Tiểu luận Mối quan hệ giữa Nhà nước Xã hội chủ nghĩa và nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa và những giải pháp cơ bản để xây dựng nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Mối quan hệ giữa Nhà nước Xã hội chủ nghĩa và nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa và những giải pháp cơ bản để xây dựng nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Mối quan hệ giữa Nhà nước Xã hội chủ nghĩa và nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa và những giải pháp cơ bản để xây dựng nền Dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2151050041 - TRẦN BẢO NGỌC - 2151050041 Chủ nghĩa xã hội khoa học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) lOMoARcPSD|12184112 HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN VIỆN BÁO CHÍ ------------------------- TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC “MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.” Họ và tên : TRẦN BẢO NGỌC Mã số sinh viên : 2151050041 Lớp : TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG Khóa : K41 Hà Nội, tháng 12 năm 2021 lOMoARcPSD|12184112 MỤC LỤC M ĐẦẦUỞ ................................................................................................................1 1. Lý do nghiên cứu đề tài......................................................................1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................2 4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài................................................2 N I DUNGỘ .............................................................................................................3 I. LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA..................................3 1. Dân ch và dân ch xã h i ch nghĩaủ ủ ộ ủ ................................................................3 2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa......................................................................9 3.Mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa..........................................................................................16 II. THỰC TRẠNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM...............................18 1. Những thành tựu:................................................................................18 2. Những hạn chế còn tồn tại:............................................................19 III. GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..................................................................20 1. Liên tục đổi mới hệ thống chính trị, xác định rõ hơn về vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ qua lại của các bộ phận cấu thành Hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh lOMoARcPSD|12184112 đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa............................21 2. Hoàn thiện các thể chế dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật bầu cử, giám sát của cơ quan dân cử.......................................................................22 3. Dân chủ hơn nữa quy trình hoạch định chính sách công (bảo đảm sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt của tầng lớp doanh nhân trong lĩnh vực chính sách kinh tế)23 4. Tăng cường vai trò của báo chí trong thông tin và giám sát Đảng, giám sát nhà nước, đặc biệt là chống tham nhũng, lãng phí......................................................................................................24 IV. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..............................................................25 KẾẾT LU NẬ ............................................................................................................27 TÀI LI U THAM KH OỆ Ả .........................................................................................28 lOMoARcPSD|12184112 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu đề tài Dân chủ ngày nay đã trở thành một một thuật ngữ chính trị, xã hội thu hút rất nhiều sự quan tâm trên toàn thế giới. Hầu như tất cả mọi nhà nước, đảng phái chính trị dù theo thể chế nào đều nêu cao khẩu hiệu dân chủ. Đấu tranh cho dân chủ từ lâu đã trở thành nội dung cơ bản cho các phong trào xã hội ở các nước tư bản chú nghĩa lẫn xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, về mặt lý luận lẫn thực tiễn, dân chủ lại là một thuật ngữ chính trị phức tạp và đa nghĩa hơn rất nhiều. Rất nhiều thể chế chính trị đều nêu cao khẩu hiệu dân chủ, tuy nhiên, không phải chế độ chính trị nào cũng đang thực hiện dân chủ một cách toàn diện và đúng với bản chất của dân chủ. Bởi vậy, việc nghiên cứu và hiểu biết sâu sắc về dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và mối quan hệ giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với nhà nước xã hội chủ nghĩa là vô cùng cần thiết, đặc biệt là áp dụng vào việc xây dựng và phát triển mặt chính trị và xã hội Việt Nam trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở thời đại mới. Từ đó, kiến thức, kỹ năng từ những nghiên cứu này chính là cơ sở đề ra những phương pháp cơ bản xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, đưa đất nước đi theo đúng con đường của một nền dân chủ tiên tiến, hoàn thiện, lấy con người làm mục tiêu phát triển – dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do đó, bài tiểu luận của em sẽ tập trung vào việc làm rõ những lý luận về thuật ngữ dân chủ, cũng như nền dân chủ xã hội chủ lOMoARcPSD|12184112 2nghĩa, mối quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, những thành tựu cũng như hạn chế khi xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, từ đây làm cơ sở cho những phương hướng cơ bản xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện nhằm làm rõ những lý luận lẫn thực tiễn về mối quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đặc biệt ở Việt Nam từ đó đưa ra những phương hướng cơ bản trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sao cho hiệu quả và đúng bản chất của hình thái xã hội này, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận. Không chỉ vậy, bài nghiên cứu còn có nhiệm vụ đưa ra những góc nhìn khách quan, chính xác nhất về thực trạng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nước ta trong những năn gần đây, lấy đó làm cơ sở cho những giải pháp cơ bản, thực tế trong xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: thuật ngữ dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay. lOMoARcPSD|12184112 34. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài Bài nghiên cứu sẽ đem đến một cái nhìn khái quát và sự hiểu biết sâu sắc hơn về thuật ngữ dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng như những thành tựu, hạn chế trong công cuộc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nước ta từ trước đến nay, từ đó đề ra những phuơng hướng cụ thể và hợp lý cho việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. NỘI DUNG I. LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa I.1. Định nghĩa , sự ra đời và phát triển của dân chủ I.1.1.Định nghĩa, quan niệm chung về dân chủ Thuật ngữ dân chủ xuất hiện lần đầu tiên ở Athens, Hy Lạp vào khoảng thế kỷ VII – VI trước Công nguyên, trong những tư tưởng triết học và chính trị cổ đại trong suốt thời kỳ cổ đại Hy-La. Cụm từ demoskratos được sử dụng bởi các nhà tư tưởng để nói đến dân chủ, trong đó demos là nhân dân và kratos là cai trị. Từ đó, ta có thể hiểu rằng, dân chủ là một thể chế chính trị mà nhân dân trực tiếp làm chủ hoặc bầu ra đại diện cho quyền lực của mình. Ví dụ như ở Athens (Hy Lạp) – nơi ra đời của nền dân chủ đầu tiên trên thế giới, vào thời cổ đại, cử tri có quyền bỏ phiếu đuổi các chính trị gia ra khỏi thanh bang. Hiểu một cách đơn lOMoARcPSD|12184112 4giản, dân chủ là nhân dân cai trị hay quyền lực thuộc về nhân dân, và khái niệm này về cơ bản vẫn được giữ nguyên cho đến ngày nay. Nhưng trong các thời kỳ khác nhau của xã hội có phân chia giai cấp, dân chủ không còn giữ nguyên nghĩa ban đầu của nó là quyền lực thuộc về nhân dân, mà bị chi phối bởi quan điểm lập trường, thái độ chính trị của giai cấp cầm quyền trong xã hội. Trong Mười đề cương về chính quyền Xô-viết, V.I. Lê-nin coi dân chủ là tự do. V.I. Lê-nin cũng từng nhấn mạnh: "Dân chủ là tự do, là bình đẳng, là quyết định của đa số; còn có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa”. Dân chủ nói một cách cụ thể, là: Bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; tự do chính trị cho mọi công dân; quyết định theo đa số của mọi công dân; quyết định bằng cách biểu quyết, đó là thực chất của dân chủ hòa bình hoặc dân chủ thuần túy. I.1.2.Những quan niệm về dân chủ a)Quan niệm của chủ nghĩa Mac – Lênin về dân chủ Tựu trung lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin dân chủ có một số nội dung cơ bản sau đây: Thứ nhất, về phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ nhân của nhà nước. Dân chủ là quyền lợi của nhân dân - quyền dân chủ được hiểu theo nghĩa rộng. Quyền lợi căn bản nhất của nhân dân chính là quyền lực quyền lực nhà nước thuộc sở hữu của nhân dân, của xã hội; bộ máy nhà nước phải vì nhân dân, vì xã hội mà phục vụ. lOMoARcPSD|12184112 5Thứ hai, trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vữ chính trị, dân chủ là một hình thức hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ. Thứ ba, trên phương diện tố chức và quản lý xã hội, dân chủ là một nguyên tắc - nguyên tắc dân chủ. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung đế hình thành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội. Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng kế thừa những nhân tố hợp lý, những hoạt động thực tiễn và nhận thức của nhân loại về dân chủ. Đặc biệt tán thành quan điểm : Dân chủ là một nhu cầu khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng đều do một giai cấp thống trị cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của toàn xã hội, do vậy, tính giai cấp thống trị cũng gắn liền và chi phối tính dân tộc, tính chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể. b)Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử: “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là tối thượng”, “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”; “Nước lấy dân làm gốc. Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”, Người đã huy động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, góp phần to lớn đưa dân tộc Việt Nam tới độc lập, tự do, đưa nhân dân ta từ kiếp nô lệ lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; vì vậy, “đối với dân, ta đừng có làm gì trái lOMoARcPSD|12184112 6ý dân”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò của dân chủ, coi dân chủ là nhân tố động lực của sự phát triển; thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và dân làm chủ. Người chỉ rõ, địa vị của nhân dân là người chủ đối với xã hội, đất nước và nhân dân là chủ thể của quyền lực. Đây là nội dung cốt lõi trong tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, phản ánh giá trị cao nhất, chung nhất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(2). Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị và thể chế nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người khẳng định: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”3. Nhà nước ta là nhà nước của dân; coi nhân dân là chủ thể quyền lực; nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung chứ nhà nước không phải là nơi để “thăng quan, phát tài”, chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc. Người luôn xác định, dân chủ là động lực của tiến bộ xã hội, của phát triển. Nền dân chủ mà chúng ta đang ra sức xây dựng là nền dân chủ 1 Hồồ Chí Minh, Toàn t p, Nxb, Chính tr quồốc gia, Hà N i, 2000.t.8, [276]ậ ị ộ 2 Hồồ Chí Minh, Sđd, tâp 5, [ 293; 409-410; 698; 698-700; 409-410 ] 3 Hồồ Chí Minh, Sđd, tâp 5, [ 293; 409-410; 698; 698-700; 409-410 ] lOMoARcPSD|12184112 7của tuyệt đại đa số nhân dân, gắn với công bằng và tiến bộ xã hội trong từng bước phát triển và từng chính sách phát triển. Bác Hồ đã từng nói: lãnh đạo một nước mà để cho dân mình lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh phúc con người cũng là mất dân chủ. Làm chủ là quyền thiêng liêng của nhân dân không ai có thể xâm phạm. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân là làm sao cho họ có năng lực làm chủ, biết hưởng, dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm. Phát huy dân chủ là phát huy tài dân, muốn vậy, thì phải “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”. Theo Bác: “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới biết làm thầy học dân”4. c) Quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ Thứ nhất, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bàn về vấn đề này, Đảng ta khẳng định: Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã khẳng định, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chế độ xã hội xã hội “do nhân dân làm chủ”, ở đó, quyền làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ và làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội theo 4 Di chúc c a Ch t ch Hồồ Chí Minh, Nxb.Chính tr quồốc gia, Hà N i, 2019, [47]ủ ủ ị ị ộ lOMoARcPSD|12184112 8nguyên tắc Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động lãnh đạo, thực hiện nhất nguyên về chính trị. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng các hình thức trực tiếp và gián tiếp, thông qua các tổ chức trong hệ thống chính trị, trong đó nòng cốt là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, trên cơ sở nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thứ hai, xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Để xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu đòi hỏi phải có “một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có” (Hồ Chí Minh). Phải phát huy vai trò chủ thể của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân, nhằm huy động mọi nguồn lực đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhân dân là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thứ ba, dân chủ hóa tạo xung lực mạnh mẽ hội văn minh thúc đẩy công cuộc đổi mới. Dân chủ hóa để xây dựng nền dân chủ chủ nghĩa xã hội và hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đây là vấn đề cốt yếu nhất của lý luận đổi mới, lý luận chủ nghĩa xã hội Việt Nam, thể lOMoARcPSD|12184112 9hiện bản chất, mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội. Dân chủ hóa chính trị đồng thời với dân chủ hóa kinh tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền. Đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (bộ phận rường cột của hệ thống chính trị), để thông qua Nhà nước, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo, cầm quyền trong xã hội và nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ và làm chủ trở thành mối quan hệ tổng quát, bao trùm trong đời sống xã hội, thấm nhuần nội dung dân chủ hóa, thế hiện nguyên tắc và tính chất dân chủ. I.1.3.Sự ra đời và phát triển của dân chủ Xuất hiện từ rất sớm trong xã hội tự quản của cộng đồng thị tộc bộ lạc, nhu cầu dân chủ đã manh nha “thành hình” trong chế độ cộng sản nguyên thủy, mà Ph. Ăngghen gọi là “dân chủ nguyên thủy”, hay còn gọi là “dân chủ quân sự”. Đặc trưng cơ bản của hình thức dân chủ này là nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự thông qua “Đại hội nhân dân”, nơi mà mọi người đều có quyền phát biểu và tham gia quyết định bằng cách giơ tay hoặc hoan hô, ở đó “Đại hội nhân dân” và nhân dân có quyền lực thật sự, mặc dù trình độ phát triển còn kém. Song, dân chủ giai đoạn này chỉ tồn tại với tư cách là giá trị chung của nhân loại, mọi thành viên trong xã hội đều có quyền bình đẳng như nhau về lợi ích kinh tế, tham gia công việc cộng đồng. Còn với tư cách là một thể chế chính trị, do trong giai đoạn này, xã hội chưa có giai cấp, chưa có nhà nước nên không thể hiện dân chủ là một chế độ chính trị. lOMoARcPSD|12184112 10 Tuy nhiên, khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển, đồng nghĩa với sự ra đời của của chế độ tư hữu và sau đó là giai cấp đã làm cho hình thức “dân chủ nguyên thủy” tan rã, nền dân chủ chủ nô ra đời, đồng nghĩa với việc các quyền bình đẳng của các thành viên trong xã hội cộng sản nguyên thủy bị cướp mất. Vào khoảng thế kỷ V trước Công nguyên, xuất hiện hệ thống chính trị ở một số thành bang Hy Lạp, nổi bật nhất là Athen với cuộc nổi dậy của dân chúng vào năm 508 TCN. Nền dân chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước với đặc trưng là dân tham gia bầu ra nhà nước. Thế nhưng, theo quy định của giai cấp cầm quyền, “dân” ở đây chỉ gồm giai cấp chủ nô và một số công dân tự do như tăng lữ, thương gia và một số trí thức. Như vậy, về thực chất, dân chủ chủ nô cũng chỉ là thực hiện dân chủ cho giai cấp cầm quyền trong xã hội chủ nô, quyền lực của dân cũng chỉ là nhằm duy trì, bảo vệ và thực hiện lợi ích của một nhóm người nhất định trong xã hội. Bước vào thời kỳ đen tối với sự thống trị của nhà nước chuyên chế phong kiến, lịch sử xã hội loài người trải qua hàng thế kỷ dưới chế độ độc tài chuyên chế phong kiến, đồng nghĩa với sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và xóa bỏ chế độ dân chủ chủ nô. Sự thống trị của giai cấp trong thời kỳ này được coi là một thế lực siêu nhiên, con người coi việc tuân theo ý chí của giai cấp thống trị là bổn phận của mình trước sức mạnh của đấng tối cao. Cuối thế kỷ XIV - đầu thế kỷ XV, giai cấp tư sản với những tư tưởng tiến bộ về tự do, công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: lOMoARcPSD|12184112 11 Dân chủ tư sản ra đời là một bước tiến lớn của nhân loại với những giá trị nổi bật về quyền tự do, bình đẳng, dân chủ. Lênin cũng đã từng khẳng định điều này: “Cộng hòa tư sản, nghị viện, phổ thông đầu phiếu, đó là sự tiến bộ lớn lao xét từ quan điểm phát triển xã hội trên phạm vi toàn cầu. Nếu không có chế độ nghị viện, không có chế độ phổ thông đầu phiếu, giai cấp công nhân không thể nào tiến bộ được như vậy.”. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên trên thực tế, nền dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ của thiểu số với đa số nhân dân lao động. Về bản chất, đây cũng chỉ là chế độ dân chủ về hính thức bị cắt xén, dân chủ dành cho giai cấp tư sản. Bởi trong hình thái kinh tế xã hội này, tồn tại cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, mà quyền lợi lại chỉ được trao cho giai cấp tư sản. Về phía đại đa số nhân dân lao động nghèo khổ bị giới hạn quyền dân chủ. Có thể kết luận rằng, tùy thuộc vào chế độ chính trị mà khái niệm nhân dân và các thành phần cấu tạo nên phạm trù nhân dân là khác nhau. 2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa 2.1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp và Công xã Pari năm 1871, tuy nhiên chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới (1917), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chính thức được xác lập. Sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát lOMoARcPSD|12184112 12 triển mới về chất của dân chủ. Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt đầu từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, trong đó, có sự kế thừa những giá trị của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc thêm những giá trị của nền dân chủ mới. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp vô sản không thể hoàn thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho dân chủ. Rằng, chủ nghĩa xã hội không thể duy trì và thắng lợi, nếu không thực hiện đầy đủ dân chủ. Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ thấp tới cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện; có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của các nền dân chủ trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản. Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho những người lao động, thu hút họ họ tự giác tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội (xã hội tự quản). Càng hoàn thiện bao nhiêu, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lại càng tự tiêu vong bây nhiêu. Thực chất của sự tiêu vong bào, theo V. I. Lenin, đó là tính chính trị của dân chủ sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ đối với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể chủ quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để họ tham gia càng đông đảo và ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Quá trình đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen, một tập quán trong sinh hoạt xã hội... để đến lúc nó không còn tồn tại lOMoARcPSD|12184112 13 như một thế chế nhà nước một chế độ, tức là mất đi tính chính trị của nó. 2.2. Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa a) Bản chất chính trị Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp công nhân mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, thỏa mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích của nhân dân. Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mang tính nhất nguyên về chính trị. Nó được Đảng Cộng sản lãnh đạo - yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, bởi vì, Đảng Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản đối với của giai cấp công nhân thông qua toàn xã hội về mọi mặt - V.I. Lênin gọi là sự thống trị chính trị. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là người làm chủ những quan hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy chính quyền lOMoARcPSD|12184112 14 từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ, nhân viên nhà nước. Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước của nhân dân chính là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị. Tóm lại, về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. b) Bản chất kinh tế Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động. Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội; đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối, phải coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Tóm lại, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu. c) Bản chất tư tưởng – văn hóa lOMoARcPSD|12184112 15 Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời nó kế thừa, phát huy nhữmg tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội... mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc... Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hoá tinh thần; được nâng cao trình độ văn hoá, có điều kiện để phát triển cá nhân. Dưới góc độ này dân chủ là một thành tựu văn hoá, một quá trình sáng tạo văn hoá, thể hiện khát vọng tự do được sáng tạo và phát triển của con người. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hòa về lợi ích giữa cá nhân, tập thể và lợi ích của toàn xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. 2.3. Nhà nước xã hội chủ nghĩa 2.3.1. Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa 2.3.1.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cũng như nhà nước đầu tiên trong lịch sử loài người là nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời cần hai yếu tố quyết định: - Yếu tố kinh tế: lOMoARcPSD|12184112 16 Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời trong khi xã hội tư bản chủ nghĩa tồn tại mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ngày càng trở nên gay gắt, không thể điều hòa được, đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng để xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng lao động, đó là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liêu sản xuất, giai quyết lợi ích kinh tế tương đối bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội. - Yếu tố xã hội: Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời khi mà ở đó sự thống trị chính trị thuộc về giai cấp công nhân dó cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh đưa nhân dân lao động lên làm chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, tùy vào đặc điểm và điều kiện của mỗi quốc gia, sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau cách mạng có những đặc điểm, hình thức và phương pháp phù hợp. Song, điểm chung giữa các nhà nước xã hội chủ nghĩa là ở chỗ, đó là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, là cơ quan đại diện cho ý chí của nhân dân, thực hiện việc tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Như vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mà ở đó, sự thống trị chính trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị lOMoARcPSD|12184112 17 làm chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao – xã hội xã hội chủ nghĩa. 2.3.1.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa So với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới, có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột trong lịch sử. Tính ưu việt về mặt bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên các phương diện: Về chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, phù hợp với lợi ích chung của nhân dân lao động, có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Tuy nhiên, sự thống trị của giai cấp vô sản có sự khác biệt về chất so với sự thống trị của các giai cấp bóc lột trước đây. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội nhằm bảo vệ và duy trì địa vị của mình. Còn sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số đối với thiểu số giai cấp bóc lột nhằm giải phóng giai cấp mình và giải phóng tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa là đại biểu cho ý chí chung của nhân dân lao động. Về kinh tế, nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Bởi vậy, không hề tồn tại chế độ người áp bức người ở nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy chính trị - hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế - xã hội lOMoARcPSD|12184112 18 của nhân dân lao động. Nó không còn là nhà nước theo nguyên nghĩa mà là “nửa nhà nước”. Về văn hóa, xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng tinh thần là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và những giá trị văn hóa tiên tiến, tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của dân tộc. Sứ mệnh của nhà nước này là tạo ra điều kiện, cơ sở cụ thể để phổ biến hệ tư tưởn của giai cấp lãnh đạo xã hội – lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng mang nhiệm vụ thu hẹp khoảng cách giữa các giai cấp tầng lớp, trình độ phát triển giữa các nhóm người trong xã hội. 2.4.1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương diện hoạt động cơ bản, quan trọng của Nhà nước, phù hợp với bản chất, mục đích, quản lý của nhà nước Căn cứ vào phạm vi hoạt động, nhà nước gồm hai chức năng sau: - Đối nội: Đây là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất nước, bao gồm: đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ chế độ kinh tế, bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân, bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế, tổ chức các hoạt động văn hóa giáo dục nâng cao nhận thức và đảm bảo sự phát triển về mọi mặt của người dân - Đối ngoại: Đây là chức năng thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nhà nước và dân tộc khác, bao gồm: lOMoARcPSD|12184112 19 thiết lập quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau với các quốc gia khác, tham gia vào các hoạt động, tổ chức quốc tế vì lợi ích chung của cộng đồng Ngoài ra, khi tiếp cận dưới góc độ tính chất của quyền lực, nhà nước xã hội chủ nghĩa gồm hai chức năng chính như sau: - Chức năng giai cấp (trấn áp): Trong điều kiện có đấu tranh giai cấp, chức năng trấn áp sự phản kháng của giai cấp bị trị là cần thiết, nhằm bảo vệ sự tồn tại vững chắc của nhà nước, sự lợi ích về mọi mặt của giai cấp thống trị. Ví dụ như trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, chức năng này được thể hiện rõ ở sự bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động bằng cách sử dụng quyền lực của mình, thậm chí sử dụng bạo lực cách mạng để đàn áp những thế lực chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Chức năng xã hội (tổ chức và xây dựng): Toàn bộ những hoạt động của nhà nước trong việc tổ chức và quản lý các vấn đề xã hội cùng với đời sống, các vấn đề về môi trường, giáo dục, y tế, thu nhập... của người dân. Đây là những hoạt động góp phần củng cố, đảm bảo sự ổn định, phát triển an toàn, hài hòa của toàn xã hội. 3. Mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa 3.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở, nền tảng nền tảng cho việc xây dựng và hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa lOMoARcPSD|12184112 20 - Chỉ trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa người dân mới có đủ điều kiện để thực hiện ý chí của mình thông qua việc lựa chọn một cách công bằng, bình đẳng những người đại diện cho quyền lợi chính đáng của mình vào bộ máy nhà nước. - Người lao động được tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào các hoạt động quản lý nhà nước. Về phía nhà nước lại khai thác một cách triệt để và hiệu quả nhất trí tuệ của quần chúng nhân dân dân lao động. Và đó chính là nhà nước của dân, do dân và vì dân. - Hơn nữa, nhờ có nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quần chúng nhân dân mới có thể kiểm soát một cách có hiệu quả quyền lực nhà nước - Việc nhân dân có thể kiểm soát quyền lực của nhà nước ngăn chặn sự tha hóa về quyền lực, đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những người lãnh đạo không còn đủ phẩm chất nhân dân mong muốn. - Ngược lại, khi các nguyên tắc của dân chủ xã hội chủ nghĩa bị vi phạm, việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng không thể thực hiện được. Từ đó, quyền lực của nhân dân sẽ bị biến thành quyền lực của một nhóm người nhất định, quyền lợi của đa số sẽ bị biến thành quyền lợi của thiểu số. 3.2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa chính là công cụ quan trọng để thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - Thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân có thể thực hiện quyền làm chủ của mình. Ngược lại, Nhà nước cũng là công cụ bạo lực để ngăn chặn các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và bảo vệ chế độ lOMoARcPSD|12184112 21 xã hội chủ nghĩa. Muốn làm được điều này, người dân phải phát huy và thực thi được quyền lực của nhà nước này. - Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước là thiết chế có chức năng quan trọng nhất, trực tiếp nhất, thể chế hóa và tổ chức những yêu cầu dân chủ chân chính của nhân dân. Đồng thời, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là công cụ hữu hiệu đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản. - Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà chủ quyền của nó thuộc về nhân dân. Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Việt Nam đã xác định Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là của dân, do dân, vì dân. Ta có thể thấy rõ các yêu tố “của dân", "do dân" có nghĩa rằng, Nhà nước pháp quyền Việt Nam là phương tiện, là công cụ làm chủ của nhân dân; “vì dân" là mục đích của Nhà nước. Phương tiện, công cụ ấy cũng không thế phát huy hiệu lực, hiệu quả, nếu nhân dân không có tinh thần làm chủ, không biết làm chủ, không biết thực hành dân chủ. Vì vậy muốn có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng hoàn thiện phát huy được các giá trị phổ biến của Nhà nước pháp quyền cần phải xác định cho đúng những nội dung cơ bản trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. II. THỰC TRẠNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 1. Những thành tựu: lOMoARcPSD|12184112 22 Những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của đổi mới trong 30 năm qua là kết quả của việc thực hiện các chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng. Sở dĩ có các chủ trương, đường lối đúng đắn là do có dân chủ thảo luận và Đảng biết lắng nghe ý kiến đóng góp của hàng triệu cán bộ, đảng viên, của các nhà khoa học và của nhân dân. - Đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Hiến pháp 1992 và nhiều Bộ luật, Luật, Pháp lệnh đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng... Đã có nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây dựng nhà nước và pháp luật, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước. - Về công tác tư tưởng, Đảng ta đã thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, thuyết phục và vận động quần chúng, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, người dân ngày càng được biết nhiều hơn về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cùng với việc dân biết, dân cũng được bàn bạc và tham gia ý kiến về nhiều việc quan trọng. Nhờ vậy, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhận được sự đồng tình, ủng hộ của quảng đại quần chúng nhân dân. - Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực. Dân chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng sức sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Dân lOMoARcPSD|12184112 23 chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc bầu các cơ quan dân cử, ở chất lượng sinh hoạt của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, tại các cuộc thảo luận của nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các dự án luật, trong hoạt động của báo chí... Nhân dân ta cảm nhận bầu không khí dân chủ hơn, cởi mở hơn trong xã hội. Ở cơ sở, người dân đã chủ động bàn bạc, tham gia ý kiến, thực hiện quyền làm chủ, bày tỏ chính kiến của mình; đồng thời, tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, chính quyền, thể hiện tốt vai trò giám sát đối với cán bộ, đảng viên, thẳng thắn góp ý kiến về hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương. - Công tác tổ chức, cán bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực: Các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể được sắp xếp lại, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp về công tác cán bộ được thể chế hóa, cụ thể hóa thành các quy chế, quy định. Đảng đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Công tác tổ chức, cán bộ chuyển hướng theo hướng dân chủ hóa. - Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trước hết là của cơ quan hành chính nhà nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Đặc biệt, trong vòng 2 năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong công tác chỉ lOMoARcPSD|12184112 24 đạo phòng chống dịch bệnh Covid-19, đạt được kết quả rất tốt, bảo vệ được sự an toàn và nhận được sự tín nhiệm của nhân dân. Bên cạnh đó, đặt liêm chính lên hàng đầu, Đảng và Nhà nước đã thực hiện rất nhiều biện pháp nghiêm ngặt xây dựng và đảm bảo bộ máy chính trị hoạt động thật sự là của dân do dân và vì dân. 2. Những hạn chế còn tồn tại: - Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý, điều hành chưa cao; kỷ cương xã hội còn bị buông lỏng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước ta. - Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới; chưa phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí và thất thoát nghiêm trọng. - Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu còn hạn chế, chưa sâu sát thực tế, chưa linh hoạt. Tình trạng suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống một phần là do công tác tư tưởng chưa làm tốt chức năng, nhiệm vụ giáo dục chính trị và tư tưởng. - Đảng chưa làm tốt việc lãnh đạo cụ thể hoá nghị quyết của Đảng về xây dựng nhà nước để có chủ trương kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tiễn đổi mới, đặc biệt là những vấn đề nổi lên ngày càng bức xúc như tình trạng quan liêu, lãng phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy lOMoARcPSD|12184112 25 nhà nước; thiếu những biện pháp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương kiên quyết, hợp lý và đủ mạnh để tạo chuyển biến tích cực nhằm khắc phục những khuyết điểm, yếu kém. - Các cơ quan nhà nước chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm trong việc quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng; trong việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn, bảo đảm sự trong sạch và nâng cao hiệu quả hoạt động ở từng cơ quan, đơn vị. - Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhiều hạn chế, nên thiếu trách nhiệm trong việc triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở. III. GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Với tình hình quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng, tình hình trong nước lẫn ngoài nước đều đang có những sự biến đổi nhất định, và đặc biệt là với sự xuất hiện của dịch bệnh Covid-19, Đảng và Nhà nước ta càng cần phải có những phương hướng, giải pháp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ ngĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới: 1.Liên tục đổi mới hệ thống chính trị, xác định rõ hơn về vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ qua lại của các bộ phận cấu thành Hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Trước hết, ta nên bảo đảm hệ thống Hành chính - Chính phủ và các Uỷ ban hành chính địa phương hoạt động thông suốt, mang lOMoARcPSD|12184112 26 tính trách nhiệm cao trong việc phục vụ nhân dân. Hệ thống hành chính phải thực hiện khẩu hiệu “Nhà nước vì dân". Hiện nay còn nhiều việc do chưa phân định rõ thẩm quyền, nhiệm vụ của các cơ quan trong việc giải quyết nên còn hiện tượng né tránh, đùn đầy công việc cho nhau, khiến cho người dân không biết phải liên hệ với cơ quan nào, phải trông cậy vào ai. Do vậy việc tổ chức lại các bộ quản lý đa ngành là một xu hướng đúng, khắc phục tình trạng chia cắt các lĩnh vực, dễ tạo thành những khoảng trồng, hoặc sự trùng lắp trong quản lý, dẫn đến chính người dân sẽ hứng chịu hậu quả của tệ quan liêu. Đảngvà Nhà nước cần phải công khai bằng nhiều biện pháp các thủ tục hành chính cho người dân, phải tạo ra con đường để người dân tiếp cận nhanh chóng với cơ quan và cá nhân có thẩm quyền khi cần giải quyết các công việc. Trong điều kiện phát triển của công nghệ thông tin, cần thúc đầy mạnh mẽ việc xây dựng “chính phủ điện tử", để người dân có thể thông qua mạng Internet dễ dàng tiếp cận các thông tin của các cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp, kế cả các bộ và chính phủ. Người dân có thể tìm hiểu nhanh nhất, đầy đủ về các văn bản quản lý mới ban hành, các quyết định mới nhất của chính phủ, các chương trình, dự án, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế, xã hội (trừ những gì thuộc về bí mật quốc gia), có thể nêu thắc mắc và được trả lời trực tuyến về những vấn đề họ quan tâm. Một điều vô cùng quan trọng nữa là xây dựng Mặt Trận Tổ Quốc trở thành liên minh chính trị rộng lớn, có vai trò giám sát và phản biện xã hội quan trọng hơn. lOMoARcPSD|12184112 27 Cơ chế chính trị không cạnh tranh, chỉ duy nhất có một đảng lãnh đạo cũng là điều kiện dễ dẫn đến sự độc quyền, độc đoán, mất dân chủ. Mặt trận dân tộc thống nhất của chúng ta luôn đạt được sự đoàn kết, nhất trí, luôn ổn định và phát triển. Có được điều đó là do nó luôn được Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng vừa là thành viên, tự coi mình như một bộ phận của Mặt trận, vừa là thành viên đặc biệt - thành viên sáng lập và lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng phương thức thuyết phục, hiệp thương dân chủ và bằng sự gương mẫu đi đầu, tiên phong. Mặt trận lại luôn có tổ chức của công nhân và nông dân làm nòng cốt, tạo nên sự kiên định trong đường lối và lực lượng. Với sự ổn định và vững vàng đó, Mặt trận đã trở thành cơ sở chính trị của của nhà nước. Đó là những bài học, và cũng là những truyền thống quý báu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Với vai trò tổ chức, tập hợp của mình, Mặt trận Tổ quốc là diễn đàn có tổ chức để các cá nhân, tổ chức, các nhóm bày tỏ chính kiến của mình. Điều này vừa tạo điều kiện cho phát huy sáng kiến của các cá nhân, vừa tạo ra môi trường trật tự có lợi cho xã hội. Từ trung ương tới các địa phương, các cuộc hội nghị do Mặt trận Tổ quốc tổ chức, chủ trì đóng góp ý kiến xây dựng dự thảo các văn kiện đại hội Đảng, góp ý sửa đổi Hiến pháp và các văn bản Luật quan trọng khác ... đều có chất lượng cao, thể hiện tinh thần trách nhiệm công dân rất cao của các đại biểu tham dự, phản ánh được nhiều ý kiến, nguyện vọng rất sâu sắc của các tầng lớp dân cư. 2.Hoàn thiện các thể chế dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật bầu cử, giám sát của cơ quan dân cử. lOMoARcPSD|12184112 28 Hoàn thiện các thể chế dân chủ đại diện, nghĩa là hoàn thiện các thể chế Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp sao cho nó là các cơ quan đại biểu đầy đủ các lợi ích của các tầng lớp, giai cấp, các giới khác nhau trong xã hội, là cơ quan có thẩm quyền xứng đáng với vai trò đại biểu của nhân dân. Do đó thẩm quyền của nó không được trái với những quyết định và văn bản của cơ quan hành chính cấp trên. Ngược lại, nó phải có quyền thay mặt cho nhân dân địa phương kiến nghị với Chính phủ hoặc Quốc hội để sửa đổi hoặc huỷ bỏ những văn bản và quyết định của cơ quan hành chính cấp trên có ảnh hưởng tới lợi ích của nhân dân địa phương. Một trong những vấn đề quan trọng nhất của chế độ dân chủ là thể chế dân chủ trực tiếp. Điều này đã được thể hiện đáng kể trong Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong Quy chế đó quy định quyền được quyết định của nhân dân ở cấp cơ sở, chẳng hạn quyết định về các khoản đóng góp tự nguyện, quyết định về việc xây dựng các công trình công cộng liên quan tới cuộc sống của người dân... Đây là những quy định rất tiến bộ, đem quyền dân chủ đến cho người dân một cách thiết thực, giải quyết được những bức xúc của người dân nhất là ở nông thôn. Một mặt phải coi thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là nhiệm vụ thường xuyên, hàng ngày, là pháp luật, không phải là sự nhân nhượng hay chiếu cố đến dân, là giải pháp tình thế. Mặt khác, đã đến lúc phải quy định và thực hiện thể chế dân chủ trực tiếp ở cấp độ cao hơn, chẳng hạn trưng cầu ý dân về những vấn đề trọng đại của quốc gia, như là về toàn bộ Hiến pháp hoặc một điều khoản nào đó của Hiến pháp, về một vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia... lOMoARcPSD|12184112 29 3.Dân chủ hơn nữa quy trình hoạch định chính sách công (bảo đảm sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt của tầng lớp doanh nhân trong lĩnh vực chính sách kinh tế) Chính sách công là thái độ nhất quán của nhà nước trong việc khuyến khích, động viên hay hạn chế, cấm đoán các hoạt động nào đó của xã hội, thể hiện trong suy nghĩ, hành động, trong lời nói và các loại văn bản pháp lý của cá nhân hay tổ chức có thẩm quyền của nhà nước. Một trong những yêu cầu đầu tiên đối với chính sách công là phải thể hiện được thái độ rð ràng, nhất quán của nhà nước. Đó là sự cam kết bảo vệ, động viên, khuyến khích, ưu đãi... hay ngược lại cấm đoán, hạn chế một hoạt động nào đó. Hơn nữa không chỉ là tuyên bố cam kết, bằng lời phát biểu mà phải bằng các quy định cụ thể, đầy đủ trong các văn bản pháp lý cần thiết. Thứ hai, chính sách công phải chứa đựng lợi ích của người dân và đối với chế độ ta đó trước hết là lợi ích của công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác. Thứ ba, chính sách công phải mang tính khả thi, thực tiễn, nghĩa là phù hợp với điều kiện khách quan của từng giai đoạn phát triển của đất nước. Cuối cùng, chính sách công cần được thông tin đến cho người dân biết, được giải thích để người dân hiểu để hành động theo. Nếu không xác định được lợi ích chính đáng cần bảo vệ, phát triển hoặc không cân đối, điều hoà được các lợi ích sẽ dẫn đến xung đột giữa các nhóm người, giữa công dân và nhà nước. Điều này sẽ được khắc phục nếu quá trình hoạch định chính sách mang tính dân chủ, nghĩa là được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, đóng góp trí tuệ, và đặc biệt là có sự nhân nhượng lẫn nhau giữa các tầng lớp, các nhóm người có lợi ích liên quan. lOMoARcPSD|12184112 30 4.Tăng cường vai trò của báo chí trong thông tin và giám sát Đảng, giám sát nhà nước, đặc biệt là chống tham nhũng, lãng phí Báo chí là công cụ hữu hiệu để phòng chống tham nhũng lãng phí, giám sát các tổ chức và các cá nhân có chức có quyền, nhất là các nhà chính trị, các quan chức nhà nước. Báo chí không chỉ là công cụ tuyên truyền của Đảng, của Nhà nước, là công cụ giáo dục, giải trí và nâng cao tri thức, văn hoá của người dân mà còn là diễn đàn của nhân dân, là công cụ đề nhân dân thực hiện quyền dân chủ, nghĩa là quyền tham gia vào các công việc quốc gia. Tuy nhiên cũng một phần vì báo chí nước ta lại có nhược điểm là sự trùng lặp dung, quan điểm; dàn trải về lực lượng; bao cấp nặng và lãng phí về cơ sở vật chất do cơ quan báo chí đều trực thuộc chính quyền và cấp uỷ, chịu sự quản lý toàn diện của cấp uỷ và chính quyền, nên báo chí không dám đấu tranh và khó đấu tranh có hiệu quả với cấp lãnh đạo và người lãnh đạo trực tiếp của mình. Để báo chí làm tốt hơn nữa chức năng giám sát Đảng, Nhà nước và đấu tranh chống lãng phí, tham nhũng cần phải đổi mới hơn nữa
File đính kèm:
- tieu_luan_moi_quan_he_giua_nha_nuoc_xa_hoi_chu_nghia_va_nen.pdf