Tiểu luận Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về Logistics
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về Logistics", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về Logistics
TIỂU LUẬN Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về logistics Sinh viên thực hiện : Lớp : Học phần: Mã học phần: Giảng viên hướng dẫn: MỤC LỤC LỜI LỜI MỞ ĐẦU “Ngành logistics có mặt tại Việt Nam trong khoảng 30 năm trở lại đây với tốc độ phát triển vô cùng ấn tượng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Song pháp luật điều chỉnh dịch vụ logistics chưa thực sự hoàn thiện, còn tồn tại những bất cập làm hạn chế năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; đồng thời chưa điều chỉnh hết nhu cầu phát triển của ngành logistics”. Do đó, việc đi sâu tìm hiểu và phân tích làm rõ những vấn đề bất cập xoay quanh pháp luật về logistics và đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này có ý nghĩa quan trọng và hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay, chính vì vậy học viên lựa chọn chủ đề “Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về logistics” làm tiểu luận kết thúc môn học. NỘI DUNG 1. Nhận thức chung 1.1. Khái niệm Logistics là một phần của chuỗi cung ứng bao gồm những công đoạn như lên kế hoạch, thực hiện và kiểm soát luồng chuyển dịch của hàng hóa, nhà cung cấp cũng như những thông tin can dự tới luồng dịch chuyển. Dịch vụ logistics luôn xuất hiện từ điểm trước tiên tới nơi tiêu thụ chung cuộc để đáp ứng buộc phải của các khách hàng. “Tại Điều 233 Luật thương mại năm 2005 lúc quy định dịch vụ logistics là một hoạt động thương mại”. Theo đấy, thương gia đứng ra doanh nghiệp thực hành 1 hoặc phổ thông công tác bao gồm: nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, khiến cho giấy tờ hải quan hoặc các thủ tục thủ tục khác, trực tiếp hoặc gián tiếp tư vấn các bạn, tham gia đóng gói bao suy bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các nhà sản xuất khác mang liên quan tới hàng hoá theo thoả thuận sở hữu người mua để hưởng thù lao. 1.2. Các văn bản pháp luật quy định về logistics “Ngoài Luật thương nghiệp năm 2005 quy định về logistics còn có Nghị định số 163/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương nghiệp về điều kiện buôn bán và phận sự của nhà buôn kinh doanh dịch vụ logistics, đây được xem là hai văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh trực tiếp hoạt động logistics tại Việt Nam ngày nay”. Những quy định này trực tiếp điều hành ảnh hưởng nhà cung cấp logistics, điều kiện buôn bán, dừng quyền và bổn phận của các đối tác. Không những thế, can hệ đến hoạt động logistics còn có nhiều luật, nghị định điều chỉnh các quan hệ giao dịch chung như Luật đầu cơ 2014, Luật quản lý ngoại thương năm 2017, “Nghị định số 28/2018/NĐ-CP ngày 01/3/2018 quy định chi tiết một số điều của Luật quản lý ngoại thương về một số biện pháp tăng trưởng ngoại thương, Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 05/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tăng hiệu quả thực hiện và đổi mới cơ chế quản lý vốn đầu tư, thu nhập gắn mang đặc thù của cơ quan quản lý hành chính nhà nước, tuy nhiên, sở hữu các lĩnh vực chuyển vận cũng đã mang phổ thông văn bản pháp luật được ban hành, trong đó quy định các điều kiện kinh doanh cụ thể và những quy định mà đơn vị chuyên chở phải tuân thủ, bao gồm cả tổ chức kinh doanh nhà sản xuất logistics”. Phổ biến chính sách về phát triển logistics đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành. 2. Thực trạng Sau một thời kì dài lớn mạnh, nhà cung cấp logistics đã được thiết chế hóa trong Luật thương nghiệp năm 2005. “Có việc ban hành Nghị định số 163/2017/NĐ-CP và Chỉ thị 21/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã tạo phổ quát điều kiện thuận tiện cho nhà cung cấp logistic tăng trưởng. bên cạnh đó, sau một thời gian ngắn thực hành, những văn bản pháp lý điều chỉnh nhà cung cấp logistics đã biểu đạt những bất cập làm tránh năng lực khó khăn của đơn vị, dưới đây là các bất cập của pháp luật về nhà sản xuất logistics”. 2.1. Khái niệm chưa rõ ràng, chưa thể hiện hết bản chất của dịch vụ logistics “Theo Điều 233 Luật thương nghiệp 2005, doanh nhân chỉ cần thực hiện một trong những hành vi quy định tại điều này đã là thực hành nhà sản xuất logistics, không những thế theo quy định này chưa biểu đạt hết vai trò của họ trong hoạt động logistics bởi vì một lái buôn được coi là sản xuất dịch vụ logistics khi thương nhân ấy thực hiện một số các hoạt động khác nhau nhằm tương trợ hoạt động mua bán hàng hóa hoặc nhà cung cấp hậu cần liên quan đến hàng hóa” Điều 233 Luật thương nghiệp 2005 . Mặt khác, logistics không phải là một hoạt động đơn lẻ mà là một chuỗi những hoạt động liên tục, với quan hệ khăng khít và ảnh hưởng tương hỗ lẫn nhau, bao trùm mọi yếu tố tạo nên sản phẩm, từ việc nhập vật liệu đầu vào cho tới giai đoạn tiêu thụ sản phẩm chung cuộc. Các nguồn tài nguyên đầu vào không chỉ bao gồm vốn, vật tư, nhân lực mà còn bao hàm cả dịch vụ, thông báo và khoa học. Các hoạt động này cũng được phối phối hợp trong một chiến lược buôn bán khái quát của đơn vị trong khoảng tầm hoạch định đến thực thi doanh nghiệp và khai triển đồng bộ từ tìm, dự trữ, tồn kho, bảo quản, vận chuyển tới thông tin, bao suy bì, đóng gói Nhờ vào sự kết hợp này, các hoạt động buôn bán được tương trợ một cách tối ưu, nhịp nhàng và hiệu quả, tạo ra được sự thỏa mãn khách hàng ở mức độ cao nhất hay mang đến cho họ những trị giá gia nâng cao to hơn so với đối thủ cạnh tranh. Ví dụ cụ thể lúc doanh nghiệp A thỏa thuận có công ty B (kinh doanh dịch vụ logistics) về việc chuyển vận hàng hoá từ kho tới cảng để xuất khẩu. tổ chức B công ty theo phương án đóng bao kiện hàng, chuyển vận kiện hàng trong khoảng kho doanh nghiệp A đến bãi contanier cảng, làm giấy tờ thông kho tại kho cảng và xuất khẩu theo trục đường biển. Tương tự, công ty B đã thực hành một số các hoạt động khác nhau nhằm tương trợ tổ chức A trong hoạt động tìm bán hàng hóa, chứ không đơn giản là hoạt động chuyên chở hàng hóa. Vậy giả dụ theo “Điều 233 Luật thương mại 2005, thương buôn chỉ cần thực hành một trong các hành vi quy định tại điều này đã là thực hiện dịch vụ logistics thì chưa đúng thực tại. Trong khi đó ở một số nước khác trên thế giới như Pháp, Mỹ, Nhật Bản, Singapore cho thấy những nước đều cho rằng nhà sản xuất logistics là một chuỗi sản xuất dịch vụ với mắt xích có nhau. Như vậy, định nghĩa dịch vụ logistics của luật pháp nước ta mà cụ thể là trong Luật thương nghiệp 2005 chưa biểu đạt rõ bản tính của nhà sản xuất logistics”. 2.2. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, còn phức tạp, chồng chéo Hệ thống luật pháp điều chỉnh logistic thương nghiệp hiện giờ chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, được quy định ở nhiều văn bản khác nhau. tỉ dụ, những quy định về những loại hình vận tải mới chỉ tập kết vào khía cạnh điều kiện buôn bán nhà cung cấp vận tải, khi mà các quy định về kho bãi lại được quy định ở những văn bản khác. Phận sự vận tải hàng hóa được quy định ở phổ quát văn bản khác nhau, chưa mang sự thống nhất. Hệ quả là, một góc cạnh của logistics mang thể thuộc sự điều hành, kiểm tra của nhiều bộ, lĩnh vực. Bên cạnh đó, những quy định pháp luật có tính ổn định chưa cao, thường chỉ được vài năm và nhanh đổi thay nên cũng gây khó khăn cho đơn vị, nhất là lúc mang sự điều chỉnh có các tài sản trị giá to như ô tô, kho bãi, bất động sản, Mặt khác, phổ biến quy định còn chưa rõ ràng, áp đặt các quy định cứng đề cập về diện tích, phương tiện kỹ thuật (phần mềm, camera giám sát) bất kể loại hình, quy mô của đơn vị, do đó có thể khiến cho tránh sự thông minh và nguồn lực kinh doanh của tổ chức. “Thí dụ như những điều kiện buôn bán về xếp, dỡ hàng hóa tại ga, bãi hàng có tuyến đường sắt tại Điều 11, Điều 12 Nghị định số 14/2015/NĐ-CP ngày 13/02/2015 quy định chi tiết và chỉ dẫn thi hành một số điều của luật trục đường sắt” Điều 11 quy định Điều kiện kinh doanh xếp, dỡ hàng hóa tại ga, bãi hàng có đường sắt và Điều 12 điều kiện kinh doanh lưu kho, bảo quản hàng hóa tại ga đường sắt. ; điều kiện về điều hành kho bãi tại Nghị định số 68/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy định về điều kiện buôn bán hàng miễn thuế, kho bãi, địa điểm làm cho giấy tờ thương chính, tụ hội, kiểm tra, giám sát thương chính Điều 4 quy định điều kiện cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh hàng miễn thuế. ; tuy nhiên, còn mang các quy định về trình độ công nhân, tạo thêm gánh nặng hành chính cho đơn vị Điều 20 Luật Hải quan năm 2014. . Bên cạnh đó, vẫn còn các điểm chưa thống nhất, chưa quyết liệt trong các chính sách, quy định về cơ chế một cửa đất nước, hải quan điện tử, đặc thù là kiểm tra chuyên lĩnh vực. Điều này khiến cho giấy tờ hành chính, giấy má vẫn còn gây khó khăn, tốn kém cho tổ chức và tạo ra rào cản gia nhập thị trường. 2.3. Các quy định điều chỉnh trực tiếp ngành dịch vụ logistics chưa hoàn thiện Hiện nay, “Nghị định số 163/2017/NĐ-CP là văn bản điều chỉnh trực tiếp điều kiện buôn bán nhà cung cấp logistics, tuy nhiên công ty buôn bán dịch vụ logistics còn phải tuân thủ quy định tại rộng rãi văn bản luật pháp chuyên ngành khác”. Các quy định này lại chỉ tập hợp vào các góc cạnh can hệ như buôn bán xuất du nhập hàng hóa, lưu kho hải quan, (Luật điều hành ngoại thương và những Nghị định hướng dẫn), điều kiện kinh doanh chuyên chở. “Nghị định số 163/2017/NĐ-CP đã phân mẫu lại 17 dịch vụ logistics để thích hợp với những cam kết của Việt Nam trong WTO”. Không những thế, một số nhà cung cấp như nhà sản xuất kho bãi thuộc nhà cung cấp hỗ trợ mọi phương thức vận tải, dịch vụ đại lý chuyển vận hàng hóa, lại chưa với quy định rõ ràng về điều kiện đầu tư, nhất là đối sở hữu doanh nghiệp nước ngoài. Điều kiện buôn bán nhà cung cấp phân tách và kiểm định công nghệ cũng chưa rõ ràng. Việc cấp phép cho những nước không phải là thành viên WTO cũng chưa được quy định rõ. Mặt khác, những chính sách hỗ trợ đơn vị nhà sản xuất logistics chưa chi tiết. Những quy định, chính sách tương trợ cũng đã được ban hành, chẳng hạn như Luật hỗ trợ đơn vị nhỏ và vừa Luật hỗ trợ công ty nhỏ và vừa 2017. , song lại ko có quy định rõ ràng đối mang dịch vụ logistics. Đây là điểm đáng lưu ý bởi số công ty logistics với quy mô vừa và nhỏ là tất cả, với quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 41%, quy mô vốn trong khoảng 10-50 tỷ đồng chiếm 26%. những đơn vị này sẽ cần có sự hỗ trợ từ những chính sách, chương trình của nhà nước. 3. Định hướng hoàn thiện pháp luật về logistics ở Việt Nam Logistics đang là một nhân tố quan yếu cho một đất nước thành công trong thời đại thế giới hóa. Mức độ phát triển của ngành nhà cung cấp logistics phản ảnh sức mạnh và năng lực khó khăn tổng thể của một đất nước. Để tăng hiệu quả của ngành logistics, việc canh tân quy định luật pháp, cách tân giấy tờ hành chính, đổi mới phương thức quản lý của cơ quan nhà nước, đẩy mạnh ứng dụng Chính phủ điện tử , là hết sức cấp thiết và cần được các cơ quan nhà nước, những cơ quan Chính phủ tập hợp cải cách. Trong ấy, cần quan tâm thực hành một số biện pháp sau: 3.1. Hoàn thiện khái niệm có liên quan đến dịch vụ logistics Đối với định nghĩa dịch vụ logistics, xin bắt buộc giải pháp vằng phương pháp thay thế cụm trong khoảng “một hoặc đa dạng công việc”, thành “một số hoặc phần nhiều những công việc”. Cụ thể, “Điều 233 Luật thương nghiệp cần được sửa đổi như sau: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo ấy lái buôn đơn vị thực hiện một số hoặc phổ thông công tác, bao gồm nhận hàng, chuyên chở, lưu kho, lưu bãi, làm cho hồ sơ hải quan, những thủ tục giấy má khác, trả lời quý khách, đóng gói bao so bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có can hệ đến hàng hóa theo thỏa thuận sở hữu người mua để hưởng thù lao. Nhà sản xuất logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ lô-gi-stíc”. Với cách thức quy định như vậy, để trở nên thương gia buôn bán nhà cung cấp logistics, nhà buôn phải cung ứng ít nhất hai loại hình dịch vụ trong chuỗi logistics trở lên. Họ có thể vừa cung ứng nhà cung cấp tải, kho bãi và cả thông quan. Điều này sẽ miêu tả đúng bản tính của nhà cung cấp logistics trên toàn cầu và cũng góp phần phổ biến hóa loại hình dịch vụ này. Song song, phân biệt rõ ràng giữa nhà cung cấp logistics và nhà sản xuất vận chuyển hàng hóa. Ví dụ như: “Đối với thương gia chỉ tham gia vận tải hàng hóa tuyến đường sắt thì được gọi là kinh doanh tải hàng hóa tuyến đường sắt, lúc đó chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật các con phố sắt 2017 Luật trục đường sắt 2017. . Chỉ lúc thương lái tiến hành liên tục (2 mẫu hình) trong các hoạt động của chuỗi logistics thì mới được gọi là thương buôn buôn bán nhà cung cấp logistics”. 3.2. Xây dựng khuôn khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất Cần nghiên cứu để đưa ra những quy định luật pháp mang tính đồng bộ, hợp nhất, tránh chồng chéo như bây giờ để qua ấy tạo môi trường kinh doanh tiện dụng cho nhà cung cấp logistics, đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các loại hình công ty, giữa doanh nghiệp nhà nước, công ty cá nhân và đơn vị nước ngoài. 3.3. Xây dựng các chính sách phù hợp nhằm đảm bảo phát triển dịch vụ logistics Thứ nhất, tập huấn nguồn nhân lực cho dịch vụ logistics Hiện giờ nguồn nhân lực cho ngành logistics còn thiếu cả về số lượng và chất lượng, do đó việc nghiên cứu hình thành các trọng điểm đào tạo, nghiên cứu hỗ trợ huấn luyện nguồn nhân lực cho nhà cung cấp logistics và phát triển buôn bán cho các doanh nghiệp dịch vụ logistics là khôn cùng cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn hiện tại nhằm đưa lĩnh vực logistics đi lên theo xu hướng chung của khu vực và thế giới. Thứ hai, với giải pháp khuyến khích những tổ chức trong nước liên doanh mang các hãng nước ngoài để thiết lập hệ thống nhà cung cấp logistics thế giới, các tổ chức đa quốc gia. Thứ ba, hoàn thiện những chính sách giảm giá hỗ trợ và khuyến khích lớn mạnh lĩnh vực nhà sản xuất logistics hiện đại, hoàn thiện hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất, nâng cấp hệ thống liên lạc vận chuyển đường sông, tuyến đường biển, giảm tắc nghẽn giao thông con đường bộ đô thị và tăng trưởng màng lưới liên lạc vận chuyển liên kết. Đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở cả tuyến đường biển, các con phố bộ, tuyến phố sắt và tuyến phố không cũng như cơ sở vật chất khoa học thông báo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhà cung cấp logistics. Thứ tư, đầu cơ vun đắp các trung tâm nhà cung cấp tăng trưởng tại các vị trí thuận lợi trên cương vực. Vun đắp, nâng cấp hệ thống cảng biển, hàng không đạt tiêu chuẩn quốc tế để tạo điều kiện lôi kéo các đối tác trong khu vực và thế giới. Thứ năm, tập hợp lập quy hoạch xếp đặt kế hoạch tăng trưởng những bãi kho vận logistics và những trang bị trong ngành dịch vụ logistics, chọn lựa các vị trí thích hợp ở sắp các khu liền kề đô thị, cụm công nghiệp, vùng kinh tế trọng điểm. Ưu tiên đầu tư vào hệ thống kho bãi với tất cả trang thiết bị đương đại, được công nghệ hóa. Hệ thống cảng biển, công ty vận chuyển biển, hãng hàng không, tổ chức dịch vụ logistics được liên kết thành một chuỗi nhà cung cấp theo đúng mô hình một cửa. Thứ sáu, đẩy mạnh ứng dụng khoa học thông báo trong khắc phục giấy tờ hành chính can dự tới hoạt động xuất nhập khẩu, thông quan và trung chuyển. KẾT LUẬN Như vậy có thể thấy rằng ngành logistics đang là một ngành chứa đầy tiềm năng và đang trên đà phát triển, góp phần quan trọng vào quá trình tăng trưởng kinh tế của cả nước trong xu thế chung hội nhập. Chính vì vậy, việc làm rõ những bất cập, hạn chế và đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về logistics sẽ góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh dịch vụ logistics, đưa ngành logistics phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới đồng thời sẽ là cơ sở, hành lang pháp lý quan trọng giúp các nhà làm luật có tiền đề để nghiên cứu, điều chỉnh tạo ra hệ thống pháp luật đồng bộ và thống nhất. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chính phủ (2017), Nghị định số 163/2017/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh và trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, ngày 30/12/2017. 2. Chính phủ (2015), Nghị định số 14/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật đường sắt, ngày 13/02/2015. 3. Chính phủ (2016), Nghị định số 68/2016/NĐ-CP quy định về điều kiện kinh doanh hàng miễn thuế, kho bãi, địa điểm làm thủ tục hải quan, tập kết, kiểm tra, giám sát hải quan, ngày 01/7/2016. 4. Quốc hội (2005), Luật Thương mại 2005. 5. Quốc hội (2014), Luật Hải quan năm 2014. 6. Quốc hội (2017), Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017. 7. Quốc hội (2017), Luật Đường sắt năm 2017. 8. Tạ Thị Thùy Trang (2018), Pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics trong hoạt động thương mại điện tử, Nghiên cứu Lập pháp, số 17(369), T9/2018. 9. Thông tư liên tịch (2015), số 64/2015/TTLT-BTC-BCT-BCA-BQP Quy định chế độ hóa đơn, chứng từ đối với hàng hóa nhập khẩu lưu thông trên thị trường, ngày 8/5/2015. 10. Thủ tướng chính phủ (2021), Chỉ thị số 21/CT-TTg về nâng cao hiệu quả thực hiện và đổi mới cơ chế quản lý tài chính, thu nhập gắn với đặc thù của cơ quan quản lý hành chính nhà nướ,c ngày 05/8/2021.
File đính kèm:
- tieu_luan_mot_so_bat_cap_va_giai_phap_hoan_thien_phap_luat_v.docx