sắc đến. Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ 
nghĩa xã hội, thực hiện quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa mà thực chất là 
chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp vụ và 
quản lý kinh tế xã hội. Và cùng với sự phát triển về các mặt khác của xã hội, các 
vấn đề mới cũng đã nảy sinh, trong đó vấn đề gia đình với nhiều biến đổi phức 
tạp, bên cạnh những biến đổi tích cực thì gia đình Việt Nam ngày nay đang phải 
đối mặt với nhiều vấn đề mang tính tiêu cực do chịu sự chi phối lớn từ nền kinh 
tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước. 
 Chính vì vậy, việc chọn đề tài nghiên cứu “Lý luận chung về gia đình và 
liên hệ với thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay” không chỉ mang ý nghĩa lý 
luận mà hơn nữa còn đem lại giá trị thực tiễn cao, là một đề tài cần thiết nghiên 
cứu để định hướng giải quyết cho các vấn đề nóng hiện nay của gia đình ở Việt 
Nam. Giải quyết được vấn đề gia đình là một bước tiến lớn thúc đẩy giải quyết 
các vấn đề nhức nhối của xã hội, tạo tiền đề không chỉ cho sự phát triển của xã 
hội mà cả nền kinh tế và chính trị nước nhà. 
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 
1. Mục đích nghiên cứu: 
 Đề tài nghiên cứu với mục đích làm sáng rõ những lý luận chung của chủ 
nghĩa xã hội khoa học về vấn đề gia đình, và liên hệ với sự biến đổi chức năng gia 
đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cùng những vấn đề 
thực trạng gia đình ở nước ta hiện nay. 
2. Nhiệm vụ nghiên cứu: 
4 
- Giải quyết, phân tích phần lý luận chung về gia đình: làm rõ khái niệm, chức 
năng, vai trò của gia đình và cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội. 
- Phân tích những biến đổi cụ thể của chức năng gia đình trong thời kỳ quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay; xác định nguyên nhân, hệ quả tác động 
của sự thay đổi đó 
- Liên hệ tới thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay với đa dạng các vấn đề 
“nóng” phức tạp đã thu hút sự quan tâm của toàn xã hội thời gian qua như vấn 
đề hôn nhân, đạo đức trong gia đình, quan hệ gia đình, 
- Đánh giá, nhận xét, quan điểm cá nhân của bản thân về vấn đề hôn nhân, gia 
đình của cộng đồng LGBT. 
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 
 Tiểu luận nghiên cứu về gia đình và những vấn đề liên quan trong thời kì 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Phạm vi nghiên cứu giới hạn trong những vấn đề gia 
đình xảy ra ở Việt Nam từ khi đất nước bắt đầu đổi mới kinh tế, chính trị, bước 
vào thời kì quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa (năm 1986) cho đến hiện nay. 
IV. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: 
 Tiểu luận nghiên cứu về vấn đề gia đình dựa trên những lý luận chung của 
chủ nghĩa xã hội khoa học và những cơ sở đã được đặt nhằm xây dựng gia đình 
trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa. 
 Các phương pháp phân tích tài liệu, đánh giá, tổng hợp, khái quát hóa thông 
tin tổng hợp và liên hệ các vấn đề liên quan để làm rõ vấn đề cần tìm hiểu đã được 
sử dụng trong quá trình hoàn thành tiểu luận. Đồng thời, các phương pháp logic, 
so sánh, đối chiếu những vấn đề cần tìm hiểu trong từng giai đoạn, thời kì lịch sử 
cụ thể cũng được vận dụng nhằm tăng tính khách quan, bao quát cho đề tài. 
V. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài: 
 Về mặt lý luận, đề tài nghiên cứu làm rõ, đầy đủ những lý luận chung về 
vấn đề gia đình và những cơ sở lý luận xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên 
xã hội chủ nghĩa. Về mặt thực tiễn, đề tài phân tích, nghiên cứu tác động, nguyên 
nhân sự biến đổi chức năng gia đình và thực trạng một số vấn đề gia đình ở Việt 
Nam, từ đó đề xuất giải pháp phù hợp cho quá trình xây dựng gia đình hiện nay. 
5 
NỘI DUNG 
PHẦN I: Lý luận 
1.1. Khái niệm gia đình: 
 Gia đình là một tổ chức xã hội được hình thành từ khá sớm trong lịch sử 
của loài người. Ngay từ buổi đầu của lịch sử, khi con người bắt đầu tự tổ chức 
cuộc sống như một cộng đồng độc lập cũng là lúc các mô hình cộng đồng nhỏ - 
hình thức sơ khai của gia đình ra đời. Như vậy, gia đình chính là một hình thức 
cộng đồng xã hội đặc biệt tập hợp những người gắn bó với nhau trên cơ sở quan 
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những 
quy định về quyền và nghĩa vụ các thành viên trong gia đình với nhau. 
 Hiện tại vẫn chưa có sự thống nhất, thậm chí có sự trái ngược nhau giữa 
các định nghĩa về gia đình. Hầu như các quan niệm chỉ mới dừng lại ở một khái 
niệm phổ quát nhất về các loại gia đình trong lịch sử, đồng thời cũng chưa bao 
gồm các hình thức gia đình mới đang phát sinh trong các xã hội hiện đại ngày nay 
như gia đình một người. 
1.2. Các hình thức gia đình hiện nay 
 Dựa vào quy mô, gia đình được chia thành hai loại chính, đó là gia đình 
nhỏ - gia đình hạt nhân và gia đình lớn – gia đình đa thế hệ. 
1.2.1. Gia đình hạt nhân 
 Gia đình hạt nhân là gia đình bao gồm 2 thế hệ cùng chung sống dưới một 
mái nhà là vợ chồng và con cái nên có thể có gia đình đầy đủ và không đầy đủ. 
Gia đình đầy đủ chứa đầy đủ các mối quan hệ: chồng, vợ và các con; ngược lại, 
gia đình không đầy đủ là gia đình mà trong đó chỉ tồn tại quan hệ giữa người vợ 
với người chồng hoặc quan hệ giữa người bố hoặc người mẹ với con cái. 
 Trong vài thập kỷ gần đây, gia đình ở Việt Nam đã chứng kiến nhiều sự 
thay đổi: thế hệ các cha mẹ già thay vì sống chung cùng nhà với các con ngày 
càng ưa thích sống độc lập và duy trì mối quan hệ gần gũi với con cái. Tuy nhiên, 
những thay đổi đó không phải là do ảnh hưởng của văn hoá phương Tây mà chủ 
yếu xuất phát từ những thay đổi kinh tế - xã hội và điều kiện sống ở Việt Nam. 
Và gia đình hạt nhân sẽ vẫn tiếp tục là mô hình chủ đạo và sẽ ngày càng phổ biến 
6 
hơn nữa, nhất là khi dịch vụ xã hội chăm sóc người cao tuổi được cải thiện tốt 
hơn. 
1.2.2. Gia đình lớn hay gia đình mở rộng – gia đình đa thế hệ 
 Gia đình mở rộng thường được coi là gia đình truyền thống liên quan tới 
dạng gia đình trong quá khứ, là một tập hợp nhóm người ruột thịt của một vài thế 
hệ sống chung với nhau dưới một mái nhà, thường từ ba thệ hệ trở lên, trong phạm 
vi của nó còn có cả những người ruột thịt từ tuyến phụ. 
 Cấu trúc của gia đình mở rộng cũng thay đổi cùng với những biến đổi của 
xã hội. Dạng cổ điển của gia đình mở rộng có đặc tính tổ chức chặt chẽ, là liên 
kết của ít nhất là vài gia đình nhỏ và những người lẻ loi và các thành viên trong 
gia đình được xếp đặt trật tự theo ý muốn của người lãnh đạo gia đình mà thường 
là người đàn ông cao tuổi nhất trong gia đình. Ngày nay, do nhiều sự biến động 
của điều kiện kinh tế - xã hội mà gia đình mở rộng thường gồm một cặp vợ chồng, 
con cái và bố mẹ của họ và trong gia đình này, quyền hành không ở trong tay của 
người lớn tuổi nhất. 
 Ngoài ra, trên thế giới hiện nay và cả ở Việt Nam hiện nay vẫn còn một số 
dạng gia đình không phổ biến như: hộ gia đình một người, gia đình một thế hệ 
(chỉ gồm một cặp vợ chồng), 
1.3. Vị trí của gia đình trong xã hội: 
1.3.1. Gia đình là tế bào của xã hội. 
 Gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của 
xã hội; nếu không có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không thể tồn tại 
và phát triển được. Với việc sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tái sản 
xuất ra con người, gia đình như một tế bào tự nhiên , là một đơn vị cơ sở để tạo 
nên cơ thể - xã hội. Do đó, muốn có một xã hội lành mạnh thì phải quan tâm xây 
dựng gia đình tốt. Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với xã hội ở mỗi 
giai đoạn lịch sử là khác nhau vì nó phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ xã 
hội, đường lối, chính sách của giai cấp cầm quyền. Trong các xã hội dựa trên cơ 
sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và 
quan hệ gia đình đã hạn chế rất lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội. 
7 
Quan tâm xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ gia đình bình đẳng, hạnh phúc là vấn 
đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. 
1.3.2. Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong 
đời sống cá nhân của mỗi thành viên. 
 Mỗi cá nhân đều gắn bó chặt chẽ với gia đình trong suốt cuộc đời, từ khi 
trong bụng mẹ đến lúc lọt lòng. Gia đình chính môi trường phát triển tốt nhất mỗi 
cá nhân, nơi mọi thành viên được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, trưởng thành 
và phát triển. Sự yên ổn, hạnh phúc của gia đình chính là tiền đề, điều kiện quan 
trọng cho sự hình thành, phát triển toàn diện nhân cách, thể lực, trí lực của mỗi 
thành viên thành một công dân tốt của xã hội. Chỉ trong môi trường yên ấm của 
gia đình, mỗi cá nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh phúc, có động lực để phấn 
đấu trở thành con người xã hội tốt . 
1.3.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội. 
 Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu quan hệ xã hội của 
mỗi cá nhân, là môi trường đầu tiên mỗi người được tiếp xúc và thực hiện các 
quan hệ xã hội. Do đó, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác 
động đến cá nhân, là cầu nối mà thông qua đó mỗi cá nhân nhận được sự giáo dục, 
chăm sóc cùng những mối quan hệ, quyền và nghĩa vụ mang tính xã hội cao. 
Nhiều thông tin, hiện tượng của xã hội thông qua lăng kính gia đình mà tác động 
tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức lối 
sống, nhân cách... 
1.4. Chức năng, vai trò cơ bản của gia đình: 
 Sự tồn tại của gia đình với các hoạt động phong phú qua các thời đại lịch 
sử là cơ sở thực tiễn để xây dựng và phát triển gia đình. Việc thực hiện các chức 
năng cơ bản của gia đình chính là cơ sở thực tiễn cho việc hình thành các chính 
sách, xây dựng những chuẩn mực và định hướng giá trị tốt đẹp cho gia đình Việt 
Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Gia đình có bốn chức năng cơ bản: 
chức năng sinh sản, chức năng giáo dục, chức năng kinh tế và chức năng tâm lý 
tình cảm. 
1.4.1. Chức năng sinh sản – tái sản xuất ra con người: 
8 
 Chức năng sinh sản là chức năng tạo ra con người mới về mặt sinh học. 
Đây là chức năng đặc thù của gia đình, giúp đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên 
của con người và nhu cầu duy trì nòi giống của gia đình, sức lao động và duy trì 
sự trường tồn của xã hội. Các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến việc điều 
tiết chức năng sinh sản của gia đình là một vấn đề toàn xã hội vì nó quyết định 
mật độ dân cư, nguồn lao động của một quốc gia và cấu thành của tồn tại xã hội. 
Việc khuyến khích hay hạn chế chức năng sinh sản của gia đình phụ thuộc vào 
yếu tố dân số, vào nguồn nhân lực và các điều kiện kinh tế - xã hội khác. 
1.4.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục: 
 Chức năng nuôi dưỡng giáo dục của gia đình là việc cha mẹ, ông bà giáo 
dục con cháu mình, qua đó góp phần duy trì truyền thống văn hóa, đạo đức của 
xã hội. Gia đình thực hiện chức năng giáo dục đối với các thế hệ kế tiếp từ khi 
được sinh ra cho đến khi trưởng thành, thậm chí cho đến suốt đời, đó là trách 
nhiệm nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng 
và xã hội. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đến 
cuộc đời của mỗi thành viên, đặc biệt có vai trò quan trọng trong việc hình thành 
và phát triển nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi cá nhân. Mỗi thành viên trong 
gia đình đều có vị trí, vai trò nhất định, vừa là chủ thể vừa là khách thể trong việc 
nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. 
 Giáo dục gia đình là một bộ phận hỗ trợ, bổ sung cho giáo dục xã hội, là 
thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung. Giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường 
và giáo dục ngoài cộng đồng cần được kết hợp với nhau trong sự nghiệp bảo vệ, 
chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ để phục vụ cuộc sống, phục vụ cho sự phát triển 
của đất nước 
 Chức năng giáo dục thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha 
mẹ với con cái cũng như trách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện tốt chức 
năng nuôi dưỡng, giáo dục, đòi hỏi mỗi người làm cha, làm mẹ phải có kiến thức 
cơ bản, tương đối toàn diện về mọi mặt: tri thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối sống, 
nhân cách, thẩm mỹ,... Phương pháp giáo dục gia đình khá đa dạng, phổ biến với 
phương pháp nêu gương, thuyết phục về lối sống, gia phong của gia đình truyền 
thống. 
9 
1.4.3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng: 
 Đây là chức năng cơ bản của gia đình. Gia đình tham gia trực tiếp vào quá 
trình sản xuất và tái sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Kinh tế gia 
đình phát huy hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, từ đó tăng thêm của cải 
cho cả gia đình và xã hội. Gia đình khác với các đơn vị kinh tế ở chỗ gia đình là 
đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động 
cho xã hội. Ngoài ra gia đình còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Mỗi gia 
đình phải tự tổ chức đời sống vật chất của các thành viên trong gia đình, thỏa mãn 
nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên đó. Trong điều kiện phúc lợi xã 
hội của quốc gia còn hạn chế thì thực hiện chức năng kinh tế của gia đình rất có ý 
nghĩa trong việc đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân. Chức năng 
này bao quát về nhu cầu ăn, ở, tiện nghi, là sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên 
trong gia đình nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời sống. 
 Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời 
sống của gia đình về lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình.Việc 
tổ chức đời sống gia đình chính là việc sử dụng hợp lý các khoản thu nhập và thời 
gian của các thành viên để tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, 
đời sống vật chất của mỗi thành viên được đảm bảo, sức khỏe được nâng cao, 
đồng thời duy trì sắc thái, sở thích riêng của mỗi người. 
 Theo từng giai đoạn phát triển của xã hội thì chức năng kinh tế của gia đình 
có sự khác nhau về quy mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất, cách thức tổ chức 
sản xuất và phân phối. Vị trí, vai trò của kinh tế gia đình và mối quan hệ của nó 
với các đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng không hoàn toàn giống nhau. 
1.4.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lí, duy trì tình cảm trong gia 
đình: 
 Đây là chức năng thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng của gia đình, bao 
gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm, văn hóa, tinh thần của các thành viên, đảm 
bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em, 
quan tâm, gắn bó, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Trong 
quá trình sống của con người, nhiều vấn đề tâm - sinh lý thuộc giới tính, thế hệ... 
luôn diễn ra trong phạm vi gia đình mà trước hết là trong quan hệ vợ chồng, giữa 
10 
cha mẹ và con cái. Nên sự hiểu biết tâm - sinh lý, sở thích cá nhân để ứng xử phù 
hợp, tế nhị, chân thành, tạo nên không khí tinh thần lành mạnh, ổn định, hài hòa 
là vấn đề quan trọng mà gia đình phải và có thể đảm nhận. 
 Do vậy, gia đình là chỗ lựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là nơi nương tựa về 
mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con người. Với việc 
duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn 
định và phát triển của xã hội. Khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình 
cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ. 
 Ngoài những chức năng trên, gia đình còn có chức năng văn hóa (lưu giữ, 
sáng tạo và thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội, truyền thống văn hóa của 
dân tộc cũng như tộc người), chức năng chính trị (tổ chức thực hiện và hưởng lợi 
từ chính sách, pháp luật của nhà nước và hương ước của làng xã)  
1.5. Cơ sở xây dựng gia đình thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa: 
1.5.1. Cơ sở kinh tế - xã hội: 
 Quá trình xây dựng, đổi mới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa yêu cầu sự phát triển của lực lượng sản xuất tương ứng với quan hệ sản xuất 
mới là xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi của quan hệ sản xuất mới này là chế độ sở hữu 
xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, từng bước thay thế chế độ sở hữu tư 
nhân về tư liệu sản xuất. Điều này sẽ dần xóa đi nguồn gốc của sự áp bức, bóc lột 
và bất bình đẳng trong gia đình và xã hội, tạo cơ sở kinh tế cho việc xây dựng các 
mối quan hệ bình đẳng trong gia đình, đặc biệt là giải phóng phụ nữ khỏi chế độ 
bất bình đẳng giới. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là xóa đi nguồn 
gốc của tình trạng thống trị của người đàn ông trong gia đình, bất bình đẳng giữa 
nam và nữ, giữa vợ và chồng. 
1.5.2. Cơ sở chính trị - xã hội: 
 Nhà nước xã hội chủ nghĩa được hình thành là cơ sở cho việc xây dựng gia 
đình mới trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, điều này được thể hiện trong 
vai trò của hệ thống pháp luật nhà nước về Luật hôn nhân và gia đình, cùng với 
đó là hệ thống các chính sách xã hội nhằm đảm bảo lợi ích và bình đẳng giới của 
các thành viên trong gia đình: chính sách dân số, việc làm, bảo hiểm xã hội, trợ 
cấp thất nghiệp,. 
11 
1.5.3. Cơ sở văn hóa: 
 Những giá trị văn hóa của gia đình được xây dựng trên cơ sở hệ tư tưởng 
chính trị của giai cấp công nhân từng bước chi phối các nền tảng văn hóa, tinh 
thần của xã hội, đồng thời bài trừ, loại bỏ những tập tục, quan niệm lạc hậu của 
lối sống cũ. Trình độ dân trí được nâng cao, mở rộng nguồn tiếp cận kiến thức 
khoa học, công nghệ thông qua hệ thống giáo dục, đào tạo phát triển; cung cấp 
cho các thành viên trong gia đình đa dạng kiến thức, quan điểm mới làm nền tảng 
xây dựng những giá trị văn hóa, chuẩn mực xã hội mới nhằm điều chỉnh các mối 
quan hệ gia đình một cách hiệu quả trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. 
Cơ sở văn hóa gắn liền với cơ sở kinh tế, chính trị sẽ đảm bảo cho việc xây dựng 
gia đình đi đúng hướng đến ra của Đảng và nhà nước một cách hiệu quả. 
1.5.4. Thực hiện chế độ hôn nhân tiến bộ: 
 Ngày nay, khi xã hội đã có những bước tiến mới - một xã hội tự do, dân 
chủ và bình đẳng, mỗi cá nhân có quyền tự do hợp pháp trong việc lựa chọn vợ 
hay chồng cho mình. Cha mẹ chỉ có thể can thiệp ở các mức độ nhất định tùy 
thuộc vào môi trường xã hội và các mối quan hệ trong gia đình. Đây là một sự 
tiến bộ tích cực trong hôn nhân tạo cơ sở, nền tảng cho một gia đình bền vững và 
hạnh phúc. Các vấn đề về quyền và bình đẳng giới cũng được nâng cao hơn trên 
cơ sở hôn nhân tự nguyện dựa trên tình yêu chân chính. Trong hôn nhân, sự tự 
nguyện thể hiện ở hai vấn đề: kết hôn và li hôn. Những người yêu nhau tự nguyện 
và được tự do kết hôn theo đúng luật pháp quy định; quyền ly hôn chính đáng của 
các cặp vợ chồng cũng được đảm bảo bằng pháp luật, điều này thể hiện tinh thần, 
trách nhiệm cao của cá nhân đối với người mình yêu và đối với việc chăm lo xây 
dựng gia đình hạnh phúc, ấm no và cả trách nhiệm đối với xã hội. Đây là yêu cầu 
cần thiết để đảm bảo cho việc xây dựng gia đình trong sáng, bền vững, hạnh phúc. 
 Thực hiện theo chế độ hôn nhân một vợ một chồng tức là hôn nhân dựa 
trên cơ sở tình yêu chân chính là không có sự chia sẻ với người thứ ba. Sự chung 
thủy trong hôn nhân là điều kiện cần thiết để duy trì sự ổn định, bền vững và tin 
tưởng lẫn nhau trong gia đình cũng như trong quan hệ vợ - chồng. Điều này còn 
thiết lập cho đôi vợ chồng một sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ với mọi mặt 
đời sống gia đình, là tiêu chí để xây dựng gia đình mới hiện nay với niềm thương 
12 
yêu, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Ngoài ra, bình đẳng vợ chồng là điều kiện để xây 
dựng những mối quan hệ bình đẳng khác trong gia đình (bình đẳng giữa cha mẹ 
và con cái, bình đẳng giữa các thành viên và không phân biệt giới tính). 
 Ngoài những yếu tố trực tiếp và cơ bản trên, việc xây dựng gia đình trong 
thời kì mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay còn phải dựa trên cơ 
sở pháp luật Nhà nước, chuẩn mực của xã hội hiện tại  Thực tế hiện nay cho 
thấy việc xây dựng gia đình ở nước ta hiện nay đã có nhiều biến chuyển rất tích 
cực và phù hợp với xu thế chung của thời đại mới. 
PHẦN II: Liên hệ thực tiễn và liên hệ bản thân 
1.1. Các vấn đề gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt 
Nam hiện nay: 
1.1.1. Sự biến đổi chức năng gia đình: 
 Do sự va chạm giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại, chênh lệch giữa 
tốc độ biến đổi của cơ cấu xã hội và tốc độ biến đổi của gia đình, chức năng của 
gia đình Việt Nam đã có những biến đổi mạnh mẽ trong quá trình công nghiệp 
hóa - hiện đại hóa: chức năng xã hội hoá dần mất đi, giảm dần chức năng chăm 
sóc, bảo vệ trẻ em, nuôi dưỡng người già và các thành viên khác và giảm thiểu 
vai trò thoả mãn các nhu cầu văn hoá, tinh thần. 
a. Về chức năng sinh sản: 
 Tuy đại bộ phận người dân Việt Nam vẫn cho rằng sinh sản là một chức 
năng quan trọng của gia đình, sự thay đổi nhận thức rõ rệt về hôn nhân, tình dục, 
sinh sản và số con đã xuất hiện, nhất là trong các gia đình ở nông thôn Việt Nam. 
Truyền thống nông nghiệp lúa nước cùng những khó khăn trong sinh hoạt, mưu 
sinh đòi hỏi sự đoàn kết cộng đồng cả về chất lượng và số lượng đã hình thành 
nên quan niệm con đàn cháu đống. Ngoài ý nghĩa phúc hậu đức dày thì nó còn thể 
hiện sâu xa chiến lược sinh tồn của các gia đình nông thôn. Trên cơ sở đó, dường 
như việc dựng vợ gả chồng và quan hệ tình dục chủ yếu chỉ để phục vụ chức năng 
duy trì nòi giống, tạo nguồn nhân lực lao động. 
 Nhưng giờ đây xã hội hiện đại đã mang đến nhận thức mới, sự thay đổi về 
tính chất của chức năng sinh đẻ từ một quá trình xã hội tự nhiên sang quá trình xã 
hội tự giác: nam nữ lấy nhau không bắt buộc cứ phải có con mà các gia đình sẽ tự 
13 
có ý thức điều chỉnh sao cho phù hợp với nguyện vọng và nhu cầu. Ngày nay, với 
các biện pháp tránh thai, người ta đã tách được chức năng sinh đẻ ra khỏi đáp ứng 
nhu cầu sinh lý. Sinh sản còn là sự thể hiện của tình yêu (thế giới tinh thần) và 
nhu cầu sinh lý của con người. Thỏa mãn nhu cầu tình dục dần trở thành nhân tố 
chính làm tăng mức độ thỏa mãn - hạnh phúc trong đời sống hôn nhân, gia đình. 
Điều này cũng kéo theo các vấn đề vi phạm luân thường đạo lí, truyền thống dân 
tộc khi nhiều người với đời sống tình dục trong hôn nhân không được thỏa mãn 
đã sẵn sàng chạy theo nhu cầu bản năng, bất chấp mọi rào cản dẫn đến nhiều mối 
quan hệ đáng lên án. Tình trạng đó cho thấy con người đã dần có những diễn biến 
tinh thần và nhu cầu phức tạp khiến họ không thể giữ mình trong nề nếp xưa cũ. 
b. Về chức năng giáo dục: 
 Giáo dục giờ đây đã trở thành một trách nhiệm nặng nề mà gia đình phải 
gánh vác. Quá trình biến đổi xã hội nhanh chóng đã làm nảy sinh nhiều xáo trộn 
về chức năng dưỡng dục con cái (góc nhìn từ bên trong) và xã hội hóa (hoạt lực 
từ bên ngoài). Trước đây, giáo dục của gia đình với trẻ em đồng nhất với giáo dục 
xã hội, nhưng ngày nay, với sự hỗ trợ rất nhiều từ giáo dục xã hội: các hình thức 
trường học, tổ chức giáo dục, đoàn thể, sự kết hợp giữa giáo dục gia đình và giáo 
dục xã hội là điều vô cùng cần thiết cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân. 
 Trong những biến đổi mạnh mẽ của thời đại mới, khoảng cách thế hệ giữa 
bố mẹ, ông bà và con trẻ không được rút ngắn đáng kể mà lại còn nảy sinh nhiều 
bất đồng thế hệ về cả tư duy lẫn hành động, nhất là các xung đột trong tương quan 
về thế hệ, giữa những giá trị truyền thống và hiện đại. Cuộc sống của xã hội hiện 
đại cùng những lối sống mới kích thích sự tự do, độc lập trong cả suy nghĩ lẫn 
hành động của giới trẻ; họ nhận thấy được quyền bình đẳng của mình ngang với 
thế hệ trên ở nhiều vấn đề xã hội, và sẵn sàng bộc lộ mong muốn, nhu cầu thể hiện 
ý kiến, quan điểm cá nhân hay theo đuổi lối sống riêng của bản thân. Và quan 
điểm, lối sống như vậy thường đi ngược lại mong muốn của đại bộ phận thế hệ 
trước không thích nghi kịp thời với đổi thay xã hội, ôm tâm niệm rằng “cha mẹ 
đặt đâu thì con ngồi đấy”, “trứng mà đòi khôn hơn vịt”. Thế giới hiện đại với 
những phát triển của kinh tế, xã hội đã đem lại những nhận thức, tư duy đổi mới 
dường như đến từng ngóc ngách của đất nước, khiến những bất đồng thế hệ càng 
14 
ngày càng phổ biến. Thậm chí, những bất đồng này còn được đẩy lên xung đột 
gay gắt, một dấu hiệu cảnh báo sự đổ vỡ phần nào chức năng giáo dục của gia 
đình và nguy cơ tổn hại đến các mối quan hệ trong gia đình. 
 Tuy nhiên quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa hay đổi mới kinh tế, 
chính trị cũng đã thúc đẩy gia đình phát huy tối đa chức năng giáo dục. Nhu cầu 
đòi hỏi nguồn lao động có tay nghề tăng cao, đáp ứng đầy đủ các tư chất cần thiết 
phù hợp với thời đại mới đã nâng cao tiêu chuẩn dưỡng dục con cái của cha mẹ. 
Tương lai của thế hệ con cái sẽ không còn chỉ xoay quanh ruộng đồng, ao sâu nữa, 
mà cả một thế giới năng động đầy tiềm năng đang mở rộng cơ hội đến cho tất cả 
mọi người. Đó cũng là lí do chính thu hút sự quan tâm của cha mẹ đối với việc 
học của con cái, vì không phụ huynh nào mà không muốn con mình có cơ hội 
được học tập, phát triển tốt hơn trong tương lai. Tuy nhiên, mối quan tâm này đa 
dạng và phân hóa khác nhau tùy vào từng khu vực, vùng, miền và dân tộc. 
 Hiện tượng gia đình hạt nhân làm chặn đứng cơ hội truyền thụ những hiểu 
biết về việc nuôi dạy con cái từ thế hệ ông bà cho thế hệ cha mẹ. Thế hệ trẻ mới 
lập gia đình dù nhận được sự hỗ trợ từ bố mẹ nhưng vẫn có những bất đồng thế 
hệ xung quanh việc nuôi dạy con cái vì giới trẻ ngày nay có cơ hội tiếp cận với tri 
thức nhân loại một cách khoa học và chuyên môn hơn, có xu hướng giáo dục con 
cái theo khoa học chính xác hơn là dựa vào sự hiểu biết, kinh nghiệm thực tế của 
thế hệ cha mẹ. Cũng do guồng quay cuộc sống hối hả và nhu cầu ổn định kinh tế, 
theo đuổi sự nghiệp mà cha mẹ ngày nay cũng phụ thuộc vào giáo dục xã hội hơn 
thế hệ trước rất nhiều, phần nào làm suy giảm chức năng giáo dục của gia đình. 
c. Về chức năng tâm lý – tình cảm: 
 Nhịp sống hối hả với vòng quay của công việc khiến cho những thành viên 
trong gia đình bị thu hẹp thời gian dành cho nhau, mối liên hệ tình cảm gia đình 
cũng bị suy giảm. Những bữa cơm gia đình hiếm khi đông đủ, mỗi người trở về 
phòng riêng với những bộn bề công việc của riêng mình, cá nhân trở nên sống 
khép kín, ngại ngần tâm sự, chia sẻ với chính gia đình mình, thậm chí nhiều gia 
đình không còn là nơi chốn ấm áp, yên bình mà mọi người khao khát tìm về sau 
một ngày mệt mỏi nữa mà trở thành một nơi trống rỗng, nhàm chán. Sự phổ biến 
hơn của lối sống thực dụng, ích kỉ, đề cao cuộc sống hưởng thụ, cổ súy cho tư 
15 
tưởng tự do phát triển cá nhân cũng là nguy cơ làm mai một, xói mòn nhiều giá 
trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình. 
d. Về chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng: 
 Những biến đổi mạnh mẽ của thời đại đã thay đổi ít nhiều tư duy truyền 
thống về người đàn ông là trụ cột kinh tế của gia đình. Giờ đây, người phụ nữ 
cũng có vai trò quan trọng và bình đẳng trong việc quyết định thu nhập và mức 
sống của gia đình. Người phụ nữ độc lập trong suy nghĩ và hành động, không còn 
bị thụ động gắn với không gian ruộng vườn, bếp núc nữa mà dần dịch chuyển ra 
không gian xã hội rộng lớn và mới mẻ hơn. Đồng thời, quá trình công nghiệp hoá 
khiến gia đình và nơi làm việc bị tách rời nhau về mặt không gian khiến chức 
năng sản xuất của gia đình cũng suy giảm hoặc hoàn toàn mất đi; thay vào đó, 
chức năng tiêu dùng lại được tăng cường. Điều này có thể dẫn đến lối sống của 
gia đình được quyết định bởi mức thu nhập của các thành viên trong gia đình và 
tiêu chuẩn tiêu dùng của gia đình và chúng ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ thỏa 
mãn sinh hoạt của gia đình. Với các hộ gia đình ở nông thôn, chức năng sản xuất 
và chức năng tiêu dùng của gia đình không bị phân chia rạch ròi nhưng dưới cơ 
chế xã hội lấy việc sản xuất phục vụ cho sự trao đổi thì việc sản xuất tự cung tự 
cấp của gia đình cũng bị suy giảm. 
1.2. Thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay: 
 Trong những thập niên qua, gia đình Việt Nam đã trải qua những biến 
chuyển quan trọng, từ gia đình truyền thống sang gia đình với những đặc điểm 
mới, hiện đại và tự do hơn. Bên cạnh những tác động tích cực như phá vỡ hình 
ảnh gia đình truyền thống với những hủ tục, lạc hậu, bất bình đẳng nhưng vẫn duy 
trì, phát huy những giá trị nhân văn, mang bản sắc dân tộc từ lâu đời thì cũng đã 
có nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh trong vấn đề gia đình, hôn nhân ở Việt Nam, 
tiêu biểu chính là sự suy thoái trong đạo đức gia đình và mối quan hệ hôn nhân 
vợ chồng. 
1.2.1. Đạo đức gia đình: 
 Gia đình với đúng chức năng, ý nghĩa của nó là nơi che chở cho các thành 
viên trước mọi giông tố cuộc đời, là nơi có những người ta yêu thương, nơi ta 
hằng mong muốn được trở về, được quan tâm, chăm sóc, che chở và sẻ chia cùng 
16 
nhau những buồn vui cuộc sống. Trên thực tế, vấn đề đạo đức gia đình đang ngày 
càng xuống cấp trở thành chủ đề “nóng” nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. 
Hàng loạt các vụ việc suy đồi đạo đức xảy ra giữa những người ruột thịt, thân 
thích trong gia đình được chính người trong cuộc tố cáo, thông cáo ra giới báo 
chí, truyền thông. Tư tưởng trọng nam khinh nữ dần được xóa bỏ, người phụ nữ 
trở nên độc lập và tự chủ, giành được quyền bình đẳng cho bản thân mình nhưng 
không có nghĩa là bạo lực gia đình cả về thể chất lẫn tinh thần sẽ được xóa bỏ. 
 Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường phát triển thúc đẩy con người chạy theo 
giá trị đồng tiền mà nhiều người dường như quên mất đi giá trị của tình thân, dẫn 
đến những vụ việc đau lòng như anh em đâm chém nhau tranh giành tài sản, con 
cái lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bố mẹ, thân là đấng sinh thành nhưng lại phải 
nén đau lòng ra tòa kiện con. Không chỉ người lớn mà trẻ em cũng không khỏi 
nằm ngoài vòng nạn nhân của sự xuống cấp đạo đức nghiêm trọng. Hàng năm, 
truyền thông báo chí vẫn hàng loạt đưa tin về những đứa trẻ bị bạo lực bởi chính 
bố mẹ ruột, những bé gái bị xâm hại bởi cha dượng, cha ruột, ông, chú,Những 
vụ việc ghê tởm, vô nhân đạo đáng lên án như vậy khiến cả xã hội không khỏi xót 
xa, tự hỏi làm sao là người thân ruột thịt mà có thể làm ra chuyện kinh khủng như 
vậy được. Tuy nhiên, vấn đề suy thoái đạo đức gia đình ở Việt Nam dường như 
không có sự cải thiện, thậm chí còn diễn biến phức tạp và nghiêm trọng hơn khi 
bước vào thời đại mới phát triển hơn. 
 Lý giải cho thực trạng đó, chúng ta thực sự không thể bỏ qua yếu tố phát 
triển của nền kinh tế thị trường trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong 
giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cái xấu và cái tốt cùng nhau tồn tại, cái tốt 
chưa đủ khả năng để hoàn toàn loại bỏ cái xấu mà chỉ có thể kiềm chế nó, tuy 
nhiên chưa thực sự hiệu quả. Hiện đại hóa khiến cuộc sống con người trở nên 
thoải mái và tiện lợi hơn rất nhiều, tuy nhiên nhiều truyền thống, phong tục tốt 
đẹp của người Việt Nam bị mai một nhưng những thói hư tật xấu lại không biến 
mất, thậm chí phát triển trở thành những căn bệnh quái ác cho xã hội như hiện 
nay. Bên cạnh đó, nền giáo dục Việt Nam hiện tại cũng chịu một phần trách nhiệm 
lớn cho những tồn tại này khi những đổi mới giáo dục vẫn chưa thực sự hiệu quả, 
thiết thực và theo kịp đổi mới kinh tế, xã hội. 
17 
1.2.2. Vấn đề hôn nhân và thực trạng li hôn ngày một tăng: 
 Hôn nhân được coi như là sự gắn bó lâu dài, gần như là trọn đời giữa hai cá 
nhân với nhau trên cơ sở tình yêu và luật pháp công nhận. Tuy nhiên trong những 
năm gần đây, tỷ lệ ly hôn ngày một tăng lên, nhiều nhất là ở những người trẻ, đặc 
biệt là những người kết hôn sớm. Ly hôn được xem là sự giải thoát cho những 
người trong cuộc khỏi sự tù túng, không còn hạnh phúc trong đời sống hôn nhân 
nhưng hệ quả để lại vẫn luôn là gánh nặng, rào cản đối với cá nhân, gia đình và 
xã hội. Bên cạnh những nguyên nhân như bạo lực gia đình, ngoại tình, cờ bạc, 
rượu chè, nghiện ngập, vô sinh thì lí do chính yếu dẫn đến li hôn ở các cặp vợ 
chồng trẻ thường là do không hợp nhau, không cùng quan điểm sống. Hôn nhân 
là vấn đề hệ trọng của cả đời người nhưng lại không nhận được sự đầu tư tìm hiểu 
cần thiết của người trong cuộc, thậm chí điều đó còn thể hiện sự thiếu trách nhiệm 
với không chỉ bản thân mà với cả gia đình. Lối sống đề cao chủ nghĩa tự do, độc 
lập ngày càng phổ biến khiến một bộ phận lớn giới trẻ cũng cởi mở hơn với việc 
kết hôn, “thích thì cưới mà không hợp nữa thì bỏ”; điều này làm dần đánh mất đi 
giá trị thiêng liêng của hôn nhân và gia đình. 
1.3. Liên hệ bản thân về vấn đề hôn nhân, gia đình của người đồng tính 
trong xã hội hiện đại: 
 Gia đình chính là nền tảng của sự ổn định xã hội, cơ sở tạo điều kiện cho 
sự phát triển nền kinh tế và bảo vệ tổ quốc, đồng thời là duy trì, gìn giữ những 
bản sắc, truyền thống, văn hóa của dân tộc. Vì vậy, việc xây dựng gia đình Việt 
Nam trong thời đại mới có một ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền 
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Trước 
những vấn đề phức tạp nảy sinh trong phạm trù gia đình vào thời kì mới ở nước 
ta bắt buộc những chức năng của gia đình phải thay đổi kịp thời, phù hợp để thích 
ứng với tình hình phát triển kinh tế, xã hội. Một hiện tượng phổ biến trong những 
năm trở lại đây ở Việt Nam đó là sự xuất hiện của những gia đình LGBT nhận 
được sự quan tâm chú ý từ xã hội cho đến nhà nước. 
 Hôn nhân đồng giới đã được được thực hiện hợp pháp và được công nhận 
ở 29 quốc gia trên toàn thế giới, tuy nhiên tại Việt Nam, hôn nhân đồng tính không 
còn bị cấm nhưng cũng không được hợp pháp hóa về mặt pháp luật nên sẽ không 
18 
được đăng kí kết hôn. Điều này cũng là một yếu tố gây cản trở đến các vấn đề 
thực hiện quyền, nghĩa vụ hợp pháp của gia đình hay việc nhận con nuôi. Vấn đề 
đồng tính tuy đã trở nên cởi mở hơn rất nhiều ở nước ta, nhưng hôn nhân đồng 
giới vẫn còn nhận lại sự phản đối, bài trừ từ một số bộ phận trong xã hội. Một 
trong những lí do được đưa ra đó là “trái tự nhiên”, đi ngược lại với chức năng 
sinh sản vốn có của gia đình, việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới sẽ làm mất 
đi những giá trị văn hóa quý báu của dân tộc, đồng thời làm giảm quy mô dân số, 
già hóa dân số hay suy giảm giống nòi. 
 Tuy nhiên, theo tôi, việc những người yêu nhau và hướng đến thực hiện hôn 
nhân hợp pháp là quyền căn bản của mỗi người: ai cũng có quyền được hạnh phúc 
và tự do đưa ra lựa chọn của mình, trong hôn nhân, thực sự giới tính không có can 
hệ gì đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ gia đình của mỗi cá nhân. Và khi mà 
vấn đề tình dục đã tách rời khỏi sinh sản, việc kết hôn rồi có sinh con hay không 
hoàn toàn là tự do quyết định của mỗi gia đình, kể cả đó có là gia đình đồng tính 
hay dị tính. Tỉ lệ hôn nhân đồng tính ở Việt Nam cũng là rất nhỏ và không thể ảnh 
hưởng đến sự phát triển quy mô hay chất lượng dân số của nước ta. Tôi cũng tin 
rằng không có một cơ sở khoa học nào hoàn toàn chính xác chứng minh được 
rằng hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính sẽ làm đánh mất những giá trị văn hóa của 
dân tộc hay làm rối loạn xã hội. Gia đình đồng tính hoàn toàn có thể thực hiện 
hiệu quả những chức năng cơ bản của gia đình trong thời kì mới quá độ đi lên chủ 
nghĩa xã hội. Tôi cho rằng sự chấp nhận xu hướng này không làm phương hại gì 
đến văn hoá truyền thống của dân tộc, trái lại, nó càng khẳng định tính cởi mở và 
dễ thích nghi của văn hoá Việt Nam khi hội nhập quốc tế, quyền tự do và hạnh 
phúc cá nhân được coi trọng, làm nền tảng cho sự phát triển của kinh tế và xã hội. 
 Tôi cũng không thể phủ nhận rằng phát triển trong một gia đình đồng tính 
sẽ vấp phải những khó khăn và tiêu cực. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ trong 
cộng đồng người dân thể hiện thái độ kì thị, thậm chí là coi thường đối với những 
người đồng tính. Những đứa trẻ đồng tính hay lớn lên trong gia đình đồng tính sẽ 
phải chịu phân biệt đối xử, cô lập, miệt thị của người khác, thậm chí là bạo hành. 
Những vấn đề hạn chế trong việc nuôi dưỡng con cái cũng không thể tránh khỏi: 
sự khiếm khuyết về giới tính trong gia đình làm tăng nguy cơ về sự lệch lạc hành 
19 
vi giới tính; về dài hạn, trẻ sẽ gặp phải nhiều vấn đề tâm và sinh lí hơn khi bước 
vào tuổi thành niên. Các mối quan hệ đồng tính cũng liên quan đến nhiều vấn đề 
tiêu cực như nguy cơ lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục cao hơn các cặp đôi 
dị tính, dễ chia tay hay phát sinh quan hệ ngoài luồng có thể làm tăng nguy cơ 
chấn thương tâm lý của con trẻ. Và khi xảy ra chia tay, vấn đề con cái rất khó để 
giải quyết khi hôn nhân đồng tính ở Việt Nam vẫn chưa được hợp pháp hóa, dẫn 
đến đứa trẻ là người chịu tổn thương và thiệt thòi nhất. 
 Tôi tin rằng vấn đề hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính là một việc hiển nhiên, 
chỉ là vấn đề nằm ở thời gian sớm hay muộn vì xu hướng tính dục là một thứ 
không thể loại bỏ khỏi mỗi cá nhân, cần phải chấp nhận sự đa dạng trong tính 
hướng giữa người với người. Do đó vẫn cần thực hiện các biện pháp nhằm nâng 
cao chất lượng cuộc sống và tính ổn định của các cặp đôi đồng tính. Giải pháp cấp 
thiết đầu tiên đó chính là nâng cao và phổ biến giáo dục giới tính, giáo dục các 
cặp đôi đồng tính về cách nuôi dạy con cái và không định hướng trẻ theo một tính 
dục cụ thể nào đó, đồng thời không biểu hiện quá đà những hành vi thân mật, 
mang tính cổ xúy kết hôn, quan hệ đồng tính trước mặt trẻ vì nó sẽ ảnh hưởng đến 
tâm lí và quá trình định hình xu hướng tính dục tự nhiên của trẻ. Mỗi gia đình đều 
nên thường xuyên để ý đến những thay đổi về mặt tâm sinh lí của con, không nền 
kì thị, ghét bỏ khi con có dấu hiệu đồng tính luyến ái mà phải tôn trọng, ủng hộ, 
sát cánh cùng con vượt qua những trở ngại xã hội, khẳng định rằng đồng tính 
không có gì là sai trái mà hoàn toàn đúng với tự nhiên. Công tác giáo dục đạo đức, 
ý thức bình đẳng cho mọi người trong xã hội cần được phát huy, phổ biến và nhân 
rộng. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là tuyên truyền, cổ súy việc kết hôn đồng 
giới, kêu gọi bình đẳng cho các cặp đôi đồng tính vì việc đó không khác gì nhấn 
mạnh vào sự dị biệt của họ. Ngoài ra, các cặp đôi cũng cần có kiến thức và ý thức 
bảo vệ cho sức khỏe bản thân khi quan hệ tình dục để tránh phát sinh các bệnh 
truyền nhiễm hay nhiễm trùng. Tôi tin rằng chỉ cần cộng đồng xây dựng ý thức 
chung, mọi người chấp nhận và tôn trọng những điểm khác biệt của nhau thì xã 
hội sẽ tốt đẹp và văn minh hơn rất nhiều. Và việc này cần được xây dựng từ phạm 
vi gia đình vì mỗi gia đình chính là một tế bào của xã hội; gia đình có văn hóa, 
văn mình thì xã hội mới phát triển tích cực được. 
20 
KẾT LUẬN 
 Gia đình là một trong những vấn đề xã hội được Đảng, Nhà nước và toàn 
dân quan tâm khi bước vào thời kì đổi mới nền kinh tế, quá độ đi lên chủ nghĩa 
xã hội vì gia đình là tế bào tạo nên xã hội, gia đình là cầu nối giữa mỗi cá nhân 
con người và xã hội. Đó còn là nơi sản sinh ra những thế hệ người tiếp theo, duy 
trì nòi giống; là nơi nuôi dưỡng, dạy dỗ đầu tiên cho con người từ lúc chào đời 
đến khi trưởng thành; là nơi định hình nhân cách, trí tuệ của mỗi con người. Gia 
đình là “tổ ấm”, là nơi chăm chút cho đời sống tinh thần mỗi con người và là một 
đơn vị kinh tế, lao động sản xuất làm ra của cải vật chất cho gia đình, cho xã hội 
rất bền vững và không thể thay thế. Tuy nhiên, hiện có không ít người chưa nhận 
thức được hết ý nghĩa, tầm quan trọng và những vai trò của gia đình, chưa quan 
tâm đầy đủ đến việc xây dựng và phát triển gia đình một cách toàn diện, đặc biệt 
là trong thời buổi ngày nay, khi đất nước đang trên đà hội nhập phát triển cùng 
với thế giới. Mặc dù trong những năm gần đây, đất nước ta đã có những biến 
chuyển đáng ghi nhận trên con đường hội nhập trong tất cả các mặt về kinh tế, 
văn hóa, xã hội, bên cạnh những tác động tích cực, phù hợp với lối sống mới thì 
gia đình Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều vấn đề nhức nhối còn tồn tại và 
những thách thức mới. Do đó, là công dân Việt Nam, mỗi chúng ta cần phải xác 
định ý thức và có những hành động đúng đắn trong việc củng cố và xây dựng gia 
đình mới phù hợp với chuẩn mực xã hội cũng như sự phát triển của đất nước trong 
thời đại mới. 
21 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tài liệu tiếng Việt: 
1. “Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (dành cho bậc đại học - không 
chuyên lý luận chính trị)”, NXB Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội – 2019. 
2. “Gia đình học”, NXB Lý luận chính trị, Đặng Cảnh Khanh - Lê Thị Quý, 
Hà Nội – 2007. 
Tài liệu trực tuyến: 
1. “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay”, 
GS.TS. Lê Thị Quý - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Giới và Phát triển, 
truy cập 20h39ph ngày 20/5/2021. 
gia-dinh-Viet-Nam-hiennay.html 
2. “Tiểu luận gia đình học những vấn đề cần quán triệt để xây dựng và củng 
cố gia đìnhviệt nam trong thời đại mới”, Phạm Phúc Khánh, truy cập 
7h35ph ngày 21/5/2021. 
can-quan-triet-de-xay-dung-va-cung-co-gia-dinhviet-nam-trong-thoi-dai-
moi-299889.html 
3. “Sự biến đổi chức năng của gia đình- lời cảnh báo từ tiểu thuyết viết về 
nông thôn Việt Nam đầu thế kỉ XXI”, Báo Văn nghệ quân đội, Hoàng Thị 
Kim Oanh, truy cập 14h20ph ngày 20/5/2021. 
nang-cua-gia-dinh-loi-canh-bao-tu-tieu-thuyet-viet-ve-nong-thon-viet-
nam-dau-the-ki-xxi_11013.html 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_ly_luan_chung_ve_gia_dinh_lien_he_voi_thuc_trang_g.pdf