Tiểu luận Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

doc 29 trang yenvu 25/09/2024 410
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Tiểu luận Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Đất nước Việt nam đã trải qua hơn 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Dân tộc ta có truyền thống đấu tranh anh dũng, giàu truyền thống văn hóa, có tinh thần nhân đạo sâu sắc. Nhưng nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, phần lớn người dân sống bằng nghề làm ruộng. Khoảng cách nền kinh tế của đất nước chúng ta và nền kinh tế của của nước phát triển trên thế giới vẫn còn khá lớn. Chúng ta hiểu rằng khoa học công nghệ trong thế kỷ 21 sẽ có những bước tiến khổng lồ. Thực hiện tư tưởng vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh: Lấy sức ta mà giải phóng cho ta, chúng tôi phải tri thức hoá Đảng, tri thức hoá dân tộc, tiếp tục tri thức hoá công nông, cả nước là một xã hội học tập, phát huy truyền thống những ngày mới giành được độc lập 1945, cả nước học chữ, cả nước diệt giặc dốt, cả nước diệt giặc đói... Phải nắm lấy ngọn cờ khoa học như đã nắm lấy ngọn cờ dân tộc. “ Một dân tộc dốt, một dân tộc đói nghèo là một dân tộc yếu” (Lê Khả Phiêu- Tổng bí thư ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam- Phát biểu tại hội thảo quốc tế tại Việt Nam trong thế kỷ 20). Không, dân tộc chúng ta nhất định không phải là dân tộc yếu. Chúng ta đã từng chiến thắng bọn thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thắng lợi đó là thắng lợi của lực lượng trí tuệ Việt Nam đối với lực lượng sắt thép và đô la khổng lồ của Mỹ. Con người Việt Nam đã làm được những điều tưởng như không thể làm được, và tôi tin rằng, con người Việt Nam trong giai đoạn mới với những thử thách mới vẫn sẽ làm được những điều kỳ diệu như thế. Đất nước Việt Nam sẽ sánh vai được với các cường quốc năm châu cho dù hiện nay chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, rất nhiều sự đối đầu. 
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người và vấn đề nguồn lực con người trong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nên tôi chọn đề tài: Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cho tiểu luận triết học của mình. Do thời gian viết tiểu luận cũng như sự nhận thức của bản thân còn hạn chế nên bài tiểu luận không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và của các học viên trong lớp để tiểu luận của tôi hoàn chỉnh hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề “Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” tôi muốn làm từ 3 vấn đề sau:
- Hiểu khái niệm con người, tầm quan trọng của yếu tố con người đối với sự phát triển kinh tế, xã hội.
- Vấn đề đào và sử dụng nguồn lực con người ở Việt Nam
- Một số chính sách phát triển nguồn lực con người và giáo dục đào tạo nguồn lực con người cho sự nghiệp phát triển đất nước.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Đánh giá những khó khăn và thuận lợi của đề tài nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Bởi phạm vi và giới hạn của đề tài, tôi chỉ đi tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề con người nói chung và trong một đất nước cụ thể: “Vấn đề đào tạo nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam”
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp chứng minh
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp tổng hợp
B.NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÍ LUẬN VỀ CON NGƯỜI
1.1.Khái niệm chung về con người
1.1.1. Một số quan điểm trước Mác về con người
1.1.1.1. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông
Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo: đều rất chú trọng đến việc giải thích bản chất con người, bởi vì các tôn giáo này đặt ra nhiệm vụ chủ yếu là giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội, những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống con người. Ngay trong một trường phái cũng có nhiều quan điểm đa dạng. Ví dụ như trong Nho giáo: Khổng Tử đề cao tính thiện của con người. Theo Khổng Tử, ngay từ khi sinh ra, con người đã có sẵn tính thiện (thiên tính) nhưng do trong quá trình sinh sống ảnh hưởng những thói hư tật xấu trong xã hội mà tính thiện đó bị mai một. Mạnh Tử đề xuất giải pháp để con người giữ được tính thiện của mình phải trau dồi đạo đức. Từ đó hai ông khẳng định tầm quan trọng của cách quản lý đất nước bằng đức trị và lễ trị. Còn Tuân Tử lại có tư tưởng ngược lại. Ông cho rằng con người bản tính vốn ác, phải luôn ngăn chặn cái ác bằng pháp trị. Quan điểm này được Hàn Phi rất đề cao.
Thuyết “ thiên nhân hợp nhất” cho rằng người với trời hòa hợp, có tác động lẫn nhau. Đây cũng là một quan điểm mang nhiều yếu tố tích cực, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa con người với tự nhiên. Nhưng cũng vì thế mà con người phải tuân theo mệnh trời thiếu sự quyết đoán.
1.1.1.2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây
Quan điểm duy vật tôn giáo: quy bản chất con người vào lĩnh vực ý thức tư tưởng hoặc được quy định sẵn từ những lực lượng siêu nhiên. Nói chung, các tôn giáo đều quan niệm nguồn gốc con người là do một lực lượng siêu nhiên sinh ra ( do thần thánh, Chúa trời, Thượng đế). Ki tô giáo lại cho rằng con người có phần thể xác và linh hồn, trong đó phần thể xác là phần thấp hèn vì gần với súc vật, là phần đáng khinh miệt. Khi con người có những ham muốn thể xác là có tội, cần rửa tội hoặc sám hối, còn linh hồn là phần cao quý, bất tử nên con người phải chăm sóc chu đáo hàng ngày.
1.1.1.3.Quan điểm duy vật thế kỉ XVII – XVIII, điển hình là Phoiơbac
Ông phản đối quan điểm duy tâm của Heeghen, ông đã chỉ ra nguồn gốc phi thần thánh của con người và đồng thời nêu bật bản chất của tôn giáo: “ không phải chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của chúa mà chính con người đã tạo ra chúa theo hình ảnh của con người”. Con người theo Phoiơbac, là một sinh vật có hình thể vật chất, ở trong không gian và thời gian, là “cái gương của vũ trụ” thông qua đó, giới tự nhiên ý thức và nhận thức chính bản thân mình. Bản chất của con người là tổng thể những khát vọng, khả năng, nhu cầu, ham muốn. Nên ngoài việc đem lại một quan niệm mới về con người, triết học còn có nhiệm vụ tiến hành cuộc đấu tranh lý luận cho việc giải phóng con người, đem lại cho con người một cuộc sống thực sự hạnh phúc, loại trừ nhưnhx học thuyết duy tâm tôn giáo ra khỏi cuộc sống tinh thần của con người. Theo ông tôn giáo chỉ hướng con người vào cái thiện giới, khuyến khích con người hạn chế tối đa những nhu cầu tối thiểu, bóp nghẹt phần con người tự nhiên. Đó là điều hoàn toàn trái ngược với bản chất con người. Khi phân tích bản chất tôn giáo, ông đã phân tích khá kĩ lưỡng trên quan điểm nhân bản, coi thần thánh “ là bản chất bị tha hóa” của con người. Tôn giáo vừa là sản phẩm của sự tưởng tượng hoang đường, vừa là thể hiện của sự khao khát của con người về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Con người tin vào thực thể được sung sướng vì nó muốn trở nên sung sướng, tin vào thực thể hoàn hảo, vì bản thân nó muốn trở nên hoàn hảo, tin vào thực thể bất diệt, vì bản thân nó muốn trở nên bất diệt, không muốn chết. Sự an ủi mà tôn giáo đem tới cho là giả rối nhưng con người không thể làm gì hơn ngoài việc chấp nhận sự giả rối đó. Được coi là nhà triết học vô thần nhưng Phoiơbac lại là người đề xướng ra một thứ “tôn giáo mới” tôn giáo tình yêu. Thứ tôn giáo mới này được giải phóng những thiên kiến, coi “con người là thượng đế đối với con người”, có nhiệm vụ bảo vệ con người cùng khổ, “khai sáng” cho con người, cổ vũ cho con người trong cuộc đấu tranh thực hiện những ý tưởng trần tục mang tính hiện thực. Ông chỉ rõ tư duy con người là khí quan vật chất, đó là bộ óc người. con người khác con vật không chỉ ở tư duy mà còn khác ở cảm xúc, và xứ mệnh của lý tính. Tuy vậy, ông lại rơi vào duy tâm và siêu hình khi phân tích bản chất xã hội của con người. Ông không đặt con người trong các mối quan hệ nhất định, trong hoàn cảnh điều kiện cụ thể mà đó là con người chung chung, con người trừu tượng, con người là đối tượng cảm tính chứ không phải là hoạt động cảm tính. Ông lí tưởng hóa tình bạn, tình yêu của con người, quy bản chất con người vào tính tộc loại và tìm đặc trưng cho tính tộc loại đó ở tình cảm đạo đức.
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng về con người của Phoiơbac có thể được coi là quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng – dân chủ, ban đầu còn mang tính trừu tượng, sau cách mạng 1848, ông có cơ sở để khẳng định rõ ràng hơn. Ông hoàn toàn đồng tình với tinh thần giả phóng con người chủ nghĩa cộng sản, có lúc còn tự nhận mình là “ người cộng sản”. Tuy nhiên quan điểm của ông vẫn còn mang tính chất dân chủ tư sản.
Nhìn chung, các quan điểm siêu hình trước Mác về con người đều coi bản chất con người là cái vốn có, trừu tượng, đặc trung bản chất của con người được quy về bản tính tự nhiên. Do đó nó trở nên bất biến, không thấy được sự hình thành và biến đổi của nó một cách biện chứng.
1.1.2. Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người
Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế và đồng thời phát triển những quan niệm hạn chế về con người đã có trong các học thuyết trước đây để đi đến những quan niệm về con người hiện thực, con người hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội. Với tư cách là con người hiện thực, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói cách khác chủ nghĩa Mác xem xét con người như một thực thể sinh học- xã hội. 
1.1.2.1.Con người là một thực thể sinh học- xã hội 
Con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Con người tự nhiên là con người sinh học mang tính sinh học. Tính sinh học trong con người quy định sự hình thành những hiện tượng và quá trình tâm lý trong con người là điều kiện quyết định sự tồn tại của con người. Song con ngươì không phải là động vật thuần tuý như các động vật khác mà là một động vật có tính chất xã hội với nôị dung văn hoá lịch sử của nó. Con người là sản phẩm của xã hội, là con người xã hội mang bản tính xã hội. Con người chỉ có thể tồn tại được một khi con người tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu sinh học của mình. Lao động sản xuất là yếu tố quyết định sự hình thành con người và ý thức. Chính lao động đã quy định bản chất xã hội của con ngưòi, quy định cái xã hội của con người và xã hội lại quy định sự hình thành cá nhân và nhân cách . Vì con ngươi là sản phẩm cuả tự nhiên và xã hội nên con người chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của chúng.
Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn, con người sản xuất ra của cải vật chất tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người chính là chủ thể cải tạo tự nhiên. Con người là sản phẩm của tự nhiên song con người có thể thống trị tự nhiên nếu biết nắm bắt và tuân theo các quy luật của bản thân giới tự nhiên. Con người không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể cải tạo xã hội. Bằng hoạt động sản xuất con người sáng taọ ra toàn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần. Mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động theo quy luật khách quan, nhưng trong quá trình hoạt động, con người luôn luôn xuất phát từ nhu cầu động cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định và do đó đã tìm cách hạn chế hay mở rộng phạm vi tác dụng của quy luật cho phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình. 
Như vậy con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội vừa là chủ thể cải taọ tự nhiên và xã hội. Con ngưòi là thực thể thống nhất sinh học- xã hội.
1.1.2.2.Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội
Xuất phát từ con người hiện thực, Mác đã nhận thấy lao động đóng vai trò quyết định trong việc phân chia ranh giới giữa con người và động vật. Vì lao động là hoạt động xã hội nên mọi sự khác biệt giữa con người và động vật đều là kết quả của cuộc sống con người trong xã hội. Cá nhân là thực thể xã hội và bản chất con người có tính lịch sử cụ thể. Điều đó quy định sự khác nhau của con người trong các thời đại khác nhau, sự khác nhau này tuỳ thuộc vào sự phát triển của xã hội, sự thay đổi các quan hệ xã hội và giao tiếp. Vì vậy, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, không chỉ tổng hoà các mối quan hệ trong hiện taị mà cả trong quá khứ. Khi nói về bản chất con người, quan điểm của Mác được thể hiện cụ thể:
	Trước hết, Mác không hề phủ nhận mặt tự nhiên của con người, phủ nhận yếu tố sinh học trong bản chất con người. Cái sinh học đó tồn tại không tách rời xã hội, nó phải được đặt trong xã hội. Bản chất con người chỉ có thể được hiểu là “loài” là tính phổ biến nội tại, gắn bó một cách tự nhiên đông đảo cá nhân lại với nhau, nên con người của thời đại khác nhau, những dân tộc, giai cấp, tầng lớp khác nhau, nên con người tự nhiên luôn tồn tại trong sự tác động qua lại của xã hội.
	Thứ hai, không nên hiểu mặt sinh học một cách thuần túy sinh học, bởi con người thực hiện nhu cầu sinh học mang tính xã hội tạo thành văn hóa của một cộng đồng người và tạo nên văn minh của nhân loại. 
	Thứ ba, khi nói tới con người thì không phải là nói tới con người trong trạng thái tự nhiên thuần túy mà là con người hoạt động thực tiễn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người cải tạo tự nhiên và cải tạo chính bản thân mình.
	Thứ tư, không xem xét mặt xã hội của con người một cách giản đơn, thô thỉn, chỉ quy định về quan hệ giai cấp, quan hệ chính trị; ngoài quan hệ cơ bản đó, con người còn nhiều mối quan hệ khác nhau ràng buộc, chi phối. Những quan hệ đó mang tính độc lập tương đối.Các quan hệ đó cấu thành bản chất con người trong sự liên hệ “ tổng hòa” của chúng, mà trong đó, cái chung toàn nhân loại thống nhất với cái đặc thù giai cấp, dân tộc trong cái riêng của mỗi cá nhân con người.
Tóm lại, bản chất chung nhất, sâu sắc nhất nhất của con người là tổng hoà các mối quan hệ giữa người và người trong xã hội diễn ra trong hiện tại và cả trong quá khứ. Bản thân của con người không phải là cố định, bất biến mà có tính lịch sử cụ thể. Chúng ta không thể hiểu bản chất con người bên ngoài mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
CHƯƠNG 2
VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
 2. 1.Thế nào là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Từ quan điểm đổi mới về công nghiệp húa hiện đaị hoá đất nước của đại hội Đảng lần thứ VII rút ra từ thực tiễn công nghiệp hoá trên thế giới và ở nước ta, có thể đưa ra định nghĩa: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại , dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất xã hội cao.
2.2. Nguồn nhân lực là gì
Ở bất kỳ thời điểm nào của lịch sử phát triển, nguồn lực con người luôn là vấn đề quan trọng bậc nhất và là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia, dân tộc vì nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sức mạnh của đất nước. Điều đó càng thể hiện rõ nét hơn trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay khi nền kinh tế nào dựa nhiều vào tri thức sẽ tạo ra nhiều cơ hội phát triển, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực. Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế gần đây cũng chỉ ra rằng động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là yếu tố con người
Cho đến nay, khái niệm nguồn lực con người (hay nguồn nhân lực) đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc cho rằng nguồn nhân lực bao hàm những người đang làm việc và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Một số nhà khoa học của Việt Nam thì cho rằng nguồn nhân lực “được hiểu là số dân và chất lượng con người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia hay một địa phương nào đó”. Ngoài ra, một số tác giả khác khi nghiên cứu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam cũng đã đưa ra những quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực của một đất nước được đánh giá trên hai mặt chủ yếu là số lượng và chất lượng. số lượng nguồn nhân lực được đánh giá bằng các chỉ tiêu: tỉ lệ nguồn nhân lực trong dân số; tỉ lệ lực lượng lao động trong dân số; tỉ lệ tham gia lực lượng lao động của người trong độ tuổi lao động; tỉ lệ lao động có việc làm trong lực lượng lao động
Chất lượng nguồn nhân lực được đánh giá bằng các chỉ tiêu:
- Trạng thái sức khỏe nguồn nhân lực, trong đó chú ý đề tuổi thọ bình quân; thể trạng của người lao động; phân loại sức khỏe; chỉ tiêu suy giảm sức khỏe hoặc không có khả năng lao động
- Chỉ tiêu trình độ văn hóa của nguồn nhân lực, đây là chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hóa cao sẽ tạo điều kiện và khả năng tiếp thu, vận dụng có hiệu quả những tiến bộ mới của khoa học công nghệ trong thực tiễn lao động sản xuất, trong các lĩnh vực khác của đời sống.
- Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn-kỹ thuật của nguồn nhân lực được thể hiện bằng tỉ lệ cán bộ, công nhân và người lao động nói chung có trình độ tay nghề, trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học so với nguồn nhân lực lao động chung của cả nước.
Ngoài ra chất lượng nguồn nhân lực còn được đo bằng chỉ số phát triển con người HDI là thước đo tổng hợp sự phát triển con người trên 3 phương diện: sức khỏe, tri thức và thu nhập và một số chỉ tiêu khác mang tính định tính về môi trường làm việc của người lao động như truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa, văn minh của dân tộc, phong tục, tập quán, lối sống
Như vậy, có thể nói rằng nguồn nhân lực là tổng hòa của thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước. Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên” đặc biệt, một nguồn lực quan trọng của sự phát triển. Chính vì lẽ đó, việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực đang chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố đảm bảo chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của đất nước. Việc đầu tư để phát triển nguồn lực con người là đầu tư chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.
Cho đến nay, khi bàn đến phát triển nguồn nhân lực, vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau do nhiều cách tiếp cận khác nhau. Các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc cho rằng phát triển nguồn nhân lực bao hàm cả giáo dục, đào tạo và việc sử dụng các năng lực tiềm tàng của con người nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Một số người khác cho rằng phát triển nguồn nhân lực là làm gia tăng giá trị con người, cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của phát triển kinh tế-xã hội.  Những ý kiến khác cho rằng phát triển nguồn nhân lực là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả cao nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm nhằm phát triển kinh tế, ổn định an ninh, chính trị xã hội.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng phát triển nguồn nhân lực của một đất nước là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt: thể lực, trí lực, kỹ năng, tinh thần, tình cảm, cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Nói cách khác, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện của con người vì sự tiến bộ của kinh tế xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người. Với quan niệm “Con người là tài sản thật sự của quốc gia”, UNDP đã khẳng định: phát triển con người không chỉ là sự tăng lên của thu nhập quốc dân, mà còn tạo ra một môi trường mà trong đó mọi người có thể phát triển mọi khả năng của mình và làm chủ một cuộc sống sáng tạo hữu ích, phù hợp với lợi ích và nhu cầu đời sống vật chât và tinh thần của chính bản thân họ.
2.3. Đào tạo nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
 2.3.1.Thực trạng nguồn nhân lực nước ta
Thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá là một quy luật khách quan, một đòi hỏi tất yếu của nước ta. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, chúng ta đang thực hiện cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết quản lý của Nhà nước thì công nghiệp hoá hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong những chính sách, đường lối về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta luôn chủ trương lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế đất nước. Để đẩy nhanh, mạnh quá trình công nghiệp hoá, chúng ta phải có một nguồn lực có đầy đủ sức mạnh cả về thể lực lẫn trí lực. Nguồn nhân lực là yếu tố, điều kiện đầu vào quyết định nhất vì nguồn nhân lực quyết định phương hướng đầu tư, nội dung, bước đi và biện pháp thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do đó cần chú trọng tới việc phát triển nguồn nhân lực- con người cả về số lượng, chất lượng, năng lực và trình độ. Đây chính là vấn đề cấp bách, lâu dài và cơ bản trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết IV BCHTƯ Đảng khoá VII nêu rõ: Cùng với khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là một điều kiện cơ bản đảm bảo việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội.
Như vậy, Giáo dục là một dạng đầu tư cho sự phát triển vì nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự nghiệp giáo dục đào tạo có tính xã hội hoá cao, toàn cầu hoá cao. Nền Giáo dục và đào tạo tốt sẽ cho chúng ta nguồn nhân lực với đầy đủ sức mạnh, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Do đó, sự nghiệp giáo dục và đào tạo phải là sự nghiệp của toàn đảng, toàn dân, đồng thời phải tranh thủ sự hợp tác, ủng hộ của các nước trên thế giới thông qua việc hợp tác giáo dục.
 Mặc dù nền Giáo dục của nước ta được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, nhưng nó vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao.
 Tình hình phát triển dân số qua các giai đoạn từ năm 1921-1954; 1955-1979; 1981-nay đã chứng tỏ dân số chúng ta tăng khá nhanh. Với cơ cấu dân số đông trẻ ( dân số 77,45 triệu người năm 1997), tốc độ tăng nguồn lao động cao trong khi nền kinh tế chưa phát triển lại mất cân đối trầm trọng làm nảy sinh hai vấn đề: Tăng năng suất lao động và giải quyết việc làm cho những người lao động trở nên hết sức bức thiết. Trong khi đó khả năng giả quyết việc làm của ta còn rất hạn chế. Vì vậy mâu thuẫn giữa cung- cầu về số lượng nguồn nhân lực lớn gây sức ép ngày càng nặng nề về lao động việc làm. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng di cư, gây nhiều xáo trộn về xã hội, môi trường, tác động nhiều đến cơ cấu vùng của nguồn nhân lực. Thêm vào đó là sự thiếu quản lí, thiếu kiến thức nên người di dân là lực lượng phá rừng, gây ô nhiễm môi trường ở cả vùng họ rời đi và nhiều vùng họ đến. Tình trạng thiếu hụt kĩ năng của người lao động rất rõ rệt. Lao động có tay nghề cao, công nhân có kĩ thuật thiếu do đầu tư giáo dục đào tạo chưa đủ, cơ cấu đào tạo chưa hợp lí, thiếu cơ sở định hướng, lại không xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động. Hiện nay chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung đã được cải thiện nhiều nhưng cung về chất lượng vẫn không thể đáp ứng được cầu về mặt thể lực , trí lực và trình độ chuyên môn kĩ thuật của lực lượng lao động, nguồn nhân lực của Việt Nam.
 Chất lượng thì như vậy, lại thêm việc phân bố, sử dụng nguồn nhân lực bất cập, thiếu đồng bộ càng làm tăng thêm mâu thuẫn về nguồn nhân lực cả về số lượng lẫn chất lượng . ở các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu trầm trọng lao động có trình độ gây rất nhiều khó khăn cho việc phát triển nhiều mặt ở vùng này. Trong khi đó ở những thành phố lớn lại tập trung nhiều lao động có trình độ, gây ra sự lãng phí lớn ở những nơi này nhưng lại thiếu hụt ở những nơi khác.
 Điểm mạnh của chúng ta là số người biết chữ cao so với các nước trong khu vực và các nước đang phát triển khác. Nguồn nhân lực nước ta có động lực học tập tốt, thông minh, luôn được đánh giá cao trong các kì thi quốc tế . Điểm yếu của nước ta về nguồn nhân lực chủ yếu là tri thức , nghiệp vụ kinh doanh, tiếp thị buôn bán, trình độ quản lí và tri thức khoa học kĩ thuật cập nhật. Những hạn chế đó của nguồn nhân lực nước ta trong cơ chế thị trường cần được khắc phục sớm bằng mọi biện pháp và khả năng vốn có của nước ta.
Về số lượng nguồn lao động: Theo thống kờ mới nhất Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay, nước ta có trên 49,2 triệu người trong độ tuổi lao động trên tổng số 85,79 triệu người (chiếm 57,3%), đứng thứ 3 ở Đông Nam Á (sau In-đô-nê-xi-a và Phi-líp-pin) và đứng thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Số người trong độ tuổi từ 20 đến 39 khoảng 30 triệu người, chiếm 35% tổng dân số và chiếm 61% lực lượng lao động, đây là lực lượng có thể tham gia xuất khẩu lao động. Sức trẻ là đặc điểm nổi trội, là tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam, là yếu tố rất thuận cho việc tuyển chọn lao đông đi làm việc ở nước ngoài. Về chất lượng nguồn lao động: Trong tổng số 49,2 triệu người trong độ tuổi lao động, chỉ có 7,3 triệu người đó được đào tạo, chiếm 14,9% lực lượng lao động. Trong số những người đang theo học ở các trường chuyên nghiệp trên toàn quốc thỡ tỷ lệ người đang theo học trỡnh độ sơ cấp là 1,7%, trung cấp 20,5, cao đẳng 24,5% và Đại học trở lên là 53,3%. Tỷ trọng lao động đó qua đào tạo ở nước ta rất thấp, cụ thể là 86,7% dân số trong độ tuổi lao động chưa được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, đáng chú ý hơn là khu vực nông thôn, nơi phần lớn người lao động có nguyện vọng đi làm việc ở nước ngoài thỡ tỷ lệ lao động chưa được đào tạo chiếm 92%. Như vậy, đội ngũ lao động của ta trẻ và dồi dào nhưng chưa được trang bị chuyên môn, kỹ thuật. Hiện cả nước có hơn 41,8 triệu lao động, chiếm 85,1% lực lượng lao động chưa được đào tạo để đạt một trỡnh trỡnh độ chuyên môn, kỹ thuật nào đó. 
2.3.2. Một số giải pháp nhằm giải quyết hợp lý vấn đề về nguồn nhân lực
2.3.2.1. Một số giải pháp
 Nhìn rõ được thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta để chúng ta phát huy những điểm mạnh , khắc phục và hạn chế những điểm yếu đồng thời đưa ra được những yêu cầu đối với giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực . Một mặt phải trực tiếp giải quyết vấn đề về chất lượng nguồn nhân lực, về trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn kĩ thuật, mặt khác phải giải quyết vấn đề nâng cao thể lực người lao động và phân phối nguồn nhân lực một cách hợp lý. Trong trình tự giải quyết phải đi tuần tự từ tiếp tục xoá mù chữ, phổ cập tiểu học, trang bị những kiến thức cơ bản, đào tạo nghề từ sơ cấp đến các bậc cao hơn nhưng phải tạo ra một bộ phận người lao động có chất lượng cao, đặc biệt phải chú trọng đào tạo lao động kĩ thuật, nhằm đáp ứng nhu cầu của những ngành công nghệ mới, các khu công nghiệp và các khu kinh tế mở.
 Trước tiên, việc mở rộng quy mô giáo dục đào tạo là rất cần thiết. Nhưng cố gắng mở rộng quy mô giáo dục đào tạo của nước ta vẫn không theo kip được tốc độ gia tăng dân số. Quy mô mọi ngành, bậc học hiện nay đều chưa đáp ứng được yêu cầu theo học của mọi lứa tuổi. Nhìn chung số học sinh và số trường lớp ở mọi ngành học từ mẫu giáo, các cấp phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đều tăng. Các hệ thống trung tâm xúc tiến việc làm, các trung tâm kĩ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và nhiều cơ sở dạy nghề bán công, dân lập, tư thục được thành lập. Quy mô đào tạo có chuyển biến là nhờ tăng cường hình thức đào tạo ngắn hạn. Riêng đối với quy mô của hệ thống đào tạo nghề ngày càng bị thu hẹp. Đảng và Nhà nước cần có chính sách khuyến khích mở rộng và hỗ trợ cho các trường dạy nghề nhằm thu hút học sinh, sinh viên, khắc phục sự mất cân đối trong cơ cấu ngành học, bậc học của giáo dục đào tạo. Giáo dục mầm non có tầm quan trọng đặc biệt đứng từ góc độ chuẩn bị nền tảng về thể lực và trí lực cho nguồn nhân lực. Giáo dục phổ thông, đặc biệt là giáo dục tiểu học theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển, là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định các cơ hội và tăng trưởng kinh tế. Giáo dục đào tạo chuyên môn nghiệp vụ kĩ thuật ngoài ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế còn đặc biệt quan trọng trong việc phát triển, giảm nguy cơ tụt hậu. Tuy nhiên , những bất cập giữa các ngành đào tạo, giữa các bậc học đã gây khó khăn không ít cho sự phát triển của nền kinh tế. Một số ngành được học sinh, sinh viên theo học như một phong trào, một số ngành thì rất ít người theo học. Nếu không có sự điều chỉnh kịp thời, Việt nam sẽ nhanh chóng gặp phải khó khăn về đội ngũ kĩ sư, công nhân kĩ thuật như ở nhiều nước Asean, nhất là ở Thái Lan.
Giáo dục đào tạo ở thành phố, đồng bằng có điều kiện phát triển hơn ở nông thôn, vùng núi, vùng sâu vùng xa. Vì vậy, việc giáo dục đào tạo con người ở những vùng này rất khó khăn.Để nâng cao trình độ của nguồn nhân lực ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, miền núi, Nhà nước đã có chính sách cấp học bổng, giảm học phí, ưu tiên các học sinh nghèo vượt khó. Từ đó giúp họ có điều kiện học tập, tìm kiếm việc làm, nâng cao mức sống. Chính nhờ những chủ trương đúng đắn này mà những bất hợp lí trong cơ cấu vùng, miền của giáo dục đào tạo nguồn nhân lực được điều chỉnh phần nào.
Yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng nguồn nhân lực là việc đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục đào tạo. Việc hội nhập và cạnh tranh kinh tế đòi hỏi hàng hoá phải đạt tiêu chuẩn quốc tế để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, từ đó đòi hỏi phải có trình độ công nghệ cao và khả năng sử dụng tương ứng các công nghệ đó. Ngoài giáo dục đào tạo văn hoá chuyên môn, nghiệp vụ về mặt lí thuyết, cần chú ý điều kiện thực hành, ứng dụng, giáo dục kĩ luật, tác phong lao động công nghiệp, rèn luyện kỉ năng và những khả năng thích ứng của người lao động với những đặc điểm của nền kinh tế thị trường. Song song với vấn đề giáo dục, đào tạo con người, chúng ta phải quan tâm đến vấn đề dân số, sức khoẻ, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm sức ép đối với quy mô và chất lượng giáo dục .
Trong điều kiện của Việt nam hiện nay, yêu cầu đa dạng hoá các loại hình giáo dục đào tạo rất cần thiết để bổ sung, cải thiện hiện trạng nguồn nhân lực nhằm khắc phục những bất hợp lí về việc phân bổ nguồn nhân lực, đồng thời nâng cao hiệu quả của đầu tư cho giáo dục đào tạo để phục vụ cho nhu cầu phát triển. Trong lĩnh vực giáo dục hướng nghiệp, chúng ta cần phải kết hợp một cách khoa học giữa kế hoạch phát triển toàn diện với chính sách sử dụng sau đào tạo hợp lý để giảm lảng phí về chi phí giáo dục đào tạo của xã hội và của gia đình. Người lao động đào tạo ra được làm việc đúng ngành , đúng nghề, đúng khả năng và sở trường của mình. Ngoài ra, giáo dục hướng nghiệp cũng đòi hỏi phải có công tác dự báo nghề để xác định được xu hướng phát triển và nhu cầu về lao động trong từng giai đoạn. Giáo dục đào tạo chính quy, dài hạn là cơ sở để hình thành nên bộ phận người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, có kỹ năng tiếp cận với khoa học, công nghệ mới, hiện đại. Ngoài ra, cần mở rộng các loại hình đào tạo ngắn hạn để cải thiện hiện trạng nguồn nhân lực hiện nay và nhanh chóng nâng cao số lao động đã qua đào tạo của ta lên. Hình thức giáo dục tại chức và từ xa cần chú ý hơn đến chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Việc sử dụng tốt hơn, phân bổ hợp lý hơn nguồn lực đã có, đa dạng hoá và khai thác mọi nguồn lực khác cho giáo dục đào tạo là rất cấp thiết. Nguồn tài chính hạn hẹp hiện được coi là thách thức lớn nhất đối với hệ thống đào tạo nghề.
Để phát triển nhanh nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, Đại hội XI đã đề ra một số giải pháp căn bản như xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam trong thời đại mới, chăm lo bồi dưỡng thể lực, trí tuệ, đạo đức, nhân cách, phẩm chất... của con người để xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời chỉ rõ phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt.
Việc khẳng định đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt xuất phát từ thực trạng giáo dục - đào tạo của Việt Nam và yêu cầu mới của thời đại đối với giáo dục - đào tạo. Trong nhiều năm qua mặc dù giáo dục nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định, song nhìn chung, chưa theo kịp trình độ phát triển của giáo dục thế giới. Việc phát triển đội ngũ giáo viên các cấp và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện về trình độ chuyên môn, về nhân cách, phẩm chất đạo đức và lý tưởng thực sự là một trong những khâu then chốt hàng đầu.
Tóm lại, Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là một tất yếu khách quan, một nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước. Mặc dù nền giáo dục đào tạo đã đạt được nhiều thành tích to lớn ( Việt Nam có chỉ số HDI tương đối cao, được xếp vào các nước có trình độ phát triển trung bình.) nhưng so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, nền giáo dục đào tạo của nước ta vẫn chưa đáp ứng được.
Do đó, cần có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích và những đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà Nước đối với sự nghiệp giáo dục của nước ta.
2.3.2.2. Ý kiến cá nhân
2.3.2.2.1.Việt Nam trong dòng chảy chung của thời đại 
Hướng tới một nền kinh tế tri thức là một xu thế tất yếu của thời đại. Trong thế kỉ 21, chúng ta đã từng biết đến nền kinh tế thị trường, nền kinh tế kế hoạch và nền kinh tế hỗn hợp với những công cụ phân phối đặc trưng và phương thức giải quyết vấn đề kinh tế của chúng. Tiêu điểm của nền kinh tế tri thức, không giống hai loại hình kinh tế trên, nhấn mạnh vào động lực phát triển của xã hội trong thời đại mới. Nền kinh tế hiện đại không chỉ được xây dựng trên cơ sở tài sản vật chất và nguồn nhân lực mà quan trọng hơn phải được đặt nền móng ở khả năng học học tập, tiếp thu và thích nghi của mọi thành viên của nó nhằm thích ứng với môi trường toàn cầu liên tục phát triển và đầy biến động.
Vấn đề cốt tử của Việt nam hiện nay để xây dựng nền kinh tế dựa trên tri thức là giáo dục. Nừu chúng ta không cải cách giáo dục mạnh mẽ thì người dân sẽ không đủ trình độ để hiểu và xử lí thông tin kịp thời, không đủ khả năng bắt kịp các luồng thông tin ào ạt như thác lũ trên mạng INTERNET và sẽ không tìm được kẻ hở trên thị trường thế giới cho hàng hoá Việt nam. Nhất thiết chúng ta phải xây dựng được một nền giáo dục tiên tiến phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước;Nhưng để xây dựng được một nền giáo dục như thế, cần phải có những chính sách xã hội hỗ trợ cho nền giáo dục đào tạo, trong đó giải quyết việc làm và vấn đề tiền lương là những vấn đề quan trọng.
2.3.2.2.2 Việc làm của người lao động và vấn đề đổi mới chính sách tiền lương
Việc làm của người lao động.
Nói đến việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động là nói đến vấn đề bức thiết và mục đích của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội . Việc giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực phải được đi đôi với việc giải quyết việc làm cho người lao động, có tạo được cho người lao động việc làm ổn định và mức thu nhập tương xứng thì mới tạo được động lực phát triển kinh tế xã hội .
Việc làm là hoạt động tạo ra giá trị, của cải vật chất. Mác-Ănghen đã khẵng định: “Lao động là nguồn gốc của mọi của cải vật chấtlà điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người.” Lao động là nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước. Giải quyết việc làm cho lao động xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Bên cạnh việc kết hợp các giải pháp khuyến khích phát triển sản xuất, thực hiện các chương trình các kinh tế xã hội lớn, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, Nhà nước đã thực hiện các giải pháp hỗ trợ, tác động vào những người chưa có việc làm hoặcthất nghiệp, thiếu việc làm để họ có thêm cơ hội có việc làm. Các mô hình kinh tế hợp lý, như mô hình V-A-C, hình thức giao đất giao rừng  được nhân rộng ở nhiều nơi. Bên cạnh đó, Nhà Nước còn có các chính sách khuyến khích người dân tự làm giàu cho chính mình, cho gia đình và cho xã hội. Luật doanh nghiệp ra đời năm 1999 đánh dấu một bước phát triển mới, một bước ngoặt thuận lợi cho các doanh nhân Việt Nam; Làm giàu chính đáng là tiêu chí của nhiều cuộc hội thảo, là mục đích của nhiều chủ trương, chính sách, là động lực của nhiều người dân Việt Nam cần cù, thông minh.
Với nền kinh tế vận động theo định hướng XHCN, Đảng và Nhà Nước luôn đặt hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế lên hàng đầu. Hiệu quả kinh tế phải đi đôi với hiệu quả xã hội, trong đó việc tạo công ăn việc làm, nâng cao mức sống người dân được chú trọng nhất; dự án xây dựng khu công nghiệp Dung Quất ở miền Trung khắc nghiệt, dự án mở đường mòn Hồ Chí Minh là những chính sách, biện pháp hợp lý đã lấy hiệu quả xã hội đặt lên hàng đầu.
Giải quyết việc làm là kết quả tổng hợp của sự phát triển sản xuất, của việc thực hiện các chương trình kinh tế, xã hội và các giải pháp hỗ trợ trong đó việc phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế là tiền đề, điều kiện cơ bản nhất là từ những kết quả bước đầu về giải quyết việc làm cho người lao động xã hội trong thời gian qua là rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, thực tiễn khách quan cũng cho thấy điều kiện tạo ra việc làm chưa vững chắc, nhiều yếu tố khác nảy sinh làm cho thực trạng lao động việc làm thêm khó khăn phức tạp. Tỉ lệ thất nghiệp ở các đô thị nước ta vào loại cao so với các nước trong khu vực và có xu hướng tăng. Chất lượng lao động thấp, chỉ có gần 19% lao động qua đào tạo chuyên môn, kĩ thuật. Cơ cấu lao động kĩ thuật bất hợp lí, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế và càng bất cập trước yêu cầu lao động kĩ thuật cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc phân bố lao động theo ngành còn nhiều bất hợp lí. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm. Lực lượng lao động phân bố không đồng đều chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển của các vùng. Và một điều quan trọng nữa đó là công tác quản lí lao động theo ngành và theo lãnh thổ bất cập so với yêu cầu, chưa giám sát được sự vận động của thị trường lao động. Hiện nay, ở thủ đô Hà Nội cũng như ở nhiều thành phố lớn khác, các chợ lao động với nguồn nhân lực chủ yếu là những nông dân ở vùng nông thôn, đang là vấn đề nan giải. Chúng ta cần phải sáng tạo nhiều hình thức kinh tế làm ăn có hiệu quả nhằm tăng thêm thu nhập cho ngươì lao động tận dụng được quỹ thời gian trong những ngày nông nhàn.
Vấn đề đổi mới chính sách tiền lương.
Tiền lương về thực chất là khoản thù lao nhà nước trả cho cán bộ , công chức tương xứng với lao động và trình độ nghiệp vụ, chức trách để thực hiện những công việc mà nhà nước uỷ quyền cho họ.
Để xác định đúng tiền lương tối thiểu chung cho cán bộ, công chức, trước hết phải quan niệm đúng đắn về gía trị sức lao động. Đó là toàn bộ những chi phí cần thiết về ăn , mặc, ở, đi lại v..v..bù đắp cho một lượng nhất định về cơ bắp, trí tuệ đã hao phí để duy trì cuộc sống của bản thân người lao động trong trạng thái bình thường đồng thời tái sản xuất ra sức lao động cả về số lượng và chất lượng trong những điều kiện kinh tế xã hội ổn định. Do đó, khi đồng tiền mất giá, chỉ số giá cả sinh hoạt cao thì tiền lương danh nghĩa phải được điều chỉnh thích ứng và kịp thời để đảm bảo tiền lương thực tế cho người lao động. Mới đây chính phủ đã quyết định tăng 20% lương cơ bản cho công nhân viên chức, đây là một điều đáng mừng, khích lệ tinh thần làm việc và hiệu quả lao động của công nhân viên chức. Đồng thời, trong phiên họp thường kì vào tháng 6 năm 1999 chính phủ cũng đã đưa ra một hệ thống các giải pháp nhằm đảo đảm sự phát triển ổn định của tình hình kinh tế xã hội và các giải pháp chống thiểu phát (tức là lưu thông luôn thiếu tiền dẫn đến giá cả hàng hoá, dịch vụ giảm xuống một cách phổ biến trong khi tiền giấy trong kho bạc nhà nước lại đầy ắp), thiết lập quan hệ giá cả thị trường hợp lí, kích thích sản xuất phát triển. Từ đó ta cần sửa đổi, hoàn thiện thang, bảng lương cho cán bộ công chức nhà nước và chế độ phụ cấp đồng thời sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ công chức bảo đảm các yêu cầu tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả giảm bớt tổng số cán bộ, công chức hưởng lương nhà nước. Trên cơ sở đó cần từng bước nâng dần lương tối thiểu chung cho cán bộ, công chức nhà nước. Trước mắt cần có sự đột phá, khắc phục sự lạc hậu và bất hợp lí của chính sách tiền lương tối thiểu hiện hành. 
 Hiện nay trong giới sinh viên đang có tình trạng đổ xô đi làm cho công ty nước ngoài, lí do chủ yếu là vì mức lương ở các công ti này rất cao, nhưng một lí do nữa cũng không kém phần quan trọng đó là do những sinh viên giỏi không có khả năng kinh tế để xin vào các công ty nhà nước. Có nhiều nguyên nhân giải thích cho vấn đề này. Thứ nhất là vì hiện nay đang có chính sách giảm biên chế, xây dựng bộ máy nhà nước gọn nhẹ nhưng hiệu quả và năng động. Thứ hai là do hiện nay tình trạng tham nhũng, ăn hối lộ khiến cho việc thi tuyển công chức rất không công bằng. Họ không chọn năng lực thực sự mà chỉ chọn những người có gia đình thanh thế và nhiều tiền, hoặc có quyền cao chức trọng, có tiếng nói quan trọng trong một công ty, một sở, một bộ nào đó. Vì vậy, đã từ lâu hình thành trong nếp nghĩ của người Việt nam nói chung và sinh viên nói riêng một quan niệm: Vào được những công ty nhà nước “danh giá”là một giấc mơ xa xỉ đối với những sinh viên nghèo không có điều kiện “chạy chọt”. Đó là thực trạng đáng buồn. Vì vậy, bên cạnh việc đổi mới chính sách tiền lương, cần có những biện pháp thật cứng rắn để làm trong sạch đội ngũ cán bộ và làm cho đồng tiền mà họ làm ra xứng đáng với năng lực, trí tuệ, nhiệt huyết của họ.
Đồng thời, phải có chính sách phân phối thật công bằng, “làm theo năng lực hưởng theo lao động”, tránh tình trạng một số ngành thì lương rất cao ,trong khi một số ngành khác lương lại thấp cho dù hao phí lao động bỏ ra như nhau. Ví dụ như ngành bưu điện, điện lực, lương nói chung (gồm cả lương cơ bản+thưởng+ các khoản thu khác) rất cao, chênh lệch nhiều so với thu nhập của cán bộ công nhân viên chức ở các ngành khác, như ngành ngân hàng. Ngay trong ngành ngân hàng chính sách tiền lương cũng có nhiều bất cập, lương ở ngân hàng nhà nước thấp hơn nhiều so với ở các ngành ngân hàng khác như ngân hàng ngoại thương. Chẵng hạn một kĩ sư tin học trong một chi nhánh ngân hàng nhà nước có tiền lương và thưởng tết xấp xỉ một triệu đồng, trong khi đó một nhân viên đưa thư của ngành bưu điện lại có lương và thưởng tết dao động từ 2 đến 3 triệu đồng. Sự chêng lệch này lí giải được nguyên nhân vì sao ở những ngành độc quyền người ta đang đổ xô tranh nhau vào, gây tình trạng dư thừa lao động còn ở những ngành khác đầu vào lao động lại thiếu trầm trọng. Chính phủ cần phải có những biện pháp điều chỉnh hợp lí về đầu vào ở các trường đại học và phải tạo được động lực phát triển .
2.3.2.2.3. Sinh viên Việt nam trước những yêu cầu thách thức mới
Việt nam đang đứng trước những thách thức lớn, văn minh trí tuệ phát triển từng giây, từng phút, nếu không nhanh chóng đi tới sẽ kéo nhau cùng tụt hậu , dũng cảm thông minh mấy cũng sẽ thất bại.
Vận mệnh, tiền đồ của đất nước phụ thuộc một phần quan trọng vào thế hệ trẻ, thanh niên và sinh viên phải vươn lên cùng với cha anh làm chủ đất nước ngay từ bây giờ .
Để đóng góp cho sự phát triển của đất nước và tương lai của dân tộc, thanh niên và sinh viên phải có hoài bão và lí tưởng, có tri thức và kĩ năng, phải “ học, học nữa, học mãi”. Sinh viên cần phát huy truyền thống văn hiến của dân tộc, xây dựng xã hội Việt nam thành một “ xã hội học tập ”, thành một “ xã hội sáng tạo”, đưa dân tộc ta trở thành một “dân tộc thông thái”, chiếmlĩnh những đỉnh cao trí tuệ của nhân loại trong thế kỉ 21 và thiên kỉ thứ 3. Nước ta bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hoá với điểm xuất phát rất thấp trong khi các nước tiên tiến đã bước vào nền kinh tế tri thức, nền văn minh trí tuệ. Trong kỉ nguyên của nền văn minh trí tuệ, sự phát triển tri thức của nhân loại sẽ tăng lên theo hàm mũ. Bởi vậy, thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên phải xây dựng cho mình bản lĩnh độc lập tự chủ, nghị lực sáng tạo và tinh thần đổi mới, tiếp thu và làm chủ những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, những tri thức quản lí và kinh doanh hiện đại của nhân loại, trong khi đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá, sớm đưa nước ta tiếp cận với nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin. 
Trước dòng thác lũ ào ạt của thời đại thông tin, vẫn còn tình trạng’’ chìm trong thông tin nhưng có thể đói về kiến thức”, nhiều sinh viên, học sinh vẫn chưa nhận thấy tầm quan trọng của việc học, họ xem học tập là nghĩa vụ chứ chưa thấy đó là quyền lợi của mỗi người. Vì vậy, phải giáo dục cho sinh viên, học sinh nhận thức đúng bản chất vấn đề, Đặc biệt phải nâng cao chất lượng giáo dục, mở rộng nhiều hình thức giáo dục. Hiện nay, chúng ta đã có nhiều hình thức giáo dục đáng khích lệ và thu nhiều kết quả tốt. Ví dụ: hình thức đào tạo từ xa có thể cung cấp kiến thức cho những người không có điều kiện học tập trung hoặc những người vừa học vừa làm. Hình thức giáo dục này không chỉ góp phần nâng cao trình độ người dân mà còn giảm được một chi phí đáng kể cho nhà nước và nhân dân.
Tuy vậy nền giáo dục của ta vẫn còn nhiều bất cập, trong số đó vấn đề lưu học sinh du học ở nước ngoài cũng là một vấn đề quan trọng.
Do nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu học hỏi ngày càng cao, nhiều người tìm đến chân trời tri thức mới bằng cánh đi học tập ở nước ngoài, nơi họ nghĩ duy nhất có thể “đón đầu , đi tắt” bởi vì họ nghĩ kiến thức ở trường đại học chưa đủ để họ đi tắt một khi những người mà họ muốn đón đâù còn học nhiều hơn, biết nhiều hơn, trong môi trường vận động nhanh hơn. Chúng ta có thể đi tắt được không một khi cuốn giáo trình của chúng ta được dịch lại, thậm chí được đơn giản hoá từ 30 năm trước. Có những kiến thức mà ta cần để đón đầu hoàn toàn chưa xuất hiện ở Việt nam : Xã hội học thực nghiệm, công nghệ vật liệu, nghiên cứu các dạng năng lượng mới, trí tuệ nhân tạoVì thế mà họ không hề từ nan phải học ở bất kì nơi nào những vấn đề mà đất nước cần, cho dù phải nếm trải nổi nhọc nhằn xa quê. Nhưng tiếc thay, đó chỉ là một số ít, rất ít người làm được như họ nghĩ. Theo thống kê có đến 68,3% (2936 người) lưu học sinh Việt nam du học ở nước ngoài sau khi tốt nghiệp không biết hiện nay họ ở đâu và làm gì . Rất có thể, nhiều người trong số này không trở về nước hoặc trở về mà không báo cáo (chỉ tính số tri thức trẻ do nhà nước gửi đi đào tạo ở Liên xô cũ và các nước Đông âu từ năm 1985-1999) .
Nếu lấy mức chi phí đào tạo đại học ở liên bang Nga, thấp nhất 7800USD/ năm/người * 5 năm = 39000 USD, với 2936 người mất 114.504.000 USD. Đây chỉ tính riêng học phí chưa kể sinh hoạt phí và vé máy bay về nước. Đó là số chi phí được đầu tư những chưa biết làm sao để thu hồi lại vốn. Những lưu học sinh này đi học dựa trên nguồn kinh phí từ các học bổng tài trợ và hợp tác song phương giữa nước ta và nước bạn. Từ năm 1991 tới nay, loại hình đào tạo ngày càng phong phú và số người du học ngày càng tăng lên, số nước nhận đào tạo cũng tăng lên. Trong khi đó công tác quản lí lưu học sinh lại không có những chuyển biến phù hợp với tình hình mới, do đó không đủ sức quản lí số lưu học sinh ngày một tăng trên bình diện ngày càng rộng. Vì vậy, chúng ta phải vạch ra chính sách, kế hoạch khoa học và cụ thể để thu hút lưu học sinh trở về, ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám, từ đó tận dụng được nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Trước hết nhà nước phải tạo điều kiện cho lưu học sinh sau khi tốt nghiệp có việc làm và thu nhập tương xứng; đồng thời quản lí chặt chẽ số lượng học sinh, sinh viên du học và số lượng học sinh, sinh viên tốt nghiệp; nếu HSSV đi bằng học bổng nhà nước thì phải có những cam kết đúng đắn giữa học sinh sinh viên và bộ GD_ĐT , buộc hai bên phải thi hành một cách nghiêm túc, tránh tình trạng nhà nước mất một số vốn lớn trong việc đầu tư giáo dục con người nhưng không thể thu hồi lại vốn.
2.3.2.2.4. Tham khảo một số chính sách phát triển nguồn nhân lực và giáo dục đào tạo nguồn nhân lực ở một số nước khác
2.3.2.2. 4.1. Tham khảo nền giáo dục của Mỹ
Giáo dục cấp đại học là một hình thức đầu tư cá nhân. Vì thế nó mở rộng cho tất cả những ai muốn học, có năng lực tư duy phù hợp với đòi hỏi từng nơi và có thể trang trải được chi phí học tập cho bản thân. Do đó, chính quyền liên bang và tiểu bang có các chính sách cho vay với lãi suất thấp để sinh viên có thể trang trải chi phí học tập và sinh hoạt. 
Về chất lượng giáo dục : số lượng ngành học và nội dung ở các trường đại học, cao đẳng rất mới mẻ, có nhiều ngành mà thậm chí chúng ta chưa từng nghe thấy, ví dụ: Ngành thần học, cổ điển học; Có nhiều môn khác nhau trong chuyên ngành giáo dục, như giáo dục cấp 1, 2 ..hoặc giáo dục đặc biệt cho người tàn tật. Có rất nhiều môn học kì lạ mà mỗi lớp có thể chỉ có từ 1 đến 2 sinh viên theo học.
Tuy vậy, ưu điểm lớn nhất không nằm ở số lượng ngành học mà ở phương pháp giáo dục. Giáo dục ở đây theo hướng đáp ứng đúng trình độ, nhu cầu của từng cá nhân. Mức độ cá nhân hoá giáo dục rất cao, sinh viên có cơ hội theo đuổi những gì mình mong muốn cho dù có mới mẻ và kì quặc. Bạn được quyền đi theo hướng mà bạn quan tâm và cho là hợp với khả năng của mình.
Đời sống x

File đính kèm:

  • doctieu_luan_ly_luan_ve_con_nguoi_va_van_de_dao_tao_nguon_nhan.doc