Tiểu luận Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu trong giai đoạn hiện nay

doc 29 trang yenvu 29/10/2023 1420
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu trong giai đoạn hiện nay

Tiểu luận Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu trong giai đoạn hiện nay
 A- PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của tiểu luận
 Công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động cách mạng của Đảng Cộng sản. Cùng với công tác tổ chức và công tác chính trị, công tác tư tưởng góp phần xây dựng Đảng thành đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và đường lối của Đảng trong cán bộ, đảng viên, quần chúng đem lại cho họ sự giác ngộ về thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản, biến nó thành niềm tin, lý tưởng, lẽ sống, nguyên tắc đạo đức, tình cảm cách mạng. Trên cơ sở đó, nhân dân sẽ tự giác hành động cách mạng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng đi đến thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội. Câu nói Bác Hồ đã khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu của công tác tuyên truyền " Công việc thành hay bại đều do tư tưởng và lề lối làm việc đúng hay sai"
 Chính vì vậy, từ khi ra đời đến nay Đảng ta luôn coi trọng công tác tư tưởng, xác định đây là mặt trận hàng đầu, góp phần quyết định cho mọi thắng lợi của cách mạng, tạo nên sức mạnh tổng hợp để dân tộc Việt Nam chiến thắng kẻ thù xâm lược và tạo nên những thành tựu to lớn mang ý nghĩa lịch sử trong quá trình đổi mới hiện nay 
Với tình hình thực tiễn của địa phương, Than Uyên là một huyện miền núi mới được chia tách và thành lập, trình độ dân trí không đồng đều, kinh tế phát triển chủ yếu là Nông- Lâm nghiệp; Đảng bộ huyện Than Uyên luôn xác định công tác tư tưởng là công tác của toàn Đảng bộ, là nhiệm vụ của mỗi cấp uỷ và toàn thể cán bộ, đảng viên và các tổ chức trong hệ thống chính trị 
Là một phó bí thư chi bộ, trong đơn vị làm công tác tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ địa phương; cùng với kiến thức đã được học tập, nghiên cứu, tôi chọn đề tài: 
“Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu trong giai đoạn hiện nay” làm tiểu luận cuối khoá.
2. Mục đích, của tiểu luận 
Mục đích: Phân tích thực trạng và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Than Uyên trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ: 
Thứ nhất. Khái quát một số vấn đề vấn đề lý luận về công tác tư tưởng.
Thứ hai. Đánh giá tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng của Đảng bộ huyện Than Uyên hai năm nhiệm kỳ đến nay.
Thứ ba. Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Than Uyên, giai đoạn 2010-2015.
3. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về công tác tư tưởng.
 Một số phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, nhằm gắn lý luận với thực tiễn ở địa phương.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Thời gian: Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong 2 năm (2010 - 2011 ). 
Không gian: Tiểu luận được thực hiện trên địa bàn huyện Than Uyên
5. Kết cấu của tiểu luận
 Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận được chia làm 3 Chương;
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về công tác tư tưởng.
Chương 2: Thực trạng công tác tư tưởng của Đảng bộ huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu hai năm đầu Nhiệm kỳ đến nay.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng bộ huyện Than Uyên, giai đoạn 2010-2015.
 B-PHÂN NỘI DUNG
 CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
 I. KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG, HỆ TƯ TƯỞNG 
 1. Khái niệm tư tưởng 
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì toàn bộ đời sống xã hội bao gồm tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội như thế ấy. 
Ý thức xã hội là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, lý luận, truyền thống, tâm trạng, phản ánh tồn tại xã hội. Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất tư tưởng là một hình thức tồn tại của ý thức xã hội, là kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, trở thành kinh nghiệm và sự hiểu biết trong tâm trí mỗi con người. 
Tư tưởng thuộc phạm trù ý thức, gắn liền với hoạt động của con người, là sản phẩm chủ quan của con người, tư tưởng của mỗi người phụ thuộc vào đối tượng phản ánh và trình độ nhận thức của họ. Tuy nhiên, tư tưởng cũng có tính độc lập tương đối của nó, nó cũng có tác động trở lại đối với hiện thực khách quan và có những quy luật vận động riêng. Đây là cơ sở để tiến hành công tác tư tưởng. 
2. Hệ tư tưởng
Hệ tư tưởng là những quan điểm, tư tưởng được con người tư duy tích cực, tự giác, hệ thống hoá thành lý luận, học thuyết chính trị, phản ánh tồn tại xã hội và đại diện cho một giai cấp nhất định.
Các quan điểm, các học thuyết chính trị có thể biểu hiện bằng các hình thức khác nhau, nhưng đều phản ánh cô đọng nhất những quan điểm, tư tưởng giai cấp. Học tư tưởng không dừng lại ở quan điểm, học thuyết mà nó được công khai tuyên truyền, giác ngộ, đấu tranh để bảo vệ lợi ích giai cấp, trong hệ tư tưởng cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy “Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng, của cách mạng Việt Nam”.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
Công tác tư tưởng là một trong những hoạt động quan trọng bậc nhất của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trình tự của công tác tư tưởng là xác lập, phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, định hướng nhằm thực hiện thắng lợi lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Trong đó tạo lập lòng tin là quan trọng nhất. Trong Đảng, công tác tư tưởng là hoạt động xây dựng Đảng về trí tuệ chính trị tư tưởng góp phần bảo đảm cho Đảng luôn luôn là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. 
1. Công tác tư tưởng có vị trí rất quan trọng trong xây dựng Đảng
Tư tưởng là một bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Cùng với xây dựng Đảng về chính trị và tổ chức, công tác tư tưởng là nhân tố góp phần làm cho Đảng luôn luôn vững mạnh. 
Các văn kiện của Đảng qua mọi thời kỳ cách mạng đã xác định nhiệm vụ cho công tác tư tưởng và luôn đề ra khẩu hiệu phù hợp để tập hợp quần chúng đấu tranh cho mục tiêu chung. 
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đặt công tác tư tưởng lên vị trí hàng đầu nhằm truyền bá sâu rộng Cương lĩnh, Đường lối của Đảng trong nhân dân. Đầu năm 1930, Ban cổ động và tuyên truyền của Đảng được thành lập và ngày 1/8/1930 trở thành ngày truyền thống của ngành Tư tưởng - Văn hoá.
Đại hội VI của Đảng(1986) - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới Đất nước, qua đó tạo cơ sở cho đổi mới về công tác tư tưởng. Đại hội lần thứ VII (1991) đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng và cách mạng Việt Nam ”. Đại hội VIII (1996) chủ trương đẩy mạnh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước. Với sự ra đời của Hội đồng lý luận Trung ương và các Nghị quyết của Trung ương. Đại hội IX của Đảng(2001) Nghị quyết Đại hội đã chỉ rõ công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém bất cập và đề ra nhiệm vụ: Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đánh giá công tác tư tưởng trong tình hình mới như sau: “Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng được coi trọng. Đã từng bước đổi mới công tác giáo dục tư tưởng chính trị, nghiên cứu, học tập các Nghị quyết của Đảng, tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Công tác tư tưởng đã góp phần nâng cao nhận thức, tính tích cực của cán bộ đảng viên, nâng cao lòng tin của nhân dân vào đường lối đổi mới, tạo sự nhất trí trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Tuy nhiên, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn nhiều hạn chế, thiếu sót; tính định hướng, tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả chưa cao; thiếu chủ động và sắc bén trong đấu tranh chống “diễn biến hoà bình". Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống còn chung chung, kém hiệu quả. Công tác nghiên cứu lý luận còn yếu, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới”. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát và tư tưởng; thường xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
 2. Vai trò của công tác tư tưởng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội Việt Nam
C.Mác - Vị lãnh tụ thiên tài, người thầy của giai cấp vô sản thế giới đã khẳng định: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất. Nhưng lý luận cũng có thể trở thành vật chất một khi nó đã thâm nhập vào quần chúng”. C.Mác, Ăngnghen, Tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 25.
.
Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch và phản cách mạng đang ra sức chống, phá chúng ta trên mọi lĩnh vực, trong đó chúng coi trọng chính trị, tư tưởng; chúng đang tập trung chĩa mũi nhọn vào các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, mà Việt Nam là một trọng điểm trong chiến lược “Diễn biến hoà bình”. Chính vì thế mà trên lĩnh vực tư tưởng cần tuyên truyền, giáo dục để khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
III. CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Thực trạng công tác tư tưởng
1.1. Tình hình tư tưởng
Trong những năm qua mặc dù đương đầu với những khó khăn, thử thách mới gay go, phức tạp nhưng nhìn chung đời sống chính trị tinh thần của xã hội phát triển theo chiều hướng thuận, tích cực vẫn là chính, tuy mặt tích cực và tiêu cực còn đan xen nhau.
Có thể khẳng định rằng lòng tin của nhân dân đối với chế độ, với Đảng tiếp tục được phát huy, là nhân tố cốt lõi tạo nên mặt thuận của công tác tư tưởng. Toàn Đảng, toàn dân vẫn kiên định con đường phát triển đất nước, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kiên định mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Bên cạnh những mặt tích cực, mặt tiêu cực của tình hình tư tưởng bộc lộ khá rõ, những yếu kém của hệ thống chính trị đã được chỉ ra trong các Nghị quyết của Đảng, các văn bản của Nhà nước. Một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên có sự thoái hoá biến chất, phai nhạt lý tưởng, dao động mục tiêu xã hội chủ nghĩa, bi quan dao động. Những điều đó đã và đang làm giảm lòng tin của quần chúng đối với Đảng, với chế độ.
1.2. Thực trạng công tác tư tưởng
Những năm qua công tác tư tưởng luôn luôn nắm vững việc kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta. Đây là bước phát triển hết sức quan trọng trong nhận thức lý luận, chính trị, tư tưởng, đảm bảo cho Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới giành thắng lợi, không lệch hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững bản sắc dân tộc.
1.3.Những yếu kém và hạn chế
Công tác tư tưởng chưa xây dựng được chiến lược tư tưởng - văn hoá thiếu dự báo tình hình tư tưởng để đề ra phương hướng nhiệm vụ cho công tác tư tưởng, còn lúng túng cả về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức. Công tác tuyên truyền, giáo dục, quản lý văn hoá chưa tốt, đấu tranh lý luận chưa sắc bén, còn bị động, thiếu sâu sát, sức thuyết phục chưa cao. Công tác tuyên truyền ở cơ sở xã, phường, ở miền núi còn nhiều hạn chế, phương tiện làm việc còn khó khăn, công tác kiểm tra thực hiện các Quyết định của Đảng về lĩnh vực tư tưởng - văn hoá chưa được coi trọng đúng mức. Vì vậy công tác tư tưởng trên đây đặt ra đối với các cấp uỷ Đảng và đội ngũ những người làm công tác tư tưởng - văn hoá phải nỗ lực hơn nữa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công tác tư tưởng trong thời gian tới.
2. Những định hướng lớn trong công tác tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn xác định lý tưởng và mục tiêu phấn đấu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, có độc lập dân tộc mới có điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội và cũng chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thật sự đem lại độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân.
Chiến lược phát triển hiện nay củaViệt Nam là, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế - mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về Giáo dục và Đào tạo, Khoa học và Công nghệ, phát huy nhân tố con người, tạo nhiều việc làm cơ bản, xoá đói, giảm số hộ nghèo, đẩy lùi tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, hình thành một bước quan trọng cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh Quốc gia.
Nghị quyết Đại hội XI, Đảng xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ của công tác tư tưởng trong giai đoạn cách mạng mới: Đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu nhân dân, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Công tác tư tưởng cần nâng cao tính chiến đấu và sức thuyết phục. Bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và những vướng mắc trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, hoàn thiện hệ thống giá trị của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giảng dạy và học tập lý luận, công tác thông tin tuyên truyền, cổ động, báo chí, xuất bản, văn hoá, nghệ thuật, nắm bắt và định hướng dư luận xã hội. Kiện toàn tổ chức, nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận, nhất là cán bộ chủ chốt, từng bước hiện đại hoá điều kiện, phương tiện công tác tư tưởng - văn hoá.
Đẩy mạnh học tập, quán triệt, làm theo tư tưởng đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng.
Trên đây là những định hướng lớn của công tác tư tưởng - văn hoá, góp phần thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Trước mắt phải thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra.
Tóm lại: Tư tưởng là một hình thức tồn tại của ý thức xã hội, là kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, trở thành kinh nghiệm và sự hiểu biết trong tâm trí con người. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng, của cách mạng Việt Nam và công tác tư tưởng là hoạt động quan trọng bậc nhất của Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
 CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN THAN UYÊN TỈNH LAI CHÂU TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HUYỆN THAN UYÊN
1. Đặc điểm chung
 Huyện Than Uyên nằm ở phía Đông nam tỉnh Lai Châu với vị trí của ngõ của tỉnh, có trục Quốc lộ 32 và Quốc lộ 279 chạy qua, tuyến đường giao thông huyết mạch nối liền với các huyện trong tỉnh, và các tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Sơn la; huyện có tổng diện tích đất tự nhiên là 79.678,6 ha. Huyện có 11 xã, 01thị trấn, 158 khu phố, thôn bản với 11.434 hộ. Dân số 57.172 người, gồm 10 dân tộc cùng sinh sống. Năm 2011 huyện có 7 xã trong chương trình 135 và là huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ.
2. Đặc điểm kinh tế – xã hội
 Huyện có 7/12 xã, thị trấn thuộc diện đặc biệt khó khăn, tỷ lệ đói nghèo cao, cơ sở hạ tầng, nền kinh tế ở điểm xuất phát thấp, sản xuất hàng hoá chậm phát triển và không đều giữa các vùng, thời tiết diễn biến thất thường. Địa hình rộng, dốc cao, có nhiều sông, suối, có tiềm năng khai thác để phát triển kinh tế Nông- Lâm nghiệp, làm thủy điện. Hiện nay huyện có 2 công trình thủy điện Quốc gia đó là thủy điện Bản Chát và Huổi Quảng khi hoàn thành và đưa vào sử dụng sẽ tạo tiềm năng để phát triển nghề nuôi trồng thủy sản, Du lịch sinh thái...
 Kế thừa và tiếp tục phát huy những thành tựu đạt được của Nhiệm kỳ XV. Mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Than Uyên lần thứ XVI đề ra: Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết, khai thác tiềm năng, lợi thế của huyện, tập trung các nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao dân trí; Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các hình thức sản xuất hiệu quả theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Nâng cao đời sống vật chất , tinh thần cho nhân dân; Giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh đưa Than Uyên cơ bản ra khỏi huyện nghèo. Để thực hiện được mục tiêu Đại hội đề ra Đảng bộ phải tập trung huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Chủ động khai thác tiềm năng lợi thế của huyện; đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kết hợp tái định cư các công trình thủy điện với khai thác tiềm năng du lịch – dịch vụ, tạo bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Từng bước đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Tăng cường công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội. Xây dựng Đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở trong sạch, vững mạnh. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, gắn với thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Tăng cường rèn luyện nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Tiếp tục thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, đẩy mạnh đổi mới phương thức hoạt của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội. 
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở ĐẢNG BỘ HUYỆN
THAN UYÊN TRONG 02 NĂM ĐẦU NHIỆM KỲ (2010 - 2015)
1. Khái lược về sự ra đời, xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ huyện Than Uyên 
Đảng bộ huyện Than Uyên được thành lập từ ( 07/08/1948) với truyền thống bề dày lịch sử trải qua hơn 60 năm xây dựng, đấu tranh và trưởng thành. Đảng bộ huyện Than Uyên đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là lãnh đạo quân, dân trong huyện cùng với cả nước đi qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Năm 2003 được Chủ Tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân huyện Than Uyên đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
 Trải qua 16 Đại hội, từ Đại hội khóa I tháng (5/1960 – 3/1963)... Đai hội khóa XV (10/2005 – 5/2010) Đại hội bầu 35 Đ/c vào ban chấp hành Đảng bộ, trong đó có 10 Đ/c được bầu vào Ban thường vụ. Trong nhiệm kỳ này, thực hiện Nghị định của chính phủ về điều chỉnh địa giới hành chính, chia tách huyện Than Uyên thành lập huyện Tân Uyên..
 Tháng 06/2010 Đảng bộ huyện Than Uyên tiến hành Đại hội Lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2010-2015; Bầu ban chấp hành gồm 34 đồng chí, Ban thường vụ 10 đồng chí. Toàn Đảng bộ huyện có 40 chi, đảng bộ trực thuộc Huyện uỷ, 124 chi bộ trực thuộc Đảng bộ cơ sở, 1.899 đảng viên. Chất lượng của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên không ngừng được nâng cao, đủ sức lãnh đạo nhân dân trong toàn huyện ở thời kỳ công nghiệp hoá- Hiện đại hoá quê hương đất nước.
 2. Những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua
2.1. Lãnh đạo phát triển kinh tế 
 Thực hiện phương hướng, nhiệm vụ do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Than Uyên lần thứ XVI đề ra, được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND Tỉnh và các sở, ban, ngành tỉnh, cùng với sự lãnh chỉ đạo sát sao của huyện ủy, HĐND-UBND và huyện, sự quyết tâm, phấn đấu thi đua và ý thức trách nhiệm cao trong việc thực hiện các nhiệm vụ của cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong huyện. Kinh tế có bước tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP 2 năm ( 2010 - 2011) đạt bình quân 16,2%, trong đó : nông, lâm nghiệp, thủy sản 13,6%, Công nghiệp, Xây dựng 16,4%, thương mại dịch vụ 20,6%, thu nhập bình quân đầu người/năm 2011 ước đạt 8,5 triệu đồng/năm 
 Về sản xuất Nông - Lâm nghiệp: Sản xuất Nông - Lâm nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, đưa các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, trồng trọt và chăn nuôi. Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2011 đạt 24.329 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 425kg/năm.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định. Tốc độ tăng trưởng đàn gia súc đạt bình quân 6,5 - 7% năm. Tổng đàn gia súc hiện có trên 45 nghìn con. Công tác trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ khoanh nuôi rừng được chú trọng. Trong năm 2011 thực hiện trồng mới 214,1ha rừng, đạt 93,1% chỉ tiêu Nghị quyết, tỷ lệ độ tán che phủ rừng đạt 34%. 
 Công nghiệp, khoa học công nghệ: Có sự tăng trưởng nhanh, nhất là các ngành khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng, gia công cơ khí, các nghề dệt thổ cẩm, sản xuất và phân phối điện nước.....giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 2011 đạt 60,142 tỷ đồng. Tổ chức xét công nhận 310 đề tài sáng kiến kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, trong đó: 73 đề tài đạt loại A, 190 đề tài đạt loại B, 47 đề tài đạt loại C.
Hoạt động Tài chính, Ngân hàng, Thương mại: Công tác thu, chi ngân sách, đảm bảo quản lý tốt các nguồn thu. Tổng thu ngân sách trên địa bàn năm 2011 ước đạt 290.459 triệu đồng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn đàu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Hoạt động thương mại, dịch vụ có bước phát triển, tổng giá trị thương mại, dịch vụ năm 2011 ước đạt 258,14 tỷ đồng. 
Xây dựng hạ tầng kinh tế- xã hội: Đảng bộ huyện chỉ đạo ưu tiên tập trung các nguồn lực đầu tư xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi, điện, nước sinh hoạt, trường học vv.. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn huyện năm 2011 theo kế hoạch 108,633 triệu đồng. Hiện nay 12/12 xã, thị trấn có đường ôtô đến trung tâm xã; 158/158 thôn bản có đường xe máy. Toàn huyện có 128 công trình thuỷ lợi, kênh mương nội đồng được kiên cố hoá, đáp ứng nước tưới tiêu cho gần 4.000 ha đất ruộng nước, tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch đạt 92%, dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 82%; 10/12 xã, thị trấn được sử dụng điện lưới quốc gia, tỷ lệ hộ gia đình được sử dụng điện đạt 82%.
Thực hiện chuyển giao khoa học công nghệ, các mô hình, dự án: Tăng cường chỉ đạo thực hiện công tác khuyến nông, chuyển giao khoa học kỹ thuật, các mô hình dự án giúp nhân dân tiếp cân và ứng dụng vào sản xuất . Triển khai khảo sát các mô hình giống mới, qua khảo nghiệm cho thấy các giông lúa mới, ngô mới sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng xuất khá cao, phù hợp với khí hậu địa phương có khả năng đưa vào sản xuất đại trà.
Chương trình xây dựng nông thôn mới: Chỉ đạo các xã thành lập ban chỉ đạo, ban quản lý, tổ khảo sát xây dựng nông thôn mới; thành lập các ban phát triển thôn bản, tổ khảo sát thôn bản. Tổ chức tập huấn về xây dựng nông thôn mới cho 80 cán bộ, công chức các xã. Phê duyệt đề cương nhiệm vụ khảo sát chung và điều tra khảo sát thực trạng 10/12 xã. Đã có 03 xã hoàn thành báo cáo thực trạng và ký hợp đồng tư vấn.
Thực hiên chương trình di dân tái định cư thủy điện Bản chát – Huổi quảng: Công tác di dân tái định cư công trình thủy điện Bản Chát – Huổi Quảng đã được các cấp lãnh đạo tỉnh, huyện quan tâm chỉ đạo thực hiện các chính sách của TW, , tỉnh về công tác bồi thường , hỗ trợ tái định cư được tuyên truyền sâu rộng đến nhân dân các thôn bản vùng di dân, vùng quy hoạch tái định cư. Tính đến 25/11/2011 tổng số hộ đã di chuyển hoàn thành 1.907/2.434 hộ đạt 78,3% kế hoạch,cồn 527 hộ chưa di chuyển trong đó thủy điện Huổi quảng 228 hộ, thủy điện bản Chát 299 hộ. Triển khai chia đất sản xuất cho các khu, điểm tái định cư nhanh chóng ổn định đời sống cho các hộ tái định cư.
2.2. Lãnh đạo phát triển Văn hoá - Xã hội
Hoạt động văn hoá - xã hội từng bước được xã hội hoá và có nhiều tiến bộ, đời sống tinh thần của nhân dân được nâng lên.
Về giáo dục và đào tạo: Sự nghiệp giáo dục đào tạo luôn được các cấp ủy đảng và chính quyền quan tâm lãnh,chỉ đạo. Đội ngũ giáo viên từng bước được chuẩn hóa, công tác xã hội hóa giá dục đã và đang có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác quản lý giáo dục từng bước được đổi mới hiệu quả, tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi được huy động ra lớp mẫu giáo đạt 97% , tỉ lệ giáo viên đạt chuẩn đạt 99%. Duy trì và giữ vững phổ câp Giao dục Tiểu học – CMC, phổ cập Trung học đúng độ tuổi ở 12 xã, thị trấn; Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở hàng năm đạt 98%: Có 04 đơn vị trường đạt chuẩn Quốc gia (Đạt 80% kế hoạch). Toàn huyện có 15.909 học sinh/733 lớp/54 trường, trong đó có 03 trường trung học phổ thông, 01 trung tâm giáo dục thường xuyên, 01 trường dân tộc nội trú, 12.165 học sinh là con em đồng bào các dân tộc thiểu số. 
Về chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số, gia đình và trẻ em: Hệ thống Y tế từ huyện đến cơ sở được quan tâm đầu tư xây dựng, các trạm y tế xã và phòng khám đa khoa khu vực được cải tạo nâng cấp và xây mới. Đội ngũ cán bộ y, bác sỹ được tăng cường cả về số lượng, chất lượng và năng lực chuyên môn, tinh thân trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân được năng lên rõ rệt. 100% trạm y tế xã được bố trí đảm bảo biên chế theo quy định, các thôn bản đều có nhân viên y tế. Chất lượng khám chữa bệnh ngày được nâng lên, bình quân số lượt khám bệnh năm 2011 là 2,7 lần/người/năm. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 20%. Chủ động các biện pháp phòng, chống và ngăn chặn kịp thời, hiệu quả các loại dịch bệnh sảy ra trên địa bàn. Các chương trình y tế Quốc gia đều đạt kết quả khá,đẫ có 07 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia. Công tác dân số - KHHGĐ được duy trì, mức tỉ lệ giảm sinh 0,3%o. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên giảm xuống 28,1%o (năm 2011) 
Về văn hoá thông tin - thể thao và chính sách xã hội: Phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được các cấp uỷ, chính quyền quan tâm; năm 2011 tỉ lệ hộ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa là 86%, 92% thôn bản, khu phố, 82%số cơ quan đơn vị trường học đạt tiêu chuẩn văn hóa. Hệ thống bưu chính, viễn thông mở rộng tới các vùng sâu vùng xa, 12/12 xã, thị trấn được phủ sóng điện thoại di động. Hệ thống phát thanh - truyền hình được đầu tư nâng cấp đáp ứng nhu cầu thông tin tuyên truyền nhiệm vụ chính trị của địa phương, nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân. Tỷ lệ hộ dân được nghe đài phát thanh 97%, tỷ lệ hộ được xem truyền hình đạt 92%.
Công tác xoá đói giảm nghèo được quan tâm chỉ đạo, các nguồn vốn 167, 135, Nghị quyết 30a của Chính phủ được thực hiện có hiệu quả, đã hỗ trợ làm nhà ở cho 1256 hộ nghèo; tỷ lệ hộ nghèo giảm 5%/năm 2011 phấn đấu giảm xuống 5,5% năm 2012.
2.3. Lãnh đạo nhiệm vụ quốc phòng - an ninh
Công tác quốc phòng được củng cố và tăng cường, duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, phối hợp với các lực lượng năm chắc tình hình đian bàn, chỉ đạo các đơn vị củng cố lực lượng, tổ chức huấn luyện, diễn tập theo kế hoạch... luôn gắn nội dung kinh tế với quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, huấn luyện cho các lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ nhằm đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. 
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn luôn được giữ vững và ổn định. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, thanh tra, kiểm soát, xét sử, thi hành án có nhiều cố gắng, đảm bảo dân chủ, đúng luật, không để nẩy sinh hoặc xảy ra các vấn đề phức tạp trong mọi tầng lớp nhân dân; Tiếp tục thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các phong trào quần chúng bảo vệ an ninh, tổ quốc, chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, phòng chống ma tuy góp phần nâng cao ý thức cảnh giác của người dân đối với tệ nạn xã hội. 
 2.4. Lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể 
Thực hiện chủ trương cải cách hành chính Nhà nước, trong những năm qua hoạt động của Hội đồng nhân dân từ huyện đến cơ sở được đổi mới cả nội dung và hình thức, tăng cường công tác tiếp xúc cử tri để lắng nghe, tiếp thu và giải quyết những lợi ích chính đáng của công dân 
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có cố gắng trong việc đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tập hợp quần chúng. Các đoàn thể quần chúng, nông dân giúp nhau làm kinh tế gia đình, thanh niên giúp nhau lập nghiệp, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống đóng góp quan trọng cho nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị từ cơ sở.
2.5. Về Công tác xây dựng Đảng
 Công tác giáo dục chính trị tư tưởng: BCH Đảng bộ huyện đã chủ động trong công tác lãnh chỉ đạo các cơ quan trong khối tư tưởng, đổi mới phương thức hoạt động, tăng cường năm bắt, định hướng tư tưởng trong nhân dân. Qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, góp phần làm thất bại âm mưu (Diễn biến hòa bình) của các thế lực thù địch. Công tác quán triệt nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước được thực hiện theo tinh thần đổi mới, chú trọng trao đổi, thảo luận để xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện sát với tình hình thực tế địa phương, đơn vị , từng bước đưa nội dung tinh thần của các Chỉ thị, Nghị quyết, các cuộc vận động đi vào cuộc sống của nhân dân.
Tổ chức triển khai có hiệu quả cuộc vận động ‘‘Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh’’, đảm bảo cuộc vân động thực sự là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trông toàn Đảng bộ, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Tinh thần trách nhiệm trước công việc, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên được nâng lên, ý trí tự lực, tự cường, lòng tự tôn dân tộc được phát huy, khối đại đoàn kết các dân tộc được củng cố và giữ vững, các phong trào thi đua yêu nước được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.
Công tác tổ chức và cán bộ: Tiếp tục đổi mới và kiện toàn công tác tổ chức, bộ máy cán bộ của cả hệ thống chính trị, đảm bảo tinh gọn, năng động, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.. Từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hoạt động của cả hệ thống chính trị, năng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ , không ngừng nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ, nhất là quy hoạch cán bộ chủ chốt từ huyện đến cơ sở, quy hoạch đảm bảo tính kế thừa, chú trọng nguồn cán bộ trẻ, cán bộ nữ và người dân tộc thiểu số. năm 2011 mở được 06 lớp bồi dưỡng kết nạp đảng, cho 335 quần chúng ưu tú; 04 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho 201 đảng viên mới; Phối hợp với trường Chính Trị tỉnh Lai Châu mở được 02 lớp trung cấp lý luận chính trị - hành chính với 134 học viên tham gia; Cử 08 cán bộ đi học Cao cấp chính trị, 13 cán bộ đi học đại học và trên đại học.... Đánh giá chất lượng năm 2011 có 85% tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh, trong đó có 20,63% TCCSĐ đạt trong sạch, vững mạnh tiêu biểu; 90% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trong đó 13% đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. 
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng: Được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quan tâm kiện toàn bộ máy. Hiện nay Đảng bộ huyện có 18 UBKT, gồm: 01 UBKT huyện ủy, 17 UBKT đảng ủy – trong đó: Cơ quan UBKT huyện ủy gồm 05 Đ/c, UBKT đảng ủy 51 Đ/c, 23 Đ/c phụ trách công tác kiểm tra của 23 chi bộ trực thuộc huyện ủy. Ban hành Quy chế làm việc của UBKT, phương hướng nhiệm vụ kiểm tra, giám sát toàn khóa, chương trình kiểm tra, giám sát hàng năm. Không ngừng tăng cường sự lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp ủy các cấp, Uỷ ban kiểm tra các cấp đã chú trọng việc kiểm tra tổ chức đảng,đảng viên có dấu hiệu vi phạm; Mở rộng giám sát trong Đảng. Chủ động tham mưu cho cấp ủy thực hiện hoàn thành các cuộc kiểm tra, giám sát. Trong 2 năm đầu Nhiệm kỳ ( từ 01/2010- 12/2011) cấp uỷ các cấp đã kiểm tra 21 cuộc trong đó: BTV huyện ủy thi hành kỷ luật 03 đảng viên, Uỷ ban kiểm tra Huyện uỷ thi hành kỷ luật kỷ luật 29 đảng viên, các hình thức kỷ luật đã áp dụng: Khiển trách 11 đảng viên, Cảnh cáo 14 đảng viên, Cách chức 01 đảng viên, Khai trừ 06 đảng viên. 
Công tác dân vận của Đảng: Đươc quan tâm chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả, với phương châm “ Dân biết dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; “Nghe dân nói, nói ch dân hiểu, làm cho dân tin”. Tăng cường đôn đốc, kiểm tra cơ sở trong việc thực hiện các chính sách, các chương trình dự án, công tác trong các đơn vị sự nghiệp; việc thực hiện Quy chế dân chủ trên 3 loại hình theo pháp lệnh 34, Nghị định 71, 07, 87 của Chính phủ của các xã, thị trấn trên địa bàn huyện đảm bảo tính dân chủ, đúng pháp luật.
Công tác dân tộc, tôn giáo được quan tâm chỉ đạo, các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở thực hiện hiệu quả các Chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước đến nhân dân các đân tộc trên địa bàn huyện. Trong đó chú trọng công tác tuyên truyền, vận động nhân dân các dân tộc, nhất là vùng có đồng baò H’Mông, vùng đồng bào dân tộc theo đạo trái pháp luật.
 Nhìn chung trong các năm qua, Đảng bộ Than Uyên đã chăm lo xây dựng củng cố các tổ chức cơ sở Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy. Đời sống vật chất tinh thần được cải thiện. Quốc phòng – An ninh được giữ vững, chính trị ổn định, khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường; bộ máy cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể có nhiều chuyển biến, lớn mạnh vầ trưởng thành; năng lực lãnh đạo các cấp ủy Đảng, chính quyên, đoàn thể các cấp được nâng lên...Song cũng còn tồn tại những thiếu sót, khuyết điểm như sau:
 3. Những thiếu sót, khuyết điểm
3.1. Kinh tế tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng, chưa bền vững. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, sản phẩm hàng hóa còn hạn chế, sức cạnh tranh thấp. Khả năng thu hút nguồn lực cho đầu tư phát triển chưa cao. Kinh tế trang trại, tiểu thủ công nghiệp phát triển chậm, nhỏ lẻ
3.2. Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội: Chất lượng giáo dục, chất lượng khám chữa bệnh tuy được nâng lên nhưng vẫn còn hạn chế. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao. Công tác vệ sinh môi trường chưa đảm bảo, một số nơi các hủ tục trong việc cưới, việc tang, lễ hội còn nặng nề.
3.3. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật chưa thường xuyên, đồng bộ. Công tác đấu tranh phòng, ngừa các loại tội phạm có lúc, có nơi chưa tốt. Tình hình an ninh – chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một số địa bàn cơ sở còn tiềm ẩn những nhân tố phức tạp.
3.4. Công tác điều hành, thực thi nhiệm vụ quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực như phát triển kinh tế, quản lý đất đai, quản lý xây dựng cơ bản, quản lý ngân sách ở một số đơn vị chưa tốt. Một số ít cán bộ công chức còn gây phiền hà cho cơ sở và nhân dân; việc giám sát của Hội đồng nhân dân từ huyện đến cơ sở chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao. 
3.5. Hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa đồng đều. Một số đơn vị chất lượng tổ chức các đoàn thể còn yếu. Một số cấp uỷ, chính quyền chưa thực sự quan tâm và tạo điều kiện cho các đoàn thể nhân dân hoạt động.
3.6. Xây dựng chỉnh đốn Đảng còn những mặt hạn chế: Công tác chính trị tư tưởng chưa sâu sắc, cụ thể; vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu ở một số tổ chức cơ sở đảng và đảng viên chưa cao. Đấu tranh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt còn biểu hiện e dè, nể nang, né tránh. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu ý thức học tập, tu dưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Công tác năm bắt tình hình và định hướng tư tưởng, dư luận xã hội có lúc, có nơi chưa sâu sát, kịp thời. Việc triển khai thực hiên cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở một số nơi còn biểu hiện mang tính hình thức, chưa tạo sự chuyển biến sâu rộng trong cán bộ, đảng viê, công nhân viên chức và các tầng lớp nhân dân. 
 4. Nguyên nhân tồn tại
Nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, điểm xuất phát thấp, kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội còn yếu; trình độ thâm canh, sản xuất hàng hoá còn thấp, ý thức tự lực tự cường, phát huy nội lực ở một số đơn vị còn hạn chế.
Nhận thức của nhân dân các dân tộc trong huyện không đồng đều, tư tưởng bảo thủ, trông chờ, ỷ lại của một số cấp uỷ và một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân còn nặng nề, chậm đổi mới. 
5. Thực trạng công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Than Uyên trong thời gian qua.
 5.1. Những thuận lợi và khó khăn
 Thuận lợi: Tình hình thế giới và trong nước có nhiều thuận lợi, những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường và mục tiêu xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường ngày càng được làm rõ hơn. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân tin tưởng hơn vào sự nghiệp đổi mới của Đảng và đất nước.
Công tác tư tưởng văn hoá có bước phát triển mới cả về nhận thức vị trí, nội dung, phương pháp, hình thức huy động lực lượng và phương tiện, công tác tư tưởng được các cấp uỷ quan tâm và có sự phối hợp của các Ban, ngành, đoàn thể. Tổ chức làm công tác tư tưởng văn hoá được thành lập và kiện toàn, trở thành hệ thống từ huyện đến cơ sở xã, thị trấn. Ban tuyên giáo xã được thành lập đã phát huy hiệu quả. Lực lượng làm công tác tư tưởng văn hoá của huyện đảm bảo số lượng, chất lượng, được đào tạo chuyên ngành, chuyên sâu.
 Khó khăn: Thế giới và khu vực đang có những diễn biến phức tạp, chứa đựng yếu tố khó lường; nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, đó là những nhân tố tiềm ẩn có thể gây mất ổn định chính trị nếu không kịp thời đấu tranh, xử lý ngăn chặn. Trình độ năng lực của đội ngũ làm công tác tư tưởng còn hạn chế, mặt khác chế độ đãi ngộ, phương tiện hoạt động có khó khăn.
 Là một huyện miền núi, trình độ dân trí không đồng đều lao động chủ yếu là thuần nông, điểm xuất phát thấp. Đó cũng là một trở ngại trong công tác tư tưởng. 
Những thuận lợi và khó khăn trên tác động rất lớn đến thực trạng công tác tư tưởng văn hoá trên địa bàn huyện Than Uyên hiện nay.
5.2. Tình hình tư tưởng của các tầng lớp nhân dân 
Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của huyện luôn được ổn định và phát triển, đời sống của nhân dân trong huyện ngày càng được cải thiện. Cơ sở hạ tầng được đầu tư, bộ mặt của huyện được đổi mới khang trang. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội hàng năm đều được thực hiện đạt và vượt, các nhu cầu thiết yếu của nhân dân về ăn, mặc, học hành, đi lại ngày càng được cải thiện tốt, 
Đối với nông dân: Trong những năm qua nông dân đã tích cực hưởng ứng chủ trương chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, giống cây trồng, vật nuôi, phong trào nông dân sản xuất giỏi, phát triển kinh tế gia đình, thực hiện xoá đói giảm nghèo đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi.
Do vậy đại bộ phận nông dân phấn khởi tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ. Tuy nhiên một bộ phận còn bảo thủ trì trệ, một bộ phận thanh niên chưa chịu rèn luyện, học tập, ý thức chấp hành kỷ luật chưa nghiêm
Đối với cán bộ hưu trí: Đây là lực lượng ngày được bổ sung đông đảo, có nhận thức sâu sắc, lý tưởng rất rõ ràng và luôn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa và độc lập dân tộc, song bên cạnh những tư tưởng thuận chiều, tích cực còn có một số ít đồng chí thiếu thông tin, hoặc thông tin một chiều, không chính xác, tỏ thái độ hoài nghi, hoặc nôn nóng.
 III. THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở ĐẢNG BỘ THAN UYÊN TRONG 02 NĂM ĐẦU NHIỆM KỲ
1. Thành tựu 
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ huyện đã xác định được hướng đi đúng đắn, đó là: phát huy sức mạnh toàn diện, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng, nông, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, đồng thời coi trọng xây dựng Đảng vững mạnh cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác tư tưởng được xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chính vì vậy, trong những năm qua công tác tư tưởng của Đảng bộ đã được các cấp uỷ Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để thực hiện các Nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh về công tác tư tưởng.
Bộ máy các cơ quan làm công tác khoa giáo được củng cố và xây dựng từ huyện xuống cơ sở, các đơn vị làm công tác tuyên truyền, thông tin được củng cố xây dựng cả về số lượng và chất lượng. Thành lập đội ngũ báo cáo viên của huyện nhằm tăng cường đưa thông tin về cơ sở. Thành lập và đầu tư xây cơ sở vật chất cho Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, nhằm đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng bộ, các cấp uỷ Đảng cơ sở đã xác định được vai trò nhiệm vụ công tác tư tưởng là trách nhiệm của cấp uỷ đứng đầu là đồng chí Bí thư. Đây là những lực lượng trực tiếp và thường xuyên đối với hoạt động tư tưởng của Đảng bộ.
Tranh thủ sự giúp đỡ của Nhà nước đầu tư nâng cấp trang thiết bị truyền thanh- truyền hình huyện và các trang thiết bị khác đảm bảo cho việc phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền, công tác thông tin tuyên truyền qua các kênh báo nói, báo viết, báo hình đã phát huy tác dụng. 
 Do có sự quan tâm đó nên công tác tư tưởng của Đảng bộ đã đạt được những kết quả tích cực trên các lĩnh vực đó là:
Công tác thông tin tuyên truyền được coi trọng chỉ đạo, hoạt động của đội ngũ báo cáo viên của huyện được tăng cường, nâng lên về số lượng và chất lượng, duy trì nề nếp họp báo cáo viên, những tài liệu cần thiết cho công tác tuyên truyền đã cung cấp cho đội ngũ báo cáo viên kịp thời và thường xuyên, đội ngũ báo cáo viên đưa thông tin về cơ sở, vừa là người nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân và phối hợp, tham gia giải quyết những bức xúc nảy sinh trên địa bàn. Cơ sở vật chất cho hoạt động thông tin cổ động trực quan được tăng cường. Đã xây dựng các cụm thông tin cổ động ở các vùng kinh tế và trung tâm xã, thị trấn. 
Hoạt động truyền thanh- truyền hình duy trì tốt thời lượng tiếp âm Đài tiếng nói Việt Nam và Đài tỉnh; đồng thời bảo đảm các buổi phát tin, bài, địa phương trên hệ thống FM và trên sóng truyền hình của huyện. Đội ngũ phóng viên, cộng tác viên của Đài đã đóng góp tích cực lượng tin, bài ngày càng phong phú và chất lượng.
 Các ngành trong khối tư tưởng - văn hoá, các đoàn thể chính trị - xã hội của huyện đã có những cố gắng trong công tác vận động quần chúng, huy động hội viên, đoàn viên tham gia công tác tư tưởng trong nội bộ nhân dân, trong đó cán bộ đảng viên là lực lượng nòng cốt, coi trọng biểu dương các điển hình tiên tiến, người thật, việc thật đi đôi với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phê phán các hiện tượng tiêu cực.
Có thể nói rằng với kết quả công tác tư tưởng của Đảng bộ trong các năm qua đã đóng góp rất lớn trong việc tạo ra sự chuyển biến mới tích cực trên các mặt chính trị ổn định; an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, nhân dân trong huyện đoàn kết thống nhất tạo thành sức mạnh tổng hợp; kinh tế phát triển và tăng trưởng khá; văn hoá - xã hội có bước tiến bộ, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhiều mặt được cải thiện và nâng cao; lòng tin của nhân dân đối với Đảng được tăng cường. Đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ kiên định với mục tiêu lý tưởng cách mạng, ra sức phấn đấu thực hiện cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, 
Nguyên nhân đạt được những kết quả trên là do: Các cấp uỷ Đảng từ huyện đến cơ sở quan tâm đến công tác tư tưởng, hàng năm đều có chương trình, kế hoạch cụ thể lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng. 
Cơ sở vật chất, phương tiện để phát triển hệ thống thông tin đại chúng được đầu tư xây dựng, đảm bảo phục vụ cho công tác thông tin, tuyên truyền.
Đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên trách của Ban Tuyên giáo từ huyện đến cơ sở và các ngành chức năng làm công tác tuyên truyền được tăng cường, củng cố, xây dựng đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, và đạt hiệu quả cao.
2. Hạn chế và tồn tại:
 Công tác tư tưởng còn chưa thật sự nhạy cảm thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao, phương pháp chưa linh hoạt, chưa tạo được nhận thức đồng bộ trong quá trình tổ chức nghiên cứu học tập các Nghị quyết của Đảng. Công tác phổ biến, tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với mọi người dân ở cơ sở còn yếu, chưa gắn với công tác tổ chức, xây dựng quy hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
Nguyên nhân của những khuyết điểm tồn tại trên:
Một số cấp uỷ Đảng cơ sở, do chưa xác định đúng trách nhiệm nên chưa thực sự quan tâm đến công tác tư tưởng, hàng năm chưa xây dựng được chương trình, kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng ở cơ sở mình. Do vậy nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước chưa được phổ biến sâu rộng đến các cán bộ, đảng viên và nhân dân, 
Bộ máy lãnh đạo ở một số ngành làm công tác tuyên truyền còn yếu về năng lực trong việc tổ chức thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành mình, hơn nữa sự phối hợp công tác giữa các ngành, đoàn thể chưa được chặt chẽ và chưa được thường xuyên, do vậy hoàn thành trách nhiệm so với yêu cầu chưa cao.
Cơ sở vật chất và những điều kiện phục vụ công tác tư tưởng văn hoá còn thiếu. Do kinh phí hạn hẹp nên việc mua tài liệu, sách báo tham khảo và các phương tiện phục vụ công tác chưa đáp ứng yêu cầu. Việc tổ chức cho cán bộ trong khối và đội ngũ báo cáo viên đi tham quan thực tế, học hỏi kinh nghiệm còn hạn chế. 
3. Bài học kinh nghiệm 
Từ thực tiễn công tác tư tưởng của Đảng bộ Than Uyên thời gian vừa qua với những thành tựu và hạn chế, có thể rút ra một số bài học sau đây:
Thứ nhất, về công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải xây dựng được chương trình, kế hoạch công tác cụ thể, tỷ mỉ, bám sát nhiệm vụ, chủ trương, đường lối của Đảng, của cấp trên để thực hiện có hiệu quả cao hơn. Muốn vậy các cấp uỷ phải đề cao trách nhiệm mà đứng đầu là đồng chí Bí thư cấp uỷ trực tiếp làm công tác này.
Thứ hai, cần có những điều kiện vật chất đầy đủ để triển khai và thực hiện thắng lợi công tác tư tưởng.
Thứ ba, phải hết sức coi trọng chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, có khả năng thuyết phục tập hợp quần chúng.
Thứ tư, phải mở rộng quan hệ phối hợp với các cấp chính quyền, các ban, ngành để có thông tin, nhằm phối hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền và tổ chức thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội. Đó chính là bài học có hiệu quả nhất cho công tác tư tưởng “nói phải đi đôi với làm”.
Thứ năm, công tác tư tưởng muốn có hiệu quả tốt thì khâu trước tiên phải biết phát hiện và nắm chắc tình hình sớm và sát thực tế, đồng thời đặt ra những dự báo đưa vào chương trình để triển khai thực hiện. 
Thứ sáu, mở rộng dân chủ, biết lắng nghe ý kiến của đảng viên và quần chúng nhân dân, kể cả ý kiến chưa đồng thuận, thậm chí trái chiều. Từ đó lựa chọn, sàng lọc, giải thích, phân tích để tìm tiếng nói chung. 
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN THAN UYÊN TRONG GIAI ĐOẠN 2010-2015
I. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ TRONG THỜI GIAN TỚI
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Than Uyên khoá XVI xác định rõ:
 “ Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, học tập Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước. Việc giáo dục, quán triệt Nghị quyết đại hội Đảng các cấp theo hướng thiết thực, phù hợp với từng đối tượng, từng địa phương, đảm bảo đưa Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với cán bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện, tạo sự thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng và hành động trong Đảng, tạo sự đồng thuận trong xã hội, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp thành chương trình, kế hoạch cụ thể, phù hợp với từng ngành,từng địa phương để tập chung chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống, đạo đức cách mạng, khơi dạy lòng yêu nước, tính tiên phong của người cán bộ đảng viên; Cổ vũ động viên các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước gắn vơi việc tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Phát huy sức mạnh tổng hợp khối đại đoàn kết, ý trí tự lực, tự cường, truyền thống cách mạng quê hương Than Uyên anh hùng làm thất bại âm mưu “ Diễn biến hòa bình’’ của các thế lực thù địch góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương”. 
 Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho cán bộ đảng viên, tạo sự thống nhất cao trong Đảng về lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh. Để Nghị quyết đi vào cuộc sống, công tác tư tưởng trong thời gian tới cần tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
 1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, sự quản lý của các cấp chính quyền, sự hoạt động của các ngành đoàn thể đối với công tác tư tưởng. 
 2. Các cấp uỷ từ huyện đến cơ sở và chi uỷ chi bộ thuộc cơ sở đều phải coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng. Bí thư cấp uỷ, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải có chương trình, kế hoạch và quan tâm thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng, thực hiện nghiêm túc chế độ giao ban tư tưởng định kỳ hoặc đột xuất của cấp uỷ Đảng. 
3. Thực hiện mở rộng thông tin, bảo đảm quyền được thông tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phát huy dân chủ phải đi liền với giữ vững kỷ cương pháp luật, kỷ luật của Đảng, phát ngôn có trách n

File đính kèm:

  • doctieu_luan_nang_cao_chat_luong_cong_tac_tu_tuong_o_dang_bo_hu.doc