Tiểu luận Lý luận sản xuất hàng hóa của C. Mác và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

pdf 23 trang yenvu 15/08/2024 620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Lý luận sản xuất hàng hóa của C. Mác và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Lý luận sản xuất hàng hóa của C. Mác và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Tiểu luận Lý luận sản xuất hàng hóa của C. Mác và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
 Tiểu luận Kinh tế chính trị Mác- Lênin
Kinh tế chính trị Mác- Lênin (Trường Đại học Thương mại)
lOMoARcPSD|12184112
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN
----------
 BÀI THẢO LUẬN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đề tài:
Lý luận sản xuất hàng hóa của C. Mác và vận dụng vào
phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Giáo viên hướng dẫn : TS Võ Tá Tri
Nhóm thực hiện : 04
Lớp HP :
HÀ NỘI - 2021
lOMoARcPSD|12184112
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA 5
1.1. Sản xuất hàng hóa 6
1.1.1. Khái niệm sản xuất hàng hóa 6
1.1.2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa 6
1.2. Các quy luật của sản xuất hàng hóa 7
1.2.1. Quy luật giá trị 7
1.2.2. Quy luật cạnh tranh 9
1.2.3. Quy luật cung cầu 10
1.2.4. Quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát 11
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN SẢN XUẤT HÀNG HÓA CỦA C. MÁC 
VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 14
2.1. Kinh tế thị trường và sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường ở VN 14
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường 14
2.1.2. Đặc điểm chính của kinh tế thị trường 14
2.1.3. Tính tất yếu khách quan phát triển kinh tế thị trường ở VN hiện nay 15
2.2. Thực trạng vận dụng lý luận sản xuất hàng hóa của C. Mác vào phát triển 
kinh tế thị trường ở VN hiện nay 16
2.2.1. Tổng quan nền kinh tế thị trường ở VN hiện nay 16
2.2.2. Sự biểu hiện của lý luận sản xuất hàng hóa trong phát triển kinh tế thị 
trường ở Việt Nam hiện nay 19
2.3. Những biện pháp vận dụng hiệu quả lý luận sản xuất hàng hóa của C. Mác 
trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay 21
lOMoARcPSD|12184112
LỜI KẾT THÚC 23
LỜI CẢM ƠN 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Ở đó
mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động,
điều tiết của các quy luật thị trường. Có thể thấy sản xuất hàng hóa và hàng hóa đóng
một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường, những lý luận sản xuất
hàng hóa của C.Mác đã cho ta thấy được vai trò quan trọng đó của sản xuất hàng hóa
và hàng hóa. Lý luận của C.Mác chỉ ra các phạm trù cơ bản về hàng hóa, tiền tệ, giá
cả, quy luật giá trị, tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, năng suất lao
động giúp cho việc nhận thức một cách căn bản cơ sở lý luận của các mối quan hệ
kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Chính vì thế, việc nghiên cứu về lý luận sản xuất
hàng hóa của C.Mác và tìm hiểu vai trò cũng như tác động của nó đến nền kinh tế,
đặc biệt là trong thời kì phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có ý
nghĩa vô cùng quan trọng và cần thiết.
Với mong muốn tìm hiểu rõ bản chất, mối quan hệ của lý luận sản xuất hàng hóa với
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, nhóm 4 quyết định chọn đề tài thảo luận: “ Lý
luận sản xuất hàng hóa của C.Mác và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay”
Nội dung của bài thảo luận bao gồm 2 chương:
- Chương 1: Lý luận của C.Mác về sản xuất hàng hóa.
- Chương 2: Vận dụng lý luận sản xuất hàng hóa của C.Mác vào phát triển kinh
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Mong thầy đóng góp ý kiến để giúp bài thảo luận của nhóm 4 được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
lOMoARcPSD|12184112
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA
1.1. Sản xuất hàng hóa
1.1.1. Khái niệm sản xuất hàng hóa
Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó,
những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán.
1.1.2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài
người. 
Nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều kiện:
Một là, phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự phân chia
lao động trong xã hội thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự
chuyên môn hóa của những người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau. Khi
đó, mỗi người thực hiện sản xuất một hoặc một số loại sản phẩm nhất định, nhưng
nhu cầu của họ lại yêu cầu nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu của
mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất. Sự tách biệt về
mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người sản xuất độc lập với
nhau, có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng sản
phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình
thức hàng hóa. C.Mác viết: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập
và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”(C.Mác
và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1993, t .23, tr. 72.). Sự tách biệt
về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hóa ra
đời và phát triển. 
lOMoARcPSD|12184112
Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất hiện khách
quan dựa trên sự tách biệt về sở hữu. Xã hội loài người càng phát triển, sự tách biệt
về sở hữu càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú.
Khi còn sự tồn tại của hai điều kiện nêu trên, con người không thể dùng ý chí
chủ quan mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa được. Việc cố tình xóa bỏ nền sản xuất
hàng hóa, sẽ làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Với ý nghĩa đó,
cần khẳng định, nền sản xuất hàng hóa có ưu thể tích cực vượt trội so với nền sản
xuất tự cấp, tự túc.
1.2. Các quy luật của sản xuất hàng hóa
1.2.1. Quy luật giá trị
a) Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa vì nó quy định
bản chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất
hàng hóa.
Nội dung của quy luật giá trị là: Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở
giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong sản xuất, tác
động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động
cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết có như vậy họ
mới có thể tồn tại được; còn trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo
nguyên tắc ngang giá: Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một
lượng lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hóa phải thực hiện với giá cả
bằng giá trị. Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá cả
bằng giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. ở đây, giá trị
như cái trục của giá cả.
b) Tác động của quy luật giá trị
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp
sau:
lOMoARcPSD|12184112
 Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán
chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư
liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác cũng
có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở
ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng. 
Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn.
Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc
chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở
ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.
Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp
tục sản xuất mặt hàng này. Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân
chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu
cầu của xã hội. Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở
chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và do
đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm.
Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức
hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải
được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng
hóa nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết,
thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người
sản xuất hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý,
thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất. Sự cạnh
tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người sản
xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã
hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
- Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.
Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn
mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động
xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư
lOMoARcPSD|12184112
liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông
chủ. Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt
lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng
thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê. Đây cũng
chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản. Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động
tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng
hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1.2.2. Quy luật cạnh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất
hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu
dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể diễn
ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng. Ví dụ: người sản xuất thì muốn bán được
hàng hóa với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được hàng hóa với giá rẻ; hoặc
giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng để mua được hàng hóa với giá rẻ hơn, chất
lượng hơn; hoặc giữa người sản xuất với người sản xuất nhằm giành giật những điều
kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, như điều kiện về vốn, lao động,
nguồn nguyên liệu, thị trường, giành nơi đầu tư có lợi... để thu được nhiều lợi ích
nhất cho mình. Trong cuộc cạnh tranh này người ta có thể dùng nhiều biện pháp khác
nhau. Chẳng hạn, để giành giật thị trường tiêu thụ, họ có thể dùng biện pháp cạnh
tranh giá cả như giảm giá cả hàng hóa để đánh bại đối thủ, hoặc cạnh tranh phi giá cả
như dùng thông tin, quảng cáo sản phẩm, quảng cáo dây chuyền sản xuất... để kích
thích người tiêu dùng
Nội dung của quy luật cạnh tranh là: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự cạnh
tranh giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa người sản xuất và người tiêu dùng là
một tất yếu khách quan, là yêu cầu thường xuyên đối với những người sản xuất hàng
hóa
lOMoARcPSD|12184112
Quy luật cạnh tranh xuất phát từ bản chất của nền sản xuất hàng hóa, của quy
luật giá trị. Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải thường xuyên
năng động, nhạy bén, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ, nâng cao tay nghề, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tếThực tế cho thấy, ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu
hiện độc quyền thì ở đó thường trì trệ, bảo thủ, kém phát triển. Bên cạnh mặt tích
cực, cạnh tranh cũng có những mặt tiêu cực, thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh
như dùng những thủ đoạn vi phạm đạo đức hoặc vi phạm pháp luật nhằm thu được
nhiều lợi ích nhất cho mình, gây tổn hại đến lợi ích của tập thể, xã hội, cộng đồng
như làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, ăn cắp bản quyền, tung tin phá hoại uy tín đối
thủ, hoặc cạnh tranh làm tăng sự phân hóa giàu nghèo hoặc tổn hại đối với môi
trường sinh thái v.v..
1.2.3. Quy luật cung cầu
Cầu được hiểu là nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội về một loại hàng
hóa hay dịch vụ nào đó trên thị trường ở các mức giá trong một khoảng thời gian
nhất định. Nói cách khác, cầu về một loại hàng hóa hay dịch vụ là lượng hàng hóa
hay dịch vụ đó mà người mua dự kiến mua trên thị trường ở các mức giá trong một
khoảng thời gian nhất định. 
Cầu có liên quan đến nhu cầu nhưng không đồng nhất với nhu cầu. Cầu là một
khái niệm kinh tế cụ thể gắn với sản xuất và trao đổi hàng hóa. Cầu không đồng nhất
với nhu cầu nhưng lại có nguồn gốc từ nhu cầu. Quy mô của cầu phụ thuộc vào các
nhân tố chủ yếu như: thu nhập, sức mua của đồng tiền, giá cả hàng hóa, lãi suất, thị
hiếu của người tiêu dùng... trong đó, giá cả là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Cung về một loại hàng hóa hay dịch vụ là tổng số hàng hóa hay dịch vụ đó mà
các chủ thể kinh tế đưa ra bán trên thị trường ở các mức giá trong một khoảng thời
gian nhất định, bao gồm cả hàng hóa bán được và chưa bán được.
Cung do sản xuất quyết định, nhưng cung không phải lúc nào cũng đồng nhất
với khối lượng sản xuất. Ví dụ: những sản phẩm sản xuất để tự tiêu thụ, hoặc không
có khả năng đưa tới thị trường, thì không nằm trong cung. Lượng cung phụ thuộc chủ
lOMoARcPSD|12184112
yếu vào khả năng sản xuất; số lượng, chất lượng các yếu tố sản xuất được đưa vào sử
dụng; chi phí sản xuất; giá cả hàng hóa, dịch vụ; trong đó giá cả là yếu tố có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Cung và cầu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cầu xác định
cung và ngược lại, cung xác định cầu. Cầu xác định khối lượng, cơ cấu của cung về
hàng hóa: Chỉ có những hàng hóa nào dự kiến có cầu thì mới được sản xuất, cung
ứng; hàng hóa nào tiêu thụ được nhiều, nhanh nghĩa là có cầu lớn sẽ được cung ứng
nhiều và ngược lại. Đến lượt mình, cung tác động đến cầu, kích thích cầu: Những
hàng hóa nào được sản xuất, cung ứng phù hợp với nhu cầu, thị hiếu, sở thích của
người tiêu dùng sẽ được ưa thích hơn, bán chạy hơn, làm cho cầu về chúng tăng lên.
Vì vậy, người sản xuất hàng hóa phải thường xuyên nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu, sở
thích của người tiêu dùng, dự đoán sự thay đổi của cầu, phát hiện các nhu cầu mới...,
để cải tiến chất lượng, hình thức, mẫu mã cho phù hợp; đồng thời phải quảng cáo để
kích thích cầu...
Giữa cung, cầu và giá cả có mối quan hệ chặt chẽ với nhau:
- Giá cả = giá trị thì trạng thái cung cầu ở thế cân bằng. 
- Giá cả < giá trị trị thì cung ở xu thế giảm, cầu ở xu thế tăng.
- Giá cả > giá trị trị thì cung ở xu thế tăng, cầu ở xu thế giảm.
- Cung > cầu thì giá cả có xu thế giảm. - Cung < cầu thì giá cả có xu thế tăng.
- Cung = cầu thì giá cả ổn định tương đối.
1.2.4. Quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định lượng tiền cần thiết cho lưu
thông hàng hóa trong một thời kỳ nhất định. Quy luật này được thể hiện như sau:
Lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hoá trong một thời kỳ nhất định được xác
định bằng tổng giá cả của hàng hóa lưu thông trong thời kỳ đó chia cho tốc độ lưu
thông của đồng tiền
Trong đó:
 - Tốc độ lưu thông của đồng tiền chính là số vòng quay trung bình của một đơn
vị tiền tệ.
lOMoARcPSD|12184112
 -Tổng giá cả của mỗi loại hàng hóa bằng giá cả nhân với khối lượng đưa vào
lưu thông của hàng hóa ấy. Tổng giá cả của hàng hóa lưu thông bằng tổng giá cả của
tất cả các loại hàng hóa lưu thông.
Lượng tiền cần thiết cho lưu thông này tính cho một thời kỳ nhất định, cho nên
khi ứng dụng công thức này cần lưu ý một số điểm sau:
- Trong tính tổng giá cả phải loại bỏ những hàng hóa không được đưa ra lưu
thông trong thời kỳ đó như: Hàng hóa dự trữ hay tồn kho không được đem ra bán
hoặc để bán trong thời kỳ sau; hàng hóa bán (mua) chịu đến thời kỳ sau mới cần
thanh toán bằng tiền; hàng hóa dùng để trao đổi trực tiếp với hàng hóa khác; hàng
hóa được mua (bán) bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt như ký sổ,
chuyển khoản,
- Phải cộng thêm vào lượng tiền cần thiết cho lưu thông lượng tiền dùng để ứng
trước, để đặt hàng trong thời kỳ này nhưng lại chỉ nhận hàng trong thời kỳ sau và
lượng tiền mua (bán) hàng hoá chịu đã đến kỳ thanh toán.
Khi vàng và bạc được dùng làm tiền thì số lượng tiền vàng hay bạc làm phương
tiện lưu thông được hình thành một cách tự phát. Bởi vì, tiền vàng hay tiền bạc (hoặc
các của cải bằng vàng, bạc) thực hiện được chức năng là phương tiện cất trữ. Nếu
như số lượng tiền vàng hay tiền bạc lớn hơn số lượng tiền cần thiết cho lưu thông
hàng hóa thì việc tích trữ tiền tăng lên và ngược lại. Chẳng hạn, khi sản xuất giảm
sút, số lượng hàng hóa đem ra lưu thông ít đi, do đó số lượng tiền đang trong lưu
thông trở nên lớn hơn số lượng tiền cần thiết cho lưu thông, khi đó việc tích trữ tiền
sẽ tăng lên. Khi phát hành tiền giấy thì tình hình sẽ khác. Tiền giấy chỉ là ký hiệu của
giá trị, thay thế tiền vàng hay bạc trong chức năng làm phương tiện lưu thông, bản
thân tiền giấy không có giá trị thực. Trong chế độ tiền giấy bản vị vàng, một đồng
tiền giấy chỉ là ký hiệu của một lượng vàng nhất định dự trữ trong quỹ dự trữ của nhà
nước hoặc ngân hàng. Về nguyên tắc, bất kỳ lúc nào đồng tiền giấy cũng được đổi
sang lượng vàng mà nó ấn định. Trong trường hợp này lượng tiền cần thiết cho lưu
thông cũng tự điều tiết giống như trong chế độ tiền vàng.
 Tuy nhiên, thực tế không diễn ra đúng như vậy, nhìn chung lượng vàng dự trữ
không đủ bảo đảm cho lượng tiền giấy đã được phát hành, khi đó lạm phát xảy ra.
Hơn nữa, do chế độ bảo đảm bằng vàng đã không được thực hiện nghiêm túc, cuối
lOMoARcPSD|12184112
cùng đã bị bãi bỏ, chuyển sang chế độ tiền giấy do nhà nước ấn định giá trị phát hành
ban đầu không có vàng đứng đằng sau bảo đảm. Khi đó, đồng tiền được tung vào lưu
thông và giá trị của nó thường xuyên bị biến đổi phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác
nhau trong nền kinh tế, đặc biệt là yếu tố phát hành tiền: lượng tiền phát hành không
phù hợp với lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Đồng thời, lượng tiền cần thiết cho
lưu thông cũng thường xuyên biến đổi do giá trị của một đơn vị tiền tệ thường xuyên
thay đổi.
Khi lượng tiền giấy phát hành ra cao hơn lượng tiền cần thiết cho lưu thông gọi
là lạm phát; ngược lại, nếu lượng tiền giấy phát hành ra thấp hơn lượng tiền cần thiết
cho lưu thông gọi là giảm phát.
Lạm phát bao giờ cũng đi đôi với việc giá cả của hầu hết hàng hóa đồng loạt
tăng lên làm cho giá trị của mỗi đơn vị tiền tệ giảm, sức mua của đồng tiền giảm. Sở
dĩ như vậy vì khi lượng tiền được phát hành vượt quá mức cần thiết làm xuất hiện
tình trạng ứ đọng tiền tệ; người giữ tiền sẵn sàng cho vay tiền với lãi suất thấp hơn,
sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn hơn để mua một đơn vị hàng hóa, làm cho hàng hóa bị
khan hiếm, giá cả leo thang... Có thể nói, bề nổi của lạm phát luôn là tình trạng mức
giá chung tăng lên, giá trị của đơn vị tiền tệ giảm, sức mua của đồng tiền giảm.
Chính vì vậy, để đo lường mức lạm phát, người ta dùng chỉ số giá cả. Có hai loại chỉ
số giá cả được sử dụng phổ biến trong thống kê kinh tế là chỉ số giá sản xuất và chỉ
số giá tiêu dùng. Căn cứ vào mức giá tăng lên người ta chia lạm phát ra thành lạm
phát vừa phải (chỉ số giá cả tăng lên dưới 10% một năm), lạm phát phi mã (từ 10%
một năm trở lên) và siêu lạm phát (chỉ số giá cả tăng lên hàng trăm, hàng nghìn phần
trăm một năm hoặc hơn nữa). Lạm phát nhẹ, vừa phải là biểu hiện sự phát triển lành
mạnh của nền kinh tế, kích thích sản xuất phát triển, kích thích xuất khẩuTuy
nhiên, lạm phát phi mã, đặc biệt là siêu lạm phát, có sức tàn phá ghê gớm đối với nền
kinh tế; nó dẫn tới sự phân phối lại các nguồn thu nhập giữa các tầng lớp dân cư:
người nắm giữ hàng hóa, người đi vay được lợi; người có thu nhập và nắm giữ tài
sản bằng tiền, người cho vay bị thiệt (do sức mua của đồng tiền giảm sút); khuyến
khích đầu cơ hàng hóa, cản trở sản xuất kinh doanh, các hoạt động kinh tế bị méo
mó, biến dạng, tâm lý người dân hoang mang...Siêu lạm phát gắn liền với khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Do đó, việc chống lạm phát cao là một trong những mục tiêu
lOMoARcPSD|12184112
hàng đầu của các nước trên thế giới. Ngày nay, lý thuyết kinh tế học hiện đại còn
phân biệt các loại lạm phát khác nhau như: lạm phát do cầu kéo, lạm phát chi phí
đẩy, do mở rộng tín dụng quá mức... Dù cách phân loại có như thế nào đi chăng nữa
thì nguyên nhân dẫn đến lạm phát vẫn là do sự mất cân đối giữa hàng và tiền do số
lượng tiền giấy vượt quá mức cần thiết cho lưu thông.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN SẢN XUẤT HÀNG HÓA CỦA C. MÁC
VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Kinh tế thị trường và sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường ở VN 
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường 
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường
2.1.2. Đặc điểm chính của kinh tế thị trường
Các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao. Mỗi chủ thể kinh tế là một thành phần
của nền kinh tế có quan hệ độc lập với nhau, mỗi chủ thể tự quyết định lấy hoạt động
của mình.
Tính phong phú của hàng hóa. Do các chủ thể kinh tế đều tự quyết định lấy
hoạt động của mình nên bất cứ hàng hóa nào có nhu cầu thì sẽ có người sản xuất. Mà
nhu cầu của con người thì vô cùng phong phú, điều này tạo nên sự phong phú của
hàng hóa trong nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là tất yếu trong kinh tế thị trường. Hàng hóa nào có nhu cầu lớn
thì sẽ có nhiều người sản xuất. Khi có quá nhiều người cùng sản xuất một mặt hàng
thì việc cạnh tranh là tất yếu.
Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở, trong đó có sự giao lưu rộng rãi
không chỉ trong thị trường một nước mà giữa các thị trường với nhau.
Giá cả hình thành ngay trên thị trường. Không một chủ thể kinh tế nào quyết
định được giá cả. Giá của một mặt hàng được quyết định bởi cung và cầu của thị
trường.
lOMoARcPSD|12184112
Nền kinh tế thị trường có thể tự hoạt động được là nhờ vào sự điều tiết của cơ
chế thị trường. Đó là các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, lưu thông tiền tệ, cạnh tranh.. tác động, phối hợp hoạt động của toàn bộ thị
trường thành một hệ thống thống nhất.
2.1.3. Tính tất yếu khách quan phát triển kinh tế thị trường ở VN hiện nay
Những điều kiện chung để kinh tế hàng hóa xuất hiện vẫn còn tồn tại ở Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, sự tồn tại của kinh tế hàng
hóa, kinh tế thị trường ở nước ta là một tất yếu khách quan.
Thứ nhất, phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng
hóa vẫn còn tồn tại và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta
hiện nay. Phân công lao động xã hội phát triển thể hiện ở chỗ các ngành nghề ở nước
ta ngày càng đa dạng, phong phú chuyên môn hóa sâu. Tác động của phân công lao
động: 
- Góp phần phá vỡ tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên trước đây
và thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ hơn 
- Là cơ sở và là động lực để nâng cao năng suất lao động xã hội, nghĩa là làm
cho nền kinh tế ngày càng có nhiều sản phẩm thặng dư dùng để trao đổi, mua
bán. Do đó, làm cho trao đổi mua bán hàng hóa ngày càng phát triển hơn.
Thứ hai, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế: do tồn tại nhiều hình thức sở
hữu, do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế
giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
Thứ ba, thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất
định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng, mặt khác các đơn
vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật – công nghệ, về trình độ quản lý
nên chi phí sản xuất và hiệu quả cũng khác nhau nên quan hệ kinh tế giữa họ phải
thực hiện bằng quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
Thứ tư, trong quan hệ kinh tế đối ngoại trong điều kiện phân công lao động
quốc tế, mỗi quốc gia riêng biệt là chủ sở hữu đối với mỗi hàng hóa đưa ra trao đổi
trên thị trường, sự trao đổi này phải trên nguyên tắc ngang giá.
lOMoARcPSD|12184112
Với bốn lý do trên, kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu. Đại hội
Đảng lần thứ IX khẳng định mô hình nền kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ là
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự lựa chọn đó là xuất phát từ
những lợi ích của việc phát triển kinh tế - xã hội đem lại cho nước ta.
2.2. Thực trạng vận dụng lý luận sản xuất hàng hóa của C. Mác vào phát triển
kinh tế thị trường ở VN hiện nay
2.2.1. Tổng quan nền kinh tế thị trường ở VN hiện nay
Sau cách mạng tháng Tám thành công, chính thức thành lập ra nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sau đó 1975 thống
nhất đất nước, Đảng và nhà nước ta đã quyết định đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Với sự giúp đỡ của Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa anh em. Nước ta đã có thành tựu kinh tế xã hội khắc phục
được những hậu quả chiến tranh để lại nhưng sau đó cùng với sự khủng hoảng của
chủ nghĩa xã hội và dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, nước ta
cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó, nền kinh tế lâm vào suy thoái, lạm phát cao
trong nhiều năm nhưng Đảng và nhà nước ta vẫn quán triệt đi theo xã hội chủ nghĩa
và quyết định đổi mới chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang một
nền kinh tế nhiều thành phần mở cửa quan hệ với các nước trên thế giới qua các đại
hội Đảng VI, VII, nền kinh tế đã phục hồi và dần dần đạt được nhiều thành tích, đời
sống được cải thiện và đến đại hội VIII xác định xây dựng một nền kinh tế thị
trường dưới sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa nó phù hợp với sự
khách quan và sự phát triển chung của nhân loại. 
Tuy vậy nước ta xuất phát từ một nước nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa và chịu sự ảnh hưởng lâu dài của chiến tranh
không những vậy cơ chế quan liêu bao cấp đã in sâu vào người dân vì vậy để phát
triển kinh tế ở nước ta hiện nay như thế nào trong tình hình trong nước và quốc tế
hiện nay vai trò của nhà nước như thế nào. Đứng trên góc độ một bài đề án môn kinh
lOMoARcPSD|12184112
tế chính trị và nhìn nhận của một sinh viên nên chỉ có thể nói lên vấn đề cơ bản
chung nhất về một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các giải pháp phát triển trong giai đoạn và trong đại hội Đảng IX đã ghi nhận.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những nội
dung thường xuyên bị các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị
xuyên tạc, phê phán, bóp méo. Họ cho rằng, không có cái gọi là kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư
bản,... Chính vì vậy, việc nhận diện và chủ động đấu tranh với các quan điểm sai trái,
thù địch về nội dung này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng trong giai đoạn hiện nay. 
Về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. “Mục đích của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân
dân”.
Đặc trưng về sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế độ sở
hữu về tư liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể).Từ khi tiến hành đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận trên
thực tế có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công hữu và tư
hữu.
Đặc trưng về cơ cấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác là bộ phận hợp
thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế.
Đặc trưng về phân phối: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác nhau sản xuất, dựa trên các nguyên
tắc của cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, từ chỗ coi Nhà nước là chủ thể
lOMoARcPSD|12184112
quyết định phân phối chuyển dần sang xác định thị trường quyết định phân phối lần
đầu và nhà nước thực hiện phân phối lại.
Về cơ chế vận hành của nền kinh tế: Kết hợp giữa cơ chế thị trường với vai trò
quản lý, điều hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X, tháng 3-2008, Đảng ta
khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam là nền
kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật
kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây cũng là nền kinh tế có tổ chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt nam và sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phát huy những ưu thế của kinh tế thị trường và
kinh tế kế hoạch, vừa loại nhỏ những khuyết nhật của hai nền kinh tế đó, nhằm thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước quản lý bằng
chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng cơ chế thị trường để giải
phóng sức sản xuất. nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm định
hướng và tạo môi trường pháp lý cho sự phát triển các thành phần kinh tế và các chủ
thể kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không phải thị
trường điều tiết hoàn toàn mà còn có sự điều chỉnh, quản lý của nhà nước để đạt các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, ngắn phát triển kinh tế với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khắc phục những bất cập, khuyết nhật của cơ
chế thị trường.
Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thực hiện công
nghiệp hóa, nhiệm đại hoá. Kinh tế thị trường được Đảng, nhà nước sử dụng như một
công cụ, phương tiện, một động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế vận hành
của kinh tế thị trường là một cơ chế mở, bị điều tiết bởi các quy luật kinh tế cơ bản:
lOMoARcPSD|12184112
giá trị, cạnh tranh, cung cầu nền kinh tế thị trường tạo ra khả năng kết nối hình thành
chuỗi giá trị cho nền sản xuất toàn cầu.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường không phát triển theo một phương án duy nhất
(phát triển thành kinh tế tư bản chủ nghĩa), cũng không theo một mô hình đơn nhất
(thị trường tự do). Thực tiễn đã xác nhận những phương án và mô hình phát triển
kinh tế thị trường khác nhau mang tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều kiện xác
định, hoàn cảnh phát triển cụ thể của quốc nghĩa - dân tộc. Một quốc gia đi sau
không được vận dụng cứng nhắc các nguyên lý lý luận; cũng không tập khuôn các
mô hình kinh tế thị trường có sẵn nở đâu đó, dù là mô hình hiệu quả, để giải quyết
các vấn đề phát triển mang nhiều nét đặc thù của mình. Việc khẳng định tính đặc thù
trong các mô hình kinh tế thị trường nhà ý rằng, việc lựa chọn mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam là đúng với xu hướng chung của loài
người; đồng thời, là mô hình thiết thực, hiệu quả phù hợp với hoàn cảnh lịch sử - xã
hội của dân tộc. Do đó, việc xuyên tạc, bóp méo nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt nam chỉ là những luận bàn không mang tính khoa học và tính
thực tiễn .
2.2.2. Sự biểu hiện của lý luận sản xuất hàng hóa trong phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay
Nhìn lại trong hơn 30 năm đổi mới có thể thấy, lý luận về mô hình kinh tế đã
được đổi mới liên tục theo thời gian. Nhờ đó, đã tạo ra xung lực mới cho sự phát
triển và đã làm cho nền kinh tế của chúng ta từ nghèo khó từng bước được cải thiện
và khởi sắc đi lên. Cùng với việc vận dụng sáng tạo lý luận sản xuất hàng hóa của C.
Mác trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, cần quan
tâm một số vấn đề sau:
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu
nhất quán trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; do vậy những tiềm
lOMoARcPSD|12184112
lực để phát triển kinh tế còn hạn chế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường cần
phải cải thiện rõ ràng.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, lực lượng sản xuất
nhiều số lượng lớn thiếu viêc̣ làm , năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh
quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực lượng cho phát triển chưa đồng đều, lãng
phí, chưa công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất
bình đẳng xã hội , tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh
thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng quê vùng xa chậm
được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi bị xem
nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, xem thường
khinh bỉ truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
Thứ tư , nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được định
hướng theo đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”;
huy động sức mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn xã hội cho tăng
trưởng kinh tế, từng bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân. Tuy nhiên,
việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế không phải bằng mọi giá, nóng vội mà phải
được cân nhắc tính toán cho phù hợp với điều kiện đất nước theo hướng phát triển
nhanh, hiệu quả mà bền vững; gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với bảo đảm độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường... Tăng trưởng kinh tế phải gắn với
tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển nhằm đảo bảo
công bằng về cơ hội phát triển cho mọi thành viên trong cộng đồng được thụ hưởng
lợi ích chính đáng, công bằng từ những kết quả lao động và cống hiến xã hội của
mình và “không môṭ ai bị bỏ lại phía sau ” Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh:
“Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên khoa học và công nghệ, góp phần đỗi mới
sáng tạo lỗi thời và nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng, tâp̣ trung hoàn thiện
đồng bộ thế chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đầy đủ, hiện
đại, hội nhập”. Chất lượng và tổ chức được nâng cao thực hiện hệ thống luật pháp
ngày càng phát triển, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh
lOMoARcPSD|12184112
thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử
dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh
phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát,
kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu hiệu”
2.3. Những biện pháp vận dụng hiệu quả lý luận sản xuất hàng hóa của C. Mác
trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường, Việt Nam đã thành
công khi áp dụng đúng đắn một số biện pháp được vận dụng hiệu quả từ lý luận sản
xuất hàng hóa của C. Mác. Nhờ đó mà nền kinh tế thị trường của Việt Nam đã có
những bước tiến đáng kể và đầy triển vọng.
Đầu tiên, phải nhắc đến đó là chúng ta đã thực hiện phân công lao động một
cách hiệu quả theo như một trong hai điều kiện tiên quyết là C. Mác đã đề ra. Theo
như C. Mác nhận định phân công lao động xã hội là biểu hiện của sự phát triển của
lực lượng sản xuất xã hội, C. Mác nói: “Trình độ phát triển lực lượng sản xuất của
một dân tộc bộc lộ rõ ràng nhất ở trình độ phát triển của sự phân công lao động”, và
cho rằng “phân công là hình thức cơ bản của nền sản xuất xã hội”, đồng thời cũng là
một hình thức cơ bản của nền sản xuất xã hội. Phân công lao động có tác dụng mạnh
mẽ đối với sản xuất, thúc đẩy kỹ thuật sản xuất phát triển, trước hết là thúc đẩy sự cải
tiến của công cụ sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Ngoài ra, phân công lao
động XH góp phần tạo ra thị trường. Mặt khác, thị trường cũng làm cho phân công
lao động XH ngày càng sâu sắc hơn. Thị trường thúc đẩy sản xuất một số mặt hàng
và hạn chế sản xuất một số mặt hàng khác tùy theo không gian và thời gian. Từ đó có
thể kết luận phân công lao động là cơ sở của thị trường thông qua hàng hóa. Việc
phân công lao động hiệu quả có ý nghĩa to lớn với việc phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay: Khi nghiên cứu vấn đề phân công lao động xã hội là cơ sở tiền
đề của thị trường sẽ thấy được sự khác biệt nhờ có phân công lao động xã hội chắc
chắn sẽ là bước ngoặt trong lịch sử phát triển ở nước ta giúp phát triển nhanh chóng
lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Ưu thế của nó là sẽ giúp ta
thấy được sức mạnh của sự phân công lao động xã hội trên cơ sở phát huy từng thế
lOMoARcPSD|12184112
mạnh của từng cá nhân từng đơn vị từng khu vực trong việc tạo nên giá trị thặng dư
phát triển xã hội. Giúp cho nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam phát
triển phù hợp lực lượng sản xuất xã hội cũng có nghĩa là sản phẩm xã hội sẽ ngày
càng phong phú đáp ứng với nhu cầu đa dạng của mỗi người. Ý nghĩa này đã được
vận dụng tốt vào nền kinh tế ở nước ta từ sau đổi mới đến nay. Hiện tại, Việt Nam đã
hình thành các vùng kinh tế phát triển các vùng thâm canh, chuyên môn hóa... (đưa
số liệu thống kê về lao động ngành nghề). So sánh với bao cấp, cơ chế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu, bao cấp có những đặc trưng chủ yếu Nhà nước quản lý kinh tế
bằng vận mệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể lệnh từ một trung tâm. Các cơ
quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh chất đối với
các quyết định của mình. Bỏ qua quan hệ hàng hoá tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản
lý nền kinh tế và kế đồ hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực
hiện dưới các hình qua cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc vật chất đối
với người được cấp phát vốn. (số liệu về thời bao cấp).
Thứ hai, chúng ta đang thực hiện hoạt động thương mại quốc tế rất tích cực,
tức là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình)
giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho
các bên. Đối với phần lớn các nước, nó tương đương với một tỷ lệ lớn trong GDP.
Mặc dù thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người, tầm quan
trọng kinh tế, xã hội và chính trị của nó mới được để ý đến một cách chi tiết trong vài
thế kỷ gần đây.
Thương mại quốc tế phát triển mạnh cùng với sự phát triển của công nghiệp
hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân lực
bên ngoài. Việt Nam hiện đang là một trong những nước trên thế giới tham gia xuất
khẩu nhiều mặt hàng quan trọng nhất, cả về gạo, cà phê, hạt tiêu, thủy sản và gần đây
là các mặt hàng nhân tạo như giày dép, hàng may mặc và điện tử. Xuất khẩu quan
trọng nhất, cả về các mặt hàng như gạo, cà phê, hạt tiêu, thủy sản và gần đây là các
mặt hàng nhân tạo như giày dép, hàng may mặc và điện tử. Hoạt động thương mại
quốc tế hiện nay của Việt Nam đã áp dụng đúng đắn điều kiện: Sự tách biệt về mặt
lOMoARcPSD|12184112
kinh tế của các chủ thể sản xuất mà C. Mác đã nêu ra trong lý luận về sản xuất hàng
hóa của mình.
LỜI KẾT THÚC
Đất nước ta đã trải qua hơn hai mươi năm trên chặng đường đổi mới dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta mới chỉ bắt đầu phát triển một nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa và vận động theo cơ
chế thị trường. Việt Nam khi chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh
tế thị trường đã hội tụ đủ những điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa.
Do đó, nhờ áp dụng lý luận về sản xuất hàng hóa và hàng hóa của C.Mác đã tạo cơ
hội cho sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam cho đến
ngày nay. Lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay. Nó giải thích được bản chất của các thuộc tính hàng
hóa, sự phân biệt giữa yếu tố bản chất và hiện tượng liên quan đến trao đổi và mua
bán hàng hóa. Nó cũng là nền tảng để giải thích sự ngang bằng về giá trị trong trao
đổi. Lý luận giúp phân tích đầy đủ về bản chất của tế bào kinh tế trong chủ nghĩa tư
bản, bản chất của nó trong quá trình trao đổi mua bán. Riêng với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nó là cơ sở lý luận để đòi hỏi đảm
bảo tính cạnh tranh, tính công bằng và hoàn thiện thể chế kinh tế, cải thiện vai trò
quản lý kinh tế của Nhà nước.
Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, nhóm đã hoàn thành bài thảo luận với
hy vọng giúp bạn đọc có một cái nhìn tổng thể về “ Lý luận sản xuất hàng hóa của
C.Mác và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
lOMoARcPSD|12184112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Ngô Tuấn Nghĩa (2019).Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin (Dành
Cho bậc đại học - không chuyên lý luận chính trị), NXB Bộ giáo dục và đào
tạo,Hà Nội.
2. David Begg, Stanley Fischer, Rudiger Dornbusch, Kinh tế học, Nhà xuất bản
Giáo dục Hà Nội 1992, trang 71, 72, 74.
3. C.Mác-Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 1993,
H.
4. Đảng Côṇg sản Viêṭ Nam, Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ X, XI, XII,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội;
5. (16) Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản số
966 (5-2021)
6. Th.S Ngô Quang Thịnh. Giá trị và sức sống của lý thuyết hàng hóa - tiền tệ
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Tạp chí Công
thương 2021)
lOMoARcPSD|12184112

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_ly_luan_san_xuat_hang_hoa_cua_c_mac_va_van_dung_va.pdf