Tiểu luận Năng lượng xanh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Năng lượng xanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Năng lượng xanh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA VẬT LÝ TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐỀ TÀI GVHD:Thầy Lê Văn Hoàng SVTH: Lương Tuấn Anh Trương Văn Hên Phan Anh Huy Nguyễn Cao Khả Lớp Lý 3A Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5/2009 1 Mục lục Lời nói đầu ..................................................................................................................3 A.Phần mở đầu............................................................................................................4 A.I. Định nghĩa ....................................................................................................4 A.II. Lý do chọn đề tài: .........................................................................................4 A.II.1. Năng lượng hóa thạch không phải là vô hạn ........................................4 A.II.2. Năng lượng hóa thạch gây ô nhiễm môi trường ...................................6 A.II.3. Năng lượng hóa thạch là nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp trên thế giới 8 B. Nội dung chính: các dạng năng lượng xanh ........................................................8 B.I. Năng lượng mặt trời .....................................................................................8 B.I.1. Năng lượng mặt trời – nguồn năng lượng của tương lai.......................8 B.I.2. Biến năng lượng mặt trời thành điện năng..........................................10 B.I.3. Sử dụng nhiệt năng của ánh sáng mặt trời. .........................................24 B.II. Năng lượng gió...........................................................................................25 B.II.1. Lịch sử hình thành...............................................................................25 B.II.2. Nguyên lý làm việc của tuabin gió .....................................................26 B.III. Năng lượng Hydro ..................................................................................32 B.III.1. Đặc tính của Hydro .............................................................................32 B.III.2. Sản xuất Hydro: ..................................................................................32 B.III.3. Cất trữ hydro: ......................................................................................36 B.III.4. Sản xuất điện năng từ hydro ...............................................................39 B.IV. Năng lượng thủy triều.............................................................................42 B.IV.1. Nguồn gốc của năng lượng thuỷ triều.................................................42 B.IV.2. Các loại năng lượng thủy triều:...........................................................43 B.IV.3. Nguyên tắc hoạt động: ........................................................................43 B.IV.4. Một số dự án khai thác năng lượng thủy triều ....................................44 C. Phần kết : Năng lượng xanh tại Việt Nam – thực trạng và tiềm năng phát triển. 45 2 C.I. Năng lượng mặt trời: ..................................................................................45 C.I.1. Vấn đề sử dụng năng lượng mặt trời tại Việt Nam:............................45 C.I.2. Tiềm năng phát triển: ..........................................................................49 C.II. Năng lượng gió:..........................................................................................53 C.II.1. Tiềm năng điện gió của Việt Nam ......................................................53 C.II.2. Các dự án phong điện ở Việt Nam......................................................54 C.III. Năng lượng Hydro ..................................................................................55 D. Tài liệu tham khảo .............................................................................................59 3 Lời nói đầu Năng lượng xanh là khái niệm không còn xa lạ đối với chúng ta, đó là khái niệm để chỉ những nguồn năng lượng có trữ lượng gần như vô tận và thân thiện với môi trường. Trong hoàn cảnh năng lượng hóa thạch đang cạn kiệt dần, chất thải từ việc sử dụng năng lượng hóa thạch gây ô nhiễm môi trường, làm thay đổi khí hậu, đe dọa cuộc sống của chúng ta thì vấn đề thay thế dần năng lượng hóa thạch bằng năng lượng xanh là vấn đề rất cấp bách! Năng lượng xanh hiện như một viên ngọc thô đang trong tiến trình mài giũa, vấn đề là liệu chúng ta có còn đủ thời gian để đối mặt với bao thách thức mà năng lượng hóa thạch đặt ra để chờ cho viên ngọc kia sáng hay không mà thôi! Việt Nam chúng ta đang trong tiến trình hội nhập, nền kinh tế còn non trẻ, khoa học kĩ thuật còn chậm phát triển, đời sống người dân còn nhiều khó khăn nhưng cũng đã và đang có những con người tham gia vào tiến trình mài giũa kia với chỉ một mong muốn rằng năng lượng xanh sẽ tỏa sáng! Đề tài nghiên cứu này ra đời cũng nhằm mục đích góp một phần nhỏ cho mong muốn kia dần trở thành hiện thực. Đề tài được tổng hợp từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau và tính khái quát hóa, đề tài chỉ đề cập đến những gì cơ bản nhất về năng lượng xanh chứ không đi vào tìm hiểu một cách đầy đủ và chi tiết vì vấn đề mà đề tài nghiên cứu là rất rộng. Mong rằng sau khi đọc xong đề tài này, người đọc sẽ có những khái niệm cơ bản nhất về năng lượng xanh cùng chung tay thực hiện mong muốn khai sáng năng lượng xanh!! Ngày15 tháng 5 năm 2009 Nhóm nghiên cứu 4 A.Phần mở đầu A.I.Định nghĩa Năng lượng xanh là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả các nguồn năng lượng được coi là thân thiện với môi trường và ít gây ô nhiễm. Các dạng năng lượng xanh phổ biến Năng lượng mặt trời Năng lượng gió Năng lượng nước (thủy điện) Năng lượng địa nhiệt Năng lượng thuỷ triều và Nhiệt năng biển Năng lượng sinh học Năng lượng hydro Dựa trên tiêu chí của nhóm là những nguồn năng lượng ít tác động nhất đến môi trường, có tính phổ biến, được nghiên cứu rộng rãi trên khắp thế giới và nhất là có khả năng áp dụng vào điều kiện của Việt Nam. Do đó nhóm chúng tôi sẽ tập trung vào các nguồn năng lượng xanh sau: Năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng hydro A.II. Lý do chọn đề tài: A.II.1.Năng lượng hóa thạch không phải là vô hạn Sơ lược về quá trình sử dụng năng lượng của con người Tổ tiên chúng ta đã biết sử dụng lửa từ hàng trăm nghìn năm trước. Khi con người còn sinh hoạt trong hang động, thì lửa được sử dụng để chiếu sáng, sưởi ấm và nấu nướng. Nguồn năng lượng động lực trong thời kỳ đó là sức người và gia súc. Sau đó, nhờ sử dụng lửa, tổ tiên chúng ta đã làm ra được đồ gốm và các công cụ bằng kim loại. Với những công cụ đó, con người đã thực hiện được các hoạt động sản xuất như canh tác, trồng trọt và chăn nuôi, qua đó các cộng đồng xã hội được hình thành. Có thể nói rằng, lửa chính là xuất phát điểm của nền văn minh nhân loại. 5 Vào cuối thế kỷ 18, ở Anh đã phát minh ra máy hơi nước dùng nhiên liệu than đá. Từ đó, cuộc cách mạng về động lực bùng nổ và dẫn đến cuộc cách mạng công nghiệp. Hơn nữa, với kỹ thuật của động cơ đốt trong và sử dụng điện ở thế kỷ 19, nhiều phát minh có tính bước ngoặt đã ra đời, đẩy mạnh sự phát triển của khoa học kỹ thuật, tạo ra một xã hội thịnh vượng và tiện nghi như ngày nay. Hiện tại, ở các nước phát triển tiên tiến, tiêu thụ năng lượng bình quân trên đầu người cao hơn 50 lần so với xã hội cổ đại và cao hơn 10 lần so với thời điểm trước cuộc cách mạng công nghiệp. Các nguồn mà con người có thể thu năng lượng: - Gỗ - Sức nước - Sức gió - Địa nhiệt - Ánh sáng mặt trời - Than đá, dầu, khí tự nhiên (nhiên liệu hóa thạch) - Uranium (nhiên liệu hạt nhân). Và trong số đó nhiên liệu hóa thạch được sử dụng phổ biến và nhiều nhất hiện nay Tài nguyên thiên nhiên như than đá, dầu, khí có được do thực vật và vi sinh vật sinh trưởng từ xa xưa, trải qua những biến động của vỏ Trái Đất trong một thời gian dài, thì được gọi là nhiên liệu hóa thạch. Nhiên liệu hóa thạch cung cấp năng lượng cho những phương tiện giao thông, các nhà máy công nghiệp, sưởi ấm các toà nhà và sản sinh ra điện năng phục vụ đời sống con người. Cho đến nay, con người đã sử dụng một lượng rất lớn nhiên liệu hóa thạch như than đá và dầu để đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế và hiện đang phải phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch, chiếm khoảng 80% nguồn cung cấp năng lượng sơ cấp. Tuy nhiên nhiên liệu hóa thạch không phải là vô hạn 6 -Người ta cho rằng còn có thể khai thác dầu trong 40 năm nữa. Số năm có thể khai thác này được tính bằng cách chia trữ lượng đã biết cho sản lượng khai thác hàng năm hiện nay. -Số năm có thể khai thác của khí tự nhiên dự đoán là khoảng 60 năm. Tài nguyên khí tự nhiên, so với tài nguyên dầu có ưu điểm là có thể đảm bảo được một lượng nhất định trong khu vực Đông Nam Á và thời gian khai thác cũng lâu hơn. Thực tế là gần 70% trữ lượng được đảm bảo phụ thuộc vào khu vực Trung Đông và Liên Xô cũ - Số năm còn có thể khai thác than là khoảng 230 năm. A. II.2.Năng lượng hóa thạch gây ô nhiễm môi trường Nhiên liệu hóa thạch như dầu, than, khí tự nhiên khi đốt cháy sẽ thải ra CO2, ôxít sunphua (SOx), ôxít nitơ (NO2), Methane (CH4), nitơ oxit (N2O). Những khí này là nguyên nhân dẫn đến một số hậu quả to lớn đối với môi trường sống và ảnh hưởng trực tiếp đến chính con người +Mưa axit SOx, NOx trong khí thải từ các nhà máy và ôtô của lục địa đã tạo ra các phản ứng hóa học trong không khí, sau đó di chuyển, rồi tạo ra mưa axít làm tiêu trụi các cánh rừng, tiêu diệt các sinh vật trong ao hồ, gây tác hại to lớn cho sản xuất nông nghiệp. Hiện tượng này lúc đầu xuất hiện ở Bắc Âu, sau đó, liên tiếp xuất hiện ở khu vực Trung Âu cho đến tận khu vực Bắc Mỹ và gần đây đã xuất hiện ở cả những khu vực công nghiệp tập trung của Trung Quốc. Tác hại do ô nhiễm không khí đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia và lan ra một khu vực rộng lớn. Đối sách phòng chống hiện tượng này là cần phải có sự hợp tác của cộng đồng quốc tế. +Sự nóng lên toàn cầu Những loại khí như CO2,CH4, N2O thải ra trong quá trình đốt nhiên liệu hóa thạch là nguyên nhân lớn nhất cho vấn đề ấm lên của Trái Đẩt. Hậu quả do “sự nóng lên toàn cầu” gây ra. 7 Thay đổi thời tiết có khả năng đưa tới bất ổn chính trị. Hạn hán và hồng thủy liên tục xảy ra khiến cho dân chúng tại nhiều địa phương phải bỏ nơi chôn rau cắt rốn di chuyển đi nơi khác. Băng đá tan, tăng mức độ nước biển, gây ra lụt lội, lở đất dọc theo đại dương và giảm nước ngọt cần thiết cho mọi sinh vật. Giông tố bão lụt tăng độ ẩm trên mặt đất. Hạn hán gây thiệt hại canh tác, chăn nuôi Nhiều sinh vật quý hiếm sẽ bị tiêu diệt dần dần vì chúng không tồn tại được trong thời tiết quá nóng cũng như tăng độ acid trong nước biển. Trong tương lai, sức nóng có thể tăng khí thải nhà kính bằng cách làm cho các khí này thoát ra khỏi nơi tích tụ dưới biển. Ảnh hưởng của hâm nóng toàn cầu đối với sức khỏe con người là điều rất rõ. Theo WHO, các bệnh gây ra do thay đổi khí hậu sẽ tăng lên gấp đôi vào thập niên 2030. Các sinh vật mang mầm bệnh như sốt rét, viêm não, sốt vàng da sẽ gia tăng vì chúng hợp với khí hậu nóng Khí hậu nóng lên tạo điều kiện tốt cho muỗi và vi khuẩn, những tác nhân gây bệnh sốt xuất huyết và viêm não ở người. Thời gian lạnh sẽ thu ngắn nhưng thời gian nóng tăng, đưa tới nhiều tử vong vì say nóng (heat stroke). Mùa hè năm 2003 tại Pháp với 14,842 tử vong vì nóng tới 40°C là một thí dụ. Những người đang có bệnh tim mạch mà gặp thời tiết nóng bức thì bệnh tình gia tăng vì tim phải làm việc nhiều hơn để giữ cơ thể mát Ung thư ngoài da tăng vì tiếp cận quá nhiều với tia nắng mặt trời. Một số nhà khoa học cho rằng, thời tiết nóng giúp cho sự tăng sinh của các loại tảo ở dưới nước, đặc biệt là khi nước bị ô nhiễm. Từ đó một số bệnh truyền nhiễm như tiêu chảy sẽ xảy ra nhiều hơn. +Đối với con người 8 Đioxit Sunfua (SO2): rất độc hại đối với sức khoẻ của người và sinh vật, gây ra các bệnh về phổi khí phế quản. SO2 trong không khí khi gặp oxy và nước tạo thành axit, tập trung trong nước mưa gây ra hiện tượng mưa axit. Cacbon monoxit (CO): CO không độc với thực vật vì cây xanh có thể chuyển hoá CO => CO2 và sử dụng nó trong quá trình quang hợp. Vì vậy, thảm thực vật được xem là tác nhân tự nhiên có tác dụng làm giảm ô nhiễm CO. Khi con người ở trong không khí có nồng độ CO khoảng 250 ppm sẽ bị tử vong. A.II.3.Năng lượng hóa thạch là nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp trên thế giới Tranh chấp khí đốt - “tam quốc diễn nghĩa” giữa Nga – Ukraine – EU Tranh chấp những giếng dầu và khí đốt trên vùng Trung Á giữa Mỹ, Tây Âu và Nga Tranh chấp những giếng dầu ở Trung Đông Tranh chấp khí tự nhiên và dầu giữa các quốc gia Mỹ, Canada, các nước Bắc Âu và Nga ở Bắc Cực Chính những tranh chấp này dẫn đến bất ổn trên toàn thế giới và ảnh hưởng lớn đến hòa bình thế giới Do đó, chính những lý do trên dẫn đến cần phải tìm những nguồn năng lượng khác thay thế nguồn năng lượng hóa thạch này và các nguồn năng lượng xanh là một lựa chon hợp lý nhất B. Nội dung chính: các dạng năng lượng xanh B.I.Năng lượng mặt trời B.I.1.Năng lượng mặt trời – nguồn năng lượng của tương lai. Năng lượng mặt trời là nguồn năng lượng phong phú nhất, dồi dào nhất trong tất cả các nguồn năng lượng có sẵn trong tự nhiên. Năng lượng mặt trời sẽ không bao giờ cạn kiệt vì theo những nghiên cứu của thiên văn học thì mặt trời của chúng ta chỉ mới sống được một nửa tuổi thọ của nó, tức là nó còn có thể sống thêm khoảng 7.8 tỷ năm nữa trước khi chuyển sang giai đoạn già và nuốt chửng tất cả các hành tinh 8 Đioxit Sunfua (SO2): rất độc hại đối với sức khoẻ của người và sinh vật, gây ra các bệnh về phổi khí phế quản. SO2 trong không khí khi gặp oxy và nước tạo thành axit, tập trung trong nước mưa gây ra hiện tượng mưa axit. Cacbon monoxit (CO): CO không độc với thực vật vì cây xanh có thể chuyển hoá CO => CO2 và sử dụng nó trong quá trình quang hợp. Vì vậy, thảm thực vật được xem là tác nhân tự nhiên có tác dụng làm giảm ô nhiễm CO. Khi con người ở trong không khí có nồng độ CO khoảng 250 ppm sẽ bị tử vong. A.II.3.Năng lượng hóa thạch là nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp trên thế giới Tranh chấp khí đốt - “tam quốc diễn nghĩa” giữa Nga – Ukraine – EU Tranh chấp những giếng dầu và khí đốt trên vùng Trung Á giữa Mỹ, Tây Âu và Nga Tranh chấp những giếng dầu ở Trung Đông Tranh chấp khí tự nhiên và dầu giữa các quốc gia Mỹ, Canada, các nước Bắc Âu và Nga ở Bắc Cực Chính những tranh chấp này dẫn đến bất ổn trên toàn thế giới và ảnh hưởng lớn đến hòa bình thế giới Do đó, chính những lý do trên dẫn đến cần phải tìm những nguồn năng lượng khác thay thế nguồn năng lượng hóa thạch này và các nguồn năng lượng xanh là một lựa chon hợp lý nhất B. Nội dung chính: các dạng năng lượng xanh B.I.Năng lượng mặt trời B.I.1.Năng lượng mặt trời – nguồn năng lượng của tương lai. Năng lượng mặt trời là nguồn năng lượng phong phú nhất, dồi dào nhất trong tất cả các nguồn năng lượng có sẵn trong tự nhiên. Năng lượng mặt trời sẽ không bao giờ cạn kiệt vì theo những nghiên cứu của thiên văn học thì mặt trời của chúng ta chỉ mới sống được một nửa tuổi thọ của nó, tức là nó còn có thể sống thêm khoảng 7.8 tỷ năm nữa trước khi chuyển sang giai đoạn già và nuốt chửng tất cả các hành tinh 9 khác trong hệ mặt trời. Loài người có thể sẽ không tồn tại đến lúc ấy hoặc có lẽ đến lúc ấy con người đã tìm ra những giải pháp cho sự tồn vong của mình! Cảm giác cháy da trong những ngày hè nóng bỏng hay cái ấm áp của những ngày mùa đông nắng tốt như là một lời nhắc nhở đến sự hiện hữu của mặt trời mà lắm lúc ta xem như một tồn tại đương nhiên. Ánh sáng mặt trời là một nguồn năng lượng dồi dào, nhưng khi tính ra con số rất ít người biết đến là mặt trời truyền đến cho ta một năng lượng khổng lồ vượt ra ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Trong 10 phút truyền xạ, quả đất nhận một năng lượng khoảng 5 x 1020 J (500 tỷ tỷ Joule), tương đương với lượng tiêu thụ của toàn thể nhân loại trong vòng một năm. Trong 36 giờ truyền xạ, mặt trời cho chúng ta một năng lượng bằng tất cả những giếng dầu của quả đất. Năng lượng mặt trời vì vậy gần như vô tận. Hơn nữa, nó không phát sinh các loại khí nhà kính (greenhouse gas) và khí gây ô nhiễm. Nếu con người biết cách thu hoạch nguồn năng lượng sạch và vô tận nầy thì có lẽ loài người sẽ mãi mãi sống hạnh phúc trong một thế giới hòa bình không còn chiến tranh vì những cuộc tranh giành quyền lợi trên các giếng dầu. Mười vấn đề lớn của nhân loại trong vòng 50 năm tới đã được ghi nhận theo thứ tự nghiêm trọng là (1) năng lượng, (2) nước, (3) thực phẩm, (4) môi trường, (5) nghèo đói, (6) khủng bố và chiến tranh, (7) bệnh tật, (8) giáo dục, (9) thực hiện dân chủ và (10) bùng nổ dân số. Năng lượng quả thật là mối quan tâm hàng đầu của nhiều chính phủ trên thế giới. Nguồn năng lượng chính của nhân loại hiện nay là dầu hỏa. Nó quí đến nỗi được người ta cho một biệt hiệu là "vàng đen". Một vài giờ cúp điện hay không có khí đốt cũng đủ làm tê liệt và gây hỗn loạn cho một thành phố. Cuộc sống văn minh của nhân loại không thể tồn tại khi thiếu vắng năng lượng. Theo thống kê, hiện nay hơn 85 % năng lượng được cung cấp từ dầu hỏa và khí đốt. Nhưng việc thu hoạch từ các giếng dầu sẽ đạt đến mức tối đa trong khoảng năm 2010 - 2015, sau đó sẽ đi xuống vì nguồn nhiên liệu sẽ cạn kiệt cùng năm tháng. Người ta cũng tiên đoán nếu dầu hỏa được tiếp tục khai thác với tốc độ hiện nay, kể từ năm 2050 lượng dầu được sản xuất sẽ vô cùng nhỏ và không đủ cung cấp cho nhu cầu toàn thế giới. Như vậy, nguồn năng lượng nào sẽ thay thế cho "vàng đen"? 10 Các nhà khoa học đã và đang tìm kiếm những nguồn năng lượng vô tận, sạch và tái sinh (renewable energy) như: năng lượng từ mặt trời, gió, thủy triều, nước (thủy điện), lòng đất (địa nhiệt) v.v... Trong những nguồn năng lượng nầy có lẽ năng lượng mặt trời đang được lưu tâm nhiều nhất. Những bộ phim tài liệu gần đây cho thấy ở các vùng hẻo lánh, nghèo khổ tại Ấn Độ hay châu Phi, cư dân tràn ngập hạnh phúc khi có điện mặt trời thắp sáng màn đêm hay được sử dụng các loại nồi năng lượng mặt trời để nấu thức ăn. Dù vậy, cho đến nay con người vẫn chưa đạt được nhiều thành công trong việc chuyển hoán năng lượng mặt trời thành điện năng vì một phần mật độ năng lượng mặt trời quá loãng, một phần phí tổn cho việc tích tụ năng lượng mặt trời còn quá cao. Nếu tính theo mỗi kilowatt-giờ (năng lượng 1 kilowatt được tiêu thụ trong 1 giờ) thì phí tổn thu hoạch năng lượng mặt trời là $0,30 USD. Trong khi đó năng lượng từ gió là $0,05 và từ khí đốt thiên nhiên là $0,03. Một hệ thống chuyển hoán năng lượng mặt trời cung cấp đủ điện năng cho một căn nhà ở bình thường tốn ít nhất $18000 USD (giá 2005). Chỉ cần yếu tố tài chính không thôi cũng đủ để làm người tiêu thụ tránh xa việc sử dụng năng lượng mặt trời. Hệ quả là tại những nước tiên tiến như Mỹ điện lực được tạo từ năng lượng mặt trời từ các tế bào quang điện (photovoltaic cell; photo = quang, voltaic = điện) chỉ chiếm 0,02 % Tuy nhiên, điều đáng mừng là thị trường năng lượng mặt trời toàn cầu trị giá 10 tỷ USD/năm và tăng 30 % hằng năm nhờ vào các kết quả nghiên cứu làm giảm giá tế bào quang điện B.I.2.Biến năng lượng mặt trời thành điện năng . B.I.2.a. Silicon và các chất bán dẫn vô cơ. Silicon nguyên chất Vật liệu chính cho tế bào quang điện được dùng để chuyển hoán năng lượng mặt trời thành điện năng là silicon (Si). Silicon là một nguyên tố nhiều thứ hai sau oxygen trên quả địa cầu. Đây là cũng là một nguồn thiên nhiên phong phú gần như vô tận. Nó chiếm gần 30 % của vỏ quả đất dưới dạng silica (SiO2), và là một hợp chất chính trong cát. Nhìn xung quanh, ta thấy tính hữu dụng của silica hiện hữu từ 11 công nghệ "thấp" như bê tông, thủy tinh đến công nghệ cao như transistor, chip vi tính và các linh kiện điện tử khác. Có thể nói rằng silicon, hay đi từ nguyên thủy - cát, là xương sống của nền văn minh hiện đại. Nói khác hơn, ngoài đá cát của thiên nhiên ta thấy sự hiện diện của nguyên tố silicon hầu hết ở tất cả mọi nơi từ những tòa nhà chọc trời đến những linh kiện điện tử thu nhỏ cho máy vi tính ở thang nanomét (nhỏ hơn sợi tóc 100.000 lần). Silicon có một số tính chất hóa học đặc biệt, trong đó đặc biệt nhất là có cấu trúc dạng tinh thể. Một nguyên tử silicon có 14 electron, sắp xếp trên 3 lớp khác nhau. Hai lớp nằm trong cùng (nằm gần hạt nhân) thì được lấp đầy hoàn toàn, tuy nhiên lớp ngoài cùng thì chỉ được lấp đầy một nửa và chỉ có 4 electron. Một nguyên tử silicon luôn có xu hướng lấp đầy hoàn toàn lớp ngoài cùng của nó (cần phải có 8 electron), để làm được việc đó nó phải chia sẻ các electron ở lớp ngòai cùng của mình với 4 nguyên tử silicon lân cận. Điều này cũng giống như mỗi nguyên tử silicon “bắt tay” với các “hàng xóm” của mình, trong trường hợp này thì mỗi nguyên tử silicon có 4 cánh tay bắt với 4 “hàng xóm”. Đó chính là cấu trúc dạng tinh thể và cấu trúc này rất quan trọng đối với các tấm panel. Năm mươi năm trước, cùng một lúc với sự phát minh của silicon transistor, pin mặt trời (hay là pin quang điện) silicon được chế tạo tại Bell Labs (Mỹ). Pin này có khả năng chuyển hoán năng lượng mặt trời sang điện năng với hiệu suất là 6 %. Một con số tương đối nhỏ so với hiệu suất lý thuyết tối đa cho silicon là 31 %, nhưng đây là một thành quả rất ấn tượng cho bước đầu nghiên cứu của pin mặt trời. Nhóm nghiên cứu của giáo sư Martin Green (University of New South Wales, Úc) hiện nay đã đạt kỷ lục 24,7 %. Cho đến ngày hôm nay những đặc tính cơ bản của pin quang điện mặt trời nầy vẫn không có nhiều thay đổi; 95 % các hệ thống, dụng cụ dùng tế bào quang điện chế tạo từ silicon với hiệu suất trung bình 15 %. Có ba loại silicon được làm pin mặt trời: đơn tinh thể (monocrystalline), đa tinh thể (polycrystalline) và vô định hình (amorphous). Phần lớn các pin mặt trời hiện nay xuất hiện trên thương trường vẫn là pin của thế hệ thứ nhất (first-generation cell) dùng silicon đơn tinh thể 12 có hiệu suất chuyển hoán 18 %. Sản phẩm đòi hỏi silicon đơn tinh thể phải có độ nguyên chất đạt đến 99,9999 % (6 con số 9) thậm chí 99,999999999 % (11 con số 9 ), và quá trình chế tạo cần nhiệt độ cao để làm tan chảy silicon. Độ nguyên chất phải ở mực gần như tuyệt đối để bảo đảm sự di động dễ dàng của điện tử tạo ra dòng điện. Hai yêu cầu khó khăn này đẩy giá thành lên cao và vì vậy không được áp dụng rộng khắp. Pin dùng silicon đa tinh thể và vô định hình thuộc thế hệ thứ hai. Silicon đa tinh thể được chế tạo ít tốn kém hơn vì không cần đạt đến độ nguyên chất như đơn tinh thể. Nhưng đa tinh thể có nhiều đường biên tinh thể (crystalline boundary) cản trở sự di động của điện tử làm giảm hiệu suất của pin (12 – 15 %). Ngoài ra, silicon vô định hình có thể được xem là vật liệu trong việc sản xuất pin mặt trời giá rẻ. Một trong những ưu điểm là khác với silicon tinh thể, silicon vô định hình có thể làm thành phim mỏng vừa ít tốn kém nguyên liệu vừa có khả năng hấp thụ năng lượng mặt trời cao hơn 40 lần silicon đơn tinh thể; phim silicon dày 1 m có thể hấp thụ gần 90 % bức xạ mặt trời. Tuy nhiên, vì bản chất vô định hình hiệu suất chuyển hoán thành điện chỉ bằng phân nửa hiệu suất của silicon đơn tinh thể. Điều nầy cũng dễ hiểu. Vô định hình như một nắm tóc rối nùi, trong khi tinh thể như một mái tóc được chải mượt mà. Hiệu suất tùy vào sự di động của điện tử và sự di động này tạo ra dòng điện. Đương nhiên độ đi dộng của điện tử trong một môi trường có một trật tự cao hơn trong một không gian vô định hình ngoằn ngoèo như một mê cung. Dù vậy, silicon vô định hình vẫn là loại vật liệu được ưa chuộng nhờ vào giá rẻ để chế tạo mái ngói hoặc các panô (panel) quang điện cho nhà ở hoặc các cao ốc, công thự. Ngoài silicon vô định hình với lợi điểm tạo thành phim mỏng, pin mặt trời thuộc thế hệ thứ hai bao gồm các loại hợp chất bán dẫn như indium dislenide đồng và cadmium telluride được phủ lên thủy tinh. Các loại bán dẫn nầy có giá rẻ hơn rất nhiều so với silicon đơn phân tử nhưng có khuyết tật cấu trúc nên hiệu suất không cao. Việc phát triển mọi ngành công nghệ đều tập trung vào việc giảm giá thành. Công nghệ pin mặt trời cũng không phải là ngoại lệ. Ngoài việc phổ cập hóa silicon vô 13 định hình, cải thiện quá trình sản xuất silicon đơn tinh thể đã làm giảm giá vật liệu nầy. Nhờ vậy, giá điện mặt trời đã giảm 20 lần trong 30 năm qua. Nếu chiều hướng nầy tiếp tục thì trong vòng 25 năm tới giá sẽ giảm đến 0,02 $ /kWh. Với sự trợ giúp của công nghệ nano người ta dự đoán rằng đến năm 2050 thì năng lượng mặt trời sẽ cung ứng 25 % nhu cầu năng lượng của nhân loại. Silicon có pha tạp chất Silicon nguyên chất là một chất dẫn điện kém vì nó không có các electron chuyển động tự do giống như trong những chất dẫn điện tốt như đồng chẳng hạn. Thay vào đó, các electron của silicon nguyên chất bị giữ chặt bên trong các mạng tinh thể. Vì thế các tấm panel mặt trời không làm từ silicon nguyên chất mà làm từ silicon có pha thêm tạp chất, trong đó những nguyên tử khác sẽ trộn lẫn với các nguyên tử silicon và làm thay đổi tính chất của silicon. Chúng ta thường nghĩ rằng tạp chất là những chất gây ra những tác dụng không như mong muốn, thậm chí là những rắc rối, nhưng trong trường hợp này, các tấm panel của chúng ta không thể làm việc nếu không có chúng. Hàm lượng của tạp chất bên trong silicon là rất ít, ví dụ tạp chất là photpho thì tỉ lệ về số lượng nguyên tử photpho so với số lượng nguyên tử silicon có thể là một phần triệu. Nguyên tử photpho có 5 electron ở lớp ngoài cùng chứ không phải 4 electron như nguyên tử silicon. Các nguyên tử photpho vẫn liên kết với các nguyên tử silicon ở lân cận, nhưng trong trường hợp này, nguyên tử photpho vẫn còn thừa ra một electron chưa liên kết với nguyên tử khác. Electron này sẽ không high thành liên kết nhưng vẫn có một hạt proton mang điện tích dương nằm ở bên trong hạt nhân nguyên tử photpho giữ nó lại mà không cho nó chuyển động tự do. Khi ta cung cấp năng lượng cho silicon nguyên chất ví dụ như nhiệt lượng chẳng hạn, năng lượng này sẽ làm cho một số electron bẻ gãy liên kết với nguyên tử của chúng, rời khỏi nguyên tử và trở thành các electron chuyển động tự do. Khi mỗi electron bức khỏi nguyên tử là một lỗ trống được high thành. Các electron sau khi bức khỏi nguyên tử sẽ chuyển động một cách hỗn loạn xung quanh các nút mạng tinh thể và tìm kiếm một lỗ trống khác để lấp vào. Những electron này được gọi là 14 các electron dẫn tự do và có thể mang dòng điện tích đi. Có rất ít những electron như thế bên trong silicon nguyên chất, tuy nhiên những elctron này lại không thực sự hữu dụng. Đối với silicon có pha tạp chất với các nguyên tử photpho trộn lẫn bên trong thì câu chuyện lại khác. Nó tốn ít năng lượng hơn trường hợp trên rất nhiều để bức các electron “thừa” ra khỏi các nguyên tử photpho bởi vì những ectron này không bị giữ chặt trong các liên kết (các nguyên tử lân cận không liên kết với nó). Kết quả là hầu hết các electron này sẽ được “giải phóng” ra khỏi nguyên tử, vì thế chúng ta sẽ có nhiều electron dẫn tự do hơn so với trường hợp siliocn nguyên nguyên chất. Quá trình thêm tạp chất với mục đích như trên gọi là quá trình kích thích, và khi tạp chất mà chúng ta thêm vào là photpho thì silicon được gọi là là loại N (N là viết tắt của negative) do trong silicon lúc này có nhiều ectron tự do. Silicon loại N dẫn điện tốt hơn silicon nguyên chất rất nhiều. Chỉ một phần của tấm panel làm bằng chất bán dẫn loại N, phần khác được làm bằng chất bán dẫn loại P, đó chính là silicon nguyên chất được pha thêm boron, trong đó boron là chất mà nguyên tử chỉ có 3 electron ở lớp ngoài cùng. Thay vì có những electron tự do như silcon loại N, silicon loại P (P viết tắt cho chữ positive) có những lỗ trống tự do, những lỗ trống này thực chất ra chỉ là các nút mạng bị mất electron, vì thế các lỗ trống sẽ mang điện tích trái với điện tích của electron, tức là mang điện dương. Các lỗ trống này cũng di chuyển tự do như các electron tự do. 15 Điều kì thú sẽ xảy ra khi ta đặt silicon loại N và loại P tiếp xúc với nhau, một điện trường sẽ xuất hiện bên trong các tấm panel. Các electron tự do ở phía bên silicon loại N luôn có xu hướng tìm các lỗ trống mang điện dương để lấp vào, trong khi đó ở phía bên silicon loại P lại có rất nhiều lỗ trống, vì thế các electron ở phía N sẽ tràn sang lấp đầy các lỗ trống ở phía bên loại P. Liệu các điện tử tự do của bán dẫn N có bị chạy hết sang bán dẫn P hay không? Câu trả lời là không. Vì khi các điện tử di chuyển như vậy nó làm cho bán dẫn N mất điện tử và tích điện dương, ngược lại bán dẫn P tích điện âm. Ở bề mặt tiếp xúc của 2 chất bán dẫn bây giờ tích điện trái ngược và xuất hiện 1 điện trường hướng từ bán dẫn N sang P ngăn cản dòng điện tử chạy từ bán dẫn N sang P. Và trong khoảng tạo bởi điện trường này hầu như không có e hay lỗ trống tự do . B.I.2.b. Nguyên lý làm việc của pin năng lương mặt trời. Nguyên lý của pin mặt trời là hiệu ứng quang điện (photoelectric effect). Hiệu ứng quang điện được xem là một trong những phát hiện to lớn của Einstein. Hiệu ứng nầy mô tả khả năng của ánh sáng (quang) khi được chiếu trên bề mặt vật liệu có thể 16 đánh bật điện tử (điện) ra khỏi bề mặt nầy. Để giải thích hiệu ứng quang điện Einstein đưa ra khái niệm quang tử (photon). Ánh sáng là những quang tử được bắn lên vật liệu để tống điện tử của vật liệu thành điện tử tự do. Sự di động của các điện tử nầy sẽ cho ta dòng điện. Vật liệu silicon nguyên chất là một mạng nối kết các nguyên tố silicon và mạng nầy trung tính về điện nên không hữu dụng. Khi silicon được kết hợp một lượng nhỏ (vài phần triệu) "chất tạp", mạng sinh ra điện tích. Silicon mang điện tích là vật liệu cho nhiều áp dụng cực kỳ quan trọng. Khi silicon kết hợp với chất tạp (dopant) có khả năng lấy điện tử (electron acceptor) từ mạng silicon, mạng silicon sẽ có những lỗ trống mang điện tích dương (+). Đây là p-silicon (p = positive, dương). Lỗ trống (+) vốn dĩ là "nhà" của điện tử, cho nên khi điều kiện cho phép điện tử sẽ chiếm đóng trở lại. Mặt khác, khi silicon được kết hợp với chất tạp có khả năng cho điện tử, mạng silicon sẽ dư điện tử. Đây là n-silicon (n = negative, âm). Silicon dùng trong mọi linh kiện điện tử (thí dụ: transistor, đèn diode) là một vật liệu hỗn hợp liên kết giữa p-silicon và n-silicon. Có thể nói rằng p- và n-silicon đã tạo ra một cuộc cách mạng khoa học ở thế kỷ 20 và đã cho nhân loại nền văn minh silicon. Như một quy luật thiêng liêng trong vạn vật, sự tiếp cận âm dương lúc nào cũng cho ta nhiều điều thú vị. Khi p-silicon tiếp cận với n-silicon, vùng chuyển tiếp ( junction) giữa hai vật liệu nầy sẽ sinh ra một điện áp tự nhiên (0,7 V). Khi quang tử của ánh sáng mặt trời chạm vào mạng silicon, nó sẽ đánh bật điện tử ra khỏi mạng thành điện tử "vô gia cư" và để lại lỗ trống (+) trên mạng. Tuy nhiên, sau khi bị quang tử tấn công cặp điện tử và lỗ trống (+) vẫn còn quyến luyến vì lực hút Coulomb nên không chịu rời nhau! Cặp điện tử và lỗ trống (+) còn gọi là exciton. Chỉ có những cặp gần vùng chuyển tiếp mới bị điện áp vùng biên kéo cả hai ra xa để lỗ trống (+) đi về phía p-silicon và điện tử đi về phía n-silicon. Bây giờ, điện tử mới thật sự tự do di động để cho ra dòng điện. Hình 1 cho thấy cấu trúc của pin mặt trời silicon. Vùng chuyển tiếp hay là mặt tiếp xúc giữa p-silicon và n-silicon rất rộng để tạo ra nhiều khả năng để cặp điện tử và lỗ trống (+) có nhiều cơ hội chia ly. Điện trường xuất niện giữa mặt tiếp giáp 2 chất bán dẫn loại P và loại N có tác dụng 17 giống như một điốt, điốt này cho phép (thậm chí là đẩy các electron) di chuyển từ phía P sang phía N. Nó giống như một quả đồi, các electron dễ dàng trượt xuống đồi (dịch chuyển về phía N) nhưng lại không thể leo lên đồi (đi về phía P). Vì thế chúng ta có một điện trường làm việc như một điốt, trong đó các ectron chỉ có thể dịch chuyển theo một chiều. Thật ra, đây chỉ là cuộc chia ly tạm thời vì điện tử đi đường vòng ra ngoài tạo nên dòng điện, "bọc hậu" trở lại p-silicon tìm lại bạn xưa! Cứ như thế, khi ánh sáng chiếu liên tục ta sẽ có dòng điện liên tục để sử dụng. Hình 1: Cấu trúc của pin mặt trời silicon và cơ chế tạo ra dòng điện. Chấm đen là điện tử e-; chấm trắng là lỗ trống h+. Thất thoát năng lượng trên pin năng lượng mặt trời và cách giải quyết. Thất thoát năng lượng: Ánh sáng mặt trời cung cấp cho chúng ta khoảng 1 kilowatt/m2 ( Chính xác là 1,34 KW/m2 :Đây chính là hằng số mặt trời) , tuy nhiên các hiệu suất chuyển thành điện năng của các pin mặt trời chỉ vào khoảng 8% đến 12%. Tại sao lại ít vậy. Câu trả lời là ánh sáng mặt trời có phổ tần số khá rộng. Không phải tần số nào cũng có đủ năng lượng để kích thích điện tử từ vùng hóa trị lên vùng dẫn. Chỉ có những photon năng lượng cao hơn khe vùng bán dẫn mới làm được điều này. Đối với bán dẫn Si khe vùng vào khoảng 1.1eV. Các photon năng lượng thấp hơn sẽ không sử dụng được. Nếu photon có năng lượng cao hơn khe vùng thì phần năng lượng dư đó cũng không có đóng góp gì thêm. Vậy tại sao chúng ta không chọn các vật liệu có khe 18 vùng hẹp để tận dụng nguồn photon tần số thấp. Vấn đề là khe vùng cũng xác định hiệu điện thế (hay điện trường) ở bề mặt tiếp xúc. Khe vùng càng bé thì hiệu điện thế này càng bé. Nên nhớ công suất của dòng điện bằng hiệu điện thế nhân với dòng. Người ta đã tính toán được khe vùng tối ưu là vào khoảng 1.4eV, khi đó công suất dòng điện thu được tối đa. Một nguyên nhân nữa cũng cản trở việc nâng cao hiệu suất của pin mặt trời, đó là cách chúng ta bố trí các tiếp xúc kim loại để lấy dòng điện. Ở mặt dưới của tấm pin hiển nhiên ta có thể cho tiếp xúc với 1 tấm kim loại nhưng ở mặt trên nó cần trong suốt để ánh sáng có thể đi qua. Nếu chỉ bố trí các tiếp xúc ở mép tấm pin thì các điện tử phải di chuyển quá xa trong tinh thể Si mới vào được mạch điện (chú ý là bán dẫn Si dẫn điện kém, tức điện trở của nó lớn). Vì vậy người ta thường dùng 1 lưới kim loại phủ lên bề mặt của pin mặt trời. Tuy nhiên kích thước lưới không thể giảm vô hạn nên cũng phần nào làm giảm hiệu suất chuyển năng lượng ánh sáng thành năng lượng điện. Cách giải quyết: Nếu ta dùng những vật liệu bán dẫn với những khe dải khác nhau và liên kết những vật liệu nầy thành một cấu trúc chuyển tiếp đa tầng (multi-junction) để hấp thụ quang tử mặt trời ở các mực năng lượng khác nhau, hiệu suất chuyển hoán sẽ phải gia tăng. Năm 2002, các nhà khoa học tại Viện Nghiên cứu Quốc gia, Lawrence Berkeley National Laboratory (Mỹ), thiết kế các hợp chất bán dẫn chứa indium (In), gallium (Ga) và nitrogen (N) cho đèn phát quang diode. Trong cơ chế phát quang của đèn 19 diode ta cho dòng điện tạo ra sự kết hợp giữa điện tử và lỗ trống (+) trong chất bán dẫn để tạo ra ánh sáng . Cơ chế của pin mặt trời có thể xem là một hiện tượng nghịch lại vì ánh sáng làm phân ly điện tử và lỗ trống (+) để cho ra dòng điện. Khi hợp chất bán dẫn InGaN được chế tạo, các nhà khoa học Mỹ khám phá ra là bằng sự điều chỉnh tỉ lệ của In và Ga, khe dải của hợp chất InGaN có thể biến thiên liên tục từ 0,2 đến 3,4 eV bao gồm toàn thể quang phổ mặt trời. Các nhà khoa học ở Lawrence Barkerley vừa làm vật liệu cho đèn diode vừa cho pin mặt trời. Một công hai việc. Trở ngại chính là sự tốn kém trong việc sản xuất, cấu trúc nầy vì vậy không thể trở thành một sản phẩm phổ cập. Nhưng nếu tiền bạc không phải là vấn đề quan trọng như trong một số áp dụng đặc biệt chẳng hạn như cho vệ tinh, các loại pin nầy là nguồn điện hữu hiệu để vận hành vệ tinh. Chỉ cần kết hợp hai tầng InGaN được thiết kế có khe dải 1,1 eV và 1,7 eV, hiệu suất dễ dàng đạt đến 50 %. Mười hai tầng InGaN có khe dải bao gồm toàn thể quang phổ mặt trời sẽ cho hiệu suất 70 %. Gần đây (năm 2006), một số chất bán dẫn đã được thiết kế để tối ưu hóa trị số khe dải, gia tăng hiệu suất và đồng thời giảm giá thành sản xuất. Trong một cuộc triển lãm quốc tế về năng lượng mặt trời (2006), công ty Sharp Solar (Nhật Bản), một trong những công ty lớn và uy tín trên thế giới sản xuất pin mặt trời, đã ra mắt một panel pin mặt trời có hiệu suất đột phá 36 % mà vật liệu là hợp chất bán dẫn của các nguyên tố ở cột III (aluminium, gallium, indium) và cột V (nitrogen, arsenic) trong bảng phân loại tuần hoàn. Không chịu thua, cũng vào năm 2006 công ty Boeing - Spectrolab (Mỹ) dùng chất bán dẫn với một công thức được giữ bí mật có thể chuyển hoán 41% năng lượng mặt trời. Mười tháng sau đó, viện nghiên cứu quốc gia Lawrence Berkeley National Laboratory (Mỹ) lại chế tạo một loại pin mặt trời dùng chất bán dẫn zinc-manganese-tellium với hiệu suất 45 %. Những con số nầy rất ấn tượng, nhưng phải nói rằng panel của Sharp Solar dù ở 36 % nhưng đã đạt tới trình độ hữu dụng của một thương phẩm về giá trị thực tiễn cũng như giá cả. Hiện nay, việc nghiên cứu các chất bán dẫn vô cơ mà điển hình là silicon được phát triển mạnh trên mặt sản xuất làm giảm giá thành, tối ưu hóa những vật liệu hiện 20 có để nâng cao hiệu suất và tìm kiếm những hợp chất bán dẫn mới với các trị số khe dải thích hợp. Nền công nghệ nano đang là chủ lực để đạt những mục tiêu nhiều tham vọng nầy. Một trong những ý tưởng nano là chế tạo hằng tỷ tế bào pin mặt trời ở kích thước nanomét gọi là điểm lượng tử (quantum dot), thay vì dùng từng mảng vật liệu như hiện nay. Nhóm của giáo sư Martin Green (University of New South Wales, Úc) lần đầu tiên chế biến thành công trong phòng thí nghiệm pin mặt trời silicon mang cấu trúc điểm lượng tử với hiệu suất đạt đến gần con số lý thuyết 31 % . Điểm lượng tử silicon thật ra là tinh thể nano silicon. Tiến sĩ Arthur Nozik thuộc Viện Nghiên cứu Năng lượng Tái sinh (Mỹ) (National Renewable Energy Laboratory) cũng đã chế tạo thành công tập hợp điểm lượng tử silicon (Hình 3). Mỗi điểm có bán kính khoảng 7 nm, chứa 50 - 70 nguyên tử silicon. Thông thường một quang tử đánh bật một điện tử, nhưng ở thứ nguyên nano cực nhỏ nầy một quang tử khi va chạm vào điểm lượng tử có thể sinh ra hai, ba điện tử tự do. Kết quả là ta sẽ có nhiều điện tử tạo ra dòng điện. Theo Nozik, nhờ vào hiệu ứng đa điện tử của điểm lượng tử silicon, hiệu suất chuyển hoán có thể đạt hơn 60 %, gấp đôi con số lý thuyết 31 % của trường hợp một quang tử cho một điện tử. Tuy nhiên, để trở thành một sản phẩm thông dụng, người ta dự đoán phải cần một thời gian từ 10 đến 15 năm. Chúng ta hãy kiên nhẫn chờ xem. B.I.2.c.Một số phát minh. Tàu chạy bằng năng lượng mặt trời: Nó chạy chậm và chỉ đi được một đoạn ngắn, nhưng tàu Serpentine Solar Shuttle là tàu chở khách chạy bằng năng lượng mặt trời tiên tiến nhất hiện nay. 3: Tập hợp điểm lượng tử (tinh thể nano) silicon. Mỗi điểm có đường kính 7 nm và chứa 50 - 70 nguyên tử silicon (Nguồn: Tiến sĩ Arthur Nozik). 21 Chiếc tàu chạy bằng năng lượng mặt trời của Anh ra mắt ngày 18/7 tại Hyde Park, London. Các nhà phát triển con tàu hi vọng nó sẽ mở cửa tương lai cho việc vận chuyển bằng năng lượng mặt trời. Tàu Serpentine Solar Shuttle - chạy hoàn toàn bằng năng lượng mặt trời - có tốc độ 8km/giờ, và chở được 42 hành khách. “Đây là con tàu có công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới vào thời điểm này” – nhà thiết kế Christoph Behling, người thiết kế con tàu chạy bằng năng lượng mặt trời lớn nhất thế giới tại Hamburg, Đức, nói. “Được làm hoàn toàn từ thép không rỉ, điều này có nghĩa, con tàu sẽ không bao giờ bị cũ. Nó mở đường cho tàu thuỷ, tàu hoả và các phương tiện giao thông khác trong tương lai” – ông Behling nói. Con tàu dài 14,6m, có 27 tấm bảng thu nhiệt nằm ở phần mái. Hành trình dài nhất mà nó có thể đi là 131 km. Con tàu hầu như không thải ra khí ô nhiễm nào trong suốt hành trình bởi nó có hai động cơ tĩnh - điều này có nghĩa nó không phát thải khí carbon. Thậm chí trong đêm tối, những ngày mưa, vẫn đủ năng lượng mặt trời giúp tàu chạy. Khi con tàu không hoạt động, điện năng thừa sinh ra bởi các tấm bảng hấp thu ánh nắng mặt trời sẽ được cung cấp trở lại mạng truyền dẫn quốc gia. Chi phí xây dựng tàu Serpentine Solar Shuttle lên tới 421.000 USD – hơn 20% so với chi phí xây dựng một con tàu chạy bằng diesel cùng kích cỡ. Máy bay chạy bằng năng lượng mặt trời 22 Zephyr -chiếc máy bay nhẹ chạy bằng năng lượng mặt trời - đã phá kỷ lục thế giới về hành trình bay không người lái dài nhất khi vận hành 54 giờ không nghỉ, kéo dài qua hai đêm. Công ty quốc phòng Anh Qinetiq, đơn vị sản xuất chiếc Zephyr, tin rằng đây là lần đầu tiên một chiếc máy bay chạy năng lượng mặt trời có thể bay bằng năng lượng tự sinh lâu như vậy. Kỷ lục không người lái trước kia được lập năm 2001, khi một chiếc phản lực của không quân Mỹ bay hơn 30 giờ. Hành trình 54 giờ của Zephyr sẽ không được ghi vào sách kỷ lục Guiness vì đại diện của Hiệp hội thể thao hàng không thế giới - cơ quan chứng nhận trong những trường hợp như thế này - không được thông báo về cuộc thử nghiệm bí mật. Tuy nhiên, họ được biết về thử nghiệm thứ hai, kéo dài 33 giờ, và có thể vẫn là một kỷ lục chính thức. Zephyr ban đầu được chế tạo với nhiệm vụ chụp ảnh một khinh khí cầu khổng lồ (có tên Qinetiq 1), được xây dựng để phá kỷ lục thế giới về độ cao của khinh khí cầu có người lái vào năm 2003. Nỗ lực trên bị hoãn lại sau khi chiếc khí cầu bị rò rỉ. Tuy nhiên, công ty quốc phòng trên vẫn tiếp tục chế tạo chiếc máy bay "chụp ảnh" này cho các mục đích quân sự, quan sát trái đất và thông tin. Zephyr không phải là chiếc máy bay năng lượng mặt trời đầu tiên chạy xuyên đêm. Một chiếc khác, có tên là SoLong do công ty AC propulsion của Mỹ chế tạo đã bay 48 giờ liền năm 2005. Tuy nhiên khác với Zephyr, chiếc SoLong không bay liên tục, mà thường xuyên lượn hoặc chao. Cơ quan vũ trụ Mỹ NASA cũng đã chế tạo chiếc Pathfinder và Helios với mục đích thay thế các vệ tinh hoặc các phương tiện không người lái khác để khám phá các vật thể ngoài trái đất. Helios (chiếc thành công hơn Pathfinder) đã vỡ tan trong một chuyến bay năm 2003 Ô tô năng lượng mặt trời đi vòng quanh thế giới Zephyr có thể đạt được độ cao 18.000 m 23 Sau khi dừng ở 38 nước trên thế giới, chiếc xe ô tô chạy bằng năng lượng mặt trời của một giáo viên người Thụy Sĩ đã có mặt tại Hội nghị về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc tổ chức ở Poznan, Ba Lan. Anh Louis Palmer đã vượt hành trình dài 52.086km, qua 38 nước, trước khi tới Ba Lan. Đây cũng là lần đầu tiên một chiếc ô tô chạy bằng năng lượng mặt trời thực hiện hành trình vòng quanh thế giới. Ông Yvo de Boer, Tổng thư ký Ban công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC), là hành khách đầu tiên của anh Palmer. Các vị khách danh dự khác gồm: Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon, Giám đốc sản xuất phim nổi tiếng thế giới James Cameron, Hoàng tử Albert của công quốc Monaco, Thủ tướng Thụy Điển Fredrik Reinfeldt, và Thị trưởng thành phố New York Michael Bloomberg. Palmer tạo ra chiếc xe năng lượng mặt trời này nhằm chứng minh rằng hiện đã có những công nghệ tối tân phục vụ mục đích giảm khí thải nhà kính, bảo vệ môi trường. Ngoài ý nghĩa bảo vệ môi trường và đảm bảo sự phát triển bền vững, anh Palmer tin rằng nếu được đầu tư đầy đủ, việc khai thác năng lượng không có nguồn gốc hóa thạch sẽ giúp tạo nhiều việc làm mới - điều có thể mang tầm quan trọng hơn trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay. Về cấu tạo, chiếc ô tô chạy bằng năng lượng mặt trời của anh kéo Louis Palmer cùng chiếc xe chạy bằng năng lượng mặt trời của mình trên đường đua Taupo ở Niu Dilân 24 theo một xe moóc có nóc rộng 6 mét vuông, là các tấm hấp thụ năng lượng mặt trời ghép lại với nhau. Bản thân xe moóc đã chứa bộ pin cho ô tô, có khả năng cung cấp điện để xe chạy 15.000km/năm. Chiếc xe có tốc độ tối đa 90 km/h và có thể chạy 400 km khi pin đầy. Anh Palmer cho biết ô tô của anh có mức tiêu thụ năng lượng tương đương chưa đến 1 lít xăng cho 100km. Tổng trọng lượng của cả ô tô và rơ-moóc là 750 kg. Mặc dù chi phí phát triển chiếc xe này khá cao, nhưng anh Palmer khẳng định rằng nếu sản xuất với số lượng lớn, chi phí chỉ khoảng 10.000 euro , và thêm 4.000 USD cho các tấm hấp thụ năng lượng mặt trời. Palmer cũng cho biết chiếc xe hoạt động khá ổn định, chỉ trục trặc 2 lần trong suốt hành trình vòng quanh thế giới của anh. B.I.3. Sử dụng nhiệt năng của ánh sáng mặt trời. Sử dụng nhiệt năng của mặt trời đã được con người biết đến từ rất lâu nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. Hiện nay có 2 cách cơ bản để thu và sử dụng nhiệt năng của mặt trời đó là sử dụng hệ thống các dụng cụ quang học để hội tụ ánh sáng và sử dụng các tấm panel mặt trời có hệ thống các ống nhỏ bên trong. Sử dụng hệ thống các dụng cụ quang học: Sử dụng các dụng cụ quang học như hệ thống các chảo parabol hội tụ ánh sáng, các thấu kính hội tụ, các tấm phản chiếu Nhiệt thu được từ các hệ thống quang học sẽ được truyền dẫn đến nơi sử dụng bằng một hệ thống các sợi cáp dẫn nhiệt và giữ nhiệt tốt, thông thường là các sợi cáp thủy tinh. 25 Khi ánh sáng mặt trời chiếu vào các tấm panel, nhiệt nặng của mặt trời sẽ được truyền cho hệ thống các ống nhỏ nằng bên trong các tấm panel, nước sẽ được nung nóng khi chảy qua các ống nhỏ này. Nước được nung nóng bởi nhiệt mặt trời có thể dùng để tắm rửa, giặt giũ hay sưởi ấm trong nhà của chúng ta. Khi chúng ta không có nhu cầu sử dụng nhiệt năng thì phần nhiệt năng mặt trời thu được vẫn được trữ bên trong các tấm panel vì các tấm panel dược thiết kế với mặt trên là chất liệu hấp thu áng sáng mặt trời tốt, mặt dưới và xung quanh được làm từ các vật liệu cách nhiệt cực tốt nên nhiệt thu được vẫn được trữ bên trong. Chúng ta có thể sử dụng được nhiệt năng của mặt trời thông qua các thiết kế được giữ cố định. Cửa sổ ở các tầng trên trần nhà có thể tận dụng để thiết kế sao cho thường xuyên tiếp xúc với ánh sáng mặt trời để dẫn nhiệt vào nhà chúng ta, sưởi ấm vào mùa đông. B.II. Năng lượng gió B.II.1.Lịch sử hình thành Sức gió đã được con người khai thác, sử dụng từ rất lâu. Tuy nhiên, tuabin gió đầu tiên được xây dựng ở Sistan, Iran, vào thế kỷ 7. Đó là những chiếc tuabin gió thẳng đứng với bộ cánh quạt dài hình chữ nhật (6 đến 12 cánh), được làm bằng vải phủ lên các bộ khung bằng sậy. Những chiếc tuabin gió này được dùng để xay ngô, bơm nước,. Đến thế kỷ 14, những tuabin gió ở Hà Lan, được sử dụng để tháo nước trong khu vực đồng bằng sông Rhine. Ở Đan Mạch, đến năm 1900 đã có 2500 tuabin gió được Tuabin gió tự vận hành đầu tiên của thế giới được xây dựng ở Cleverland vào năm 1888, bởi Charles F. Brush. Nó cao 60 feet, nặng 4 tấn và có công suất 12kW Sử dụng các tấm panel mặt trời có hệ thống ống nhỏ 26 sử dụng với công suất cực đại 30 MW. Tuabin gió sản xuất ra điện đầu tiên được biết đến, là một máy sạc pin, xây dựng vào năm 1887 bởi James Blyth ở Scotland, Anh. Tuabin gió đầu tiên sản xuất ra điện tại Mỹ được xây dựng tại Cleveland, Ohio bởi Charles F Brush vào năm 1888, và vào năm 1908 đã có 72 máy phát điện bằng sức gió từ 5kW đến 25kW. Đến năm 1930, tuabin gió sản xuất điện, được phổ biến đến các trang trại, chủ yếu là ở Mỹ. Một tiền thân của mẫu tuabin gió trục ngang hiện đại ngày nay, được xây dựng tại Liên xô vào năm 1931. Đó là một máy phát điện 100kW, đặt trên tháp cao 30m. Nó được ghi nhận là có hiệu suất 32%, không khác nhiều so với các máy điện gió ngày nay. B.II.2. Nguyên lý làm việc của tuabin gió Các tuabin hoạt động theo một nguyên lý rất đơn giản. Năng lượng của gió làm cho 2 hoặc 3 cánh quạt quay quanh một roto. Roto được nối với trục chính và trục chính sẽ truyền động làm quay trục quay máy phát để tạo ra điện. Các tuabin gió được đặt trên trụ cao để thu hầu hết năng lượng gió. Ở độ cao 30 mét trên mặt đất thì các tuabin gió thuận lợi: tốc độ nhanh hơn và ít bị các luồng gió bất thường. B.II.2.a. Cấu tạo của tuabin gió Bao gồm các phần chính sau đây : 27 Anemometer: Bộ đo lường tốc độ gió và truyền dữ liệu tốc độ gió tới bộ điều khiển. - Cảm biến của hệ thống đo tốc độ gió được phân loại theo nguyên tắc hoạt động của chúng + Anemometer xoay: dạng tách (cups), chân vịt + Anemometer áp suất: dạng ống, dạng tấm và dạng cầu + Anemometer nhiệt: dây nhiệt (hot wire) và tấm nhiệt (hot films) + Dùng sự thay đổi pha: anemometer siêu âm, laser doppler anemometer Anemometer dạng tách (cups anemometer): sử dụng chuyển động quay, thay đổi tùy theo tốc độ gió, để biến thành tín hiệu. Anemometer chân vịt (propeller anemometers): khi gió thổi vào chân vịt làm xoay trục của một mát phát điện (thường là một chiều), hoặc máy ngắt quãng ánh sáng (light chopper) để tạo ra một tín hiệu xung. Tấm áp lực: đây là kiểu anemometer đầu tiên. Áp lực của gió tác động lên tấm phẳng, làm tấm phẳng lệch vào trong. Khoảng cách lệnh vào phụ thuộc vào vận tốc của gió, từ đó ta có thể xác định được vận tốc gió. Anemometer dạng này thường được dùng để đo gió bão. Anemometer âm thanh: anemometer âm thanh đó vận tốc gió thông qua sự thay đổi của vận tốc âm thanh. Bằng cách đo vận tốc âm thanh giữa các đầu cảm biến, ta có thể suy ra được vận tốc của gió 28 Blades (cánh quạt): Gió thổi qua các cánh quạt, làm cho các cánh quạt chuyển động và quay. Brake (bộ hãm): dùng để dừng roto trong tình trạng khẩn cấp bằng điện, bằng
File đính kèm:
- tieu_luan_nang_luong_xanh.pdf