Tiểu luận Nền kinh tế hàng hoá nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

pdf 32 trang yenvu 19/08/2024 220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Nền kinh tế hàng hoá nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Nền kinh tế hàng hoá nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Tiểu luận Nền kinh tế hàng hoá nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
 1
LỜI NÓI ĐẦU 
Từ khi hoà bình độc lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta đã bước vào thời 
kỳ quá độ tiến lên CNXH với đặc điểm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói "Đặc 
điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến 
thẳng lên CNXH không phải qua giai đoạn phát triển TBCN". 
Từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống 
nhất, cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước 
thì cả nước cùng tiến hành cách mạng XHCN, cùng quá độ tiến lên chủ nghĩa 
xã hội. Đảng ta từ đại hội VI đã mở ra mô hình kinh tế mới đó là mô hình 
kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đặc biệt Hồ Chí Minh đã nhấn 
mạnh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: 
" Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất 
và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công 
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá khoa học tiên tiến. Trong quá 
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phỉa cải tạo nền kinh tế cũ và xây 
dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài". 
Nền kinh tế mới đó là phải xoá bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao 
cấp, phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế có sự tiết 
của nhà nước. Trong nền kinh tế "mở" đó không thể thiếu được kinh tế hàng 
hoá đó là một mô hình kinh tế kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể 
kinh tế. Song trong nền kinh tế hàng hoá không thể tránh khỏi những khó 
khăn khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhân đây, trong bài tiểu luận: "Nền 
kinh tế hàng hoá nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", tôi 
xin được chỉ ra những đặc điểm và những điểm hạn chế của Nền kinh tế hàng 
 2
hoá nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với những điều 
kiện và phương hướng phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta. 
 Mong thầy cô và bè bạn bổ sung và đóng góp ý kiến. 
 3
I. KINH TẾ HÀNG HOÁ, ĐẶC ĐIỂM VÀ XU HƯỚNG CỦA NÓ 
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 
Trên bình diện chung của quốc tế hiện nay, không có một nước nào nền 
kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị trường lại vận động hoàn toàn theo kinh tế thị 
trường "hoàn hảo" hoàn toàn do "bàn tay vô hình" theo cách nói của A.smith - 
nàh kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh, ở thế kỷ XVIII và XIX. Trái lại, 
chúng đều vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của các doanh 
nghiệp lớn và nhà nước, với mức độ và phạm vi khác nhau, tuỳ thuộc điều 
kiện lịch sử của nước. Do vậy, có thể hiểu kinh tế hàng hoá là mô hình kinh tế 
mà trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế được thực hiện trên thị trường dưới 
hình thái hàng hoá và dịch vụ; vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý 
của nhà nước. 
Kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội. Ở nước ta, 
những điều kiện chung của kinh tế hàng hoá vẫn còn, nền kinh tế hàng hoá tồn 
tại là một tất yếu khách quan. Thật vậy. 
- Phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở của trao đổi, chẳng 
những không mất đi trái lại, ngày một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều 
sâu. Sự chuyên môn hoá và hợp tác háo lao động đã vượt khỏi biên giới quốc 
gia và ngày càng mang tính quốc tế. 
- Trong nền kinh tế đã và đang tôn tại, nhiều hình thức sở hữu khác 
nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Trình độ xã hội hoá sản xuất 
giữa các ngành, giữa các xí nghiệp trong cùng một hình thức sở hữu vẫn chưa 
đều nhau. Trong điều kiện đó, giữa các doanh nghiệp còn có sự tách biệt về 
kinh tế nhất định. Việc hạch toán kinh doanh, phân phối và trao đổi còn cần 
thiết phải thông qua hình thái hàng hoá tiền tệ để thực hiện. 
 4
Trên con đường đi của lịch sử phát triển kinh tế hàng hoá ở các nước xã 
hội chủ nghĩa đã xuất hiện mô hình "kinh tế chỉ huy" hay mô hình hoá tập 
trung quan liêu bao cấp. Mô hình này xét về mặt thực chất có sự xoá bỏ các 
thành phần kinh tế với tư cách là cơ sở kinh tế đó quan hệ hàng hoá hay kinh 
tế thị trường. Trong mấy thập niên gần đây, kinh tế hàng hoá phát triển mạnh 
mẽ nhờ tác động và thúc đẩy của công nghệ mới và lực lượng sản xuất mới. 
Vì vậy, xu thế chuyển sang kinh tế thị trường, trình độ phát triển của kinh tế 
hàng hoá đang có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà soạn thảo chiến lược 
phát triển kinh tế xã hội hiện nay ở các nước xã hội chủ nghĩa. 
Ở nước ta, Đảng và nhà nước đã xác định phương hướng phát triển kinh 
tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận động theo 
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. 
Tất nhiên, kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị trường bên cạnh mặt tích cực 
là chủ yếu vẫn còn những khuyết tật nhất định, không được lý tưởng hoá một 
chiều trong quá trình tiếp tục mở rộng và phát triển kinh tế hàng hoá. 
 Ở nước ta, đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua 
chế độ tư bản chủ nghĩa, xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá 
gắn liền với các đặc điểm sau đây. 
1. Nền kinh tế nước ta trong đang quá trình chuyển biến từ nền 
kinh tế hàng hoá kém phát triển mang nặng tính tự túc tự cấp sang nền 
kinh tế hàng hoá phát triển từ thấp đến cao. 
Điểm xuất phát của đặc điểm này gắn liền với thực trạng kinh tế biểu 
hiện ở các mặt: 
- Kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém. 
 5
- Trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, 
không có khả năng cạnh tranh. 
- Hầu như không có đội ngũ nhà doanh nghiệp có tầm cỡ. 
- Thu nhập của người làm công ăn lương và nông dân thấp kém, sức 
mua hàng hoá của xã hội và dân cư thấp nên nhu cầu tăng chậm, dung lượng 
thị trường trong nước còn hạn chế. 
Những biểu hiện trên, một mặt phản ánh trình độ thấp kém về dung 
lượng cung cầu hàng hoá và khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. 
Mặt khác, nó cũng tạo ra áp lực, buộc chúng ta phải vươn lene vượg qua thực 
trạng trên, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng 
và nâng dần khả năng cạnh tranh của nền kinh tế hàng hoá ở nước ta. 
2. Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều 
thành phần. 
Tiếp cận đặc điểm này của kinh tế hàng hoá theo các khía cạnh sau: 
- Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác 
nhau; về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế, gắn liền với tự tồn tại và phát triển 
kinh tế hàng hoá. 
- Thực trạng kinh tế hàng hoá kém phát triển ở nước ta do nhiều nhân 
tố, song nhân tố gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không đúng dẫn 
đến nôn nống xoá bỏ nhanh các thần phần kinh tế, thực chất là xoá bỏ điều 
kiện tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, làm mất khả năng cạnh tranh và tác 
dụng của kinh tế hàng hoá. 
- Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều 
mặt có khả năng đưa nền kinh tế vượt khỏi tình trạng thấp kém, đưa nền kinh 
tế hàng hoá phát triển cả trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. 
 6
- Trong nền kinh tế hàng hoá chịu tác động của sự thay đổi cơ cấu 
ngành theo hướng ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng, do vậy lao 
động dịch có khả năng thu hút nguồn lao động không nhỏ. Trong điều kiện đó, 
các thành phần kinh tế có khả năng mở rộng, có tác dụng làm cho kinh tế hàng 
hoá và dịch vụ phát triển, cơ cấu công - nông nghiệp và dịch vụ sớm hoàn 
thành theo định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà đại hội Đảng lần thứ 
VIII đã đề ra. 
- Đặc điểm này gắn liền với 2 khía cạnh sau đây: 
+ Một là: Nó đảm bảo cho mọi người mọi doanh nghiệp dù ở thành 
phần kinh tế nào đều được tự do kinh doanh theo pháp luật, được pháp luật 
bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp. 
+ Hai là: Các chủ thể kinh tế đều được hoạt động (kinh doanh) theo cơ 
chế tự chủ, hợp tác, cạnh tranh với nhau và để bình đẳng trước pháp luật. 
3. Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ cấu kinh tế "mở" giữa 
nước ta với các nước trên thế giới. 
- Cơ cấu kinh tế "khép kính" thường gắn liền với nền kinh tế phong 
kiến gắn với sản xuất nhỏ, với tình trạng "bế quan toả cảng", tự cung tự cấp, 
quẩn quanh trong luỹ tre làng. Sự ra đời nền kinh tế hàng hóa Tư Bản chủ 
nghĩa đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động trong sự gắn bó với thị trường 
thế giới. Nền kinh tế hàng hoá này có bước phát triển nhanh chóng (tất nhiên 
không tránh khỏi những nhược điểm nhất định). 
- Nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu kinh tế "mở" ra đời bắt nguồn từ quy 
luật phân bố và phát triển không đều về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động 
và thế mạnh giữa các nước; từ các nước phân công và hợp tác lao động quốc 
tế; đời sống mang tính quốc tế hoá nói chung hiện nay, nền kinh tế hàng 
 7
hoá của bất cứ nước nào, muốn phát triển với tốc độ nhanh và hiệu quả lớn, 
cũng phải xây dựng theo cơ cấu kinh tế mở cửa. 
- Nền kinh tế hàng hoá theo cơ cấu "mở" thích ứng với chiến lược thị 
trường "hướng ngoại". Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu dựa vào thế mạnh 
giữa các nước; nắm bắt được những ngành, mặt hàng "mũi nhọn", có tương lai 
gắn với công nghệ mới;cómẫu mã mới, cơ cấu phong phú, chất lượng cao và có 
khả năng cạnh tranh trên thị trường nhất là thị trường quốc tế. 
4. Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa với 
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. 
a. Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế nhà nước. 
- Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần kinh tế nhà nước với bản chất 
vốn có của nó lại nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu, nên trở 
thành nhân tố kinh tế đảm bảocho kinh tế hàng hoá của các thành phần kinh tế 
khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 
- Cần ý thức rằng tính hiện thực của vai trò định hướng xã hội chủ 
nghĩa của kinh tế nhà nước chỉ được khẳng định khi nó phát huy được sức 
mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế khác; khi nó sớm đổi mới cơ chế 
quản lý thoe hướng năng suất, chất lượng và hiệu quả, đứng vững và chiến 
thắng trong môi trường hợp tác và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế . 
b. Vai trò quản lý của nhà nước nhân tố đảm bảo cho định hướng 
XHCN của nền kinh tế hàng hoá. 
- Sự phát triển kinh tế hàng hoá bên cạnh mặt tích cực, đem lại sự phát 
triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế cao (đây là mặt chủ yếu) của nó, 
mặt khác, nó không tránh khỏi những khuyết tật về mặt xã hội như: Phá sản, 
khủng hoảng, phân hoá giàu nghèo, lừa đảo, giả dối, áp bức, bất công, tàn phá 
 8
môi trường. những khuyết tật này đòi hỏi có sự quản lý kinh tế vĩ mô của 
nhà nước. 
- Nền kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị trường giữa các nước ngoài sự 
khác nhau về trình độ phát triển về sự phân phối lợi ích kinh tế giữa các tầng 
lớp dân cư do kinh tế hàng hoá đem lại nhằm mục đích gì, có lợi cho ai? Còn 
có sự khác biệt không kém phần quan trọng là ở trình độ quản lý theo cơ chế 
thị trường của nhà nước. Những sự khác nhau này lại được quyết định bởi 
trình độ xã hội hoá sản xuất của nền kinh tế nhà nước và tính chất của nhà 
nước ở mỗi nước. 
Ở những nước có nền kinh tế hàng hoá đạt trình độ phát triển: nhờ biết 
sử dụng nhiều thành tựu khoa học, công nghệ; điều chỉnh lại các quan hệ sở 
hữu; sử dụng nhiều công cụ tính toán và nhiều lý thuyết quản lý kinh tế hiện 
đại lại trải qua nhiều thế kỷ hình thành và phát triển, nên đã đưa kinh tế hàng 
hoá từ hình thái tế bào sang hình thái bao trùm, tạo ra những một kiểu nhà 
nước mà sự tác động vĩ mô của nó vào nền kinh tế luôn tuân thủ các quy luật 
kinh tế của thị trường, đem lại hiệu quả kinh tế khá cao tạo điều kiện khắc 
phục khuyết tật về mặt xã hội của nó. 
-Nước ta do chịu ảnh hưởng lâu ngày của cơ chế kế hoạch hoá tập trung 
quan liêu, bao cấp, nên hệ thống ngân hàng, tính dụng, thuế, giá cả, quỹ bảo 
hiểm với tư cách là những công cụ để nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế 
hàng hoá, nhưng lại chưa đồng bộ; xã hội chưa quen tập quán chấp hành luật 
pháp trong hoạt động kinh doanh bộ máy nhà nước hiểu biết ít về cơ chế thị 
trường, thiếu các chiến lược kinh tế mang tính khoa học và thực tiễn còn lúng 
túng trong cách quản lý vĩ mô. Trong điều kiện đó, phấn đấu nâng cao năng 
lực và tăng cường các công cụ và do đó nâng cao trình độ quản lý kinh tế vĩ 
mô của nhà nước là xu hướng vận động khách quan của nước ta trước mắt lẫn 
 9
lâu dài. Chính vì thế mà Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành 
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa. Ở nhà nước "của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh 
đạo của Đảng là nhân tố quyết định nhất bảo đảm tính định hướng xã hội chủ 
nghĩa". Nhờ kết quả của sự đổi mới của thập niên gần đây, vai trò quản lý của 
nhà nước đã được tăng cường. Bằng các công cụ pháp luật, kế hoạch, các thiết 
chế về tài chính, tiền tệ và những phương tiện vật chất khác, Nhà nước tạo 
điều kiện khuyến khích phát huy những mặt tích cực của kinh tế hàng hoá; 
ngăn ngừa, hạn chế tính tự phát và các khuyết tật của cơ chế thị trường. 
Có htể nói các đặc điểm của kinh tế hàng hoá như đã phân tích ở trên có 
quan hệ mật thiết với nhau, phản ánh kết quả của sự phana tích thực trạng và 
xu hướng vận động nội tại của quá trình hình thành và phát triển kinh tế hàng 
hoá ở nước ta hiện nay và trong tương lai. 
Các đặc điểm này bắt nguồn từ sự chi phối của các quy luật kinh tế của 
kinh tế hàng hoá (quy luật tiền tệ, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cạnh 
tranh và quy luật cung cầu hàng hoá); bắt nguồn từ vai trò định hướng của 
kinh tế nhà nước và vai trò quản lý của Nhà nước ở nước ta. Nhà nước của 
dân do dân vì dân quyết định. 
II. Thực trạng phát triển kinh tế hàng hoá nước ta trong điều 
kiện hội nhập kinh tế quốc tế 
1. Khái niệm về hội nhập: 
 Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh 
tế quốc gia với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên 
trong một cách có hiệu quả. 
2. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế: 
 10
2.1. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế: 
 Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu 
vực cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc của các tổ 
chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. 
 Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập: 
- Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia; tiếp cận thị trường các nước, 
cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp 
cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển. 
 Đối với từng tổ chức có nguyên tắc cụ thể riêng biệt. 
2.2. Nội dung của hội nhập (chủ yếu là nội dung hội nhập WTO): 
 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau, 
thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư: 
- Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan 
như QUOTA, giấy phép xuất khẩu..., biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện 
hành và giảm dần theo lịch trình thoả thuận... 
- Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn 
phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, 
thông qua liên doanh, hiện diện 
- Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về 
tỉ lệ nội địa hoá, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại 
tệ, khuyến khích tự do hoá đầu tư... 
3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam: 
 Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là 
1 trong những vẫn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Nước nào đóng cửa 
 11
với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc 
hậu. Trái lại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định 
song đó là yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi với những 
tiến bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ truyền thông 
và tin học, thì giữa các quốc gia ngày càng có mối liên kết chặt chẽ, nhất là 
trên lĩnh vực kinh tế. Xu hướng toàn cầu hoá được thể hiện rõ ở sự phát triển 
vượt bậc của nền kinh tế thế giới. Về thương mại: trao đổi buôn bán trên thị 
trường thế giới ngày càng gia tăng. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, giá 
trị trao đổi buôn bán trên thị trường toàn cầu đã tăng 12 lần. Cơ cấu kinh tế có 
sự thay đổi đáng kể. Công nghiệp nhường chỗ cho dịch vụ. 
 Về tài chính, số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới đã tăng 
gấp 3 lần trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của các tổ chức 
kinh tế quốc tế là một phần của quốc tế hoá. Nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế 
của các nước phát triển mạnh hơn nữa. 
 Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hoá các nước giàu luôn có những lợi 
thế về lực lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các nước nghèo có nền 
kinh tế yếu kém dễ bị thua thiệt, thường phải trả giá đắt trong quá trình hội 
nhập. 
 Là một nước nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm bị chiến tranh tàn 
phá, Việt Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung 
sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế tự túc nghèo nàn bắt đầu mở cửa 
tiếp xúc với nền kinh tế thị trường rộng lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn. 
Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ cuộc. Trái lại, đứng trước xu thế phát 
triển tất yếu, nhận thức được những cơ hội và thách thức mà hội nhập đem lại, 
Việt Nam, một bộ phận của cộng đồng quốc tế không thể khước từ hội nhập. 
 12
Chỉ có hội nhập Việt Nam mới khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để 
tạo ra những thuận lợi phát triển kinh tế. 
 Chính vì vậy mà đại hội Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 
1991 đã đề ra đường lối chiến lược: “ Thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá 
quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại “. Đến đại hội đảng VIII, 
nghị quyết TW4 đã đề ra nhiệm vụ: ” giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với tranh 
thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mới, hội nhập với 
khu vực và thế giới “. 
3.2 Thời cơ đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập: 
 Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện 
cho Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập 
đem lại mà Việt Nam tận dụng được một cách triệt để sẽ làm bàn đạo để nền 
kinh tế sớm sánh vai với các cường quốc năm châu. 
3.2.1 Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu 
của Việt Nam: 
 Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau, vì vậy, khi Việt 
Nam gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng 
với việc được hưởng ưu đãi về thuế quan, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và 
các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam thâm 
nhập thị trường thế giới. Chỉ tính trong phạm vi khu vực mậu dịch tự do 
ASEAN (AFTA) kim ngạch xuất khẩu của ta sang các nước thành viên cũng 
đã tăng đáng kể. Năm 1990, Việt Nam đã xuất khẩu sang ASEAN đạt 348,6 
triệu USD, nhưng đến năm 1998 đạt 2349 triệu USD. Nếu thực hiện đầy đủ 
các cam kết trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công nghiệp chế biến có xuất 
xứ từ nước ta sẽ được tiêu thụ trên tất cả các thị trường các nước ASEAN. 
 13
Nếu sau 2000 nước ta gia nhập WTO thì sẽ được hưởng ưu đãi dành cho nước 
đang phát triển theo quy chế tối huệ quốc trong quan hệ với 132 nước thành 
viên của tổ chức này. Do vậy, hàng của ta sẽ xuất khẩu vào các nước đó dễ 
dàng hơn. Đối với các nước EU cũng vậy, tiềm năng mở rộng thị trường hàng 
hoá Việt Nam tại các nước đó là rất lớn. Dĩ nhiên nước ta có bán được hàng ra 
bên ngoài hay không còn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, mẫu mã...hay nói 
cách khác là sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ra sao? Nếu hàng hoá 
Việt Nam có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, giá thành rẻ...thì việc chiếm lĩnh thị 
trường thế giới là tất yếu. Nhưng do hiện nay nước ta còn thiếu vốn, khoa học 
kĩ thuật chưa được cải tiến đồng bộ, do đó chất lượng hàng hoá chưa cao, giá 
thành chưa rẻ, mặc dù có được hưởng những ưu đãi về thuế. 
3.2.2 Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, 
viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế: 
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là 
cơ hội để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà 
đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài 
nguyên sẵn có của nước ta làm ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu 
vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, 
kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để 
doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn. 
Hiện nay đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào 
Việt Nam, trong đó có nhều công ty và tập đoàn lớn, có công nghệ tiên 
tiến. Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước theo 
hướng công nghiệp, phát triển lực lượng sản xuất và tạo nên công ăn việc 
làm. Tuy nhiên kể từ giữa năm 1997 đến nay, do tác động của cuộc khủng 
hoảng tài chính tiền tệ, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta có hướng 
 14
suy giảm. Tuy vậy, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu 
tư nước ngoài vẫn tăng nhanh. Nếu như năm 1991 đạt 52 triệu USD thì 
năm 1997 là 1790 triệu USD. 
- Viện trợ phát triển ODA: Tiến hành bình thường hoá quan hệ tài chính của 
Việt Nam, các nước tài trợ và các thể chế tài chính tiền tệ quốc tế đã tháo 
gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ, góp phần quan 
trọng vào việc xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng. Tính đến 
1999, tổng số vốn viện trợ phát triển cam kết đã đạt 13,04 tỉ USD. Tuy 
nhiên, vấn đề quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA còn bộc lộ nhiều yếu 
kém, nhất là tình trạng giải ngân chậm và việc nâng cao hiêu quả của việc 
sử dụng nguồn vốn ODA. 
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ Việt Nam: 
Trong những năm qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song 
phương và đa phương, các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ 
bản đã được giải quyết thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phán 
song phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập 
trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong nước. 
3.2.3. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu 
khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh: 
- Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kĩ thuật, công nghệ 
tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - 
hiện đại hoá, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho công cuộc xây dựng Chủ 
Nghĩa Xã Hội. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị 
trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn 
và có hiệu quả . Qua đó mà các kĩ thuật, công nghệ mới có điều kiện du 
nhập vào nước ta, đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kĩ thuật, công 
 15
nghệ nước ngoài nhằm phát triển năng lực kĩ thuật, công nghệ quốc gia. 
Trong cạnh tranh quốc tế có thể công nghệ này là cũ đối với một số nước 
phát triển, nhưng lại là mới, có hiệu quả tại một nước đang phát triển như 
Việt Nam. Do yêu cầu sử dụng lao động của các công nghệ đó cao, có khả 
năng tạo nên nhiều việc làm mới. Trong những năm qua, cuộc cách mạng 
khoa học kĩ thuật, nhất là công nghệ thông tin và viễn thông phát triển 
mạnh làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và đã tạo điều kiện để Việt Nam 
tiếp cận và phát triển mới này. Sự xuất hiện và đi vào hoạt động của nhiều 
khu công nghiệp mới và hiện đại như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh 
Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng...và những xí nghiệp liên doanh 
trong ngành công nghệ dầu khí đã chứng minh điều đó. 
Dĩ nhiên ngoài việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo cơ hội 
tiếp nhận tiến bộ kĩ thuật và công nghệ, nước ta vẫn có thể sử dụng ngoại 
tệ có được nhờ xuất khẩu để nhập công nghệ mới về phục vụ các nhu cầu 
sản xuất kinh doanh. Song vì nước ta còn nghèo, dự trữ ngoại tệ rất hạn 
hẹp, kinh nghiệm tiếp cận thị trường bên ngoài chưa nhiều, trình độ thẩm 
định công nghệ lại kém và khả năng quản lý sản xuất kinh doanh với công 
nghệ cao còn yếu cho nên còn đường thích hợp hơn với nước ta hiện nay là 
tiếp tục đổi mới cơ chế và chính sách, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để 
lấy lại nhịp độ gia tăng thu hút đầu tư trực tiếp như những năm trước, qua 
đó tiếp nhân và chuyển giao công nghệ có hiệu quả hơn. 
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và 
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học 
kĩ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và 
ngoài nước. Bởi mỗi khi liên doanh hay liên kết hay được đầu tư từ nước 
ngoài thì từ người lao động đến các nhà quản ký đều được đào tạo tay 
 16
nghề, trình độ chuyên môn được nâng cao. Chỉ tính riêng trong các công 
trình đầu tư nước ngoài đã có khoảng 30 vạn lao động trực tiếp, 600 cán bộ 
quản lý và 25000 cán bộ khoa học kĩ thuật đã được đào tạo. Trong lĩnh vực 
xuất khẩu lao động tính đến năm 1999 Việt Nam đã đưa 7 vạn người đi lao 
động ở nước ngoài. 
3.2.4. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng 
môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên 
trường quốc tế. Đây là thành tựu lớn nhất sau hơn một thập niên triển khai các 
hoạt động hội nhập. 
 Trước đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu với Liên Xô và các nước 
Đông Âu, nay đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 166 quốc gia trên thế 
giới. Với chủ trương coi trọng các mối quan hệ với các nước láng giềng và 
trong khu vực Châu á Thái Bình Dương. Chúng ta đã bình thường hoá hoàn 
toàn quan hệ với Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực Đông Nam á. 
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu xây 
dựng môi trường quốc tế hoà bình, ổn định nhằm tạo thuận lợi cho công cuộc 
xây dựng và phát triển đất nước. Ngoài ra đối với Mĩ chúng ta đã thiết lập 
quan hệ ngoại giao vào năm 1955. Tháng 7 Việt Nam, Mĩ đã kí kết hiệp định 
thương mại, đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình bình thường hoá 
nối quan hệ kinh tế giữa hai nước. 
3.2.5. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực 
nước ta với các nước: 
 Với dân số khoảng 80 triệu người, nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào. 
Nhưng nếu chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng nhân lực trong 
nước sẽ bị lãng phí và kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để 
nguồn nhân lực của nước ta khai thông, giao lưu với các nước. Ta có thể 
 17
thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động hoặc có thể sử dụng lao động thông 
qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để 
nhập khẩu lao động kĩ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế 
mà t a chưa có. 
4. Thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập 
kinh tế quốc tế: 
 Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà 
còn đặt nước ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng 
phó tốt thì sự thua thiệt về kinh tế và xã hội có thể rất lớn. Ngược lại, nếu 
chúng ta có chiến lược thông minh, chính sách không khéo thì sẽ hạn chế 
được thua thiệt, dành được lợi ích nhiều hơn cho đất nước. 
4.1. Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay: 
 Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù đã có 
những bước tiến quan trọng về tăng trưởng kinh tế. Song chất lượng tăng 
trưởng, hiệu quả sản xuất, sức cạnh tranh của các sản phẩm, các doanh nghiệp 
và của nền kinh tế còn thấp. 
4.1.1. Tình trạng phổ biến hiện nay là sản xuất còn mang tính tự phát, chưa 
bám sát nhu cầu thị trường. Nhiều sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành 
cao nên giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, thậm chí 
có nhiều sản phẩm cung vượt quá cầu, hàng tồn kho lớn. Năng lực cạnh tranh 
hàng hoá, dịch vụ của nước ta nói chung còn thấp do trang thiết bị công nghệ 
của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém, lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 30 
năm, cộng thêm những yếu kém về quản lý, môi trường đầu tư kinh doanh 
(thủ tục hành chính chưa thông thoáng, chính phủ đầu tư quá cao so với các 
nước trong khu vực), hạn chế về cung cấp thông tin xúc tiến thương mại. 
 18
4.1.2. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, tỉ lệ số 
doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ liên tục còn nhiều thực trạng tài chính của 
nhiều doanh nghiệp thực sự đáng lo ngại: nhìn chung thiếu vốn, nợ nần kéo 
dài, tổng số nợ phải thu của các doanh nghiệp chiếm 24% doanh thu, nợ phải 
trả chiếm 133% tổng số vốn nhà nước các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp 
không xác định tự lực phấn đấu vươn lên mà còn dựa vào sự hỗ trợ, bảo hộ 
của nhà nước, chưa tích cực chuẩn bị theo yêu cầu tiến trình hội nhập khu vực 
và thế giới. 
 Tuy nhiên không thể đổ lỗi hoàn toàn cho các doanh nghiệp mà nó còn 
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp 
còn lớn đang làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm của doanh nghiệp. 
Các doanh nghiệp chỉ có thể giảm chi phí đầu vào bằng cách đầu tư công nghệ 
mới, thay đổi phương thức quản lý triệt để tiết kiệm. Song họ không thể ngăn 
chặn được sự gia tăng của chi phí đầu vào do sự leo thang giá cả của không ít 
loại vật tư, nguyên liệu, điện nước, cước phí giao thông, viễn thông. Nhất là 
cước phí của các ngành có tính độc quyền. Chẳng hạn như giá truy cập 
internet trực tiếp có mức cước cao hơn các nước trong khu vực là 
139%...Thêm vào đó hầu hết các sản phẩm của ta dù để xuất khẩu hay tiêu 
dùng đều phải nhập ngoại nguyên, phụ liệu nên chi phí đầu vào cao. Đã vậy 
hàng nhập khẩu ngoài việc phải chịu thuế nhập khẩu còn phải chịu thuế VAT 
dù chưa có giá trị tăng thêm. Trong khi đó thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng 
lại chậm, do vậy làm khó khăn cho doanh nghiệp về vòng quay vốn, chịu lãi 
suất ngân hàng. Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải chịu chi phí do sự sách 
nhiễu của một số cán bộ nhà nước thoái hoá biến chất. Hơn nữa sự rườm rà về 
thủ tục hành chính, thanh kiểm tra chồng chéo cũng làm tăng chi phí đầu vào 
của các doanh nghiệp. Do chi phí đầu vào cao nên giá thành sản phẩm quá cao 
 19
so với khu vực và thế giới, dẫn đến ứ đọng, khó tiêu thụ, năng lực sản xuất 
không khai thác hết làm cho nhiều doanh nghiệp thua lỗ. 
 Điều đáng lo ngại nữa hiện nay là mặc dù thời điểm hội nhập với khu 
vực và thế giới đang đến gần, song tư tưởng đòi bảo hộ, chưa tích cực chuẩn 
bị còn phổ biến ở nhiều doanh nghiệp. Theo điều tra của phòng Thương Mại 
và Công Nghiệp Việt Nam mới có 84% doanh nghiệp điều tra trả lời là có 
nhận được tin về hội nhập, 16% doanh nghiệp chưa có hiểu biết về quá trình 
hội nhập. Trong các doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp chỉ có 23,8% 
doanh nghiệp có hàng hoá xuất khẩu, 13,7% doanh nghiệp có triển vọng xuất 
khẩu và 62,5% doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng xuất khẩu. Việc 
Trung Quốc, Đài Loan gia nhập WTO, việc 6 nước thành viên ASEAN cũ 
thực hiện AFTA từ 1/1/2002 và gần đây Nhật Bản kí thoả thuận với Singapo 
về thành lập khu vực tự do thương mại giữa hai nước, cũng như kế hoạch 
thành lập khu vực tự do thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN vào 2010 sẽ 
tạo ra 1 số tuận lợi, song sẽ làm tăng cạnh tranh gay gắt về kinh tế giữa các 
nước trong khu vực cũng như đối với nền kinh tế nước ta về thương mại, đầu 
tư. 
4.1.3. Môi trường kinh doanh đầu tư ở Việt Nam mặc dù đang được cải tiến 
song nhìn chung còn chưa thuận lợi, còn nhiều khó khăn: khuôn khổ pháp lý 
chưa đảm bảo cho cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự độc 
quyền trong một số lĩnh vực của một số tổng công ti nhà nước, hệ thống tài 
chính ngân hàng còn yếu kém, sự thiếu minh bạch về cơ chế chính sách, chế 
độ thương mại còn nặng về bảo hộ, thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa 
thông thoáng. Các thể chế thị trường như thị trường vốn, sức lao động, thị 
trường công nghệ, thị trường bất động sản...còn sơ khai, chưa hình thành 
đồng bộ. 
 20
4.1.4. Nguồn nhân lực Việt Nam dồi dao nhưng tay nghề kém, lợi thế về lao 
động rẻ có xu hướng đang mất dần: 
 Trước mắt, do giá nhân công còn rẻ và đang có thị trường rộng lớn nên 
ngành may mặc và giầy da là hai ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất trong 
nhóm năm sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên lợi thế 
về nhân công rẻ đang mất dần và giá nhân công các ngành này hiện đang cao 
hơn một số nước trong khu vực. Hơn thế nữa, để đào tạo nghề, nâng cao kĩ 
năng, trình độ tay nghề cần phải chi phí đầu tư lớn, điều này sẽ làm cho giá 
thành sản phẩm tăng lên, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá. 
 Như vậy nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều yếu kém, sức cạnh tranh 
thấp. 
4.2. Những nguy cơ của Việt Nam khi tham gia kinh tế quốc tế và khu vực: 
4.2.1. Nếu như những ưu đãi về hàng rào thuế quan và xoá bỏ phí thuế quan 
tạo điều kiện để nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu ra các nước thì nó cũng 
gây ra những thách thức khá nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp Việt 
Nam: 
 Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta phải giảm 
dần thuế quan và gỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, thì hàng hoá nước ngoài sẽ ào 
ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước, kéo 
thoe hệ quả xấu về việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Bởi 
hàng hoá Việt Nam do kĩ thuật và công nghệ và quản lý còn kém nên chất 
lượng thấp, giá thành lại cao. Trong khi đó, nước ngoài với dây chuyền công 
nghệ hiện đại, tay nghề lao động vững vàng, trình độ quản lý cao, vốn lớn nên 
sản phẩm làm ra mẫu mã đẹp, chất lượng tốt lại không phải nộp thuế khi xuất 
khẩu sang thị trường Việt Nam nên giá thành phù hợp. Sức cạnh tranh bấp 
 21
bênh của các doanh nghiệp trong nước được thể hiện rõ. Ví dụ đường của ta 
xuất xưởng năm 1999 là 340 – 400 USD/tấn nhưng giá nhập khẩu chỉ có 260 
– 300 USD/tấn (giá nhập khẩu rẻ hơn giá xuất xưởng 20 – 30%), giá săt thép 
trong nước sản xuất bình quân 300 USD/tấn nhưng nhập khẩu chỉ 285 
USD/tấn, giá xi măng Việt Nam là 840 ngàn đồng/tấn trong khi nhập khẩu chỉ 
có 630 ngàn đồng/tấn. 
 Với vấn đề trên, nhiều doanh nghiệp trung bình và yếu kém thường đòi 
hỏi nhà nước thi hành chính sách càng lâu càng tốt. Tuy nhiên nếu đứng từ 
góc độ lợi ích toàn cục và lâu dài của quốc gia mà xem xét thì nhà nước 
không thể và không nên đáp ứng đòi hỏi của các doanh nghiệp đó. Bởi Việt 
Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại. Khi đã tham 
gia vào các tổ chức kinh tế thế giới. Hơn nữa, việc thi hành chính sách bảo hộ 
mậu dịch luôn là con dao hai lưỡi. Một chính sách bảo hộ có chọn lọc có điều 
kiện có thời hạn thích hợp thì sẽ kích thích các nhà sản xuất trong nước khẩn 
trương đổi mới, tích cực vươn lên để có sức cạnh tranh mạnh hơn. Trái lại, 
một chính sách bảo hộ quá mức thì rất có thể trở thành gậy ông đập lưng ông 
gây thiệt hại cả về kinh tế và xã hội. Chẳng hạn như việc hạn chế định lượng 
nhập khẩu xi măng năm 1999, làm cho giá xi măng thông dụng cao hơn giá xi 
măng nhập khẩu chưa có thuế là 50%. Do đó năm 1999, toàn bộ xã hội phải 
trả thêm 220 triệu USD để bảo hộ ngành xi măng, trong đó gần 1/2 số tiền vào 
túi các nhà đầu tư nước ngoài. 
 Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế để đi đến tự do hoá thương 
mại tức là chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng với các nước 
khác. Nhưng hiện tại chúng ta vẫn còn tụt hậu khá xa về kinh tế (nhất là trình 
độ công nghệ và thu nhập bình quân đầu người) so với các nước trong các tổ 
chức kinh tế mà ta sẽ và đã tham gia. Chẳng hạn so vơi AFTA, thu nhập bình 
 22
quân đầu người của ta chưa bằng 1/3 của Indonexia, 1/100 của Singapo...Đây 
là một thách thức, bất lợi lớn đòi hỏi ta phải có nỗ lực và quyết tâm cao. Đã 
vậy, trên thị trường thế giới ta mới chỉ xuất khẩu các mặt hàng sơ chế như: 
dầu thô, gạo, cà phê...còn các sản phẩm công nghiệp chế biến nhất là sản 
phẩm chất lượng cao còn ít, sức cạnh tranh yếu. Trong khi đó giá mặt hàng 
nguyên liệu và sơ chế lại bấp bênh hay bị tác động xấu, bất lợi cho nước xuất 
khẩu. 
4.2.2. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ ảnh hưởng đến quyền độc lập tự chủ của 
một quốc gia: 
 Không it ý kiến cho rằng: nước ta hiện nay với xuất phát điểm kinh tế 
quá thấp, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, thị trường phát triển 
chưa đồng bộ, một bộ phận đáng kể của nền kinh tế chưa thoát khỏi lối sản 
xuất hàng hoá nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh 
kém. Trong khi đó các nước đi trước, nhất là các cường quốc tư bản phát triển 
có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt. Do đó nếu chúng ta mở rộng quan hệ với các 
nước đó thì nước ta khó tránh khỏi sẽ bị lệ thuộc về kinh tế, và từ chỗ lệ thuộc 
về mặt kinh tế có thể đi đến không giữ vững được quyền độc lập tự chủ. 
 Độc lập tự chủ về thực chất là mỗi nước cần có sự tự lựa chọn còn 
đường và mô hình phát triển của mình, tự quyết định các chủ trương, chính 
sách kinh tế – xã hội, tự đề ra mục tiêu chiến lược và kế hoạch trong từng thời 
kì và các biện pháp thực hiện mục tiêu đó. Nhưng độc lập tự chủ không có 
nghĩa là đóng cửa với thế giới. Nếu đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế 
chung của thời đại, đẩy đất nước vào tình trạng chậm phát triển. Khi tình trạng 
chậm phát triển về kinh tế không được sớm khắc phục thì sẽ làm xói mòn lòng 
tin của nhân dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo ra nguy cơ tư 
bên trong đối với trật tự an toàn xã hội. Trái lại, mở rộng hợp tác kinh tế hai 
 23
bên cùng có lợi, nước ta với các nước, các tổ chức quốc tế đan xen lợi ích với 
nhau, chúng ta sẽ có thêm thế lực để củng cố độc lập tự chủ của đất nước. “ 
Quốc gia nào muốn độc lập và giàu mạnh thì phải buôn bán với nhiều nước, 
còn quốc gia nào chỉ buôn bán với một nước thôi thì khó tránh khỏi bị phụ 
thuộc vào nước duy nhất ấy “ (Jose Marti) 
4.2.3 Hội nhập kinh tế quốc tế ảnh hưởng tới bản sắc văn hoá dân tộc: 
 Xu thế toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập với quốc tế thông qua “ siêu 
lộ “ thông tin với mạng internet, một mặt tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có 
để các dân tộc, cộng đồng ở mọi nơi có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về 
hàng hoá, dịch vụ, kiến thức...Qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, 
phát triển khoa học và công nghệ, mở mang sự hiểu biết về văn hoá của nhau. 
Mặt khác, quá trình trên cũng làm nảy sinh mối nguy cơ ghê gớm về sự đồng 
hoá các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe doạ, làm suy kiệt khả năng sáng tạo 
của nền văn hoá, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại của nhân loại. 
 Nguy cơ nói trên lại càng tăng gấp bội khi một siêu cường nào đó tự 
xem giá trị văn hoá của mình là ưu việt, từ đó nảy sinh thái độ ngạo mạn và ý 
đồ áp đặt các giá trị của mình cho các dân tộc khác bằng một chính sách có 
thể gọi là xâm lược văn hoá với nhiều biện pháp trắng trợn tinh vi. Trước tình 
hình đó chúng ta không thể lui về chính sách đóng cửa, khước từ giao lưu, 
trao đổi, đối thoại với bên ngoài. Ngược lại, chúng ta, với bản lĩnh vốn có của 
dân tộc: “ hoà nhập chứ không hoà tan “, tiếp thu những yếu tố nhân bản, hợp 
lí, khoa học tiến bộ của văn hoá các nước để làm giàu bản sắc văn hoá dân 
tộc. Đây sẽ là nhân tố khơi dậy tiềm năng sáng tạo làm nên những giá trị vật 
chất và tinh thần mới trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 
Tuy nhiên chúng ta cũng tỉnh táo phản đối những văn hoá ngoại lai không 
 24
phân biệt tốt hay xấu dẫn đến mất gốc, lai căng về văn hoá gây hậu quả xấu về 
tư tưởng đạo đức của các tầng lớp dân cư. 
 Như vậy chỉ có trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị ưu tú của 
văn hoá dân tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại thì văn hoá 
Việt Nam ngày nay mới có thể đóng được vai trò vừa là mục tiêu, vừa là động 
lực và sẽ điều tiết sự phát triển của kinh tế xã hội. 
5. Điều kiện để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế : 
5.1 Lợi thế cơ bản của nước ta khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế : 
- Vị trí địa lý thuận lợi 
Bản chất kinh tế của vị trí địa lý là địa tô chênh lệch. Vị trí địa lý thuận 
lợi sẽ cho phép thu được địa tô chênh lệch cao và ngược lại, vị trí địa lý không 
thuận lợi chỉ đem lại địa tô chênh lệch thấp. Vị trí địa lý thuận lợi là lợi thế “ 
so sánh “ – là một yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế. 
Nước ta có một vị trí địa lý rất thuận lợi đó là: 
 Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam á, là nơi gặp 
gỡ của những luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn bao quanh tạo nên tự 
nhiên Việt Nam phong phú và đa dạng. Điều này có tác động sâu sắc đến cơ 
câu, quy mô và hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. 
- Việt Nam nằm ở rìa đông của bán đảo Đông Dương, trở thành một đầu mối 
giao thông quan trọng từ ấn Độ Dương tới Thái Bình Dương. Vị trí này 
cho phép nước ta có thể dễ dàng phát triển các kinh tế thương mại, văn 
hoá, khoa học kĩ thuật với các nước trong khu vực và trên thế giới. 
- Việt Nam nằm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động 
nhất thế giới. Điều này tạo môi trường thuận lợi để Việt Nam nâng cao 
 25
năng lực cạnh tranh, chủ động phát triển kinh tế. Việt Nam có điều kiện 
giao lưu với những thị trường sôi động, học hỏi được những kinh nghiệm 
quý báu của các “ con rồng Châu á “. 
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng: 
Việt Nam có nhiều loại tài nguyên thiên nhiên, trong đó có nhiều loại 
có giá trị kinh tế lớn nhưng chưa được khai thác hoặc khai thác ở mức độ 
thấp, sử dụng chưa hợp lý. Đây là nguồn lực bên trong để phát triển kinh 
tế, đồng thời là đối tượng đầu tư của Tư Bản nước ngoài. 
- Tài nguyên nhân văn phong phú: bao gồm lực lượng lao động dồi dào và 
những hệ thống giá trị do con người tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử 
của dân tộc. Đây là đối tượng đầu tư phát triển rất quan trọng của Tư Bản 
nước ngoài 
Những lợi thế trên đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam 
tiến vào thế giới. 
5.2. Nhiệm vụ cần phải thực hiện khi tham gia hội nhập: 
Trong nghị quyết, bộ Chính Trị đã nêu 9 nhiệm vụ cụ thể trong quá 
trình hội nhập kinh tế quốc tế: 
- Tuyên truyền, giải thích rộng rãi để đạt được nhận thức và hành động 
thông nhất trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, doanh nghiệp 
và nhân dân. 
- Xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể. 
- Chủ động và khẩn trương sử dụng cơ cấu kinh tế. 
- Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nên kinh tế thị trường định hướng 
XHCN. 
 26
- Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực vững vàng về chính trị, có đạo đức 
trong sáng, tinh thông nghiệp vụ. 
- Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại. 
- Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố quốc 
phòng an ninh. 
- Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới 
(WTO). 
Kiện toàn uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. 
III. ĐIỀU KIỆN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ 
HÀNG HOÁ Ở NƯỚC TA TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ 
QUỐC TẾ 
1. Điều kiện cho sự phát triển kinh tế hàng hoá 
Chỉ có thể chuyển nền kinh tế hàng hoá kém phát triển sang nền kinh tế 
hàng hoá theo những đặc điểm nói trên, khi có những điều kiện tiền để chủ 
yếu sau: 
Một là, Nhà nước cần sớm tạo ra sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã 
hội. Cỏôn định về chính trị mới có thể ổn định và phát triển kinh tế, xã hội, tất 
nhiên không thể tiến hành một cách biệt lập thiếu đồng bộ. Nói ổn định về 
chính trị là nói chính quyền. Nhà nước phải có đủ uy tín đối với các doanh 
nghiệp và nhân dân. Uy tín này thể hiện ở tính đúng đắn của đường lối, chính 
sách và trình độ điều hành vĩ mô của nhà nước. Ổn định về kinh tế có nội 
dung rất phong phú, song yêu cầu chủ yếu và trước tiên là sự ổn định về tài 
chính, tiền tệ và sự kiểm soát được lạm phát. Vì nếu không như vậy, thì toàn 
bộ hoạt động kinh tế bị méo mó, phức tạp. Điều quan trọng nhất của sự ổn 
định xã hội là tạo được niềm tin, niềm hi vọng trong nhân dân. Chẳng hạn 
niềm tin ở chổ, ai làm nhiều, làm tốt bằng tài năng của mình theo khuôn khổ 
 27
pháp luật, thì thu nhập cao. Niềm tin đó là động lực quan trọng cho phép khai 
thác phát huy được phát huy được tinh thần dân tộc có lợi cho sự tăng trưởng 
và phát triển kinh doanh cần thiết trong nền kinh tế hàng hoá. 
Hai là, xây dựng kết cầu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội. Việc đầu tư 
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước và người nước ngoài 
được tiến hành thuận lợi và trở nên hấp dẫn hay không phụ thuộc nhiều nhân 
tố, nhưng trước hết phụ thuộc trình độ phát triển của các kết hạ tầng. Kết cấu 
hạ tầng vật chất bao gồm giao thông vận tải, điện nước thông tin bưu điện 
Còn kết cấu hạ tầng xã hội chủ yếu và trọng nhất là hệ thống tài chính, ngân 
hàng thương mại, giáo dục, bảo vệ sức khoẻ, bảo hiểm 
Cần ý thức rằng, một trong những tính quy luật có liên quan đến chiến 
lược đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội, phải đi trước một 
bước so với đầu tư kinh doanh trực tiếp. Đầu tư cho kết cấu vật chất và xã hội 
đòi hỏi phải có số vốn lớn, thu hồi vốn chậm, hoặc thu hồi một phần, do vậy 
thường do nhà nước đảm nhiệm. Nền kinh tế hàng hoá ở các nước tư bản phát 
triển, giúp họ có ý thức về tính quy luật này so với các nước xã hội chủ nghĩa 
và nước ta. 
Chính sự non kém về kết cấu hạ tầng là một trong những nguyên nhân 
cản trở việc thực hiện luật đầu tư nước ngoài, mặc dù ở nước ta đã ban hành 
sớm và với những điều khoản hấp dẫn. 
Ba là, cần có hệ thống pháp luật và bộ máy thực hiện sao cho đủ sức 
chống làm ăn phi pháp; đồng thời chống được sự quan liêu, cửa quyền độc 
quyền và đặc quyền đặc lợi, khi nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần. 
Bốn là, tạo được những tâm lý, tập quán có tính xã hội phù hợp và có 
lợi co sự phát triển kinh tế hàng hoá. Ví dụ tập quán mọi nhà doanh nghiệp, 
 28
mọi người dân được tự kinh doanh và biết làm giàu ngoài những điều khoản 
luật cấm, thói quen tâm lý hoạt động mua bán theo cơ chế thị trường, xa lạ với 
cơ chế bao cấp và cũng xa lạ với thói quen cam chịu khổ lạnh. 
Năm là, cần có các nhà quản lý và nhà kinh doanh giỏi thích nghi với 
cơ chế thị trường. Điều kiện này rất quan trọng, có thể nói là quyết định đến 
hiệu quả đầu tư, hiệu quả kinh doanh, trong việc cấp cho người hoặc tổ chức 
của nước ngoài muốn liên doanh với nước ta. 
Các điều kiện nói trên là những điều kiện cần thiết quyết định phần lớn 
kết quả của quá trình chuyển biến nền kinh tế hàng hoá nước ta vận động theo 
cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Không cầu toàn, không 
chờ đợi, mà vừa làm vừa tạo dựng, vừa củng cố phát triển và hoàn thiện các 
điều kiện tiền đề. Vì thế, nó phảilà một quá trình. 
2. Phương hướng và biện pháp máu chốt để phát triển kinh tế hàng 
hoá ở nước ta. 
Thứ nhất, thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều 
thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với các hình thức đa dạng 
như: Sở hữu nông nghiệp, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp, sở hữu cá thể, sở 
hữu tư bản tư nhân Qua đó, và bằng cách đó, cho phép sử dụng có hiệu quả 
sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế có lợi cho sự phát triển kinh tế 
hàng hoá; tạo điều kiện rất cần thiết phù hợp với điều kiện thu nhập quốc 
doanh còn rất hạn hép ở nước ta. 
Thứ hai là, sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước theo hướng nắm 
ngành khâu, mặt hàng trọng yếu, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh, tự 
chủ về mọi mặt, đủ sức đứng vững giành thắng lợi trong cạnh tranh, để kinh 
doanh có hiệu quả. Bằng cách đó mà giữ và phát huy vai trò chủ đạo của kinh 
 29
tế quốc daoanh đối với các thành phần kinh tế khác nhau trong nền kinh tế 
hàng hoá. 
Thứ ba là, sử dụng rộng rãi các hình thức kinh tế của kinh tế tư bản 
Nhà nước, nhằm lợi dụng sức mạnh hỗn hợp giữa tư bản trong và ngoài nước 
với nhà nước và các mặt vốn công nghệ và tài năng quản lý để phát triển kinh 
doanh hàng hoá ở nước ta. 
Thư tư là, đẩy mạnh nhân công lao động và hiệp tác lao động theo 
hướng chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá sản xuất kinh doanh; tăng 
cường và phát triển ngàng phi sản xuất vật chất (ngành kinh doanh dịch vụ); 
coi trọng lao động trí tuệ; theo kịp sự biến đổi nhanh chóng các ngành, mặt 
hàng mũi nhọn và có tương lai. Chú trọng xu hướng phân công và hợp tác lao 
động trên phạm vi quốc tế dựa vào thế mạnh của nhau để phát triển kinh tế 
hàng hoá. 
Thứ năm là, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiệp đại hoá, coi 
trọng việc ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ của loài người (nhất 
là cần coi trọng khoa học và công nghệ ứng dụng). Bằng cách đó, tạo điều 
kiện đưa nhanh kinh tế hàng hoá ở nước ta vừa pttheo chiều rộng và chiều 
sâu, nhất là chiều sâu, nhằm tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta 
trên thị trường quốc tế và khu vực. 
Thứ sau là, xây dựng và phát triển thị trường hướng ngoại, đặc điểm 
của thị trường này là phong phú đang dạng về hình thức thể loại (thị trường tư 
liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, sức lao động, khoa học kỹ thuật, tiền tệ, vốn, 
chứng khoán); bao gồm nhiều lực lượng tham gia phát triển thông suốt 
không biệt lập giữa các vùng, giữa các địa phương, giữa trong nước và quốc 
tế. Ở đây cần chú ý mấy điểm: xây dựng chiến lược thị trường hướng ngoại, 
nhưng phải lấy thị trường trong nước làm cơ sở thế mạnh và lợi thế so sánh. 
 30
Bởi lẽ người ta chỉ xuất những sản phẩm là thế mạnh và lợi thế mạnh của họ 
và thế yếu của quốc tế, ngược lại người ta chỉ nhập những sản phẩm là thế 
mạnh của quốc tế nhưng lại là thế yếu của họ. Một nguyên tắc có liên quan 
đến cung cầu và thị trường: Người ta bán hoặc xuất cái mà thị trường trong và 
ngoài nước cần, chứ không phải bán cái gì mà họ có. 
Thứ bảy là, thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho sự opt kinh tế 
hàng hoá. Muốn vậy, phải mở rộng quan hệ theo hướng đa dạng hoá về hình 
thức, đa phương hoá về nguồn; phải quán triệt nguyên tắc: Hai bên cùng có 
lợi. Không can thiệp vào nội bộ của nhau và không phân biệt chế độ chính trị 
xã hội. 
Rõ ràng, xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá ở nước ta là quá 
trình vừa có tính cấp bách, trước mắt vừa là cơ bản lâu dài. Trong quá trình 
đó, không tránh khỏi nh

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_nen_kinh_te_hang_hoa_nuoc_ta_trong_qua_trinh_hoi_n.pdf