Tiểu luận Mục tiêu, nhiệm vụ, và tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Mục tiêu, nhiệm vụ, và tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Mục tiêu, nhiệm vụ, và tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ SÀI GÒN SINH VIÊN: BÀI TIỂU LUẬN MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỀ TÀI: MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, VÀ TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2021 Lý do chọn đề tài: PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU Xã hội ngày càng đổi mới, mọi quan điểm chính trị đều dần được thay đổi trong đó có quan điểm đối ngoại với các nước. Đối ngoại là hoạt động diễn ra từ thuở cha ông ta dựng nước, giữ nước. Đến thời kì hiện đại như ngày nay thì các quan điểm về đối ngoại có đôi phần khác xưa. Đối ngoại hiện nay mang tính xây dựng dân chủ tiến bộ. Đây là sự thay đổi có vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện nay. Mọi công dân và thế hệ trẻ cần phải hiểu được tầm quan trọng của đối ngoại. Và hơn nữa, vấn đề nay rất phù hợp với môn học mà em đang tiếp cận, phù hợp với nhận thức của mỗi người. Chính vì vậy, để làm sáng tỏ vấn đề em xin tìm hiểu nội dung mục tiêu, nhiệm vụ, và tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ của đề tài đặt ra: Việc nghiên cứu đề tài này giúp trang bị cho bản thân những hiểu biết cơ bản về tình hình nước ta trong giai đoạn này : những chủ trương, chính sách của Đảng đã đề ra để có thể vận dụng để giải quyết những khó khăn mà nhân dân ta phải đương đầu, đưa cuộc cách mạng của dân tộc đi đến thắng lợi hoàn toàn. Nghiên cứu vấn đề này còn bồi dưỡng niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, định hướng phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng và đường lối của Đảng, nâng cao ý thức trách nhiệm của bản thân trước những nhiệm vụ, vận mệnh của đất nước, giúp nâng cao tinh thần yêu nước, đóng góp tài sức, trí tuệ để cùng nhau xây dựng đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đất nước đang phát triển và hội nhập trên trường quốc tế. Phương pháp nghiên cứu: Cơ sở phương pháp luận: Thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp lịch sử (nghiên cứu sự vật, hiện tượng theo trình tự thời gian, theo quá trình diễn biến đi từ phát sinh, phát triển đến kết quả của nó) và phương pháp logic (nghiên cứu một cách tổng quát nhằm tìm ra bản chất của sự vật, hiện tượng và khái quát thành lý luận) là hết sức quan trọng trong nghiên cứu đường lối cách mạng của Đảng. Ngoài ra còn có thể sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp và diễn dịch, cụ thể hóa, trừu tượng hóa thích hợp với từng nội dung của môn học. Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi nghiên cứu của Đảng Cộng sản Việt Nam về mục tiêu, nhiệm vụ, và tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam Tài liệu tham khảo: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Đường lối Cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật, 2014 Trang “” Nội dung nghiên cứu: PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU 3 Lý do chọn đề tài 3 Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ của đề tài đặt ra 3 Phương pháp nghiên cứu: 3 Phạm vi nghiên cứu: 3 Tài liệu tham khảo: 4 Nội dung nghiên cứu: 4 Đóng góp của đề tài 4 PHẦN B: PHẦN TRÌNH BÀY 5 Đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ 1975 — 1986 5 Hoàn cảnh lịch sử 5 Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng 5 Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân 6 Đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ đổi mới 7 Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối 7 Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế 11 Thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân 14 Thực tiễn và chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 16 Đường lối, chủ trương của Đảng ta trong vấn đề biển Đông 18 Đường lối của Đảng ta trong vẫn đề biến Đông 18 Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng nhà nước về vấn đề biển Đông 21 PHẦN C: PHẦN KẾT LUẬN 26 7. Đóng góp của đề tài: Việc nghiên cứu đề tài này cho ta thấy rõ quan điểm của Đảng trong việc thực hiện đường lối đối ngoại. Tiếp tục kế thừa và phát huy đường lối đối ngoại dân chủ tiến bộ. PHẦN B: PHẦN TRÌNH BÀY Đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ 1975 — 1986 Hoàn cảnh lịch sử Tình hình thế giới Từ thập ký 70, thê ký XX, sự tiễn bộ nhanh chóng của các cuộc khoa học và công nghệ đã thúc đây lực lượng sản xuất thế giới phát triên mạnh; Nhật Bản và Tây Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn cúa kinh tế thê giới; xu thê chạy đua phát triển kinh tế đã dăn đến cục diện hoà hoãn giữa các nước lớn. Với thắng lợi của Việt Nam (năm 1975) và các nước Đông Dương, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang lớn mạnh không ngừng: phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân đang trên đà mãnh liệt. Tuy nhiên, từ giữa thập kỷ 70, thế ký XX, tình hình kinh tế - xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định. Tình hình khu vực Đông Nam Á cũng có những chuyền biến mới. Sau năm 1975, Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á, khối quân sự SEATO tan rã; tháng 2-1976, các nước ASEAN ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á( Hiệp ước Bali), mở ra cục diện hoà bình, hợp tác trong khu vực. Tình hình trong nước Thuận lợi: Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hoà bình thống nhất, cả nước xây dựng chú nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Đây là những thắng lợi rất cơ bản của cách mạng nước ta. Khó khăn: Trong khi cả nước phải tập trung khắc phục hậu quả nặng nè của ba mươi năm chiến tranh, lại phải đối phó với chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. bên cạnh đó, các thế lực thù đíchử dụng những thủ đoạn thâm độc chống phá cách mạng Việt Nam. Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) nhận định: “nước ta đang ở trong tình trạng vừa có hoà bình vừa phải đương đầu với một kiêu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Ngoài ra, do tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế - xã hội. Những thuận lợi, khó khăn từ tình hình thế giỚI và trong nước ở giai đoạn này đã ảnh hưởng to lớn đến công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và tác động đến việc hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là “Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vét thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Trong quan hệ với các nước, Đại hội VI chủ trương cúng cô và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triên mối quan hệ đặc biệt Việt Nam — Lào — Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa 2 Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chú quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối ngoại như: chú trọng củng có, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô — coi quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhân mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt — Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang diễn biến phức. tạp; chú trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hoà bình, tự đo, trung lập và ôn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đại hội lần thứ V của Đảng xác định: công tác đối ngoại phải trở thành một mặ trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của các thé lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta. Về quan hệ với các nước, Đảng fa tiếp tục nhân mạnh đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đặc biệt Việt Nam — Lào — Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba đân tộc; kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng đề giải quyết các trở ngại, nhăm xây đựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình và ồn định; chú trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước, về kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Thực tế cho thấy, ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975-1986) là xây dựng quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; củng cô và tăng cường đoàn kết hợp tác với Lào và Campuchia; mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước không liên kết và các nước đang phát triên; đấu tranh với sự bao vây, cám vận của các thể lực thù địch. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân Kết quả và ý nghĩa Trong 10 năm trước đôi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô. Ngày 29-6-1978, Việt Nam ra nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV). Viện trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liện Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng. Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô. Từ năm 1975 đến năm1977, nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 23 nước; ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghé thành viên chính thức Quỹ tiên tệ quốc tế (ME); ngày 21- 9-1976, tiếp nhận ghê thành viên chính thức Ngân hàng Thế giới (WB); ngày 23- 9-1276, gia nhập Ngân hàng Phát triên châu Á (ADB); ngày 20-9-1977, tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quôc; tham gia tích cực các hoạt động trong phong trào Không lien kết... Kể từ năm 1977, một số nước mở quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam. Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm 1976, Philíppin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với cả các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tranh thú được nguồn viện 3 trợ đáng kề, góp phân khôi phục đất nước sau chiến tranh; việc trở thành thành viên chính thức Quỹ tiền tệ quôc” tế, Ngân hàng phát triển châu Á và việc trở thành thành viên chính thức của Liên hợp quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã tranh thú được sự úng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát huy được vai trò của nước ta trên trường quốc tế. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN đã tạo thuận lợi đê triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhăm xây đựng Đông Nam Á trở thành khu vưch hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những kết quả nêu trên, nhìn tổng quát, từ năm 1975 đến năm 1986, quan hệ quốc tế của Việt Nam gặp những khó khăn, trở ngại lớn. Nước ta bị bao vậy, cô lập, trong đó đặc biệt là từ cuối thập ký 70 thế ký XX, lấy cớ “Sự kiện Campuchia” các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện bao vây, cắm vận Việt Nam... Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trên, là do trong quan hệ đối ngoại giai đoạn này chúng ta chưa nắm bắt được xu thế chuyền từ đối đầu sang hoà hoãn và chay đua kinh tế trên thế giới. Do đó, đã không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh; không kịp thời đổi mới quan hệ đối ngoại cho phù hợp với tình hình. Những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975-1986)b suy cho cùng đều xuất phát từ nguyên nhân căn bản đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng chỉ ra là “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”. Đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ đổi mới Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối Hoàn cảnh lịch sử Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ( đặc biệt là công nghệ thông tin) tiếp tục phát triền mạnh mẽ. tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc. Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khúng hoảng sâu sác. Đến đầu những năm 1990, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đồ, dẫn đến những, biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu (trật tự thế giới hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thê giới mới. Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hoà bình và hợp tác phát triển. Các quôc gia, các tổ chức và các lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thế giới. Xu thế chạy đua phát triên kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát triển đã đôi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường lien kết, hợp tác với các nước phát triển đề tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tô chức, quản lý sản xuất kinh doanh. Các nước, đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thê cách đánh giá cũ, chủ yêu dựa vào sức mạnh quân sự băng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu. Xu thế toàn cầu hoá và tác động của nó: Dưới góc độ kinh tế, toàn cầu hoá là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế phát triên vượt qua các rào cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan toả ra phạm vi toàn cấu, trong đó hàng hoá, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động... vận động thông thoáng; sự phân công lao động mang tính quốc tế; quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen nhau, hình thành mạng lưới quan hệ đa chiều. Những tác động tích cực của toàn cầu hoá: trên cơ sở thị trường được mở rộng, trao đôi hàng hoá tăng mạnh đã thúc đây phát triển sản xuất của các nước; nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý cùng các hình thức đầu tư, hợp tác khác mang lại lợi ích cho các bên tham gia hợp tác. Mặt khác, toàn cầu hoá làm tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau, nâng cao sự hiểu biết giữa các quốc gia, thuận lợi cho việc xây đựng môi trường hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước. Những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá: xuất phát từ việc các nước công nghiệp phát triển thao túng, chi phối quá trình toàn cầu hoá tạo nên sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế và làm tăng sự phân cực giữa các nước giàu và nước nghèo. Đại hội lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh” Thực tế cho thấy răng, các nước muốn tránh khỏi nguy cơ bị biệt lập, tụt hậu, kém phát triên thì phải tích cực, chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cần trọng các yếu tô bất lợi để vượt qua. Tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương, từ những năm 1990, có nhiều chuyên biến mới: Trước hết, trong khu vực tuy vẫn còn tồn tại những bắt ô ồn, như vấn đè hạt nhân, vấn đè tranh chấp lãnh hải thuộc vùng biên Đông và việc một số nước trong khu vực tăng cường vũ trang, nhưng châu Á - Thái Bình Dương vẫn có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế. Xu thế hoà bình và hợp tác trong khu vực phát triên mạnh. *Yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: Sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt Nam từ nửa cuối thập kỷ 1970 thế kỷ XX tạo nên tình trạng căn thăng, mắt ôn định trong khu vực và gây khó khăn, cản trở cho sự phát triên của cách mạng Việt Nam, là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng của nước ta. Vì vậy, vân đề giải toả tình trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cầm vận, tiễn tới bình thường hoá và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tạo môi trường quốc tế thuận lợi đề tập trung xây dựng kinh tế là nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với nước ta. Mặc khác, do hậu quả nặng nè của chiến tranh và các khuyết điểm chú quan, nên kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Nguy cơ tụt hậu xa hơn vê kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là một trong những thách thức lớn đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế đặt ra gay gắt. Đề thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực bên ngoài, trong đó việc mở rộng và tăng cường hợp tác kinh tế với các nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Những đặc điểm, xu thế quốc tế và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam nêu trên là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điêm và hoạch định chú trương, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới. Các giai đoạn hình thành, phát triển đường lối *Giai đoạn 1986-1996: Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa đạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986), trên cơ sở nhận thức đặc điểm nồi bật của thế giới là cuộc cách mạng khoa học — kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, đây nhanh quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận định: “xu thê mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kê cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của nước ta”. Từ đó, Đảng chú trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triên, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đắng, cùng có lợi. Triển khai chủ trương của Đảng, tháng 12-1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành. Đây là lần đầu tiên Nhà nước ta tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam — mở cửa đề thu hút nguồn vốn, thiết bị và kinh nghiệm tô chức quản lý sản xuất, kinh doanh phục vụ công cuộc xây dựng, phát triên đất nước. Tháng 5-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tỉnh hình mới, khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải cúng cô và giữ vững hoà bình để tập trung sức xây dựng và phát triên kinh tế. Bộ Chính trị đề ra chủ trương kiên quyết chủ động chuyền cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình; lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa học — kỹ thuật và xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đề tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ quốc tế và chuyền hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của Đảng ta. Sự chuyền hướng này đã đặt nền móng hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chú, rộng mở, đa dnạg hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ năm 1989, Đảng chú trương xoá bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khâu. So với chú trương của Đại hội V “Nhà nước độc quyên ngoại thương và Trung ương thống nhất quản lý công tác ngoại thương”, thì đây là bước đổi mới đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) đề ra chú trương “hợp tác bình đăng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình”, với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phân đấu vì hoà bình, độc lập và phát triên” Đại hội VII đã đôi mới chính sách đối ngoại với các đối tác cụ thê. Với Lào và Campuchia, thực hiện đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả trên tinh thần bình đẳng. Với Trung Quốc, Đảng chú trương thúc đây bình thường hoá quan hệ, từng bước mở rộng hợp tác Việt — Trung. Trong quan hệ với khu vực, chú trương phát triên quan hệ hữu nghị với các nước Đang Nam Á và châu Á — Thái Bình Dương, phân đầu cho một Đang Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Đối với Hoa Kỳ, Đại hội nhẫn mạnh yêu cầu thúc đây quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam — Hoa Kỳ. Cương lĩnh xây đựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII của Đảng thông qua, đã xác định quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân đân tất cả các nước trên thế giới là một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân đân ta xây dựng. Các Hội nghị Trung ương (khoá VII) tiếp tục cụ thê hoá quan điểm của Đại hội VII về lĩnh vực đối ngoại. Trong đó, Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương hoá VII (6-1992) nhân mạnh yêu cầu đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Mở rộng để tiếp thu vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới, trên CƠ SỞ đảm bảo an ninh quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường , hạn chế đến mức tối thiêu những mặt tiêu cực phát sinh trong quá trình mớ cửa. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1-1994) chú trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo là: giữ vững nguyên tác độc lập, thống nhất và chú nghĩa xã hội đồng thời phải rất sang tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thê của Việt Nam cũng như diễn biễn của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng. Như vậy, quan điểm, chủ trương đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI, sau đó được các Nghị quyết trưng ương từ khoá VI đến khoá VII phát triển đã hình thành đường lỗi đối ngoại độc lập tự chú, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. *Giai đoạn 1996 — 2008: Bồ sung và phát triển đường lối đối ngoại theo phương châm chú động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh mở” và “đây nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đại hội VIII xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như: ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN; không ngừng củng cô quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với các nước phát triên và các trung tâm kinh té - chính trị thế giới; đoàn kết với các nước đang phát triên, với phong trào không liên kết; tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt động của các tô chức quốc tế, các điễn đàn quốc tê. So với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có đặc điểm mới là: một là, chủ trương mớ rộng quan hệ với các đáng câm quyên và các đảng khác; hai là, quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phú; ba là, lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chú trương thứ nghiệm đề tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Cụ thể hoá quan điểm của Đại hội VIII, Nghị quyết Hội nghị lần thức tư Ban chấp hành Trung ương, khoá VII (12-1997), “chỉ rõ: trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhật quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài. Nghị quyết đề ra chủ trương tiễn hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Tại Đại hội đại biêu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001), Đảng nhân mạnh chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quôc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Lần đầu tiên, Đảng nêu rõ quan điêm vẻ xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: “Xây dựng nên kinh tế độc lập tự chú, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xâu dựng nên kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tông hợp phát triển đất nước”. Cảm nhận đầy đú “lực” và “thế” của đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội IX đã phát triển phương châm của Đại hội VI là: “Việt Nam sẵn sang là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc té, phân đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Chủ trương xây dựng quan hệ đối tác được đề ra ở Đại hội IX đánh dấu bước phát triển về chất tiễn trình quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mỚiI. Tháng 11-2001, Bộ chính trị ra Nghị quyết 07 về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thê và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc té. Hội nghị lần thức chín Ban Chấp hành Trung ương khoá IX (5-1-2004) nhân mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước đề sớm gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO); kiên quyết đâu tranh với mọi biêu hiện của các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiễn trinh hội nhập kinh tế quốc tế. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng(4-2006), Đảng nêu quan điểm: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chú, hoà bình, hợp tác và phát triên; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Đồng thời đè ra chú trương “chú động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Chú động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chú động quyết định đường lối, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, không để rơi vào thê bị động; phân tích lựa chọn phương thức hội nhập đúng, dự báo được những tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế, không đê rơi vào thê bị động; phân tích, lựa chọn phương thức hội nhập đúng, dự báo được những tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc. tế. Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị điều chỉnh, đôi mới bên trong, từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn; từ trung ương đến địa phương, doanh nghiệp; khân trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; tích cực, nhưng phải thận trọng, vững chắc. Chú động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải là ý chí, quyết tâm của Đảng, Nhà nước, toàn đân, của mọi doanh nghiệp thộc các thành phần kinh tế và toàn xã hội. Như vậy, đường lỗi đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế được xác lập trong mười năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1996), đến Đại hội X (2006) được bồ sung, phát triển theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chú,hoà binh, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế 2.2.a Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo Trong các văn kiện liên quan đến lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đều chỉ rõ cơ hội và thách thức của việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, trên cơ sở đó Đảng xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại. *Cơ hội và thách thức Về cơ hội: Xu thế hoà bình, hợp tác phát triển và xu thế toàn cầu hóa kinh tế tạo thuận lợi cho nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mặt khác, thắng lợi của sự nghiệp đôi mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên trường quốc tế, tạo tiền đề mới cho quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc té. Về thách thức: Những vấn đẻ toàn cầu như phân hoá giàu nghèo, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia.. .gây tác động bất lợi đối với nước ta. Nền kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia; những biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ân nguy cơ gây rỗi loạn, thậm chí khủng hoảng kinh tế - tài chính. Ngoài ra, lợi dụng toàn cầu hoá, các thế lực thù địch sứ dụng chiêu bài “dân chủ”, quyền” chống phá chế độ chính trị và sự ồn định, phát triên của nước ta. Những cơ hội và thách thức nêu trên có môi quan hệ, tác động qua lại, có thê chuyên hoá lẫn nhau. Cơ hội không tự phát huy tác dụng mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo thế và lực mới đê vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại, nêu không năm bắt, tận dụng thì cơ hội có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên, lấn át cơ hội, cản trở sự phát triên. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp, nhưng tác động đến đâu còn tuỳ thuộc vào khả năng và nỗ lực của chúng ta. Nếu tích cực chuẩn bị, có biện pháp đói phó hiệu quả, vươn lên nhanh trước sức ép của các thách thức thì không những sẽ vượt qua được thách thức, mà còn có thê biến thách thức thành động lực phát triên. *Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngọai Lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ồn định; tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đề phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Mớ rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là đê tạo them nguồn lực đáp ứng yêu câu phát triển của đất nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành nguồn lực tổng hợp đẻ đây mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công băng, dân chú, văn minh; phát huy vai trò và nâng cao vị thê của Việt Nam trong quan hệ quốc tế; góp phân tích cực vào Cuộc đầu tranh chung của nhân dân thê giới và hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiễn bộ xã hội. *Tư tưởng chỉ đạo Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chú nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam. Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đây mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; có gắng thúc đây mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh đưới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối tác; đấu tranh đề hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh đẻ bị đây vào thê cô lập. Mớ rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lănh thô trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hoà bình, hợp tác với khu vực; chủ động tham gia các tô chức đa phương, khu vực và toàn cầu. Kết hợp đối ngoại cúa Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội nhập kinh tês quốc tế là công việc của toàn dân. Giữ vững ồn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sứ đụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; xây dựng nên kinh tếđộc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất nưởctong quá trình hội nhập kinh tế quốc té. Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đây nhanh nhịp độ cải cách thê chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chú trương, định hướng của Đảng và Nhà nước. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tô quôc và các đoàn thê nhân dân, tanưg cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong tiền trình hội nhập kinh tế quôc tế. 2.2.b. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế Trong các văn kiện của Đảng liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá (2- 2007) đã đẻ ra một số chú trương, chính sách lớn như: Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ồn định, bèn vững: Hội nhập sâu sắc và đầy đú vào nèn kinh tế thế giới, nước ta sẽ có địa vị bình đăng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập một trât tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi đề đấu tranh bảo vệ quyên lợi doanh nghiệp Việt Nam tranh các cuộc tranh chấp thương mại với các nước khác, hạn chế được những thiệt hại trong hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Chủ động và tích cực xác định lộ hội nhập hợp lý, trong đó cân tận dụng những ưu đãi mà WTO dành chocác nước đang phát triên và kém phát triên; chủ động và tích cực nhưng phải hội nhập từng bước, dần đând mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý. Bồ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thê chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO: bảo đảm tính đồng bộ của hệ thông. spháp luật; đa dnạg hoá các hình thức sở hữu, phát triên kinh tế nhiều thành phần; thúc đây, sự hình thành, phát triên và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây dựng các sắc thuế công băng, thông nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thê kinh doanh. Đây mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước: Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành chính không còn phù hợp; đây mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm và kiểm tra, giám sát; thực hiện công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phâm trong hội nhập kinh tế quốc tế: Nâng cao năng lực điều hành của Chính phú; tích cực thu hút đầu tư nước ngoài 10 để nâng cao sức cạnh tranh của nên kinh tế; các doanh nghiệp điều chỉnh quy mô và cơ cầu sản xuất trên cơ sở xác định đúng dẫn chiến lược sản phẩm và thị trường; điêu chính quy hoạch phát triên, nhanh chóng có biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm. Giải quyết tốt các vẫn đề văn hoá, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập: Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập; xây đựng cơ chế kiêm soát và chế tài xử lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hoá không lành mạnh, gây phương hại đến đến sự phát triển đất nước, văn hoá và con người Việt Nam; kết hợp hài hoà giữa giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống với tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá tiên tiễn trong quá trình giao lưu với các nền văn hoá bên ngoài. Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm, y tế; đây mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo; có các biện pháp cắm, hạn chế nhập khâu những mặt hàng có hại cho môi trường: tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ môi trường. Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; có các phương án chông lại âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thể lực thù địch. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoai: Tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân nhăm tăng cường hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mớ rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quôc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quôc tế bình đăng, công bằng, cùng có lợi. Đồi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tập trung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trọng tâm là cải cách hành chính. Thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân Thành tựu và ý nghĩa Hơn 20 năm thực hiện đường lỗi mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế, nước ta đã đạt được những kết quả: Một là, phá thế bao vây, cắm vận của các thể lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc tham gia ký Hiệp định Pái (23-10-1991) về một giải pháp toàn diện cho vấn đẻ Camphuchia, đã mở ra tiền đề để Việt Nam thúc đây quan hệ với khu vực và cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (10-11-1991); tháng 11-1992 Chính phú Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam; bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ (11-7-1995). Tháng 7-1995 Việt Nam gia nhập ASEAN, đánh dấu sự hội nhập của nước ta với khu vực Đông Nam Á. Hai là, giải quyết hoà bình các vẫn đề biện giới, lãnh thô, biên đảo với các nước liên quan. Đã đàm phán thành công với Malaysia về giải pháp “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở vùng biên chồng lấn giữa hai nước. Thu hẹp diện tranh chấp vùng biên giữa ta và các nước ASEAN. Đã ký với Trang Quốc: Hiệp ước về phân định biên giới trên bộ, Hiệp định phân Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác về nghề cả. Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan hệ chínhthức với tất cả các nước lớn, kê cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tất cả các nước lớn đều coi trọng vai trò của Việt Nam ở Đông Nam Á. Đã ký Hiệp định khung về hợp tác với EU (1995); năm 1999 ký thoả thuận với Trung Quốc khung khổ quan hệ “ Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ồn định lâu dài, hướng tới tương lai”; tháng 5-2008 thiết lập quan hệ đối tác hợp tác toàn điện Việt Nam — Trung Quốc; ngày 13-7-2001, ký kết Hiệp định thương mại song phương việt Nam — Hoa Kỷ; tuyên bồ về quan hệ đối tác chiến lược với Nga (2001); khung khô quan hệ đối tác tin cậy và ồn định lâu đài với Nhật Bản (2002). Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 169 nước trên tông số hơn 200 nước trên thế giới. Tháng 10-2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm uý viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008-2009. Bốn là, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế. Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như: Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triên châu Á (ADB); sau khi gia nhập ASEAN ( AFTA); tháng 3-1996, tham gia Diễn đàn hợp tác Á — Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; tháng 11-1998, gia nhập tô chức Diễn đàn hợp tác châu Á - Thái Bình Dương (APEC); ngày 11-1-2007, Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thể giới (WTO). Năm là, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ và kỹ năng quản lý. Về, mở rộng thị trường: Nước ta đã tạo đựng được quan hệ kinh tế thương mại với trên 180 quốc. gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 74 nước áp dụng quy chế tối huệ quốc; thiết lập và ký kết hiệp định thương mại hai chiều với gần 90 nước và vùng lãnh thổ. Nếu năm 1986 kim ngạch xuất kâu chỉ đạt 789 triệu USD, đến năm 2007 đạt 48 tỷ USD; năm 2008 đạt khoảng 62,9 tỷ USD. Việt Nam đã thu hút được khối lượng lớn đầu tư nước ngoài. Năm 2007, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt 20,3 tý USD; năm 2008 đạt khoảng 65 tỷ USD. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội đề nước ta tiếp cận những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyên sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Đồng: thời, thông qua dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghoệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại. Sáu là, từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh. Trong quá trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh đề tồn tại và phát triên. Tư duy làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm thước đo và đội ngũ các nhà doanh nghiệp mới năng động, sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành. Những kết quả trên đây có ý nghĩa rất quan trọng: đã tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài kết hợp với các nguồn lực trong nước hình thành sức mạnh tổng hợp góp phần đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn. Góp phân giữ vững và cúng cô độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quôc gia và bản sắc văn hoá dân tộc; nâng cao vị thế và phát huy vai trò nước ta trên trường quôc tế. Hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế cũng bộc lộ những hạn chế: Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động. Một sô chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tô chức kinh tế quôc tế. Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thê và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết. Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yêu kém cả về quản lý và công nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết câu hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực. Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng. Cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về luật pháp quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh. Quá trình thực hiện đường lôi đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 đến 2008 mặc dù còn những hạn chế nhưng thành tựu là cơ bản, có ý nghĩa rất quan trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nền kinh tế Việt Nam có bước phát triên mới; thế và lực của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Các thành tựu đối ngoại trong hơn 20 năm qua đã chứng minh đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đôi mới là đúng đắn và sáng tạo. Thực tiễn và chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Thế giới trong thế kỷ XXI tiếp tục chứng kiến nhiều. biến đôi phức tạp và khó lường. Toàn cầu hoá tiếp tục phát triên sâu rộng và tác động tới tất cả các nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc té. Hoà bình, hợp tác và phát triền vân là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, đân tộc trong quá trinh phát triên. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đồ, khúng bố vẫn xây ra ở nhiều nơi với tính chất và hình thức ngày càng đa dạng và phức tạp. Thế ký 21 đang mớ ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chưa đựng rất nhiều thách thức. Sau gần hai thập ký tiên hành công cuộc Đôi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ồn định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thể tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện đề Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thê giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hoà bình đo các thế lực thù địch gây ra đến nay vẫn tồn tại và diễn biễn phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau. Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong gần hai thập ký tiên hành công cuộc Đồi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công băng, dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lỗi đối ngoại độc lập, tự chú, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chú động hội nhập quốc tế với phương châm “ Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tắt cả các nước trong cộng đông thế giới phần đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển." Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, trong đó ưu tiên cho việc phát triển quan hệ với các nước láng giêng và khu vực, với các nước và trung tâm chính trị, kinh tế quốc tẾ lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc. Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động đàm phán và ký kết với nhiều nước trong và ngoài khu vực những khuôn khổ quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn điện cho thế kỷ 21. Nhiều Hiệp định, thoả thuận quan trọng đã được ký kết như Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định về biên giới trên bộ, Hiệp định về phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá với Trung Quốc, Hiệp định về phân định thèm lục địa với Indonesia... Các mối quan hệ song phương và đa phương đó đã góp phần không nhỏ vào việc không ngừng củng cô môi trường hoà binh, ôn định và tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tô quốc. Chú động hội nhập quốc té, trước hét là hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung quan trọng trong đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước "Việt Nam trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa và cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra rất mạnh mẽ hiện nay. Trong tiền trình hội nhập này, Việt Nam đặt ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Những đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động cúa các tô chức, điễn đàn quốc tế đã góp phần từng bước nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự tham gia và hoạt động tích cực của Việt Nam ở Liên Hợp Quốc cũng được các nước đánh giá tích cực và đó là cơ sở để Việt Nam ứng cử vào ghế Uý viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Với nhận thức sâu sắc răng thế giới hiện nay đang phải đối phó với những vấn đề toàn cầu mà không một nước nào có thê tự đứng ra giải quyết được, Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tÔ chức quôc: tế và khu vực đề cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói nghèo, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy, ... Đặc biệt từ sau sự kiện 11/2/2001, Việt Nam đã tích cực tham gia vào nỗ lực chung của các nước tăng cường hợp tác chống khủng bố trên cơ sở song phương và đa phương nhằm loại trừ tận gốc nguy cơ của khủng bồ đối với an ninh và ôn định của các quôc gia. Những nỗ lực này của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của mình đối với bạn bè ở khu vực và quôc tế, góp phần vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, ồn định và phát triền. Đường lối, chủ trương của Đảng ta trong vấn đề biển Đông Đường lối của Đảng ta trong vẫn đề biến Đông Công tác tuyên truyền là một phần quan trọng trong công tác chính trị tư tưởng của Đảng. Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác tuyên truyền đã trở thành một vũ khí cực kỳ sắc bén trên mặt trận đấu tranh tư tưởng và ngoại giao, góp phân quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong những năm vừa qua, cùng với việc tuyên truyền toàn điện, sâu rộng về công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, công tác tuyên truyền về chủ quyền biên, đảo được tiến hành thường xuyên và có kết quả, góp phần nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và của nhân dân về chủ quyền biên, đảo của Tổ quốc. Công tác tuyên truyền về chủ quyên biên, đảo đã đóng góp tích cực vào việc đấu tranh bảo vệ chú quyên quốc gia trên biên trước các hành vi, thủ đoạn xâm lấn và gây mắt ôn định trên biến. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác tuyên truyền chủ quyên biên, đảo thời gian qua còn bộ lộc nhiều hạn chế: Vẫn còn đề một bộ phận cán bộ và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về cơ sở pháp lý cũng như những cứ liệu lịch sử khăng định chú quyền biên, đảo của nước ta; cộng đồng quôc tế, đặc biệt là một số nước trong khu vực chưa có đú thông tin pháp lý về chủ quyên biền, đảo của Việt Nam cũng như đường lỗi đối ngoại của Việt Nam trong giải quyết các vấn đề liên quan đến hòa bình và ồn định ở biên Đông. Nguyên nhân của những hạn chế trên là do chúng ta có lúc, có nơi còn chưa quan tâm đúng mức đến công tác tuyên truyền về chủ quyền biển đảo; việc xác định phạm vị, đối tượng tuyên truyền còn bất cập; nội dung tuyên truyền chưa thực sự khoa học, phù hợp; phương pháp tuyên truyền còn đơn điệu; phương tiện tuyên truyền chưa đa dạng, chưa liên tục và đôi khi chưa kịp thời; việc tuyên truyền đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái cúa các thế lực thù địch trong các vấn đè liên quan tới chủ quyền biển, đảo còn thụ động và chưa đồng bộ.. Đề tiếp tục tuyên truyền sâu rộng về nhiệm vụ phát triên kinh tế biển, đảo phục vụ CNH, HĐH đất nước, nhiệm vụ xây dựng thể trận quốc phòng, an ninh bảo vệ chủ quyên biên, đảo Tô quốc trong tình hình mới, chúng ta cân phải tiếp tục đây mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao hiệu quả tuyên truyền và coi đây là vũ khí đầu tranh hiệu quả trước các âm mưu, thủ đoạn gây tranh chấp vê chủ quyền biên, đảo. Việc tổ chức, triên khai công tác tuyên truyền trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số giải pháp, yêu cầu cơ bản sau: Tăng cường vai frò lãnh dạo của Đảng và Nhà nước đỗi với công túc tuyên truyên về chủ quyên biển, đáo. Đây là yêu cầu tiên quyết đặt ra đôi với việc đây mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biên, đảo trong tình hình mới. Công tác tuyên truyền về chủ quyèn biến, đảo đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất từ Trung ương tới cơ sở và sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các địa phương; cần quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tuyên truyền chủ quyền biên, đảo; triên khai thực hiện công tác tuyên truyền về chủ quyèn biên, đảo ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoàn thiện hệ thông pháp luật, cơ. chế, chính sách của Nhà nước về biển, đảo và công tác tuyên truyền về chủ quyên biển, đáo. Trong đó cần xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các đoàn thê, các tô chức chính trị - xã hội, đặc biệt là các cơ quan thông tấn, báo chí trong việc triên khai thực hiện công tác tuyên truyền về chủ quyền, biển đảo. Cần có quy định vê việc phối hợp giữa các cơ quan truyền thông trong nước với Các cơ quan truyền thông quốc tế đề triên khai các hoạt động thông tin tuyên truyền về biên, đảo Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo cúa Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước và sự phối hợp chặt chẽ
File đính kèm:
- tieu_luan_muc_tieu_nhiem_vu_va_tu_tuong_chi_dao_cong_tac_doi.docx