Tiểu luận Mối quan hệ giữa Nhà nước Xã hội chủ nghĩa và nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa và những giải pháp cơ bản để xây dựng nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

pdf 39 trang yenvu 22/02/2024 2882
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Mối quan hệ giữa Nhà nước Xã hội chủ nghĩa và nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa và những giải pháp cơ bản để xây dựng nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Mối quan hệ giữa Nhà nước Xã hội chủ nghĩa và nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa và những giải pháp cơ bản để xây dựng nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Tiểu luận Mối quan hệ giữa Nhà nước Xã hội chủ nghĩa và nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa và những giải pháp cơ bản để xây dựng nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2151050041 - TRẦN BẢO NGỌC - 2151050041
Chủ nghĩa xã hội khoa học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền)
lOMoARcPSD|12184112
 HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VIỆN BÁO CHÍ
-------------------------
 TIỂU LUẬN
 CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
“MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ
NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ XÂY DỰNG NỀN
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY.”
Họ và tên : TRẦN BẢO NGỌC
Mã số sinh viên : 2151050041
Lớp : TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
Khóa : K41
 Hà Nội, tháng 12 năm 2021
lOMoARcPSD|12184112
MỤC LỤC 
M ĐẦẦUỞ ................................................................................................................1
1. Lý do nghiên cứu đề tài......................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................2
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài................................................2
N I DUNGỘ .............................................................................................................3
I. LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ 
NGHĨA VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA..................................3
1. Dân ch và dân ch xã h i ch nghĩaủ ủ ộ ủ ................................................................3
2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa......................................................................9
3.Mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ 
xã hội chủ nghĩa..........................................................................................16
II. THỰC TRẠNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG 
NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM...............................18
1. Những thành tựu:................................................................................18
2. Những hạn chế còn tồn tại:............................................................19
III. GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ 
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..................................................................20
1. Liên tục đổi mới hệ thống chính trị, xác định rõ hơn về vị 
trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ qua lại của các bộ 
phận cấu thành Hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh
lOMoARcPSD|12184112
đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã 
hội trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa............................21
2. Hoàn thiện các thể chế dân chủ đại diện và dân chủ trực 
tiếp, hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật bầu cử, giám 
sát của cơ quan dân cử.......................................................................22
3. Dân chủ hơn nữa quy trình hoạch định chính sách công 
(bảo đảm sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt 
của tầng lớp doanh nhân trong lĩnh vực chính sách kinh tế)23
4. Tăng cường vai trò của báo chí trong thông tin và giám 
sát Đảng, giám sát nhà nước, đặc biệt là chống tham nhũng,
lãng phí......................................................................................................24
IV. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG XÂY DỰNG NỀN 
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ 
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..............................................................25
KẾẾT LU NẬ ............................................................................................................27
TÀI LI U THAM KH OỆ Ả .........................................................................................28
lOMoARcPSD|12184112
1 MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Dân chủ ngày nay đã trở thành một một thuật ngữ chính trị, xã 
hội thu hút rất nhiều sự quan tâm trên toàn thế giới. Hầu như 
tất cả mọi nhà nước, đảng phái chính trị dù theo thể chế nào 
đều nêu cao khẩu hiệu dân chủ. Đấu tranh cho dân chủ từ lâu 
đã trở thành nội dung cơ bản cho các phong trào xã hội ở các 
nước tư bản chú nghĩa lẫn xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, về mặt lý luận lẫn thực tiễn, dân chủ lại là một thuật 
ngữ chính trị phức tạp và đa nghĩa hơn rất nhiều. Rất nhiều thể 
chế chính trị đều nêu cao khẩu hiệu dân chủ, tuy nhiên, không 
phải chế độ chính trị nào cũng đang thực hiện dân chủ một 
cách toàn diện và đúng với bản chất của dân chủ. 
Bởi vậy, việc nghiên cứu và hiểu biết sâu sắc về dân chủ, nền 
dân chủ xã hội chủ nghĩa và mối quan hệ giữa nền dân chủ xã 
hội chủ nghĩa với nhà nước xã hội chủ nghĩa là vô cùng cần 
thiết, đặc biệt là áp dụng vào việc xây dựng và phát triển mặt 
chính trị và xã hội Việt Nam trong giai đoạn quá độ lên chủ 
nghĩa xã hội ở thời đại mới. Từ đó, kiến thức, kỹ năng từ những 
nghiên cứu này chính là cơ sở đề ra những phương pháp cơ bản 
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, 
đưa đất nước đi theo đúng con đường của một nền dân chủ tiên
tiến, hoàn thiện, lấy con người làm mục tiêu phát triển – dân 
chủ xã hội chủ nghĩa.
Do đó, bài tiểu luận của em sẽ tập trung vào việc làm rõ những 
lý luận về thuật ngữ dân chủ, cũng như nền dân chủ xã hội chủ 
lOMoARcPSD|12184112
2nghĩa, mối quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân 
chủ xã hội chủ nghĩa, những thành tựu cũng như hạn chế khi 
xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa ở Việt Nam, từ đây làm cơ sở cho những phương hướng cơ
bản xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong 
thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện nhằm làm rõ những lý luận lẫn thực 
tiễn về mối quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, đặc biệt ở Việt Nam từ đó đưa ra những 
phương hướng cơ bản trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa ở Việt Nam sao cho hiệu quả và đúng bản chất của hình 
thái xã hội này, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí 
Minh làm cơ sở lý luận.
Không chỉ vậy, bài nghiên cứu còn có nhiệm vụ đưa ra những 
góc nhìn khách quan, chính xác nhất về thực trạng xây dựng 
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nước ta trong những năn gần 
đây, lấy đó làm cơ sở cho những giải pháp cơ bản, thực tế trong
xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời 
đại mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: thuật ngữ dân chủ, nền dân chủ xã hội 
chủ nghĩa, mối quan hệ giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và 
nhà nước xã hội chủ nghĩa. 
Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam giai đoạn công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa ngày nay.
lOMoARcPSD|12184112
34. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Bài nghiên cứu sẽ đem đến một cái nhìn khái quát và sự hiểu 
biết sâu sắc hơn về thuật ngữ dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa cũng như những thành tựu, hạn chế trong công cuộc xây 
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nước ta từ trước đến 
nay, từ đó đề ra những phuơng hướng cụ thể và hợp lý cho việc 
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời 
kỳ đổi mới.
 NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
I.1. Định nghĩa , sự ra đời và phát triển của dân chủ
I.1.1.Định nghĩa, quan niệm chung về dân chủ
Thuật ngữ dân chủ xuất hiện lần đầu tiên ở Athens, Hy Lạp vào 
khoảng thế kỷ VII – VI trước Công nguyên, trong những tư tưởng
triết học và chính trị cổ đại trong suốt thời kỳ cổ đại Hy-La. Cụm
từ demoskratos được sử dụng bởi các nhà tư tưởng để nói đến 
dân chủ, trong đó demos là nhân dân và kratos là cai trị. Từ đó, 
ta có thể hiểu rằng, dân chủ là một thể chế chính trị mà nhân 
dân trực tiếp làm chủ hoặc bầu ra đại diện cho quyền lực của 
mình. Ví dụ như ở Athens (Hy Lạp) – nơi ra đời của nền dân chủ 
đầu tiên trên thế giới, vào thời cổ đại, cử tri có quyền bỏ phiếu 
đuổi các chính trị gia ra khỏi thanh bang. Hiểu một cách đơn 
lOMoARcPSD|12184112
4giản, dân chủ là nhân dân cai trị hay quyền lực thuộc về nhân 
dân, và khái niệm này về cơ bản vẫn được giữ nguyên cho đến 
ngày nay. Nhưng trong các thời kỳ khác nhau của xã hội có 
phân chia giai cấp, dân chủ không còn giữ nguyên nghĩa ban 
đầu của nó là quyền lực thuộc về nhân dân, mà bị chi phối bởi 
quan điểm lập trường, thái độ chính trị của giai cấp cầm quyền 
trong xã hội. 
Trong Mười đề cương về chính quyền Xô-viết, V.I. Lê-nin coi dân 
chủ là tự do. V.I. Lê-nin cũng từng nhấn mạnh: "Dân chủ là tự 
do, là bình đẳng, là quyết định của đa số; còn có gì cao hơn tự 
do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa”. Dân chủ nói một 
cách cụ thể, là: Bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; tự 
do chính trị cho mọi công dân; quyết định theo đa số của mọi 
công dân; quyết định bằng cách biểu quyết, đó là thực chất của
dân chủ hòa bình hoặc dân chủ thuần túy.
I.1.2.Những quan niệm về dân chủ
a)Quan niệm của chủ nghĩa Mac – Lênin về dân chủ
Tựu trung lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin dân 
chủ có một số nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc
về nhân dân, nhân dân là chủ nhân của nhà nước. Dân chủ là 
quyền lợi của nhân dân - quyền dân chủ được hiểu theo nghĩa 
rộng. Quyền lợi căn bản nhất của nhân dân chính là quyền lực 
quyền lực nhà nước thuộc sở hữu của nhân dân, của xã hội; bộ 
máy nhà nước phải vì nhân dân, vì xã hội mà phục vụ. 
lOMoARcPSD|12184112
5Thứ hai, trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vữ chính 
trị, dân chủ là một hình thức hay hình thái nhà nước, là chính 
thể dân chủ hay chế độ dân chủ. 
Thứ ba, trên phương diện tố chức và quản lý xã hội, dân chủ là 
một nguyên tắc - nguyên tắc dân chủ. Nguyên tắc này kết hợp 
với nguyên tắc tập trung đế hình thành nguyên tắc tập trung 
dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội. Chủ nghĩa Mác – Lênin 
cũng kế thừa những nhân tố hợp lý, những hoạt động thực tiễn 
và nhận thức của nhân loại về dân chủ. Đặc biệt tán thành quan
điểm : Dân chủ là một nhu cầu khách quan của nhân dân lao 
động, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.
Với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng đều do một giai 
cấp thống trị cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của toàn xã
hội, do vậy, tính giai cấp thống trị cũng gắn liền và chi phối tính
dân tộc, tính chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở mỗi quốc gia,
dân tộc cụ thể.
b)Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là kết quả của sự nhận thức 
sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử: “Dân là quý nhất, 
là quan trọng hơn hết, là tối thượng”, “Trong bầu trời không có 
gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân”; “Nước lấy dân làm gốc. Gốc có 
vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”, Người 
đã huy động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh giải 
phóng dân tộc, góp phần to lớn đưa dân tộc Việt Nam tới độc 
lập, tự do, đưa nhân dân ta từ kiếp nô lệ lên địa vị làm chủ đất 
nước, làm chủ xã hội; vì vậy, “đối với dân, ta đừng có làm gì trái
lOMoARcPSD|12184112
6ý dân”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò của dân 
chủ, coi dân chủ là nhân tố động lực của sự phát triển; thực 
hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó 
khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, bản chất của dân chủ 
tức là dân là chủ và dân làm chủ. Người chỉ rõ, địa vị của nhân 
dân là người chủ đối với xã hội, đất nước và nhân dân là chủ thể
của quyền lực. Đây là nội dung cốt lõi trong tư tưởng dân chủ 
Hồ Chí Minh, phản ánh giá trị cao nhất, chung nhất của dân chủ
là quyền lực thuộc về nhân dân: “Nước ta là nước dân chủ, địa 
vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(2). 
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ 
Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ
dân chủ, thể chế chính trị và thể chế nhà nước dân chủ, nhà 
nước của dân, do dân và vì dân. Người khẳng định: “Bao nhiêu 
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc 
đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng 
chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến 
Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến
xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng 
đều ở nơi dân”3. Nhà nước ta là nhà nước của dân; coi nhân dân 
là chủ thể quyền lực; nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình
thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự 
nghiệp chung chứ nhà nước không phải là nơi để “thăng quan, 
phát tài”, chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc. Người luôn 
xác định, dân chủ là động lực của tiến bộ xã hội, của phát triển. 
Nền dân chủ mà chúng ta đang ra sức xây dựng là nền dân chủ 
1 Hồồ Chí Minh, Toàn t p, Nxb, Chính tr quồốc gia, Hà N i, 2000.t.8, [276]ậ ị ộ
2 Hồồ Chí Minh, Sđd, tâp 5, [ 293; 409-410; 698; 698-700; 409-410 ]
3 Hồồ Chí Minh, Sđd, tâp 5, [ 293; 409-410; 698; 698-700; 409-410 ]
lOMoARcPSD|12184112
7của tuyệt đại đa số nhân dân, gắn với công bằng và tiến bộ xã 
hội trong từng bước phát triển và từng chính sách phát triển. 
Bác Hồ đã từng nói: lãnh đạo một nước mà để cho dân mình lạc 
hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh phúc con người cũng là mất 
dân chủ. Làm chủ là quyền thiêng liêng của nhân dân không ai 
có thể xâm phạm. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm
của Đảng, Nhà nước trong việc phát huy quyền làm chủ của 
nhân dân là làm sao cho họ có năng lực làm chủ, biết hưởng, 
dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm. Phát huy dân chủ là 
phát huy tài dân, muốn vậy, thì phải “Trọng dân, gần dân, hiểu 
dân, học dân và có trách nhiệm với dân”. Theo Bác: “Không học
hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, 
mới biết làm thầy học dân”4.
c) Quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ
Thứ nhất, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa 
là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa 
xã hội. Bàn về vấn đề này, Đảng ta khẳng định: Dân chủ là bản 
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động 
lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền 
dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là 
một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng 
Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã khẳng định, dân 
chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chế độ 
xã hội xã hội “do nhân dân làm chủ”, ở đó, quyền làm chủ trên 
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thuộc về nhân dân, nhân dân 
là chủ và làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội theo 
4 Di chúc c a Ch t ch Hồồ Chí Minh, Nxb.Chính tr quồốc gia, Hà N i, 2019, [47]ủ ủ ị ị ộ
lOMoARcPSD|12184112
8nguyên tắc Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công 
nhân, nhân dân lao động lãnh đạo, thực hiện nhất nguyên về 
chính trị. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng các
hình thức trực tiếp và gián tiếp, thông qua các tổ chức trong hệ 
thống chính trị, trong đó nòng cốt là Nhà nước pháp quyền xã 
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, trên cơ sở nền kinh tế 
xã hội chủ nghĩa với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thứ hai, xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực 
sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, 
lâu dài của cách mạng Việt Nam.
Để xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát 
huy quyền làm chủ của nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu đòi
hỏi phải có “một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự 
thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân 
dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có” (Hồ Chí 
Minh). Phải phát huy vai trò chủ thể của Đảng, Nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội và nhân dân, nhằm huy động mọi nguồn 
lực đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã 
hội chủ nghĩa. Nhân dân là người chủ xã hội, cho nên nhân dân 
không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch 
định, thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp 
luật của Nhà nước. 
Thứ ba, dân chủ hóa tạo xung lực mạnh mẽ hội văn minh thúc 
đẩy công cuộc đổi mới. Dân chủ hóa để xây dựng nền dân chủ 
chủ nghĩa xã hội và hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ và 
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đây là vấn đề cốt yếu 
nhất của lý luận đổi mới, lý luận chủ nghĩa xã hội Việt Nam, thể 
lOMoARcPSD|12184112
9hiện bản chất, mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội. Dân 
chủ hóa chính trị đồng thời với dân chủ hóa kinh tế, xây dựng 
Nhà nước pháp quyền. Đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (bộ phận rường 
cột của hệ thống chính trị), để thông qua Nhà nước, Đảng thực 
hiện vai trò lãnh đạo, cầm quyền trong xã hội và nhân dân thực 
hiện quyền làm chủ của mình. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản 
lý, nhân dân là chủ và làm chủ trở thành mối quan hệ tổng 
quát, bao trùm trong đời sống xã hội, thấm nhuần nội dung dân
chủ hóa, thế hiện nguyên tắc và tính chất dân chủ.
I.1.3.Sự ra đời và phát triển của dân chủ
Xuất hiện từ rất sớm trong xã hội tự quản của cộng đồng thị tộc
bộ lạc, nhu cầu dân chủ đã manh nha “thành hình” trong chế 
độ cộng sản nguyên thủy, mà Ph. Ăngghen gọi là “dân chủ 
nguyên thủy”, hay còn gọi là “dân chủ quân sự”. Đặc trưng cơ 
bản của hình thức dân chủ này là nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân
sự thông qua “Đại hội nhân dân”, nơi mà mọi người đều có 
quyền phát biểu và tham gia quyết định bằng cách giơ tay hoặc
hoan hô, ở đó “Đại hội nhân dân” và nhân dân có quyền lực thật
sự, mặc dù trình độ phát triển còn kém. Song, dân chủ giai đoạn
này chỉ tồn tại với tư cách là giá trị chung của nhân loại, mọi 
thành viên trong xã hội đều có quyền bình đẳng như nhau về lợi
ích kinh tế, tham gia công việc cộng đồng. Còn với tư cách là 
một thể chế chính trị, do trong giai đoạn này, xã hội chưa có 
giai cấp, chưa có nhà nước nên không thể hiện dân chủ là một 
chế độ chính trị.
lOMoARcPSD|12184112
10
Tuy nhiên, khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển, đồng 
nghĩa với sự ra đời của của chế độ tư hữu và sau đó là giai cấp 
đã làm cho hình thức “dân chủ nguyên thủy” tan rã, nền dân 
chủ chủ nô ra đời, đồng nghĩa với việc các quyền bình đẳng của
các thành viên trong xã hội cộng sản nguyên thủy bị cướp mất. 
Vào khoảng thế kỷ V trước Công nguyên, xuất hiện hệ thống 
chính trị ở một số thành bang Hy Lạp, nổi bật nhất là Athen với 
cuộc nổi dậy của dân chúng vào năm 508 TCN. Nền dân chủ 
chủ nô được tổ chức thành nhà nước với đặc trưng là dân tham 
gia bầu ra nhà nước. Thế nhưng, theo quy định của giai cấp 
cầm quyền, “dân” ở đây chỉ gồm giai cấp chủ nô và một số 
công dân tự do như tăng lữ, thương gia và một số trí thức. Như 
vậy, về thực chất, dân chủ chủ nô cũng chỉ là thực hiện dân chủ
cho giai cấp cầm quyền trong xã hội chủ nô, quyền lực của dân 
cũng chỉ là nhằm duy trì, bảo vệ và thực hiện lợi ích của một 
nhóm người nhất định trong xã hội.
Bước vào thời kỳ đen tối với sự thống trị của nhà nước chuyên 
chế phong kiến, lịch sử xã hội loài người trải qua hàng thế kỷ 
dưới chế độ độc tài chuyên chế phong kiến, đồng nghĩa với sự 
tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và xóa bỏ chế độ dân chủ 
chủ nô. Sự thống trị của giai cấp trong thời kỳ này được coi là 
một thế lực siêu nhiên, con người coi việc tuân theo ý chí của 
giai cấp thống trị là bổn phận của mình trước sức mạnh của 
đấng tối cao. 
Cuối thế kỷ XIV - đầu thế kỷ XV, giai cấp tư sản với những tư 
tưởng tiến bộ về tự do, công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự
ra đời của nền dân chủ tư sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: 
lOMoARcPSD|12184112
11
Dân chủ tư sản ra đời là một bước tiến lớn của nhân loại với 
những giá trị nổi bật về quyền tự do, bình đẳng, dân chủ. Lênin 
cũng đã từng khẳng định điều này: “Cộng hòa tư sản, nghị viện, 
phổ thông đầu phiếu, đó là sự tiến bộ lớn lao xét từ quan điểm 
phát triển xã hội trên phạm vi toàn cầu. Nếu không có chế độ 
nghị viện, không có chế độ phổ thông đầu phiếu, giai cấp công 
nhân không thể nào tiến bộ được như vậy.”. Tuy nhiên, do được 
xây dựng trên nền tảng kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản 
xuất, nên trên thực tế, nền dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ 
của thiểu số với đa số nhân dân lao động. Về bản chất, đây 
cũng chỉ là chế độ dân chủ về hính thức bị cắt xén, dân chủ 
dành cho giai cấp tư sản. Bởi trong hình thái kinh tế xã hội này, 
tồn tại cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt giữa giai cấp tư sản và 
giai cấp vô sản, mà quyền lợi lại chỉ được trao cho giai cấp tư 
sản. Về phía đại đa số nhân dân lao động nghèo khổ bị giới hạn 
quyền dân chủ.
Có thể kết luận rằng, tùy thuộc vào chế độ chính trị mà khái 
niệm nhân dân và các thành phần cấu tạo nên phạm trù nhân 
dân là khác nhau.
2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
2.1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phôi thai từ thực tiễn đấu 
tranh giai cấp ở Pháp và Công xã Pari năm 1871, tuy nhiên chỉ 
đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công với sự ra đời 
của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới (1917), 
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chính thức được xác lập. Sự 
ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát 
lOMoARcPSD|12184112
12
triển mới về chất của dân chủ. Quá trình phát triển của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa bắt đầu từ thấp đến cao, từ chưa hoàn 
thiện đến hoàn thiện, trong đó, có sự kế thừa những giá trị của 
nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc thêm 
những giá trị của nền dân chủ mới.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp vô sản không thể hoàn 
thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được 
chuẩn bị để tiến tới cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu 
tranh cho dân chủ. Rằng, chủ nghĩa xã hội không thể duy trì và 
thắng lợi, nếu không thực hiện đầy đủ dân chủ. 
Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ 
thấp tới cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện; có sự kế thừa 
một cách chọn lọc giá trị của các nền dân chủ trước đó, trước 
hết là nền dân chủ tư sản. Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ 
xã hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao 
mức độ giải phóng cho những người lao động, thu hút họ họ tự 
giác tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội 
(xã hội tự quản). Càng hoàn thiện bao nhiêu, nền dân chủ xã 
hội chủ nghĩa lại càng tự tiêu vong bây nhiêu. Thực chất của sự 
tiêu vong bào, theo V. I. Lenin, đó là tính chính trị của dân chủ 
sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ đối với nhân
dân, xác lập địa vị chủ thể chủ quyền lực của nhân dân, tạo 
điều kiện để họ tham gia càng đông đảo và ngày càng có ý 
nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
 Quá trình đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen, một tập
quán trong sinh hoạt xã hội... để đến lúc nó không còn tồn tại 
lOMoARcPSD|12184112
13
như một thế chế nhà nước một chế độ, tức là mất đi tính chính 
trị của nó.
2.2. Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
a) Bản chất chính trị
 Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp công 
nhân mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của 
nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con 
người, thỏa mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích 
của nhân dân.
Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh 
đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối
với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và
lợi ích riêng cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện
quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân, trong đó có giai cấp 
công nhân. 
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mang tính nhất nguyên về chính 
trị. Nó được Đảng Cộng sản lãnh đạo - yếu tố quan trọng để 
đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, bởi vì, Đảng 
Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công nhân, 
nhân dân lao động và toàn dân tộc. Sự lãnh đạo của giai cấp 
công nhân thông qua Đảng Cộng sản đối với của giai cấp công 
nhân thông qua toàn xã hội về mọi mặt - V.I. Lênin gọi là sự 
thống trị chính trị.
 Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là 
người làm chủ những quan hệ chính trị trong xã hội. Họ có 
quyền giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy chính quyền 
lOMoARcPSD|12184112
14
từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây 
dựng chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ, nhân 
viên nhà nước. Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc 
quản lý nhà nước của nhân dân chính là nội dung dân chủ trên 
lĩnh vực chính trị. 
Tóm lại, về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có 
bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính
dân tộc sâu sắc. 
b) Bản chất kinh tế
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về 
những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát
triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa 
học - công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao những 
nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn
định chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của 
toàn xã hội; đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư 
liệu sản xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong quá trình sản xuất 
kinh doanh, quản lý và phân phối, phải coi lợi ích kinh tế của 
người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế -
xã hội phát triển.
Tóm lại, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là 
thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực 
hiện chế độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu.
c) Bản chất tư tưởng – văn hóa
lOMoARcPSD|12184112
15
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin - hệ 
tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi hình 
thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời nó kế thừa, 
phát huy nhữmg tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp 
thu những giá trị tư tưởng - văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội... 
mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc... Trong 
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ những 
giá trị văn hoá tinh thần; được nâng cao trình độ văn hoá, có 
điều kiện để phát triển cá nhân. Dưới góc độ này dân chủ là một
thành tựu văn hoá, một quá trình sáng tạo văn hoá, thể hiện 
khát vọng tự do được sáng tạo và phát triển của con người.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hòa về lợi 
ích giữa cá nhân, tập thể và lợi ích của toàn xã hội. Nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ra sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng 
tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
xã hội mới.
2.3. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
 2.3.1. Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước xã hội 
chủ nghĩa
2.3.1.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách 
mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới 
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cũng như nhà nước đầu tiên 
trong lịch sử loài người là nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước 
xã hội chủ nghĩa ra đời cần hai yếu tố quyết định:
- Yếu tố kinh tế: 
lOMoARcPSD|12184112
16
 Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời trong khi xã hội tư bản chủ 
nghĩa tồn tại mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng 
sản xuất ngày càng trở nên gay gắt, không thể điều hòa 
được, đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng để xóa bỏ quan hệ
sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phù hợp với 
trình độ phát triển của lực lượng lao động, đó là quan hệ sản 
xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liêu 
sản xuất, giai quyết lợi ích kinh tế tương đối bình đẳng giữa 
các giai tầng trong xã hội.
- Yếu tố xã hội:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời khi mà ở đó sự thống trị 
chính trị thuộc về giai cấp công nhân dó cách mạng xã hội 
chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh đưa nhân dân lao động 
lên làm chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội.
 Tuy nhiên, tùy vào đặc điểm và điều kiện của mỗi quốc gia, sự 
ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức 
chính quyền sau cách mạng có những đặc điểm, hình thức và 
phương pháp phù hợp. Song, điểm chung giữa các nhà nước xã 
hội chủ nghĩa là ở chỗ, đó là tổ chức thực hiện quyền lực của 
nhân dân, là cơ quan đại diện cho ý chí của nhân dân, thực hiện
việc tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân, đặt 
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
 Như vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mà ở
đó, sự thống trị chính trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách 
mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh xây dựng 
thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị 
lOMoARcPSD|12184112
17
làm chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã 
hội phát triển cao – xã hội xã hội chủ nghĩa.
2.3.1.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
 So với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử, nhà nước xã hội 
chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới, có bản chất khác với bản chất 
của các kiểu nhà nước bóc lột trong lịch sử. Tính ưu việt về mặt 
bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên các 
phương diện:
Về chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai 
cấp công nhân, phù hợp với lợi ích chung của nhân dân lao 
động, có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Tuy nhiên, sự thống trị của giai cấp vô sản có sự khác biệt về 
chất so với sự thống trị của các giai cấp bóc lột trước đây. Sự 
thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu số đối với 
tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội 
nhằm bảo vệ và duy trì địa vị của mình. Còn sự thống trị về 
chính trị của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số đối với 
thiểu số giai cấp bóc lột nhằm giải phóng giai cấp mình và giải 
phóng tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. 
Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa là đại biểu cho ý chí chung 
của nhân dân lao động.
Về kinh tế, nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của chế 
độ công hữu về tư liệu sản xuất. Bởi vậy, không hề tồn tại chế 
độ người áp bức người ở nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước 
xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy chính trị - hành chính, một 
cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế - xã hội 
lOMoARcPSD|12184112
18
của nhân dân lao động. Nó không còn là nhà nước theo nguyên 
nghĩa mà là “nửa nhà nước”.
Về văn hóa, xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng 
trên nền tảng tinh thần là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và 
những giá trị văn hóa tiên tiến, tiến bộ của nhân loại, đồng thời 
mang những bản sắc riêng của dân tộc. Sứ mệnh của nhà nước 
này là tạo ra điều kiện, cơ sở cụ thể để phổ biến hệ tư tưởn của 
giai cấp lãnh đạo xã hội – lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. 
Đồng thời, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng mang nhiệm vụ thu 
hẹp khoảng cách giữa các giai cấp tầng lớp, trình độ phát triển 
giữa các nhóm người trong xã hội.
 2.4.1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương diện
hoạt động cơ bản, quan trọng của Nhà nước, phù hợp với bản 
chất, mục đích, quản lý của nhà nước
Căn cứ vào phạm vi hoạt động, nhà nước gồm hai chức năng 
sau:
- Đối nội: Đây là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước 
trong nội bộ đất nước, bao gồm: đảm bảo trật tự xã hội, trấn 
áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ chế độ kinh tế, 
bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân, bảo vệ trật tự 
pháp luật, tăng cường pháp chế, tổ chức các hoạt động văn 
hóa giáo dục nâng cao nhận thức và đảm bảo sự phát triển về
mọi mặt của người dân
- Đối ngoại: Đây là chức năng thể hiện vai trò của nhà nước 
trong quan hệ với các nhà nước và dân tộc khác, bao gồm: 
lOMoARcPSD|12184112
19
thiết lập quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau với 
các quốc gia khác, tham gia vào các hoạt động, tổ chức quốc 
tế vì lợi ích chung của cộng đồng 
Ngoài ra, khi tiếp cận dưới góc độ tính chất của quyền lực, nhà 
nước xã hội chủ nghĩa gồm hai chức năng chính như sau:
- Chức năng giai cấp (trấn áp): 
Trong điều kiện có đấu tranh giai cấp, chức năng trấn áp sự 
phản kháng của giai cấp bị trị là cần thiết, nhằm bảo vệ sự 
tồn tại vững chắc của nhà nước, sự lợi ích về mọi mặt của 
giai cấp thống trị. Ví dụ như trong nhà nước xã hội chủ nghĩa,
chức năng này được thể hiện rõ ở sự bảo vệ lợi ích của đại đa
số nhân dân lao động bằng cách sử dụng quyền lực của 
mình, thậm chí sử dụng bạo lực cách mạng để đàn áp những 
thế lực chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Chức năng xã hội (tổ chức và xây dựng):
Toàn bộ những hoạt động của nhà nước trong việc tổ chức và 
quản lý các vấn đề xã hội cùng với đời sống, các vấn đề về 
môi trường, giáo dục, y tế, thu nhập... của người dân. Đây là 
những hoạt động góp phần củng cố, đảm bảo sự ổn định, 
phát triển an toàn, hài hòa của toàn xã hội.
3. Mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ 
xã hội chủ nghĩa
3.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở, nền tảng nền tảng 
cho việc xây dựng và hoạt động của nhà nước xã hội 
chủ nghĩa
lOMoARcPSD|12184112
20
- Chỉ trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa người dân mới có đủ 
điều kiện để thực hiện ý chí của mình thông qua việc lựa chọn
một cách công bằng, bình đẳng những người đại diện cho 
quyền lợi chính đáng của mình vào bộ máy nhà nước.
- Người lao động được tham gia một cách trực tiếp hoặc gián 
tiếp vào các hoạt động quản lý nhà nước. Về phía nhà nước 
lại khai thác một cách triệt để và hiệu quả nhất trí tuệ của 
quần chúng nhân dân dân lao động. Và đó chính là nhà nước 
của dân, do dân và vì dân.
- Hơn nữa, nhờ có nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quần chúng 
nhân dân mới có thể kiểm soát một cách có hiệu quả quyền 
lực nhà nước
- Việc nhân dân có thể kiểm soát quyền lực của nhà nước ngăn
chặn sự tha hóa về quyền lực, đưa ra khỏi bộ máy nhà nước 
những người lãnh đạo không còn đủ phẩm chất nhân dân 
mong muốn.
- Ngược lại, khi các nguyên tắc của dân chủ xã hội chủ nghĩa 
bị vi phạm, việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng 
không thể thực hiện được. Từ đó, quyền lực của nhân dân sẽ 
bị biến thành quyền lực của một nhóm người nhất định, 
quyền lợi của đa số sẽ bị biến thành quyền lợi của thiểu số.
3.2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa chính là công cụ quan trọng 
để thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân có thể thực 
hiện quyền làm chủ của mình. Ngược lại, Nhà nước cũng là 
công cụ bạo lực để ngăn chặn các hành vi xâm phạm đến 
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và bảo vệ chế độ 
lOMoARcPSD|12184112
21
xã hội chủ nghĩa. Muốn làm được điều này, người dân phải 
phát huy và thực thi được quyền lực của nhà nước này.
- Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước là thiết chế có 
chức năng quan trọng nhất, trực tiếp nhất, thể chế hóa và tổ 
chức những yêu cầu dân chủ chân chính của nhân dân. Đồng 
thời, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là công cụ hữu hiệu 
đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội 
tiên phong là Đảng Cộng sản.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà chủ quyền của nó 
thuộc về nhân dân. Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến 
pháp, pháp luật của Nhà nước Việt Nam đã xác định Nhà 
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là của dân, do 
dân, vì dân. Ta có thể thấy rõ các yêu tố “của dân", "do dân" 
có nghĩa rằng, Nhà nước pháp quyền Việt Nam là phương 
tiện, là công cụ làm chủ của nhân dân; “vì dân" là mục đích 
của Nhà nước. Phương tiện, công cụ ấy cũng không thế phát 
huy hiệu lực, hiệu quả, nếu nhân dân không có tinh thần làm 
chủ, không biết làm chủ, không biết thực hành dân chủ. Vì 
vậy muốn có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam ngày càng hoàn thiện phát huy được các giá trị phổ biến
của Nhà nước pháp quyền cần phải xác định cho đúng những
nội dung cơ bản trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội 
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
II. THỰC TRẠNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY 
DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1. Những thành tựu:
lOMoARcPSD|12184112
22
Những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của đổi mới trong 30 năm 
qua là kết quả của việc thực hiện các chủ trương, đường lối 
đúng đắn của Đảng. Sở dĩ có các chủ trương, đường lối đúng 
đắn là do có dân chủ thảo luận và Đảng biết lắng nghe ý kiến 
đóng góp của hàng triệu cán bộ, đảng viên, của các nhà khoa 
học và của nhân dân.
- Đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ 
bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của 
dân, do dân, vì dân. Hiến pháp 1992 và nhiều Bộ luật, Luật, 
Pháp lệnh đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để nhà 
nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội,
an ninh, quốc phòng... Đã có nhiều quyết định cải cách có ý 
nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây dựng nhà nước và pháp 
luật, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ 
chức hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Về công tác tư tưởng, Đảng ta đã thường xuyên đổi mới, 
nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, thuyết 
phục và vận động quần chúng, tiếp tục giữ vững ổn định 
chính trị, người dân ngày càng được biết nhiều hơn về các 
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cùng với việc 
dân biết, dân cũng được bàn bạc và tham gia ý kiến về nhiều
việc quan trọng. Nhờ vậy, các chủ trương, chính sách của 
Đảng và Nhà nước nhận được sự đồng tình, ủng hộ của 
quảng đại quần chúng nhân dân.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều 
lĩnh vực. Dân chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác 
động tích cực đến việc giải phóng sức sản xuất, là động lực 
thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Dân
lOMoARcPSD|12184112
23
chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc bầu 
các cơ quan dân cử, ở chất lượng sinh hoạt của Quốc hội, Hội 
đồng nhân dân các cấp, tại các cuộc thảo luận của nhân dân 
tham gia ý kiến xây dựng các dự án luật, trong hoạt động của
báo chí... Nhân dân ta cảm nhận bầu không khí dân chủ hơn, 
cởi mở hơn trong xã hội. Ở cơ sở, người dân đã chủ động bàn
bạc, tham gia ý kiến, thực hiện quyền làm chủ, bày tỏ chính 
kiến của mình; đồng thời, tích cực tham gia công tác xây 
dựng Đảng, chính quyền, thể hiện tốt vai trò giám sát đối với 
cán bộ, đảng viên, thẳng thắn góp ý kiến về hoạt động của 
các cơ quan nhà nước ở địa phương.
- Công tác tổ chức, cán bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực: 
Các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể được sắp xếp 
lại, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Nhiều 
chủ trương, quan điểm, giải pháp về công tác cán bộ được 
thể chế hóa, cụ thể hóa thành các quy chế, quy định. Đảng 
đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu đánh giá, tuyển 
chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử 
dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Công tác tổ chức, cán 
bộ chuyển hướng theo hướng dân chủ hóa.
- Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trước 
hết là của cơ quan hành chính nhà nước, đã có một bước điều
chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch 
hoá tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế 
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự 
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đặc biệt, trong vòng 2 năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã
thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong công tác chỉ 
lOMoARcPSD|12184112
24
đạo phòng chống dịch bệnh Covid-19, đạt được kết quả rất 
tốt, bảo vệ được sự an toàn và nhận được sự tín nhiệm của 
nhân dân. Bên cạnh đó, đặt liêm chính lên hàng đầu, Đảng 
và Nhà nước đã thực hiện rất nhiều biện pháp nghiêm ngặt 
xây dựng và đảm bảo bộ máy chính trị hoạt động thật sự là 
của dân do dân và vì dân.
2. Những hạn chế còn tồn tại:
- Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình 
trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, 
chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý, điều hành chưa cao; 
kỷ cương xã hội còn bị buông lỏng, làm giảm sút lòng tin của 
nhân dân đối với Đảng, nhà nước ta.
- Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ 
mới; chưa phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính
tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Đất đai, vốn và tài 
sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí 
và thất thoát nghiêm trọng.
- Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, 
tính chiến đấu còn hạn chế, chưa sâu sát thực tế, chưa linh 
hoạt. Tình trạng suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán 
bộ đảng viên về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống một 
phần là do công tác tư tưởng chưa làm tốt chức năng, nhiệm 
vụ giáo dục chính trị và tư tưởng. 
- Đảng chưa làm tốt việc lãnh đạo cụ thể hoá nghị quyết của 
Đảng về xây dựng nhà nước để có chủ trương kịp thời xử lý 
những vấn đề phát sinh trong thực tiễn đổi mới, đặc biệt là 
những vấn đề nổi lên ngày càng bức xúc như tình trạng quan 
liêu, lãng phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy 
lOMoARcPSD|12184112
25
nhà nước; thiếu những biện pháp tổ chức thực hiện đường lối,
chủ trương kiên quyết, hợp lý và đủ mạnh để tạo chuyển biến
tích cực nhằm khắc phục những khuyết điểm, yếu kém.
- Các cơ quan nhà nước chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm 
trong việc quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết của 
Đảng; trong việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn, bảo đảm sự trong 
sạch và nâng cao hiệu quả hoạt động ở từng cơ quan, đơn vị.
- Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên 
và nhân dân còn nhiều hạn chế, nên thiếu trách nhiệm trong 
việc triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở.
III. GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI 
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Với tình hình quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn 
ra với tốc độ nhanh chóng, tình hình trong nước lẫn ngoài nước 
đều đang có những sự biến đổi nhất định, và đặc biệt là với sự 
xuất hiện của dịch bệnh Covid-19, Đảng và Nhà nước ta càng 
cần phải có những phương hướng, giải pháp xây dựng nền dân 
chủ xã hội chủ ngĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa trong thời đại 
mới:
1.Liên tục đổi mới hệ thống chính trị, xác định rõ hơn về vị trí, 
vai trò, chức năng và mối quan hệ qua lại của các bộ phận 
cấu thành Hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo 
của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội 
trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, ta nên bảo đảm hệ thống Hành chính - Chính phủ và 
các Uỷ ban hành chính địa phương hoạt động thông suốt, mang 
lOMoARcPSD|12184112
26
tính trách nhiệm cao trong việc phục vụ nhân dân. Hệ thống 
hành chính phải thực hiện khẩu hiệu “Nhà nước vì dân".
Hiện nay còn nhiều việc do chưa phân định rõ thẩm quyền, 
nhiệm vụ của các cơ quan trong việc giải quyết nên còn hiện 
tượng né tránh, đùn đầy công việc cho nhau, khiến cho người 
dân không biết phải liên hệ với cơ quan nào, phải trông cậy vào 
ai. Do vậy việc tổ chức lại các bộ quản lý đa ngành là một xu 
hướng đúng, khắc phục tình trạng chia cắt các lĩnh vực, dễ tạo 
thành những khoảng trồng, hoặc sự trùng lắp trong quản lý, dẫn
đến chính người dân sẽ hứng chịu hậu quả của tệ quan liêu. 
Đảngvà Nhà nước cần phải công khai bằng nhiều biện pháp các 
thủ tục hành chính cho người dân, phải tạo ra con đường để 
người dân tiếp cận nhanh chóng với cơ quan và cá nhân có 
thẩm quyền khi cần giải quyết các công việc. Trong điều kiện 
phát triển của công nghệ thông tin, cần thúc đầy mạnh mẽ việc
xây dựng “chính phủ điện tử", để người dân có thể thông qua 
mạng Internet dễ dàng tiếp cận các thông tin của các cơ quan 
quản lý nhà nước ở các cấp, kế cả các bộ và chính phủ. Người 
dân có thể tìm hiểu nhanh nhất, đầy đủ về các văn bản quản lý 
mới ban hành, các quyết định mới nhất của chính phủ, các 
chương trình, dự án, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế, xã 
hội (trừ những gì thuộc về bí mật quốc gia), có thể nêu thắc 
mắc và được trả lời trực tuyến về những vấn đề họ quan tâm. 
Một điều vô cùng quan trọng nữa là xây dựng Mặt Trận Tổ Quốc 
trở thành liên minh chính trị rộng lớn, có vai trò giám sát và 
phản biện xã hội quan trọng hơn.
lOMoARcPSD|12184112
27
Cơ chế chính trị không cạnh tranh, chỉ duy nhất có một đảng 
lãnh đạo cũng là điều kiện dễ dẫn đến sự độc quyền, độc đoán, 
mất dân chủ. Mặt trận dân tộc thống nhất của chúng ta luôn 
đạt được sự đoàn kết, nhất trí, luôn ổn định và phát triển. Có 
được điều đó là do nó luôn được Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng 
vừa là thành viên, tự coi mình như một bộ phận của Mặt trận, 
vừa là thành viên đặc biệt - thành viên sáng lập và lãnh đạo. 
Đảng lãnh đạo bằng phương thức thuyết phục, hiệp thương dân 
chủ và bằng sự gương mẫu đi đầu, tiên phong. Mặt trận lại luôn 
có tổ chức của công nhân và nông dân làm nòng cốt, tạo nên sự
kiên định trong đường lối và lực lượng. Với sự ổn định và vững 
vàng đó, Mặt trận đã trở thành cơ sở chính trị của của nhà nước.
Đó là những bài học, và cũng là những truyền thống quý báu 
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Với vai trò tổ chức, tập hợp của 
mình, Mặt trận Tổ quốc là diễn đàn có tổ chức để các cá nhân, 
tổ chức, các nhóm bày tỏ chính kiến của mình. Điều này vừa tạo
điều kiện cho phát huy sáng kiến của các cá nhân, vừa tạo ra 
môi trường trật tự có lợi cho xã hội. Từ trung ương tới các địa 
phương, các cuộc hội nghị do Mặt trận Tổ quốc tổ chức, chủ trì 
đóng góp ý kiến xây dựng dự thảo các văn kiện đại hội Đảng, 
góp ý sửa đổi Hiến pháp và các văn bản Luật quan trọng 
khác ... đều có chất lượng cao, thể hiện tinh thần trách nhiệm 
công dân rất cao của các đại biểu tham dự, phản ánh được 
nhiều ý kiến, nguyện vọng rất sâu sắc của các tầng lớp dân cư.
2.Hoàn thiện các thể chế dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, 
hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật bầu cử, giám sát của 
cơ quan dân cử.
lOMoARcPSD|12184112
28
Hoàn thiện các thể chế dân chủ đại diện, nghĩa là hoàn thiện 
các thể chế Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp sao cho nó là 
các cơ quan đại biểu đầy đủ các lợi ích của các tầng lớp, giai 
cấp, các giới khác nhau trong xã hội, là cơ quan có thẩm quyền 
xứng đáng với vai trò đại biểu của nhân dân. Do đó thẩm quyền
của nó không được trái với những quyết định và văn bản của cơ 
quan hành chính cấp trên. Ngược lại, nó phải có quyền thay mặt
cho nhân dân địa phương kiến nghị với Chính phủ hoặc Quốc 
hội để sửa đổi hoặc huỷ bỏ những văn bản và quyết định của cơ
quan hành chính cấp trên có ảnh hưởng tới lợi ích của nhân dân
địa phương. Một trong những vấn đề quan trọng nhất của chế 
độ dân chủ là thể chế dân chủ trực tiếp. Điều này đã được thể 
hiện đáng kể trong Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong Quy chế đó 
quy định quyền được quyết định của nhân dân ở cấp cơ sở, 
chẳng hạn quyết định về các khoản đóng góp tự nguyện, quyết 
định về việc xây dựng các công trình công cộng liên quan tới 
cuộc sống của người dân... Đây là những quy định rất tiến bộ, 
đem quyền dân chủ đến cho người dân một cách thiết thực, giải
quyết được những bức xúc của người dân nhất là ở nông thôn. 
Một mặt phải coi thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là nhiệm vụ
thường xuyên, hàng ngày, là pháp luật, không phải là sự nhân 
nhượng hay chiếu cố đến dân, là giải pháp tình thế. Mặt khác, 
đã đến lúc phải quy định và thực hiện thể chế dân chủ trực tiếp 
ở cấp độ cao hơn, chẳng hạn trưng cầu ý dân về những vấn đề 
trọng đại của quốc gia, như là về toàn bộ Hiến pháp hoặc một 
điều khoản nào đó của Hiến pháp, về một vấn đề thuộc chủ 
quyền quốc gia...
lOMoARcPSD|12184112
29
3.Dân chủ hơn nữa quy trình hoạch định chính sách công (bảo 
đảm sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt của 
tầng lớp doanh nhân trong lĩnh vực chính sách kinh tế)
Chính sách công là thái độ nhất quán của nhà nước trong việc 
khuyến khích, động viên hay hạn chế, cấm đoán các hoạt động 
nào đó của xã hội, thể hiện trong suy nghĩ, hành động, trong lời 
nói và các loại văn bản pháp lý của cá nhân hay tổ chức có 
thẩm quyền của nhà nước. Một trong những yêu cầu đầu tiên 
đối với chính sách công là phải thể hiện được thái độ rð ràng, 
nhất quán của nhà nước. Đó là sự cam kết bảo vệ, động viên, 
khuyến khích, ưu đãi... hay ngược lại cấm đoán, hạn chế một 
hoạt động nào đó. Hơn nữa không chỉ là tuyên bố cam kết, bằng
lời phát biểu mà phải bằng các quy định cụ thể, đầy đủ trong 
các văn bản pháp lý cần thiết. Thứ hai, chính sách công phải 
chứa đựng lợi ích của người dân và đối với chế độ ta đó trước 
hết là lợi ích của công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động
khác. Thứ ba, chính sách công phải mang tính khả thi, thực tiễn,
nghĩa là phù hợp với điều kiện khách quan của từng giai đoạn 
phát triển của đất nước. Cuối cùng, chính sách công cần được 
thông tin đến cho người dân biết, được giải thích để người dân 
hiểu để hành động theo. Nếu không xác định được lợi ích chính 
đáng cần bảo vệ, phát triển hoặc không cân đối, điều hoà được 
các lợi ích sẽ dẫn đến xung đột giữa các nhóm người, giữa công 
dân và nhà nước. Điều này sẽ được khắc phục nếu quá trình 
hoạch định chính sách mang tính dân chủ, nghĩa là được đông 
đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, đóng góp trí tuệ, và đặc 
biệt là có sự nhân nhượng lẫn nhau giữa các tầng lớp, các nhóm
người có lợi ích liên quan. 
lOMoARcPSD|12184112
30
4.Tăng cường vai trò của báo chí trong thông tin và giám sát 
Đảng, giám sát nhà nước, đặc biệt là chống tham nhũng, lãng
phí
Báo chí là công cụ hữu hiệu để phòng chống tham nhũng lãng 
phí, giám sát các tổ chức và các cá nhân có chức có quyền, 
nhất là các nhà chính trị, các quan chức nhà nước. Báo chí 
không chỉ là công cụ tuyên truyền của Đảng, của Nhà nước, là 
công cụ giáo dục, giải trí và nâng cao tri thức, văn hoá của 
người dân mà còn là diễn đàn của nhân dân, là công cụ đề nhân
dân thực hiện quyền dân chủ, nghĩa là quyền tham gia vào các 
công việc quốc gia. Tuy nhiên cũng một phần vì báo chí nước ta 
lại có nhược điểm là sự trùng lặp dung, quan điểm; dàn trải về 
lực lượng; bao cấp nặng và lãng phí về cơ sở vật chất do cơ 
quan báo chí đều trực thuộc chính quyền và cấp uỷ, chịu sự 
quản lý toàn diện của cấp uỷ và chính quyền, nên báo chí 
không dám đấu tranh và khó đấu tranh có hiệu quả với cấp lãnh
đạo và người lãnh đạo trực tiếp của mình. Để báo chí làm tốt 
hơn nữa chức năng giám sát Đảng, Nhà nước và đấu tranh 
chống lãng phí, tham nhũng cần phải đổi mới hơn nữa

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_moi_quan_he_giua_nha_nuoc_xa_hoi_chu_nghia_va_nen.pdf