Tiểu luận Lý luận về dân chủ và nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa

pdf 17 trang yenvu 20/02/2024 2180
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Lý luận về dân chủ và nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Lý luận về dân chủ và nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa

Tiểu luận Lý luận về dân chủ và nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa
Tiểu luận Cnxhkh - Tiểu luận Chủ nghĩa xã hội khoa học bao
gồm 3 chương 16 trang 7176 từ
Chủ nghĩa xã hội khoa học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền)
̂̉ ̣̂
lOMoARcPSD|12184112
MỤC LỤC :
MỞ ĐẦU 
CHƯƠNG I : DÂN CHỦ VÀ SỰ HÌNH THÀNH NÊN CÁC NỀN DÂN CHỦ
1.1) QUAN NIỆM VỀ DÂN CHỦ
1.2) LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CÁC NỀN DÂN CHỦ
 CHƯƠNG II : NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1) QUY LUẬT HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA NỀN DÂN CHỦ XÃ 
HỘI CHỦ NGHĨA
2.2) BẢN CHẤT NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
 CHƯƠNG III : Ý NGHĨA VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI PHÁP TỪ LÝ LUẬN 
VỀ DÂN CHỦ VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
 KẾT LUẬN :
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO :
lOMoARcPSD|12184112
1MỞ ĐẦU :
1. Tính cấp thiết của đề tài :
Việt Nam là một nước xã hội chủ nghĩa nên dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là 
mục tiêu là nhiệm vụ lịch sử của cách mạng Việt Nam. Vì vậy việc nghiêm túc 
nghiên cứu lý luận về dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở để kiểm
nghiệm và trau dồi nhân thức . Từ đó áp dụng vào công cuộc xây dựng nền xã 
hội chủ nghĩa ở đất nước ta. Với mong muốn góp phần làm củng cố , tóm gọn 
tri thức nghiên cứu đúc kết và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hoàn 
thiện hơn , tác giả lựa chọn vấn đề “Lý luận về dân chủ và nền dân chủ xã hội 
chủ nghĩa “ để làm đề tài tiểu luận.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu làm rõ lý luận về dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa 
lOMoARcPSD|12184112
2ĐỀ TÀI : LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
NỘI DUNG :
CHƯƠNG I : DÂN CHỦ VÀ SỰ HÌNH THÀNH NÊN CÁC NỀN DÂN CHỦ
1.1) Quan niệm về dân chủ :
- Theo nghĩa gốc :
Thuật ngữ dân chủ xuất hiện khoảng giữa thế kỷ thứ V đến thứ IV trước Công 
nguyên tại Hy Lạp . Theo tiếng Hy Lạp , dân chủ ( dimokratia ) nghĩa là quyền 
lực của nhân dân . Dimokratia được ghép từ chữ demos nghĩa là nhân dân và 
kratos nghĩa là quyền lực.
Trong các thời kỳ khác nhau của xã hội có phân chia giai cấp , dân chủ bị biến 
dạng, bị chi phối bởi quan điểm lập trường , thái độ chính trị và lợi ích của giai 
cấp cầm quyền ; dân chủ mất dần giá trị là quyền lực của nhân dân. Các giai cấp
thống trị đã nhân danh cộng đồng , nhân danh lợi ích chung định ra thể chế 
chính trị thao túng quyền hành, tước quyền làm chủ của nhân dân . Dân chủ trở 
thành hình thức che dấu thực chất quân chủ .
Đến thế kỷ XVIII , người Anh đã dựa vào ngôn ngữ Hy Lạp cổ để đưa ra thuật 
ngữ “democracy” có nghĩa là “chính thể dân chủ” – thể chế dân chủ , một trong 
những hình thức chính quyền với đặc trưng là : Chính quyền nhà nước phải 
thừa nhận quyền tự do và bình đẳng của công dân. Điều đó có nghĩa là : Dân 
chủ là chính thể nhà nước thừa nhận quyền tự do , bình đẳng của nhân dân .
- Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin :
Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng khẳng định , trong quá trình phát triển của xã hội loài
người , khi xã hội phân chia thành giai cấp và nhà nước xuất hiện , quyền tự do của
mỗi cá nhân đều mang tính giai cấp , phản ánh lợi ích giai cấp (trước hết là giai cấp
cầm quyền). Trong cuộc đấu tranh giành dân chủ, lịch sử đã chứng minh rằng, 
trong xã hội có giai cấp, dân chủ bao giờ cũng biểu hiện tính giai cấp rõ rệt, đại 
biểu cho lợi ích giai cấp. Những giá trị dân chủ có tính nhân loại chính là kết quả 
cuộc đấu tranh giai cấp của lực lượng nhân dân tiến bộ , những giai cấp tiên tiến 
trên toàn thế giới , giữ vai trò trung tâm của thời đại. Do vậy, dân chủ mang tính 
giai cấp sâu sắc . Không có dân chủ trừu tượng , phi giai cấp hay ngoài giai cấp . 
Bản chất của dân chủ được thể hiện ở tính giai cấp của nó.
lOMoARcPSD|12184112
3V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, không có “dân chủ nói chung” , “dân chủ phi giai cấp”. 
Tính chất giai cấp của phạm trù dân chủ là tiêu chí để phân biệt bản chất khác nhau
của các nền dân chủ (dân chủ tư sản , dân chủ vô sản – dân chủ xã hội chủ nghĩa) . 
Theo V.I.Lênin, mỗi chế độ và nhà nước dân chủ đều do một giai cấp thống trị chi 
phối các lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó, tính giai cấp thống trị cũng chi phối 
tính dân tộc và tính chất của chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội .. ở mỗi dân 
tộc cụ thể. Năm 1919, V.I.Lênin viết : “Quan điểm dân chủ thuần tuý hình thức 
chính là quan điểm của người dân chủ tư sản, là kẻ không thừa nhận rằng lợi ích 
của giai cấp vô sản và của cuộc đấu tranh giai cấp của vô sản cao hơn hết”. Do vậy,
Lênin đã nhắc nhở những người cộng sản rằng , khi xây dựng nền dân chủ xã hội 
chủ nghĩa , không được quên trả lời câu hỏi mang tính nguyên tắc : Dân chủ cho ai 
và vì cái gì ; tự do đối với ai , vì ai và vì cái gì ?
Dân chủ là một phạm trù lịch sử vì nó có sự ra đời , tồn tại và phát triển trong một 
giai đoạn nhất định và sẽ biến mất đi khi trong xã hội không còn giai cấp . Tính 
lịch sử của dân chủ còn thể hiện qua quá trình hình thành , phát triển , vận động từ 
chỗ chưa có dân chủ đến có dân chủ , đến tồn tại , phát triển rồi tiêu vong. Chủ 
nghĩa Mác Lênin nêu rõ, quá trình hình thành của dân chủ là “từ chuyên chế đến 
dân chủ tư sản , từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản đến không còn dân chủ nữa” 
Hình thức của nền dân chủ là đa dạng vì chính thể của mỗi quốc gia không chỉ chịu
sự chi phối của thể chế chính trị mà còn chịu sự kiềm chế của các điều kiện thực tế 
của các chính thể khác nhau . Không có mô hình dân chủ và chế độ chính trị chung
cho mọi quốc gia, dân tộc.
Khi xem xét bản chất dân chủ, chế độ dân chủ không chỉ căn cứ vào tính giai cấp 
mà còn phải đứng trên quan điểm lịch sử và thái độ biện chứng, khoa học đối với 
những thành tựu dân chủ với tính cách là những giá trị mà loài người đã đạt được 
trong tiến trình lịch sử. Chủ nghĩa Mác Lênin nhắc nhở giai cấp công nhân, các 
Đảng Cộng sản không nên quá nhấn mạnh tính giai cấp, tính chính trị mà xem nhẹ 
tính lịch sử, giá trị nhân văn của dân chủ hoặc ngược lại. Đồng thời, phải đứng trên
quan điểm biện chứng để xem xét quá trình phát triển của dân chủ với tư cách là 
một chế độ. 
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh :
Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin , Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ 
là của quý báu nhất của nhân dân. Đây là một trong những luận điểm nổi bật trong 
tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh . Dân chủ là “làm sao cho dân biết 
hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình dám nói dám làm”. 
Người nhấn mạnh “địa vị cao nhất là dân , vì dân là chủ”, quyền lực thuộc về nhân 
dân , mọi lợi ích đèu vì dân , mọi công việc đều do dân. 
lOMoARcPSD|12184112
4Tư tưởng đề cao nhân dân, hết lòng vì lợi ích nhân dân được chủ tịch Hồ Chí Minh
coi như một chân lý. Theo Người dân chủ là “dân là chủ và dân làm chủ”
- Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Kế thừa và phát triển tư tưởng vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản 
Việt Nam chủ trương xây dựng chế dộ dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát 
huy quyền làm chủ của nhân dân. Để tiến tới mục tiêu xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, phải tiến hành dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội. 
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực 
phát triển đất nước ; dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế 
hoá bằng pháp luật , được pháp luật đảm bảo; dân chủ là nguyên tắc tổ chức, hoạt 
động của các tổ chức chính trị - xã hội (nguyên tắc tập trung dân chủ)
Dân chủ là một giá trị xã hội (giá trị nhân văn) phản ánh về những quyền cơ bản 
của con người ; là một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền thành 
một chế độ chính trị xã hội mà ở đó những quyền cơ bản của con người ( tự do, 
bình đẳng, tôn trọng sự thống nhất trong đa dạng ) được pháp luật thừa nhận và 
bảo vệ. Đồng thời những quyền này được thể chế thành các nguyên tắc ( quyền 
lực thuộc về nhân dân, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật , thiểu số phục 
tùng đa số , quyền tự do tư tưởng , ý chí , hành động , bầu cử tự do và công bằng ) 
để quy định quyền lợi , trách nhiệm của nhân dân đối với nhà nứơc, cộng đồng và 
ngược lại. 
1.2) Lịch sử hình thành các nền dân chủ :
- Nền dân chủ chủ nô :
Trong chế độ cộng sản nguyên thuỷ đã manh nha xuất hiện hình thức của dân chủ 
mà Ph.Ăngghen gọi là “dân chủ nguyên thuỷ”. Đặc trưng cơ bản của hình thức dân
chủ này là nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự thông qua “Đại hội nhân dân”. Trong 
“đại hội nhân dân” mọi người đều có quyền phát biểu và tham gia quyết định bằng 
cách giơ tay hoặc hoan hô, ở đó nhân dân có quyền lực thực sự (nghĩa là có dân 
chủ) mặc dù trình đọ sản xuất còn kém phát triển. 
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu và sau đó 
là giai cấp đã làm cho hình thức “dân chủ nguyên thuỷ” tan rã, nền dân chủ chủ nô 
ra đời. Nền dân chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước , nhà nước dân chủ chủ 
nô (Nhà nước Athen). Đặc trưng của nền dân chủ chủ nô là dân tham gia bầu ra 
Nhà nước. Tuy nhiên, giai cấp chủ nô quy định : “Dân” chỉ gồm giai cấp chủ nô và 
phần nào thuộc về các công dân tự do (tăng lữ, thương gia và một số trí thức). 
lOMoARcPSD|12184112
5Đa số còn lại không phải là “dân” mà là “nô lệ”, nhũng “công cụ biết nói” và 
không được tham gia vào công cuộc bầu chọn ra nhà nước. 
Như vậy, về thực chất, nhà nước dân chủ chủ nô cũng chỉ thực hiện dân chủ cho 
thiểu số , quyền lực của nhân dân đã bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt.
- Nền dân chủ tư sản:
Lịch sử loài người đã trải qua hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, song về “chế 
độ dân chủ phong kiến” thì trong thời đại này đã không còn tồn tại. Với cách tổ 
chức quyền lực của nhà nước , giai cấp phong kiến đã thủ tiêu những tiến bộ của 
nền dân chủ chủ nô trước đó, thiết lập nhà nước quân chủ của giai cấp mình.
Trước sự hà khắc của chế đọ chuyên chế phong kiến, nhân dân đã đấu tranh phản 
kháng buộc giai cấp quý tộc phong kiến phải thực thi một số yêu cầu dân chủ . Ở 
phương Tây, thế kỷ XIV-XVI, các trào lưu tiến bộ của giai cấp tư sản mới xuất 
hiện đã nêu cao tinh thần tự do, dân chủ mở đường cho sự ra đời của chế độ tư bản.
Sự xuất hiện của nền dân chủ tư sản gắn liền với sự hình thành của phương thức 
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quá trình khẳng định dân chủ tư sản đồng thời cũng là 
quá trình phủ định nền quân chủ, diễn ra từ thấp tới cao trên các lĩnh vực đời sống 
xã hội nhằm xoá bỏ từng yếu tố phản dân chủ của chế độ phong kiến , đi tới phủ 
định nền quân chủ dù chưa được triệt để. Quá trình khẳng định và phủ định này 
không phải tự nhiên mà là quá trình đấu tranh giai cấp quyết liệt của giai cấp tư sản
nhằm xoá bỏ phương thức sản xuất phong kiến , lật đổ ách thống trị của giai cấp 
phong kiến . Nền dân chủ tư sản được hình thành tương đối đầy đủ trong quá trình 
đấu tranh cách mạng tư sản – một nấc thang quan trọng của tiến bộ lịch sử.
Dân chủ tư sản là một sự phát triển về chất, đó là bước phát triển nhảy vọt so với 
nền chuyên chế, độc tài của chế độ phong kiến , quân chủ. Bình đẳng, bình quyền, 
tự do cá nhân là những nội dung nổi bật của dân chủ tư sản – chưa từng có trong 
lịch sử phong kiến. Giai cấp tư sản không những hình thành và hoàn thiện nền dân 
chủ tư sản mà còn xây dựng nên một hệ thống chính trị cùng với hệ thống thiết chế
nhà nước nhằm đảm bảo sự thống trị của giai cấp tư sản. Đặc trưng cơ bản của nền 
dân chủ tư sản là xác lập nhà nước pháp quyền với nguyên tắc hoạt động: tam 
quyền phân lập và xã hội công dân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản 
xuất.
So với chế độ quân chủ phong kiến, dân chủ tư sản ra đời là một bước tiến lớn của 
nhân loại (C.Mác). Tuy nhiên, để bảo vệ quyền thống trị về chính trị , về kinh tế 
của mình, giai cấp tư sản đã thẳng tay sử dụng chuyên chính đàn áp các cuộc đấu 
tranh của giai cấp công nhân , nhân dân lao động. Mặc dù, trước bối cảnh thế giới 
có nhiều đổi thay , để tồn tại giai cấp tư sản buộc có nhiều điều chỉnh , trong đó có 
việc mở rộng quyền dân chủ cho nhân dân. 
lOMoARcPSD|12184112
6Nhưng điều đó không có nghĩa rằng dân chủ tư sản đã biến thành dân chủ “nhân 
dân”. Với những giới hạn không thể vượt qua , nền dân chủ tư sản vẫn là dân chủ 
dành cho thiểu số những người , những công dân sở hữu của cải vật chất.
V.I.Lênin cho rằng, ngay trong giai đoạn phát triển nhất của nền cộng hoà dân chủ 
tư sản thì chế độ dân chủ ấy vẫn bị giới hạn trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc 
lột tư sản – vẫn chỉ là chế độ dân chủ với thiểu số mà thôi.
- Nền dân chủ vô sản ( dân chủ xã hội chủ nghĩa ) :
Thắng lợi của Cách mạng vô sản tháng Mười Nga (1917) và các cuộc cách 
mạng xã hội chủ nghĩa khác đã đưa giai cấp công nhân và nhân dân lao động
từ địa vị những người nô lệ bị bóc lột và áp bức thành những người làm chủ 
xã hội. Chính quyền đã thuộc về tay giai cấp công nhân với tư cách là một 
nhà nước kiểu mới, là bộ máy quản lý và điều hành mọi hoạt động của xã 
hội để thực hiện quyền làm chủ của những người lao động được giải phóng.
Việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao 
động , việc Đảng Cộng sản khẳng định vai trò lãnh đạo nhà nước và xây 
dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa là những tiền đè , nguyên tắc dẫn 
tới xác lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa , một nền dân chủ mới về chất , cao
hơn so với nền dân chủ tư sản và các nền dân chủ trước đó. Theo Lê-nin: 
“Xô Viết, tựu chung , là một hình thức và một kiểu chế độ dân chủ vô cùng 
cao lớn chính là vì nó tập hợp được quần chúng công nông và lôi cuốn họ 
tham gia sinh hoạt chính trị, nên đó là cơ quan gần dân nhất”. Dân chủ xã 
hội chủ nghĩa xuất hiện trong thắng lợi của cách mạng chính trị giành chính 
quyền của giai cấp công nhân , gắn liền với sự ra đời của nhà nước kiểu mới 
– nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghãi là thực hiện quyền lực 
của nhân dân – xây dựng nhà nước dân chủ đích thực, dân làm chủ nhà nước
, làm chủ xã hội , bảo vệ quyền lợi cho đại đa số nhân dân.
lOMoARcPSD|12184112
7CHƯƠNG II : NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1) Quy luật hình thành phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa :
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra
rằng : “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải tự giành lấy chính quyền, phải tự 
vươn lên thành giai cấp dân tộc” phải giành lấy dân chủ với ý nghĩa trực tiếp là 
giành lấy quyền lực nhà nước và tổ chức quyền lực đó thành nhà nước dân chủ vô 
sản. Theo ông, giai cấp công nhân giành được chính quyền là dấu mốc làm xuất 
hiện một nền dân chủ mới , khác về chất so với các nền dân chủ trước đó – dân chủ
vô sản.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại với sự xuất hiện nhà nước xã 
hội chủ nghĩa đàu tiên trên thế giới – Nhà nước Xô Viết , xây dựng nền dân chủ 
phục vụ lợi ích cho đa số ngừoi lao động. Từ đó, nền dânchur xã hội chủ nghãi ra 
đời. Nền dân chủ xã hội chủ nghãi chỉ được xác lập sau khi giai cấp công nhân 
thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản giành được chính quyền, tiến
hành cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ 
nghĩa dưới các hình thức khác nhau.
Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từ thấp tới cao , từ chưa hoàn
thiện tới hoàn thiện , có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của các nền dân chủ 
trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản. Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã 
hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho 
những người lao động , thu hút họ tham gia tự giác vào công cuộc xây dựng , quản 
lý nhà nước , quản lý xã hội.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không phải là nền dân dân chủ của thiểu số và cho 
thiểu số bóc lột, có đặc quyền đặc lợi. Ngược lại, đây là nền dân chủ của đa số và 
vì đa số. Do đó, về nguyên tắc, nó bài trừ đặc quyền, đặc lợi cá nhân và vì lợi ích 
của đa số nhân dân lao động; gạt bỏ những kẻ đặc quyền đặc lợi khỏi vị trí quản lý 
nhà nước, quản lý xã hội.
Nền dân chủ xã hội củ nghĩa càng hoàn thiện bao nhiêu , bản thân nó càng tự tiêu 
vong bấy nhiêu. Thực chất của sự tiêu vong này, theo V.I.Lênin, đó chính là tính 
chính trị của dân chủ nhằm không ngừng mở rộng dân chủ đối với nhân dân, xác 
lập địa vị chủ thể quyền lực của nhân dân , tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng 
đông đảo và ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý xã 
hội . Quá trình đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen, một tập quán trong 
sinh hoạt xã hội để đến một lúc nào đó nó không còn tồn tại như một thể chế nhà 
nước, một chế độ , tức là mất đi tính chính trị của nó.
lOMoARcPSD|12184112
8Để có một chế độ dân chủ thực sự quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, ngoài yếu 
tố giai cấp công nhân lãnh đạo đòi hỏi cần nhiều yéu tố như trình độ dân trí , xã hội
công dân , việc tạo dựng cơ chế pháp luật đảm bảo quyền tự do cá nhân , quyền 
làm chủ nhà nước và quyền tham gia vào các quyết sách của nhà nước ; ngoài ra , 
kể đến cả vấn đề liên quan tới điều kiện vật chất để thực thi dân chủ.
2.2) Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa :
Theo chủ nghĩa Mác Lênin, dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ vô sản là đồng 
nghĩa ; ngoài ra V.I.Lênin còn dùng thuật ngữ : dân chủ Xô Viết , chuyên chính vô 
sản. Đây là nền dân chủ mà ở đó dân chủ với toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân.
Điều đó trở thành nguyên tắc, mục tiêu của sự phát triển xã hội , thể hiện trên tất cả
lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Bản chất chính trị :
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, về bản chất, là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp 
công nhân thông qua chính Đảng của nó đối với toàn xã hội nhưng không phải chỉ 
để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân mà là lợi ích của 
toàn thể nhân dân trong đó bao gồm giai cấp công nhân. Nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo- yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân, bởi : Đảng Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp 
công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Với ý nghĩa này, dân chủ xã hội 
chủ nghĩa mang tính chất nguyên về chính trị. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân 
thông qua Đảng Cộng sản đối với toàn xã hội về mọi mặt được Lênin gọi là sự 
thống nhất chính trị.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là những ngừoi làm chủ 
những quan hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia 
vào bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến 
xây dựng chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy cán bộ, công nhân viên nhà 
nước. Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước của nhân dân 
chính là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị.
Bàn về quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị, Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ : 
“Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thì bao nhiêu quyền lực đều là của dân, 
bao nhiêu sức mạnh đều ở dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân” . Chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa , Nhà nước xã hội chủ nghĩa , do đó, về thực chất là của nhân dân, do
dân và vì dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa khác với các cuộc cách mạng 
trước đây là bởi đây là cuộc cách mạng của số đông, vì lợi ích của số đông nhân 
dân. 
lOMoARcPSD|12184112
9Theo Hồ Chí Minh : “ Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa 
chọn những người có tài có đức để gánh vác công việc nhà nước. Trong cuộc tổng 
tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công 
dân thì đều có quyền đi bầu cử”
Lênin còn nhấn mạnh rằng: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ của đại đa 
số dân cư , của những người lao động bị bóc lột , là chế độ mà nhân dân ngày càng 
tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Ông đã diễn đạt một cách khái quát về bản
chất và mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa rằng : đó là nền dân chủ “gấp triệu 
lần tư sản”
Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công 
nhân , vừa có tính nhân dân rộng rãi , tính dân tộc sâu sắc. Do vậy, nền dân chủ xã 
hội chủ nghĩa về chất so với nền dân chủ tư sản ở bản chất giai cấp (giai cấp công 
nhân và giai cấp tư sản); ở cơ chế nhất nguyên và cơ chế đa nguyên ; một đảng hay
nhiều đảng ; ở bản chất nhà nước (nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà 
nước pháp quyền tư sản).
- Bản chất kinh tế:
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất 
đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa 
học – công nghệ hiện đại nhằm thoả mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và 
tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định chính trị, 
phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của 
Đảng Mác-Lênin và sự quản lý, hướng dẫn , giúp đỡ của Nhà nước xã hội chủ 
nghĩa. Trước hết , trước hết đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu 
sản xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh , quản lý và 
phân phối.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác với bản chất kinh tế của
các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột nhưng cũng như toàn bộ nền kinh tế xã hội chủ 
nghĩa , nó không hình thành từ “hư vô” theo mong muốn của bất kỳ ai. Nó là sự kế 
thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử , đồng thời lọc bỏ 
những nhân tố lạc hậu , tiêu cực , kìm hãm của các chế độ kinh tế trước đó, nhất là 
bản chất tư hữu , áp bức bóc lột bất công đối với đa số nhân dân.
Dưới góc độ kinh tế , dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự đảm bảo về lợi ích kinh tế , 
phải coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy 
kinh tế - xã hội phát triển. Lao động , việc làm và phân phối lợi ích tương ứng với 
kết quả lao động là nội dung kinh tế của dân chủ , đây cũng chính là nội dung mà 
quyền dân chủ được thể hiện một cách rộng rãi và trực tiếp . 
lOMoARcPSD|12184112
10
Do vậy, khác với nền dân chủ tư sản, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện 
trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân 
phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu.
- Bản chất tư tưởng – văn hoá :
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin – hệ tư tưởng của giai 
cấp công nhân làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội 
mới. Đồng thời, nó kế thừa , phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống các dân
tộc ; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hoá, văn minh , tiến bộ xã hội của nhân 
loại. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa , nhân dân được làm chủ những giá trị 
văn hoá tinh thần , được nâng cao trình độ văn hoá , có điều kiện để phát triển cá 
nhân. Dưới góc độ này , dân chủ là một thành tựu văn hoá, một quá trình sáng tạo 
văn hoá, thể hiện khát vọng tự do đực sáng tạo và phát triển của con người.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa , đời sống tư tưởng – văn hoá rất phong phú, 
đa dạng , toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu , trở 
thành mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa. Và điều này 
khác hoàn toàn so với nền dân chủ tư sản về hệ tư tưởng chủ đạo (hệ tư tưởng giai 
cấp công nhân và hệ tư tưởng giai cấp vô sản)
Ta có thể thấy, từ những căn cứ trên , nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời sau nền 
dân chủ tư sản trên cơ sở kế thừa những giá trị của dân chủ tư sản với mục đích 
đem lại quyền lực , quyền lợi thực sự cho nhân dân , tạo điều kiện , cơ chế để 
người dân thực hiện được quyền và nghĩa vụ công dân đối với nhà nước và ngược 
lại, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải là nền dân chủ tiến bộ hơn , phát triển hơn.
lOMoARcPSD|12184112
11
CHƯƠNG 3 : Ý NGHĨA VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI PHÁP TỪ LÝ LUẬN VỀ
DÂN CHỦ VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
3.1) Ý nghĩa và thực tiễn của lý luận về dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa :
Lý luận của Chủ nghĩa xã hội khoa học về dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa đã để lại những giá trị to lớn , những ý nghĩa sâu sắc cho nhân loại để có thể 
xây dựng nên một nền dân chủ cho những người dân lao động chiếm đa số trong xã
hội ; một nền dân chủ nhân văn , tiến bộ vì hạnh phúc vì tự do của con người. 
Không chỉ có vậy , đây còn trở thành nguồn tài liệu phong phú với những kinh 
nghiệm đúc kết sâu sắc để chúng ta và những thế hệ sau này có thể kế thừa , tiếp 
thu và phát triển. 
Ngoài ra , đây còn là cơ sở , nền tảng lý luận chủ yếu giúp các nước xã hội chủ 
nghĩa , đặc biệt như Việt Nam có thể chọn lọc , học hỏi để xây dựng chế độ dân 
chủ phù hợp với những đặc điểm của quốc gia , dân tộc mình.
Trên cơ sở kế thừa và chọn lọc những tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin về dân 
chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa , Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rằng 
nhân dân chính là gốc của quyền lực “dân là chủ” và “dân làm chủ”. Trong các kỳ 
đại hội cũng như hoạt động lãnh đạo công cuộc xây dựng và phát triển đất nước , 
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ xã hội 
chủ nghĩa . Đó là nhận thức nhất quán của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và nền dân 
chủ xã hội chủ nghĩa . Tại Đại hội IV của Đảng năm 1976 khẳng định : “Để đưa 
cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng , điều kiện quyết định trước tiên là phải
thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản , thực hiện và không 
ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Đến Đại hội lần 
thứ V năm 1982 một lần nữa , Đảng nhấn mạnh : “Nắm vững chuyên chính vô 
sản , phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền 
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; 
mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì 
lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ 
được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân... Có cơ chế cụ thể để 
nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp... Phát huy dân chủ, đề cao 
trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những 
hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân”
lOMoARcPSD|12184112
12
3.2) Một số phương hướng , giải pháp nhằm xây dựng và phát triển nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay :
Việc phát huy dân chủ ở nước ta trong thời gian qua đã và đang tạo động lực thúc 
đẩy, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhưng chúng ta cũng cần thẳng thắn 
nhìn nhận, việc xây dựng và phát huy dân chủ ở nước ta vẫn còn những hạn chế, 
bất cập, cụ thể như: vấn đề dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, vẫn 
còn tình trạng dân chủ hình thức. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và Nhà 
nước vẫn còn bị hiểu sai lệch, tình trạng thiếu dân chủ trong Đảng thường đi đôi 
với việc lãnh đạo, quản lý độc đoán, chuyên quyền. Những hạn chế yếu kém nêu 
trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Một là, 
dân chủ với tư cách là một vấn đề chính trị do trình độ phát triển kinh tế quy định. 
Hiện nay, ở nước ta mới thực hiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, 
chưa hoàn thiện, trình độ phát triển kinh tế còn thấp, hạn chế đến sự phát triển dân 
chủ. Chính vì vậy, để xây dựng được một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa giàu mạnh 
ta nên tập trung thực hiện một số những phương pháp sau :
Thứ nhất, 
Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho nhân dân, 
đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa, nơi còn nhiều hạn chế trong việc tiếp cận 
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, 
dân chủ XHCN. Tuyên truyền, giáo dục để nhân dân hiểu sâu sắc hơn về đường 
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và thực hành dân
chủ trong quá trình xây dựng CNXH. Chú trọng tuyên truyền các gương điển hình, 
mô hình tốt về xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở. Các cơ quan truyền thông 
cần đưa tin, bình luận khách quan, trung thực, đúng bản chất vấn đề, sự việc, định 
hướng đúng dư luận xã hội.
Thứ hai, 
Tăng cường phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong việc tổ chức, thực hiện 
quyền làm chủ của nhân dân, làm cho mọi người dân Việt Nam, dù sống và làm 
việc ở đâu đều luôn hướng về Tổ quốc, dù hoạt động trên bất cứ lĩnh vực nào cũng 
ý thức đầy đủ về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm trong việc thực hiện tốt dân chủ, 
trong xây dựng và phát huy nền dân chủ XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, 
dân chủ, công bằng, văn minh. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật 
về dân chủ và xây dựng nền dân chủ XHCN. Các tổ chức trong hệ thống chính trị 
cần có cơ chế vận hành đồng bộ, thống nhất trong triển khai, thực hiện, trong quản 
lý, điều hành việc thực hiện dân chủ.
lOMoARcPSD|12184112
13
 Đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, việc 
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở phải tạo môi trường thuận lợi để 
cán bộ, công chức, người lao động phát huy năng lực, trí tuệ, nâng cao trách nhiệm
tham gia vào hoạch định cơ chế, chính sách, tham gia giải quyết những vướng mắc,
khó khăn trong hoạt động, sản xuất kinh doanh. Hệ thống chính trị phải là người 
đại diện, điểm tựa để nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình.
Thứ ba, 
Chú trọng phát triển kinh tế - xã hội ở cấp xã, đặc biệt là những nơi còn nhiều khó 
khăn, kém phát triển; có chính sách cụ thể nhằm phát huy tinh thần tự chủ trong 
sản xuất và phát triển kinh tế gia đình; có chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế 
hợp lý, phù hợp với điều kiện của từng địa phương; tăng cường ứng dụng khoa học
kỹ thuật vào sản xuất, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi 
và giúp các nhà đầu tư, doanh nghiệp triển khai các dự án tại địa phương; xây dựng
và mở rộng nhiều mô hình xây dựng nông thôn mới thiết thực, hiệu quả; đẩy mạnh 
xã hội hóa và nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường; thực hiện 
có hiệu quả các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, an ninh - 
trật tự. Giải quyết kịp thời những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, thực hiện 
tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, làm cho mọi người 
dân cảm nhận được địa vị và quyền lợi về dân chủ một cách thực sự.
Thứ tư, 
ằng những phương thức và biện pháp thích hợp, hiệu quả để đấu tranh vạch trần 
những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm, thâm độc của các thế lực thù địch xuyên tạc, 
bóp méo, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, 
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về dân chủ; về bản 
chất của chế độ, bản chất nền dân chủ XHCN và những thành tựu về thực hiện, 
phát huy dân chủ mà chúng ta đã giành được trong quá trình xây dựng CNXH.
lOMoARcPSD|12184112
14
KẾT LUẬN
1. Trên phương pháp tiếp cận toàn diện , tiểu luận đã phân tích khái quát những
điều kiện khách quan của bối cảnh lịch sử cũng như các yếu tố chủ quan từ 
các nhà nghiên cứu , các nhà khoa học hình thành nên lý luận. Dân chủ được
hiểu cơ bản là phạm trù chính trị và giá trị công bằng , tự do , tiến bộ xã hội. 
Còn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là chỉnh thể xã hội được tổ chức , vận 
hành theo các quy tắc và chuẩn mực dân chủ nhằm đảm bảo quyền lợi , lợi 
ích cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
2. Tiểu luận khái quát những vấn đề cơ bản thuộc lý luận vè dân chủ và nền 
dân chủ xã hội chủ nghĩa với đặc trưng và bản chất cụ thể. 
3. Tiểu luận đã rút ra được những ý nghĩa từ lý luận dân chủ và nền dân chủ xã 
hội chủ nghĩa . Trên cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam đã và đang tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo vào công cuộc xây 
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4. Ngoài ra, tiểu luận còn chỉ ra những hạn chế cơ bản và đưa ra một số những 
phương hướng cụ thể vận dụng vào công cuộc phát triển , tăng cường xây 
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay .
lOMoARcPSD|12184112
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, 
Nxb Chính trị quốc gia , 2006
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI , 
Nxb Chính trị quốc gia , 2011
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa 
độ lên chủ nghĩa xã hội , Nxb Chính trị quốc gia , 2011
4. Khương Huy và Triệu Bồi Kiệt, Quan điểm dân chủ của chủ nghiã Mác khoa
học
5. Thông tin Những vấn đề lý luận , số 13 (7/2011)
6. V.I.Lênin , Toàn tập , Nxb Tiến bộ, Mátxcova, 1981, tập 33
7. Hồ Chí Minh , Toàn tập , Nxb Chính trị quốc gia , Hà Nội
8. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản , C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập , tập 4, 
1995, Hà Nội
lOMoARcPSD|12184112

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_ly_luan_ve_dan_chu_va_nen_dan_chu_xa_hoi_chu_nghia.pdf