Tiểu luận Nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá

pdf 10 trang yenvu 19/08/2024 500
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá

Tiểu luận Nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá
 1 
LỜI MỞ ĐẦU 
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong 
những xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế thế giới. Sự phát triển mạnh 
mẽ về khoa học, công nghệ cùng với sự ra đời của các thể chế toàn cầu và khu 
vực đã góp phần thúc đẩy quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. 
Quá trình toàn cầu hoá không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà còn cả 
trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài chính, đầu tư cũng như các lĩnh vực văn 
hoá, xã hội, môi trường với các hình thức đa dạng và mức độ khác nhau. 
Toàn cầu hoá kinh tế đã và đang mở ra những cơ hội và tạo điều kiện cho 
các dân tộc trên thế giới khai thác tối đa những lợi thế so sánh của mình để tăng 
trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đồng thời quá trình toàn cầu hoá kinh tế 
cũng đặt mỗi quốc gia, dân tộc trước sức ép cạnh tranh và những thách thức gay 
gắt, nhất là đối với các nước đang phát triển. Vì thế để không bị gạt ra ngoài lề 
của sự phát triển, các nước đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung đó và tăng 
cường sức cạnh tranh kinh tế . 
Hơn lúc nào hết quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế không 
chỉ là sự quan tâm của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức mà còn đối với mỗi cá nhân 
chúng ta. Chúng ta đã trải qua 17 năm thực hiện đường lối mở cửa, đổi mới và 
hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Với phương châm "đa dạng hoá, 
đa phương hoá quan hệ" và "sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các 
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Việt 
Nam đã thiết lập các quan hệ thương mại, đầu tư, dịch vụ và khoa học kỹ thuật 
với tất cả các nước, tích cực tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế thế giới 
và khu vực. Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế nước ta 
hiện nay đang là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng. 
Có rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu và các chuyên gia đầu ngành 
trong nước và ngoài nước đề cập đến vấn đề này. Đây là vấn đề rộng lớn và 
 2 
phức tạp, có cả những nhận thức và quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập 
nhau. 
Thông qua những tài liệu tham khảo cùng với những kiến thức đã được 
lĩnh hội trong nhà trường, trong khuôn khổ báo cáo của mình, em xin phép được 
trình bày tóm tắt về đề tài: "Nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt 
Nam trong xu thế toàn cầu hoá". Nội dung của báo cáo được trình bày trong 3 
chương 
Chương I: Khái quát về toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Những kinh 
nghiệm thực tiễn về nâng cao khả năng hội nhập của một số 
nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 
Chương II: Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Những vấn đề 
đặt ra. 
Chương III: Mục tiêu, phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm 
nâng cao khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế Việt 
Nam. 
 3 
CHƯƠNG I 
KHÁI QUÁT VỀ TOÀN CẦU HOÁ, HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ KINH 
NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG HỘI NHẬP CỦA 
MỘT SỐ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ. 
I. NHẬN THỨC VỀ TOÀN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ. 
 1. Nhận thức chung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế . 
a) Toàn cầu hoá. 
Ngày nay toàn cầu hoá mà trước hết và về thực chất là toàn cầu hoá kinh 
tế đang trở thành một xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế hiện đại. Hiện nay tuy 
có rất nhiều những quan niệm không giống nhau về toàn cầu hoá kinh tế nhưng 
có thể thấy nét chung nhất là thừa nhận mối quan hệ qua lại của các hoạt động 
kinh tế hiện nay đã bao trùm gần như tất cả các nước, mang tính toàn cầu. Có 
thể hiểu toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế 
giới vượt qua khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực 
lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học kỹ thuật mạnh mẽ và sự phân công 
hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng 
tăng. 
Mặc dù vậy, toàn cầu hoá kinh tế vẫn ở trong giai đoạn đầu. Lĩnh vực the 
chốt hợp tác toàn cầu hoá kinh tế vẫn chỉ là mậu dịch, tự do lưu thông nguồn 
vốn và sức lao động còn là vấn đề trong tương lai. 
b) Hội nhập quốc tế. 
Hiện nay người ta đều thấy rằng nhận thức về hội nhập vẫn là một vấn đề 
thời sự. Các nước đều khẳng định cần xây dựng nhận thức thống nhất trong nội 
bộ rằng hội nhập là cần thiêts, phù hợp với xu thế chung, nhất là tham gia WTO 
sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển của đất nước. 
- Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là 
mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, 
 4 
mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong 
quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội 
tại của sự phát triển kinh tế mỗi nước. 
- Các nước đều không thể né tránh việc hội nhập mà vấn đề then chốt là 
phải đề ra được những chính sách, biện pháp đúng để hạn chế trả giá ở mức 
thấp nhất và tranh thủ cao nhất những cơ hội phát triển. 
- Hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và ngay trong 
thị trường nội địa. Để hội nhập có hiệu quả phải ra sức tăng cường nội lực, cải 
cách và điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh 
tế trong nước để phù hợp với "luật chơi chung" của quốc tế. 
Chính sách hội nhập phải dựa và gắn chặt với chiến lược phát triển của 
đất nước, đồng thời cải cách kinh tế, hành chính phải gắn chặt với yêu cầu của 
quá trình hội nhập. Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập, 
đồng thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, qua đó 
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế . 
- Hội nhập không phải để được hưởng ưu đãi, nhân nhượng đặc biệt mà 
nhằm mở rộng các cơ hội kinh doanh , thâm nhập thị trường, có môi trường 
pháp lý và kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội 
nhập, không bị phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính trị hay những lý 
do khác cản trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Các nước có thể sử 
dụng những luật lệ, quy định, cơ chế giải quyết tranh chấp của các thể chế hội 
nhập để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. 
- Tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích để giới kinh doanh nhận 
thức sâu sắc và ủng hộ hội nhập, chuẩn bị tốt mọi mặt để chủ động hội nhập 
từng bước, tận dụng những lợi thế so sánh của mỗi nước để cạnh tranh chiếm 
lĩnh thị trường. 
Nhận thức đúng về hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế đối với các nước có 
ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và 
 5 
giải pháp để chủ động hội nhập và tham gia giải quyết các vấn đề mang tính 
toàn cầu nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. 
2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, thời cơ và thách thức. 
a) Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những lợi ích. 
Toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu của quá trình tập trung, chuyên môn 
sản xuất và phân công lao động quốc tế. Khi nền kinh tế thế giới phát triển 
thành một thị trường thống nhất thì không một quốc gia nào có thể đứng ngoài 
tiến trình này mà có thể tồn tại và phát triển được. 
Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất mạnh, nhanh sự phát triển và xã hội 
hoá lực lượng sản xuất, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Toàn cầu hoá kinh 
tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt làm tăng mạnh tỷ 
trọng hàng chế tác (chiếm 21,4%) và các dịch vụ (62,4%) trong cơ cấu kinh tế 
thế giới. 
Toàn cầu hoá và khu vực hoá được thể hiện rõ trong sự hình thành và 
gia tăng rất nhanh trao đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố 
sản xuất, được thể hiện qua sự hình thành và củng cố của các tổ chức kinh tế 
quốc tế và khu vực. 
Toàn cầu hoá làm tăng thêm sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa các 
nền kinh tế các nước. Toàn cầu hoá kinh tế làm cho kinh tế ở mỗi nước có thể 
trở thành bộ phận của các tổng thể, hình thành cục diện kinh tế thế giới mới. 
Toàn cầu hoá kinh tế cũng làm giảm thiểu các chướng ngại trong việc lưu 
chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ, nguồn nhân lực giữa các nền kinh tế các 
nước, làm tăng vai trò kinh tế đối ngoại, mậu dịch và đầu tư nước ngoài đối với 
sự phát triển kinh tế mỗi nước. 
Toàn cầu hoá truyền bá và chuyển giao trên quy mô càng lớn những 
thành quả mới về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất 
kinh doanh  dọn đường cho công nghệ hoá, hiện đại hoá. 
 6 
Toàn cầu hoá và khu vực hoá có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau và 
cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động. Liên 
kết khu vực vừa củng cố quá trình toàn cầu hoá, vừa giúp các nước trong từng 
khu vực bảo vệ lợi ích của mình. Mặt khác, toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng 
làm cho sự cạnh tranh giữa các thực thể kinh tế trở nên gay gắt chưa từng có. 
Toàn cầu hoá đã và đang mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế 
thế giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập: 
- Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy 
việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích của việc 
phân bổ nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế để từ đó phát huy cao độ 
nhân tố sản xuất hữu dụng của từng quốc gia. 
- Tự do luân chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn với việc giảm hoặc xoá bỏ 
hàng rào thuế quan, đơn giản hoá thủ tục, cắt giảm kiểm soát hành chính sẽ 
góp phần giảm chi phí sản xuất, giảm thất nghiệp và tăng thêm lợi ích cho 
người tiêu dùng. 
- Tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay vốn và tạo điều 
kiện để đa dạng hoá các loại hình đầu tư, nâng cao hiệu quả, hạn chế rủi ro 
đầu tư. 
- Thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao vốn, kỹ năng 
quản lý, qua đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước, đồng thời giúp các nước 
tiếp nhận đầu tư có thêm nhiều cơ hội phát triển. 
b) Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những thách thức. 
- Sự bất ổn định của thị trường tài chính quốc tế. Nguồn tài chính được 
phân bố không đồng đều, tập trung vào một số trung tâm tài chính lớn là các 
nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới . Quá trình hội nhập và toàn cầu 
hoá càng làm cho dòng vốn chảy mạnh hơn và tất yếu rủi ro sẽ lớn hơn. 
- Khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, các nước nhất là các nước 
đang phát triển phải giảm dần thuế quan và bỏ hàng rào phi thuế quan, nghĩa là 
 7 
bỏ hàng rào mậu dịch, thì các hàng hoá dịch vụ nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào, bóp 
chết hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. 
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển đã làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ của 
các quốc gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của quá 
trình này mà còn phải chịu cả những chấn động của hệ thống kinh tế toàn cầu 
trong các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu Các nước càng yếu 
kém, các chính sách kinh tế vĩ mô càng không đủ thông thoáng phù hợp với 
các định chế quốc tế, hệ thống ngân hàng - tài chính càng lạc hậu thì càng 
chịu tác động nặng nề hơn. 
- Nguy cơ tụt hậu của một số quốc gia. Trong quá trình hội nhập một số 
quốc gia tranh thủ được lợi ích của hội nhập mậu dịch quốc tế và thị trường tài 
chính quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng mở 
rộng thương mại, thu hẹp dần khoảng cách với các nước phát triển thì một số 
nước khác lại không có khả năng hội nhập vào quá trình phát triển thương mại, 
thu hút vốn đầu tư tất yếu sẽ bị đẩy lùi xa hơn nữa về phía sau. 
- Mối đe doạ của quá trình toàn cầu hoá là xu hướng hình thành thế độc 
quyền, tập trung quyền lực vào một số tập đoàn đầu sỏ quốc tế. 
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển không chỉ có các lực lượng kinh tế 
tiến bộ tham gia vào quá trình này mà còn có cả các thế lực phản động, các tổ 
chức khủng bố Chính sách đúng đắn là phải ngăn chặn, chống lại mọi hoạt 
động phá hoại. Nhưng không thể vì nó mà đóng cửa đất nước hay hạn chế sự 
hội nhập của đất nước vào quá trình toàn cầu hoá. 
Ngoài ra còn có những mặt tiêu cực khác nữa như sự chênh lệch về trình 
độ giữa nước giàu và nước nghèo có thể tăng lên, sự xung đột giữa các nền văn 
học 
Quá trình toàn cầuhoá và hội nhập kinh tế quốc tế đem đến cho các nước 
những cơ hội thuận lợi lớn đồng thời cũng đứng trước những khó khăn thách 
thức nghiêm trọng. Song những tác động tiêu cực này có thể lớn nhỏ đến đâu 
 8 
điều đó lại tuỳ thuộc vào chính sách hội nhập quốc tế của các quốc gia. Một 
chính sách hội nhập quốc tế đúng đắn và thích hợp thì tác động của quá trình 
này sẽ bị hạn chế và ngược lại. 
II. KINH NGHIỆM HỘI NHẬP CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN. 
1. Về vấn đề cải cách cơ chế. 
Phần lớn các nước khi hội nhập đều đã có cơ chế kinh tế thị trường và 
hiện nay chú trọng hoàn thiện nó cho phù hợp hơn với luật lệ và thực tiễn của 
các thể chế hội nhập. Giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào lĩnh 
vực kinh doanh để tập trung vào việc tạo môi trường chính sách, pháp lý và hệ 
thống kinh tế vĩ mô nhằm đảm bảo cho sản xuất, kinh doanh thông thoáng và 
hiệu quả. Đối với các nước đang chuyển sang kinh tế thị trường thì càng phải 
đẩy mạnh quá trình này để bắt kịp xu thế của thế giới và hội nhập có hiệu quả. 
Việc cải cách và hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành kinh tế trong 
bối cảnh toàn cầu hoá, tự do hoá cũng được các nước hết sức quan tâm mặc dù 
họ đều đã có quá trình xây dựng và điều chỉnh cơ chế trong nhiều năm cùng 
với quá trình tham gia các khuôn khổ hội nhập. Trong khi thúc đẩy sự vận 
động của các lực lượng thị trường, đẩy mạnh tự do hoá và thuận lợi hoá thương 
mại, dịch vụ và đầu tư, các nước vẫn quan tâm đến việc hoàn thiện cơ chế quản 
lý và điều hành nền kinh tế, cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, quản lý ngoại hối... 
Cuộc khủng hoảng tiền tệ 1997 vừa qua cho thấy trong bối cảnh toàn cầu 
hoá, tự do hoá, vấn đề quản lý, điều hành quá trình hội nhập càng được chú ý 
hoàn thiện hơn, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ là nơi dễ phát sinh 
những biến động và những nhân tố gây mất ổn định kinh tế. 
2. Về vấn đề cải cách chính sách và hệ thống kinh tế vĩ mô. 
Đây là vấn đề nước nào cũng phải giải quyết nhất là đối với các nước 
mới bắt đầu vào quá trình hội nhập và đang chuyển sang kinh tế thị trường. 
Trong nội bộ các nước đều có cuộc đấu tranh gay gắt về chính sách giữa 
xu hướng bảo hộ với xu hướng hội nhạap, giữa lợi ích của người sản xuất và 
 9 
người tiêu dùng, giữa yêu cầu tăng nguồn thu ngân sách qua thuế nhập khẩu và 
xu hướng tự do hoá, thuận lợi hoá mậu dịch. 
Theo kinh nghiệm các nước, cuộc đấu tranh nội bộ thường khá gay gắt 
vì phải dàn xếp các vấn đề thuộc lợi ích cục bộ và sự phối hợp giữa các ngành 
trong nước thường rất khó khăn. Do đó để có được sự cải cách, điều chỉnh 
chính sách và các vấn đề kinh tế vĩ mô như giá cả, thuế suất, tỷ giá hối đoái... 
cũng cần phải có quyết tâm chính trị. 
Mỗi thể chế hội nhập đều có chương trình, mục tiêu riêng đòi hỏi các 
thành viên phải điều chỉnh chính sách để thực hiện chúng. AFTA đề ra mục 
tiêu thực hiện thương mại tự do vào năm 2003. WTO cũng có những thời biểu 
riêng thực hiện giảm thuế quan và loại bỏ các biện pháp phi thuế quan... 
Phải triệt để tận dụng những ưu đãi tương tự mà các thể chế hội nhập 
quy định để có thể từng bước điều chỉnh chính sách và các vấn đề kinh tế vĩ 
mô cho phù hợp và hiệu quả, tránh gây khó khăn hoặc làm mất ổn định nền 
kinh tế. 
Về phương tiện vĩ mô cần phải đảm bảo sự cân bằng hài hoà về 3 mối 
quan hệ: giữa quyền lợi và nghĩa vụ của một nước trong các thể chế hội nhập; 
giữa mục tiêu kinh tế - xã hội trong nước với những yêu cầu và đòi hỏi của bên 
ngoài; giữa các vấn đề kinh tế và thương mại với các lĩnh vực khác để quá 
trình hội nhập diễn ra thuận lợi và hiệu quả. 
3. Về vấn đề cải cách luật lệ, quy chế. 
Cải cách về luật pháp, quy chế, quy định đều được các nước, kể cả các 
nước phát triển coi là một trong những lĩnh vực khó khăn, phức tạp và cần rất 
nhiều thời gian, công sức. 
Đối với những nước đang chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, khép 
kín và tự cung tự cấp sang cơ chế thị trường, mở cửa và hội nhập thì khoảng 
cách giữa luật lệ của những nước này với luật lệ quốc tế càng lớn và việc điều 
 10 
chỉnh cho phù hợp với luật quốc tế và quy định của các thể chế hội nhập mà họ 
tham gia càng là đòi hỏi to lớn và cấp bách. 
Một vấn đề quan trọng của tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại là loạibỏ 
hàng rào phi thuế quan. Các nước thường áp dụng một số biện pháp phi thuế 
quan nhất là các nước đang phát triển nhằm bảo vệ một số ngành sản xuất 
trong nước bị tác động mạnh trong quá trình hội nhập. Một số biện pháp được 
áp dụng mà không trái với luật quốc tế: thủ tục giám định hàng hoá nhập khẩu, 
áp dụng chế độ cấp giấy phép đặc biệt. 
Ngoài ra, đối với những ngành bị ảnh hưởng lớn do quá trình mở cửa, tự 
do hoá các nước có thể quy định các biện háp trợ cấp hoặc hỗ trợ tạm thời, kể 
cả bằng biện pháp cấp tín dụng ưu đãi để giúp họ tiếp tục sản xuất, kinh doanh. 
4. Về vấn đề cải cách thực tiễn, tập quán sản xuất kinh doanh. 
Cải cách thực tiễn và tập quán hoạt động kinh tế, kinh doanh của các 
nước phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế cũng như các thể chế mà mình 
tham gia là một trong những yêu cầu quan trọng của quá trình hội nhập. Các 
nước phải tiến hành rà soát lại hàng loạt biện pháp, tập quán hiện hành và điều 
chỉnh, đổi mới chúng cho phù hợp. 
Kinh nghiệm một số nước đang phát triển và đang chuyển đổi kinh tế 
cho thấy việc đạt được thay đổi tư duy nhanh chóng theo hướng mở cửa, tự do 
hoá là rất khó khăn. Trong giai đoạn chuyển tiếp, Chính phủ các nước đó 
thường có những chính sách và biện pháp hỗ trợ các ngành và các doanh 
nghiệp bị ảnh hưởng lớn, giúp cho quá trình thay đổi diễn ra từng bước, nhẹ 
nhàng. Trong quá trình hội nhập, một số ngành và doanh nghiệp có thể sẽ chịu 
thua thiệt thất bại, nhưng cũng có nhiều ngành và doanh nghiệp khác sẽ tăng 
cường được năng lực để có thể cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển chung của 
toàn nền kinh tế. 
Đồng thời, cần làm cho giới doanh nghiệp nhận rõ và chuyển từ thói 
quen “sản xuất những gì mình có thể sản xuất” sang “sản xuất những gì mà thị 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_nang_cao_kha_nang_hoi_nhap_cua_nen_kinh_te_viet_na.pdf