Tiểu luận Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội

pdf 27 trang yenvu 20/02/2024 2080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội

Tiểu luận Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội
2151070013 Cnxhkh NTG
Chủ nghĩa xã hội khoa học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền)
lOMoARcPSD|12184112
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Học phần: CN01002.9
Đ Ề TÀI : LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ TỪ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 
 Giảng viên hướng dẫn : TS. Khuất Thị Thanh Vân
 Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thu Giang
 Lớp : Truyền thông quốc tế K41
Hà Nội, ngày 25 tháng 12
lOMoARcPSD|12184112
lOMoARcPSD|12184112
lOMoARcPSD|12184112
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu vấn đề: 
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô và các nước Đông Âu năm 1989 đã
đem đến cho hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới những khủng hoảng nặng nề.
Vốn là một thành trì của hệ thống xã hội chủ nghĩa, đã đạt được những thành tựu
rực rỡ, trở thành hình mẫu phát triển của nhiều quốc gia đang trên đà đi lên chủ
nghĩa xã hội, nên sự thất bại của Liên Xô như một cú giáng lớn vào hệ thống xã
hội chủ nghĩa, đồng thời trở thành cơ hội để những kẻ chống phá có cơ hội “thừa
nước đục thả câu”. Tính tất yếu, đúng đắn của chủ nghĩa xã hội được đem ra bàn
luận, tranh cãi, các phần tử cực đoan thể hiện thái độ thù địch và chống đối, xuyên
tạc, phủ nhận sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa xã hội không chỉ
hứng chịu sự báng bổ, chế nhạo của thế lực chống cộng, mà còn phải giải quyết
vấn đề tư tưởng nội bộ, khi những người đứng trong hàng ngũ cách mạng cũng
không ngừng hoài nghi, thậm chí hối hận về con đường độc lập dân tộc bằng cách
đi theo chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng dao động này rất nguy hiểm, có thể trở thành kẽ
hở của hệ thống tư tưởng, khiến kẻ thù lợi dụng để truyền bá những quan điểm sai
lệch, dẫn đến những mâu thuẫn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. 
Trong tình hình đó, chủ nghĩa tư bản lập tức chớp lấy thời cơ, sử dụng thành
tựu khoa học kỹ thuật tạo những bước tiến mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế, quân
sự, chính trị - xã hội... Những thành tựu, bước tiến ấy là lớp vỏ hào nhoáng hoàn
hảo, che đậy kín kẽ bản chất bóc lột bên trong. Mặc dù trong bối cảnh phát triển đi
lên của thế giới, sự đối trọng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đã không
còn, nhưng để đạt được điều đó, các nước tư bản đã có sự điều chỉnh phù hợp về
chính sách, xoa dịu những cuộc cách mạng giai cấp để tránh bị diệt vong. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa sự bóc lột bản chất của hình thái kinh tế - xã hội này
đã biến mất, mà thay vào đó, sự bóc lột này còn được che đậy tinh vi hơn, bằng
cách “trung lưu hóa” giai cấp công nhân, khiến họ không còn thiết tha đấu tranh;
sản sinh ra cổ phần, chính sách bảo hiểm xã hội; phân hóa công nhân thành nhiều
lOMoARcPSD|12184112
loại: “công nhân cổ cồn trắng”, “công nhân cổ cồn xanh”, Đặc biệt, những học
giả tư sản cho rằng con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội không còn đúng trong
thời đại mới ngày nay, khi những nỗ lực hòa giải giữa các giai cấp đã đạt được
những thành công về hình thức. 
Tuy nhiên, tính ưu việt và tất yếu của chủ nghĩa xã hội vẫn không hề thay đổi.
Bởi trải qua khoảng thời gian 170 năm kể từ khi được ra đời, nó vẫn luôn giữ vững
bản chất đúng đắn về một xã hội nơi chế độ người bóc lột người không còn tồn tại,
và con người thực sự được làm chủ bản thân, làm chủ xã hội không phải điều
không thể xảy ra. Tất cả những yếu tố nêu trên đem đến cho hệ thống xã hội chủ
nghĩa một thử thách lớn, đòi hỏi niềm tin và sự kiên định vào chủ nghĩa Mác –
Lênin. Việt Nam đã bỏ qua chủ nghĩa tư bản, tiến thẳng tới xây dựng xã hội trong
thời kỳ quá độ và trong quá trình đó, chúng ta luôn trung thành với những tư tưởng
của chủ nghĩa Mác – Lênin; không ngừng sáng tạo, đổi mới phù hợp với thực tiễn
đất nước. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa bao giờ dễ dàng, cũng như
lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết 50 năm trước, đó là một “cuộc chiến đấu
khổng lồ” để “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ,
tốt tươi”. 
Để khẳng định những giá trị vĩ đại của lý luận Mác – Lênin, em lựa chọn đề tài
này với mong muốn được tìm hiểu chuyên sâu về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội; đồng thời tìm ra một số quan điểm không còn phù hợp với thực tiễn đi lên chủ
nghĩa xã hội hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Nắm được cơ bản chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội, trong đó, đi vào tìm hiểu về quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ
nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những điểm hạn chế về tính
đương thời của chủ nghĩa Mác – Lênin khi nói về quá trình quá độ. 
lOMoARcPSD|12184112
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: 
Tìm hiểu về chủ nghĩa Mác – Lênin, nắm được hệ thống lý luận về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội và diễn giải hệ thống lý luận ấy dựa trên hiểu biết cá nhân
và nghiên cứu tài liệu.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Các nước đi theo chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Về mặt nhận thức, sau khi giải quyết được các vấn đề trong mục 2, em mong
muốn hiểu được tầm quan trọng của con đường đi lên quá độ chủ nghĩa xã hội trên
thế giới. Đồng thời trang bị cho mình những kiến thức hữu ích về tư tưởng để đạt
mục tiêu trở thành “con người mới xã hội chủ nghĩa”.
Về mặt hành động, những hiểu biết trong quá trình nghiên cứu, hệ thống thông
tin là yếu tố tiên quyết để em liên tục trau dồi lý luận để có thể áp dụng vào thực
tiễn đời sống, đóng góp vào quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
lOMoARcPSD|12184112
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CHỦ 
NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Định nghĩa:
Chủ nghĩa xã hội (tiếng Anh: Socialism) được hiểu theo bốn nghĩa:
Một là phong trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động chống 
lại áp bức, bất công, chống các giai cấp thống trị; 
Hai là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao động
khỏi áp bức, bóc lột, bất công; 
Ba là một khoa học - chủ nghĩa xã hội khoa học, khoa học về sứ mệnh lịch sử 
của giai cấp công nhân; 
Bốn là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế- xã hội 
cộng sản chủ nghĩa. Trong tiểu luận này, chủ nghĩa xã hội được xem xét dưới tư 
cách là một chế độ xã hội.
1.2. Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ 
nghĩa:
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, quá trình vận động, phát triển của xã hội loài 
người tuân theo một quy luật, và quy luật này được quy định bởi yếu tố vật chất. 
C.Mác từng viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một 
quá trình lịch sử tự nhiên”, và theo ông, có năm hình thái kinh tế - xã hội, lần lượt 
là cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng 
sản chủ nghĩa. Những hình thái kinh tế - xã hội chuyển giao kế tiếp nhau bằng con 
đường cách mạng xã hội, và nguyên nhân của cuộc cách mạng ấy là mâu thuẫn 
không thể dung hòa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. C.Mác và 
Ph.Ăngghen đưa ra dự đoán về một hình thái kinh tế - xã hội phát triển ở bậc cao 
nhất, nơi không còn đối kháng giai cấp, chế độ người bóc lột người, thiểu số phục 
lOMoARcPSD|12184112
tùng đa số mang tên cộng sản chủ nghĩa. Sự thay thế giữa hình thái tư bản chủ 
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là tất yếu, được quyết định bởi sự phát triển của lực 
lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa xã hội là một
giai đoạn, một trình độ phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. 
Nói vậy có nghĩa, khi nói chủ nghĩa xã hội là cộng sản chủ nghĩa, cần hiểu rằng 
chủ nghĩa xã hội không phải cộng sản chủ nghĩa hoàn toàn mà chỉ là “giai đoạn 
đầu”, “giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa” (C.Mác). Giai đoạn thấp này 
bao gồm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội, giai đoạn cao 
hơn là cộng sản chủ nghĩa. 
Trong giai đoạn đầu đó, thời kỳ quá độ còn mang nhiều “dấu vết của xã hội cũ 
mà nó đã lọt lòng ra”, chưa thể trưởng thành về các phương diện xã hội, đặc biệt là
về kinh tế. Tuy nhiên, theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, sự tồn tại
của những tàn tích mà chủ nghĩa tư bản để lại trên mọi mặt đời sống như kinh tế, 
chính trị, là điều không thể tránh khỏi đối với một xã hội vừa “thoái thai” từ 
trong lòng hình thái kinh tế - xã hội đi trước ra.
Bên cạnh đó, vì là hình thức đầu tiên của một xã hội mới, chủ nghĩa xã hội dĩ 
nhiên sẽ có sự chênh lệch về trình độ phát triển so với cộng sản chủ nghĩa. Sự 
chênh lệch này chịu ảnh hưởng bởi nguồn gốc của hai chủ nghĩa nói trên: nếu như 
chủ nghĩa xã hội được sinh ra bởi chủ nghĩa tư bản, thì cộng sản chủ nghĩa là hình 
thức xã hội cao nhất, chỉ có thể tồn tại sau khi chủ nghĩa xã hội hoàn thiện. 
Sau này, V.I.Lênin đã tiếp thu và phát triển tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen 
cũng như ứng dụng thực tiễn nước Nga, cho rằng đối với những nước chưa có chủ 
nghĩa tư bản phát triển cao “cần phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư 
bản lên chủ nghĩa xã hội”. Do đó, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa 
cộng sản có hai cách hiểu: đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát 
triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội, mà theo V.I.Lênin, đó là những “cơn đau đẻ kéo dài”; và đối với các nước 
lOMoARcPSD|12184112
đã trải qua chủ nghĩa tư bản, giữa chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản có một 
thời kỳ cải biên, quá độ từ xã hội này sang xã hội kia.
1.3. Điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội: 
1.3.1. Điều kiện kinh tế: 
Chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển mới của nhân loại. Khi đánh giá về 
chủ nghĩa tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đứng trên nguyên tắc khách quan, 
nguyên tắc toàn diện để khẳng định chủ nghĩa tư bản là một bước tiến rất dài so 
với chế độ phong kiến: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy
một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng 
sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Nền đại công nghiệp của tư bản 
chủ nghĩa được áp dụng khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghiệp cơ khí đã đạt 
được nhiều thành công vang dội, tạo ra năng suất lao động cao, lực lượng sản xuất 
hiện đại, được C.Mác ví như “những trọng pháo bắn vào chế độ phong kiến đang 
suy tàn”. 
Trong quá trình phát triển của nó, chủ nghĩa tư bản hình thành chế độ người bóc 
lột người, cụ thể là giai cấp tư sản áp bức lực lượng sản xuất mà chủ yếu là giai cấp
công nhân. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa cao và quan 
hệ sản xuất mang tính chiếm hữu tư nhân ngày càng trầm trọng, do sự đề cao chế 
độ tư hữu không còn phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Vì lẽ đó, chủ nghĩa tư 
bản trở thành gông cùm kìm kẹp sự phát triển của lực lượng sản xuất. 
1.3.2. Điều kiện chính trị - xã hội:
Mâu thuẫn về kinh tế được phản ánh qua sự đối kháng về giai cấp, giữa giai cấp 
tư sản lỗi thời và giai cấp công nhân hiện đại, đại diện cho lực lượng sản xuất tiên 
tiến. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, tư bản chủ nghĩa không chỉ tạo vũ khí để 
giết mình mà còn tạo ra những người sử dụng vũ khí đó: những công nhân hiện 
đại, những người vô sản. Mâu thuẫn này càng trở nên gay gắt, dẫn tới một số điều 
chỉnh có lợi hơn người lao động, nhưng những điều chỉnh này không vượt qua 
được trật tự của chủ nghĩa tư bản. Cùng với sự phát triển về chất và lượng của giai 
lOMoARcPSD|12184112
cấp công nhân, Đảng Cộng sản ra đời, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc, thực sự 
của con đẻ nền đại công nghiệp; trực tiếp tham gia lãnh đạo, tiên phong trong cuộc 
đấu tranh giai cấp, mà đỉnh cao của những cuộc đấu tranh giai cấp đó chính là cách
mạng vô sản. Và khi cách mạng vô sản giành thắng lợi, chủ nghĩa tư bản sẽ được 
thay thế bằng một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tốt đẹp hơn: cộng sản chủ 
nghĩa. 
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng của nhân dân lao động, chủ yếu là giai cấp
công nhân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cuộc cách mạng có thể được 
thực hiện bằng bạo lực cách mạng hoặc con đường hòa bình. Tuy nhiên, thực tế 
đấu tranh cho thấy con đường hòa bình khả thi về mặt lý thuyết, nhưng thực tế 
chưa từng xảy ra. Khi đi theo con đường bạo lực cách mạng, giai cấp vô sản tiến 
hành lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, cải tổ 
xã hội cũ để xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà bước đầu là xây dựng xã hội 
xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân mang trong mình sứ mệnh lịch sử của cả xã 
hội, với mục tiêu xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng lực lượng sản 
xuất, xây dựng hệ giá trị lao động, công bằng, dân chủ, tự do. Chính vì vậy, cuộc 
cách mạng vô sản mang tính sâu sắc và triệt để cao, chỉ có thể thành công khi tích 
cực chính trị của giai cấp công nhân và tầng lớp người lao động được khơi dậy.
1.4. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội: 
Một là, chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã 
hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.
Hai là, chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ.
Ba là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất 
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Bốn là, chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công 
nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
Năm là, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy 
những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại.
lOMoARcPSD|12184112
Sáu là, chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có 
quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ THỜI 
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Định nghĩa:
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôtha”, C.Mác đã nêu lên định nghĩa 
kinh điển của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa 
và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang 
xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước 
của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của 
giai cấp vô sản”. Tiếp nhận và phát triển tư tưởng ấy của C.Mác, V.I.Lênin cũng 
khái quát: “Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu 
tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, 
hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu 
diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu.” 
Như vậy, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải 
biến cách mạng sâu sắc, toàn diện các lĩnh vực đời sống của xã hội, tạo ra những 
tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó, những 
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện.
2.2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
2.2.1. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản khác nhau về chất, thời kỳ quá độ là
bước chuyển mình cần thiết giữa hai hình thái kinh tế - xã hội:
Tuy chủ nghĩa xã hội chỉ là một nấc thang của hình thái kinh tế - xã hội mới, 
nhưng nó hoàn toàn không đối lập một cách “chung chung” với chủ nghĩa tư bản 
mà hoàn toàn vượt xa về mọi mặt. Bản chất của chủ nghĩa tư bản là chế độ chiếm 
lOMoARcPSD|12184112
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, đạt được nhờ sự áp bức, bóc lột 
bất công. Bên cạnh đó, nhà nước trong tư bản chủ nghĩa là nhà nước của giai cấp 
tư sản, quyền lực của thiểu số trấn áp đại đa số. Chính vì thế, đối kháng giai cấp 
càng trở nên trầm trọng, chỉ có thể giải quyết bằng con đường bạo lực cách mạng 
vô sản. Sự phát triển cao hơn, tốt đẹp hơn của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư 
bản được phản ánh ở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Trong xã hội đó, không 
còn tình trạng áp bức bóc lột, không còn đối kháng giai cấp, mục tiêu phát triển là 
vì con người. Nhà nước của chủ nghĩa xã hội tập trung quyền lực của đại đa số 
nhân dân, trấn áp thiểu số. 
Các nhà Mác xít khẳng định rằng năng suất lao động là yếu tố then chốt, chủ yếu
nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới. Để có được vị trí như ngày nay, chủ 
nghĩa tư bản đã tạo ra năng suất lao động chưa từng thấy so với chế độ phong kiến.
Do đó, chủ nghĩa tư bản hoàn toàn có thể bị đánh bại bởi chủ nghĩa xã hội – chế độ
xã hội nơi năng suất lao động mới cao hơn nhiều. Tuy nhiên, sản phẩm của năng 
suất lao động ấy sẽ mang tính công hữu, phục vụ cho nhu cầu của đại đa số xã hội. 
2.2.2. Chủ nghĩa tư bản tạo tiền đề cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
thời kỳ quá độ có nhiệm vụ sắp xếp lại tiền đề đó:
Những thành tựu khoa học – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là cơ sở vật chất để 
chủ nghĩa xã hội phát triển tối ưu, tuy nhiên, để cơ sở vật chất đó phục vụ cho sự 
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần phải có thời gian tổ chức, thiết lập lại. Năng
suất lao động của chủ nghĩa tư bản vốn dành để phục vụ cho giai cấp tư sản, cho 
thiểu số, và để biến năng suất lao động ấy thành tư liệu của giai cấp công nhân, 
nhân dân lao động là cả một quá trình dài. Điều này chứng minh sự tất yếu của thời
kỳ quá độ, bên cạnh đó cũng cho thấy rằng đây là thời kỳ khó khăn, phức tạp vì 
phải trải qua nhiều bước trung gian và thực nghiệm.
Các nhà kinh điển theo chủ nghĩa Mác – Lênin, từ thực tiễn của thời kỳ quá độ, 
đã phân biệt hai loại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản như sau:
lOMoARcPSD|12184112
Một là, quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với 
những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Cho đến nay, hình thức quá độ 
này vẫn chưa từng diễn ra trên thế giới. 
Hai là, quá độ gián tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với 
những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Tiêu biểu của hình thức quá 
độ này cần kể đến Trung Quốc, Việt Nam,; thậm chí là Liên Xô và các nước 
Đông Âu. Vì bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, họ sẽ mất
một thời gian dài cáng đáng nhiệm vụ vốn thuộc về chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư 
sản: công nghiệp hóa đất nước; đồng thời có những sáng tạo, cải tạo, điều chỉnh 
phù hợp với định hướng phát triển của mình.
2.2.3. Thời kỳ quá độ cải tạo, thủ tiêu quan hệ xã hội của chủ nghĩa tư bản và xây
dựng các quan hệ xã hội (đặc biệt là quan hệ sản xuất) mới chủ nghĩa xã hội:
Sự khác nhau về chất giữa 2 chế độ xã hội khiến những quan hệ xã hội của chủ 
nghĩa xã hội không thể tự phát trong lòng chủ nghĩa tư bản: quan hệ sản xuất của 
chủ nghĩa tư bản là quan hệ sở hữu, dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân, nơi thiểu 
số không đóng góp sức lao động nhưng vẫn được hưởng một phần thành quả của 
giai cấp vô sản; trái lại, quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội là quan hệ công hữu,
mang tính xã hội hóa cao, tư liệu sản xuất được phân phối bình đẳng, mức hưởng 
dựa trên sức lao động của mỗi cá nhân. Thời kỳ quá độ có nhiệm vụ xây dựng quan
hệ sản xuất mới dựa trên chủ nghĩa xã hội, song, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn nhắc 
nhở, những công việc này phải được tiến hành dần dần, từng bước; phải biết sử 
dụng những hình thức, giai đoạn trung gian thích hợp.
Chế độ sở hữu của thời kỳ quá độ là sự quá độ từ chế độ tư hữu sang chế độ 
công hữu. Giai cấp vô sản khi có được quyền lực chính trị sẽ tiến hành quốc hữu 
hóa tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản, khiến tài sản công hữu ngày càng nhiều 
hơn. Đến khi chế độ công hữu hoàn toàn hình thành, chế độ tư hữu bị diệt vong, 
thời kỳ quá độ sẽ kết thúc. Tương tự, sự phân phối trong thời kỳ quá độ sẽ không 
hoàn toàn theo lao động, bởi tình trạng bóc lột giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô 
lOMoARcPSD|12184112
sản vẫn còn tồn tại, nhưng đã ít hơn so với tư bản chủ nghĩa. Chấm dứt thời kỳ quá
độ sẽ chấm dứt chế độ bóc lột, bên cạnh đó, lao động sẽ được phân phối hoàn toàn.
Lí do là bởi khi đó, mọi người đều bình đẳng trong sở hữu tư liệu sản xuất, ai làm 
nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít.
2.2.4. Giai cấp công nhân cần thời kỳ quá độ để làm quen với công cuộc xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa:
Sau khi cuộc cách mạng vô sản giành thắng lợi, chính quyền thuộc về giai cấp 
công nhân. Giành được chính quyền mới chỉ là bước đầu, để củng cố vị thế của 
mình, giai cấp công nhân cần sử dụng chính quyền, sử dụng nhà nước đó để tổ 
chức, quản lý, xây dựng xã hội mới trên các phương diện kinh tế, văn hóa – tư 
tưởng, chính trị - xã hội. Những nhiệm vụ này, đối với giai cấp công nhân, đều mới
mẻ và khó khăn, phức tạp, cần trải qua nhiều giai đoạn trung gian, do đó, không 
tránh khỏi những sai sót. Thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, bởi giai cấp 
công nhân cần từng bước làm quen với việc điều hành nền chuyên chính vô sản.
2.3. Thực chất và đặc điểm của thời kỳ quá độ: 
2.3.1. Thực chất của thời kỳ quá độ: 
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng 
từ xã hôị tiền tư bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hôị xã hội chủ nghĩa. 
Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội có sự đan xen của nhiều tàn dư về mọi phương 
diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và những yếu tố mới mang 
tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới phát sinh chưa phải là chủ 
nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở của chính nó. 
2.3.2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ
Về kinh tế, thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó có cả những
thành phần kinh tế đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Năm 1921, sau khi đưa ra 
chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin cho rằng sự tồn tại năm thành phần kinh tế trong 
thời kỳ quá độ là tất yếu, hợp quy luật, chúng được phép tồn tại trong 1 thời gian 
lOMoARcPSD|12184112
cần thiết, nhất là việc khuyến khích phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước. Như vậy,
nền kinh tế của thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành 
phần, mà theo V.I.Lênin là kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản, 
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế xã hội chủ nghĩa. 
Về chính trị, thời kỳ quá độ thiết lập nền chuyên chính vô sản. Đây là sự thống 
trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với 
nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với những phần tử
thù địch, chống lại nhân dân; là tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô 
sản đã chiến thắng nhưng chưa phải đã toàn thắng với giai cấp tư sản đã thất bại 
nhưng chưa phải thất bại hoàn toàn. Cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện mới - 
giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, với nội dung mới - xây dựng 
toàn diện xã hội mới, trọng tâm là xây dựng nhà nước có tính kinh tế, và hình thức 
mới - cơ bản là hòa bình tổ chức xây dựng. 
Về tư tưởng – văn hóa, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội 
còn tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư 
sản. Yếu tố tư tưởng – văn hóa mới và cũ thường xuyên đấu tranh với nhau, đòi hỏi
Đảng Cộng sản từng bước xác lập, xây dựng hệ tư tưởng và nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa. Hơn nữa, theo V.I.Lênin, đặc điểm tâm lý, tư tưởng – văn hóa của thời kỳ 
quá độ còn là tâm lý luyến tiếc chính quyền và luôn nuôi hi vọng phục hồi “thiên 
đường đã mất” của các giai cấp bóc lột; là tâm lý, tập quán tản mạn, vô chính phủ, 
thích tự do buôn bán, hay hoang mang, dao động của đông đảo quần chúng tiểu tư 
sản. Ngoài ra, thời kỳ ấy còn phải đối mặt với lối sống thiếu văn hóa, không tôn 
trọng pháp luật, tham ô, hối lộ, quan liêu; thói kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa, lười 
biếng, ăn không ngồi rồi, 
Về xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp 
khác nhau, những giai cấp ấy vừa đấu tranh, vừa hợp tác với nhau. Ngoài ra, trong 
xã hội của thời kỳ quá độ, tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa lao
động trí óc và lao động chân tay. Do đó, thực chất về mặt xã hội của thời kỳ quá độ
lOMoARcPSD|12184112
là cuộc đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn và tàn dư của xã 
hội tư bản chủ nghĩa để lại; bên cạnh đó, thiết lập công bằng xã hội, tuân thủ 
nguyên tắc phân phối theo lao động. 
2.4. Nội dung, nhiệm vụ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
2.4.1. Lĩnh vực kinh tế:
Về cơ bản, trên lĩnh vực kinh tế, thời kỳ quá độ cần sắp xếp lại lực lượng sản 
xuất của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ sản 
xuất mới xã hội chủ nghĩa. Những công tác này cần tuân theo tính tất yếu khách 
quan của các quy luật kinh tế phù hợp với trình độ phát triển của xã hội, không thể 
theo ý muốn chủ quan, nóng vội. 
Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, 
tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật chất, kỹ thuật, phục vụ cho quá trình quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội. Việc tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành theo
những hình thức, nội dung khác nhau, phụ thuộc vào tình hình thực tế và điều kiện 
lịch sử khác nhau của các nước khác nhau.
2.4.2. Lĩnh vực chính trị:
Ph.Ăngghen từng khái quát nội dung cơ bản trên lĩnh vực chính trị của thời kỳ 
quá độ như sau: “Muốn không để mất một lần nữa quyền thống trị mà chính mình 
vừa mới giành được, giai cấp công nhân đó, một mặt phải gạt bỏ toàn bộ bộ máy 
áp bức cũ từ trước đến nay vẫn được dùng để chống lại mình, nhưng mặt khác lại 
phải đề phòng những đại biểu và viên chức của chính mình bằng cách tuyên bố tất 
cả những người này, không trừ một ai, đều có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào”.
Như vậy, thời kỳ quá độ không chỉ có nhiệm vụ chống lại những thế lực thù 
địch, phản động, chống phá; mà còn phải củng cố chính quyền của giai cấp vô sản, 
xây dựng xã hội mới, xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh và đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân lao động.
lOMoARcPSD|12184112
2.4.3. Lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: 
Về tư tưởng – văn hóa, thời kỳ quá độ cần tiếp thu, tuyên truyền những tư tưởng
khoa học, thực tiễn cách mạng giai cấp của giai cấp công nhân thế giới; trấn áp 
những tư tưởng chống phá tiêu cực, gây ảnh hưởng tới tiến trình xây dựng chủ 
nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, các nước cần xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ 
nghĩa, phát huy bản sắc riêng trong quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa chung.
2.4.4. Lĩnh vực xã hội: 
Trong lĩnh vực xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải bài trừ, loại bỏ 
những tệ nạn xã hội do chủ nghĩa tư bản để lại; thúc đẩy những quan hệ xã hội tốt 
đẹp dựa trên lý tưởng tự do của người này là tiền đề cho sự tự do của người khác. 
Bên cạnh đó, cần khắc phục sự chênh lệch của các tầng lớp trong giai cấp vô sản 
và sự thiếu cân đối trong phát triển giữa các vùng miền; giai cấp công nhân cũng 
cần liên minh với giai cấp tiểu nông, cải tạo, giúp đỡ họ chuyển từ lối sản xuất cá 
nhân sang sản xuất tập thể.
CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ KHẢ 
NĂNG RÚT NGẮN HOẶC BỎ QUA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỂ ĐI LÊN 
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
3.1. Khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bằng cách bỏ qua hoặc rút ngắn chủ 
nghĩa tư bản:
Ở các nước tư bản phát triển, khi quan hệ sản xuất theo chế độ tư hữu và lực 
lượng sản xuất theo chế độ công hữu có sự mâu thuẫn nặng nề không thể dung hòa,
ắt sẽ xảy ra cách mạng vô sản bởi quan hệ sản xuất lạc hậu, bóc lột kìm hãm, trói 
buộc khả năng phát triển và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hơn nữa, 
những nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa cũng đã có sẵn cơ sở vật chất, được củng
cố bởi nền đại công nghiệp, trở thành cơ sở hạ tầng để xây dựng kiến trúc thượng 
lOMoARcPSD|12184112
tầng tương ứng: chủ nghĩa xã hội. Do đó, các nước tư bản chủ nghĩa hoàn toàn có 
khả năng quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, trong lịch sử nhân loại, sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội ở các 
nước diễn ra không giống nhau; bên cạnh những nước có trình độ phát triển cao là 
những nước phát triển thấp, thậm chí lạc hậu. Vậy những nước kém phát triển đó 
có nhất thiết phải trải qua mọi giai đoạn mà các nước tiên tiến đã đi qua mới có thể
đi lên chủ nghĩa xã hội không? Thay vì phải trải qua chế độ chủ nghĩa tư bản, liệu 
họ có thể “rút ngắn”, hay bỏ qua nó không? 
Ph.Ăngghen sau này đã bổ sung thêm, rằng cách mạng vô sản không chỉ xuất 
hiện ở các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển - nơi chuẩn bị những tiền đề vật 
chất chín muồi cho sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản - mà còn có thể nổ ra ở những
quốc gia lạc hậu, chậm phát triển. Ph.Ăngghen và C.Mác nhận định đó là con 
đường “phát triển rút ngắn”, mà sau này V.I.Lênin nêu thành khả năng “không qua 
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” để tiến lên chủ nghĩa xã hội đối với các 
nước, các dân tộc chậm phát triển.
3.2. Điều kiện để khả năng quá độ “phát triển rút ngắn” xảy ra:
3.2.1. Điều kiện để khả năng quá độ “phát triển rút ngắn” xảy ra:
Điều kiện bên trong: Có Đảng Cộng sản lãnh đạo giành được chính quyền và sử 
dụng chính quyền nhà nước công, nông, trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết
để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Điều kiện bên ngoài: Có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên tiến đã
giành thắng lợi trong cách mạng vô sản. Các nước lạc hậu có khả năng quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không phải là quá độ trực 
tiếp, mà phải qua con đường gián tiếp với một loạt những bước quá độ thích hợp, 
thông qua Chính sách kinh tế mới.
3.2.2. Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin:
lOMoARcPSD|12184112
Một là, trong nông nghiệp, thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng chính
sách thuế lương thực. Chính sách thuế lương thực tạo ra một cơ chế thoáng trong 
nông nghiệp, giúp cải thiện nền kinh tế nông dân; từ đó, người nông dân sẽ làm 
việc yên tâm, hăng hái hơn do được quyền tự do sử dụng phần lương thực thừa sau
khi nộp thuế. 
Hai là, tự do trao đổi hàng hóa, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. 
V.I.Lênin cho rằng, nếu không có tự do trao đổi hàng hóa thì không thể phát triển 
kinh tế, không thể có sự giao lưu đầy đủ giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa 
thành thị và nông thôn, không thể phát triển được nền kinh tế đại công nghiệp. 
Không chỉ vậy, nhà nước còn phải đảm bảo “công nghiệp thỏa mãn nông dân, còn 
nông dân thì nhờ có thương nghiệp mà thỏa mãn được nhu cầu của mình”. Chính 
sách thuế lương thực và chính sách tự do trao đổi hàng hóa cho thấy sự quan tâm 
đến lợi ích của người nông dân, sự kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội; sự 
thay đổi địa vị của người nông dân trong xã hội; đặc biệt là sự nhận thức mới của 
V.I.Lênin về vai trò của sản xuất hàng hóa.
Ba là, phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, hướng nền kinh tế quốc dân theo
con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Người lao động, nhờ chủ nghĩa tư bản nhà 
nước, có thể tận dụng được sức mạnh thời đại; tranh thủ vốn liếng, kỹ thuật của các
nước phương Tây. Ngoài ra, đây còn là phương pháp cải tạo hòa bình giai cấp tư 
sản, phát triển đội ngũ giai cấp công nhân. Do đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước, theo 
V.I.Lênin vừa là phương tiện, vừa là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các 
nước lạc hậu.
Chứng minh cho sự khoa học, đúng đắn của Chính sách kinh tế mới của 
V.I.Lênin là dân tộc Việt Nam, một dân tộc đã, đang và sẽ luôn trung thành với lý 
tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trước Đổi mới năm 1986, Việt Nam vốn là 
nước nghèo nàn, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, phải gánh chịu thiệt hại nặng 
nề về người, về của, về môi trường sinh thái. Sau khi thực hiện đường lối đổi mới, 
đất nước đã thay đổi tốt đẹp, gặt hái được nhiều thành công nhờ sự nhận thức sâu 
lOMoARcPSD|12184112
sắc và vận dụng phù hợp Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin với điều kiện, hoàn 
cảnh cụ thể của thời kỳ quá độ. Điều này cho thấy tính đúng đắn, cơ bản phù hợp 
với xu thế của tác phẩm kinh điển này.
Tóm lại, theo Ph.Ăngghen, các nước lạc hậu và các nước tiền tư bản chủ nghĩa 
hoàn toàn có thể đi theo con đường “rút ngắn” nếu như có Đảng Cộng sản lãnh đạo
và sử dụng pháp luật tuân theo quyền lực đại đa số; có sự ủng hộ tích cực của các 
nước phát triển và sự thất bại của chủ nghĩa tư bản.
CHƯƠNG IV: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM KHÔNG CÒN PHÙ HỢP VỚI TÌNH 
HÌNH CÁCH MẠNG CỦA V.I.LÊNIN
4.1. Về Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin:
 Về thực chất, Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin là chính sách cho phép 
thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển trong một phạm vi nhất định, dưới 
sự khống chế và điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mục đích của chính sách 
vừa là củng cố, xây dựng chủ nghĩa xã hội; vừa là đánh bại chủ nghĩa tư bản. Để 
thực hiện được mục đích thứ hai, V.I.Lênin khẳng định cần cho phép chủ nghĩa tư 
bản phát triển trong một phạm vi nhất định để phục vụ cho chủ nghĩa xã hội, đồng 
thời trấn áp, kìm hãm sự phát triển của thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự 
mâu thuẫn trong mục đích khiến V.I.Lênin không thực hiện 
Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin có mục đích củng cố, xây dựng chủ nghĩa xã 
hội; đồng thời đánh bại chủ nghĩa tư bản, loại trừ những thành phần kinh tế tư bản 
chủ nghĩa. Để thực hiện được mục đích thứ hai một cách lâu dài và phù hợp, 
V.I.Lênin cho phép thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển trong một phạm 
vi nhất định, dưới sự điều tiết, kìm hãm của nhà nước chuyên chính vô sản. Tuy 
nhiên, Chính sách kinh tế mới không được thực hiện triệt để, lại chỉ được thực hiện
trong thời gian ngắn. Trong Đại hội đại biểu Đảng lần thứ XI (năm 1922), 
V.I.Lênin đã tuyên bố kết thúc Chính sách kinh tế mới sau một năm thực hiện, cho 
lOMoARcPSD|12184112
rằng “mục đích của cuộc rút lui đã đạt được rồi” và “thời kỳ đó đang chấm dứt 
hoặc đã chấm dứt”. 
Tiếp nối V.I.Lênin là Stalin, người đã tuân thủ tuyệt đối quan điểm của V.I.Lênin, 
nhanh chóng tấn công và xóa bỏ quan hệ sản xuất chủ nghĩa tư bản, cùng lúc củng 
cố, thiết lập các quan hệ sản xuất chủ nghĩa xã hội. Năm 1936, Stalin tuyên bố sự 
chấm dứt của chủ nghĩa tư bản sau khi triệt tiêu sự tồn tại của nó trong nền kinh tế 
quốc dân; khẳng định sự thắng thế của chủ nghĩa xã hội. Từ đó, các nhà lý luận 
Liên Xô cho rằng năm 1937, Liên Xô đã hoàn thành quá độ lên chủ nghĩa xã hội 
bằng cách thủ tiêu thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đưa thành phần kinh tế 
xã hội chủ nghĩa lên nắm toàn quyền trong lĩnh vực kinh tế. 
Những yếu tố ấy, sau V.I.Lênin, Stalin và một số lãnh tụ khác của các nước xã hội 
chủ nghĩa, đã trở thành “tiêu chuẩn kinh tế” để kết thúc thời kỳ quá độ. Để nhanh 
chóng kết thúc thời kỳ quá độ, các nước đã xóa bỏ không thương tiếc những thành 
phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, thiết lập một cách khiên cưỡng các quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa trên phạm vi rộng, trong khoảng thời gian ngắn.
Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin cần được thực hiện triệt để hơn theo nội 
dung vốn có của nó, kết hợp với điều kiện thực tế hiện nay để thường xuyên đổi 
mới, bổ sung. Nếu như vậy, hệ thống xã hội chủ nghĩa sẽ có khả năng tránh được 
sự khủng hoảng nặng nề và khả năng sụp đổ.
4.2. Chế độ tập trung dân chủ:
Tập trung dân chủ đã trở thành nguyên tắc cơ bản phân biệt Đảng Cộng sản với 
các đảng chính trị khác. Một trong những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ 
nghĩa xã hội là thực hiện chế độ tập trung dân chủ. Tập trung dân chủ là sự thống 
nhất biện chứng giữa hai thành tố tập trung và dân chủ. Hai thành tố đó không mâu
thuẫn với nhau mà luôn thống nhất, tác động bổ sung cho nhau. Tập trung trên cơ 
sở dân chủ, dân chủ có sự lãnh đạo, được sự bảo đảm của tập trung, đồng thời, có 
giữ vững tập trung mới có thể thực hiện và mở rộng dân chủ. Phát triển và mở rộng
lOMoARcPSD|12184112
dân chủ luôn gắn liền với giữ vững và tăng cường tập trung, trên cơ sở đó dân chủ 
càng phát triển thì tập trung càng vững chắc.
Bên cạnh sự đề cao vai trò của dân chủ, V.I.Lênin đã nhấn mạnh quá mức về 
thành tố tập trung, thậm chí là vai trò của “cái chính quyền độc tài cá nhân” trong 
hoàn cảnh chính quyền Xô Viết đang giải quyết những nhiệm vụ đặc biệt trong 
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, những người cộng sản sau này lại tiếp nhận tư tưởng 
đó một cách thiếu cân nhắc, dẫn đến chủ nghĩa độc tài cá nhân, sùng bái cá nhân 
như Stalin, Mao Trạch Đông, 
Mỗi đất nước, đặc biệt trong thời kỳ quá độ, lại có những “nhiệm vụ đặc biệt” 
khác nhau do tính lâu dài, thử nghiệm của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. 
Nhưng nếu lợi dụng “nhiệm vụ đặc biệt” ấy để thực hiện chế độ tập trung, độc tài 
như thói quen thì tập trung sẽ trở thành bản chất, lấn át dân chủ, khiến nhiệm vụ 
của thời kỳ quá độ đã khó khăn lại càng thêm phức tạp.
lOMoARcPSD|12184112
KẾT LUẬN
Trong suốt 170 năm qua, lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử chủ nghĩa xã hội 
nói riêng đã chứng kiến nhiều biến thiên to lớn về mặt thực tiễn và lý luận. Đến 
nay, chưa có học thuyết nào vượt qua được tầm vóc vĩ đại của học thuyết Mác – 
Lênin trong việc xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng dân tộc, đưa con 
người về vị trí làm chủ chính mình và làm chủ xã hội. Nhiều luận điểm của chủ 
nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn được vận dụng, đổi 
mới, chỉnh sửa trong thời đại ngày nay. 
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của các nước đang cho thấy sự đa dạng, 
không ngừng đổi mới trong hình thức thực hiện các chức năng của nhà nước 
chuyên chính vô sản. Trong đó, quan trọng là nhu cầu quyền lực nằm trong tay giai
cấp công nhân liên minh với tầng lớp lao động, xóa bỏ sự thống trị kinh tế - xã hội 
của giai cấp tư bản, để chính quyền chuyên chính vô sản có năng lực vượt qua mọi 
hình thức phản kháng của các thế lực thù địch, đoàn kết đông đảo quần chúng công
nhân trong công cuộc đấu tranh xây dựng xã hội mới. Mác – Lênin đã đưa ra kết 
luận quan trọng nhất: nếu không có sự tổ chức và cố kết của quần chúng lao động 
do giai cấp công nhân đứng đầu và không biến họ thành lực lượng chính trị quyết 
định thì không thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thế hệ trẻ ngày nay được tìm hiểu về chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ 
lên chủ nghĩa xã hội qua nhiều phương thức, phương tiện khác nhau, nhưng chủ 
yếu qua quá trình học tập các môn học lý luận trên ghế nhà trường. Liên hệ với quá
trình xây dựng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, những người trẻ có trách nhiệm và 
nghĩa vụ to lớn, cần nhận thức được những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, thế hệ trẻ cần hiểu và khẳng định tính đúng đắn của con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền 
lOMoARcPSD|12184112
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc 
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong 
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát 
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì 
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các 
nước trên thế giới”. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đáp ứng những khát vọng, 
mong ước tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và cả các dân tộc khác trên thế giới.
Thứ hai, thế hệ trẻ cần nhận thức sự khó khăn, phức tạp của quá trình quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cân nhắc về bối cảnh, cách thức đi lên chủ nghĩa xã 
hội của Việt Nam cũng là một yếu tố quan trọng, bởi nước ta vốn đi lên từ một đất 
nước nông nghiệp nghèo nàn, trình độ lực lượng sản xuất thấp, đặc biệt là bỏ qua 
chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh, nhân dân Việt Nam đã trải
qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, hy sinh chống lại sự 
cường quyền, áp bức của các thế lực ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập cho 
dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Chính vì thế, thế hệ trẻ phải hiểu rõ trọng 
trách, vị trí của mình trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã 
hội, không ngừng tiếp thu tri thức, rèn luyện lý luận để cống hiến, chứ không thể tự
tại hưởng thành quả cách mạng.
 Thứ ba, thế hệ trẻ là nguồn nhân lực quan trọng của sự nghiệp xây dựng xã hội 
chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhận định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã 
hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa”. Do đó, yêu cầu 
không ngừng trau dồi đạo đức và ý thức chính trị cũng cần được đặt lên hàng đầu. 
Thanh niên phải là lực lượng xung kích, kiên quyết đấu tranh để bảo vệ những nền 
tảng tư tưởng của Đảng và thành quả cách mạng của toàn dân tộc, không dao động 
trước những tư tưởng thù địch, chống cộng, giữ vững niềm tin vào sự lựa chọn của 
đất nước. Thành quả cách mạng hôm nay có được bảo vệ vẹn toàn và phát triển về 
sau hay không đều phụ thuộc vào thanh niên.
lOMoARcPSD|12184112
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1, tr.48-67] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, 
NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2019
[2, tr.9-91] Nguyễn Trọng Chuẩn, Quan điểm của C.Mác, F.Ăngen, V.I.Lênin về 
chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và về khả năng lên chủ nghĩa xã hội không 
phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, 1995
[3] Tổng Bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và 
thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, 
2021
[4] Tạp chí Xây dựng Đảng: 
thuctien-kinhnghiem/2020/14139/tap-trung-dan-chu-nguyen-tac-to-chuc-sinh-hoat-
co.aspx
[5] Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: 
hoa/xay-dung-hinh-mau-con-nguoi-moi-xa-hoi-chu-nghia-co-tri-thuc-dao-duc-the-
luc-loi-song-va-tham-my-cao-phuc-vu-cong-cuoc-xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-
589551.html
angghen/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-ly-
luan-cua-chu-nghia-mac-lenin-va-thuc-tien-tren-the-gioi-mot-the-3426
[6] Báo Sơn La: 
voi-mo-hinh-cnxh-o-viet-nam-tu-bai-viet-cua-tong-bi-thu-43071
[7] Taylor and Francis Online: 
journalCode=mrsp19
lOMoARcPSD|12184112
[8] Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: 
dung-khat-vong-cua-nhan-dan-Viet-Nam/433493.vgp
lOMoARcPSD|12184112

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_ly_luan_cua_chu_nghia_mac_lenin_ve_thoi_ky_qua_do.pdf