Tiểu luận Nghiên cứu lý luận sản xuất hàng hóa của C.Mác và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Nghiên cứu lý luận sản xuất hàng hóa của C.Mác và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Nghiên cứu lý luận sản xuất hàng hóa của C.Mác và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam
Bài thảo luận KTCT nhóm 3 Kinh tế chính trị Mác- Lênin (Trường Đại học Thương mại) lOMoARcPSD|12184112 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ -----�����----- ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN SẢN XUẤT HÀNG HÓA CỦA C. MÁC VÀ VẬN DỤNG VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM Giảng viên giảng dạy: Võ Tá Tri Học phần: Kinh tế chính trị Mác – Lênin Nhóm thực hiện: 3 Mã lớp học phần: 2226RLCP1211 Hà Nội – 2022 lOMoARcPSD|12184112 DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM STT Họ và tên Chức vụ Nhóm đánh giá Ký tên Ghi chú 17 Phan Thị Thùy Dung Thư ký B+ 18 Nguyễn Gia Dũng Thành viên B 19 Vũ Việt Dũng Thành viên B 20 Trần Thị Mỹ Duyên Nhóm trưởng A 21 Nguyễn Thị Giang Thành viên B 22 Nguyễn Thị Hương Giang Thành viên B 23 Phạm Quỳnh Giang Thành viên C 24 Vũ Thu Hà Thành viên B 99 Lê Thị Trà Vinh Thành viên B lOMoARcPSD|12184112 BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC Họ tên Nội dung công việc Phan Thị Thùy Dung Những thành tựu đã đạt được, chương III, kết luận Nguyễn Gia Dũng Biểu hiện của việc vận dụng lý luận sản xuất hàng hóa vào nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Vũ Việt Dũng Thuyết trình Trần Thị Mỹ Duyên Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, powerpoint Nguyễn Thị Giang Nền kinh tế thị trường, sơ lược lịch sử phát triển của sản xuất hàng hóa Nguyễn Thị Hương Giang Lý luận sản xuất hàng hóa Phạm Quỳnh Giang Thuận lợi và khó khăn Vũ Thu Hà Tình hình nền kinh tế, tình hình sản xuất hàng hóa Lê Thị Trà Vinh Mở đầu, tổng hợp word lOMoARcPSD|12184112 MỤC LỤC lOMoARcPSD|12184112 MỞ ĐẦU Trong bối cảnh đổi mới kinh tế đặc biệt là đối với một đất nước đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề phát triển kinh tế thị trường là một trong những vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết. Đảng ta đã nêu ra quan điểm: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới...Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường... Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ”. Sản xuất hàng hóa và hàng hóa đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Với lý luận về sản xuất hàng hóa của C. Mác đã chỉ ra các phạm trù cơ bản về hàng hóa giúp cho việc nhận thức và phát triển kinh tế thị trường một cách toàn diện. Với mong muốn tìm hiểu rõ bản chất, mối quan hệ của lý luận sản xuất hàng hóa cùng việc vận dụng lý luận nhằm phát triển kinh tế thị trường, nhóm 3 xin thực hiện đề tài “Nghiên cứu lý luận sản xuất hàng hóa của C. Mác và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam”. lOMoARcPSD|12184112 CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CỦA C. MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA 1.1. Sản xuất hàng hóa 1.1.1. Khái niệm về sản xuất hàng hóa Theo C. Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó, những người sản xuất ra sản phẩm không nhằm mục đích phục vụ nhu cầu tiêu dùng của chính mình mà để trao đổi, mua bán. 1.1.2. Điều kiện ra đời sản xuất hàng hóa Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài người. Để nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển, C. Mác cho rằng cần hội đủ hai điều kiện sau: Điều kiện thứ nhất, phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hòa của những người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm nhất định. Trong khi nhu cầu của họ lại đòi hỏi nhiều loại sản phẩm. Để thỏa mãn nhu cầu cầu mình, tất yêu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau. Điều kiện thứ hai, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất. Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người sản xuất độc lập với nhau, có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa. CMác viết “chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa". Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ đề nền sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển. Trong lịch sử, sự tách biệt về một kinh tế giữa các chủ thể sản xuất hiện khách quan địa trên sự tách biệt về quyền sở hữu. Xã hội loài người càng phát triển, sự tách biệt về quyền sở hữu cảng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú. lOMoARcPSD|12184112 Khi còn sự hiện diện của hai điều kiện nêu trên, con người không thể dùng ý chi chủ quan mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa được. Việc cố tỉnh xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa, sẽ làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoàng. Với ý nghĩa đó, cần khẳng định, nền sản xuất hàng hóa có ưu thể tích cực vượt trội so với nền sản xuất tự cấp, tự túc. 1.1.3. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa Sản xuất hàng hóa mang các đặc trưng chính dưới đây: – Việc sản xuất hàng hóa được thực hiện với mục tiêu chính là trao đổi cũng như mua bán. – Quá trình lao động để tạo ra sản phẩm, hàng hóa của người sản xuất vừa thể hiện tính tư nhân vừa thể hiện tính xã hội vì nó đảm bảo được nhu cầu tiêu dùng của xã hội và đáp ứng nhu cầu của nhiều người khác trong xã hội. – Sản xuất hàng hóa có tính tư nhân vì việc sản xuất sản phẩm nào và cách thức sản xuất như thế nào được xem là hoạt động riêng và mang tính độc lập riêng của mỗi cá thể. 1.1.4. Vai trò của sản xuất hàng hóa So với hình thức sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hóa mang nhiều ưu thế vượt trội hơn hẳn. Khai thác lợi thế sẵn có Điều đầu tiên không thể bỏ qua chính là khai thác tốt những lợi thế của tự nhiên xã hội, kỹ thuật, khả năng của từng cá nhân, tập thể ở từng khu vực, từng địa phương. Bởi vì sản xuất hàng hóa được ra đời trên nền tảng của sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất. Sự phát triển của sản xuất hàng hóa còn tác động tích cực giúp thúc đẩy phát triển việc phân công lao động xã hội, giúp chuyên môn hóa lao động ngày càng tăng cao. Cũng từ đó mối liên hệ giữa các ngành nghề, các địa phương ngày càng được mở rộng triệt để. Nhờ vậy, tính tự cung tự cấp, sự bảo thủ, lạc hậu hay trì trệ của mỗi ngành nghệ, địa phương được cải thiện, nâng cao năng suất lao động xã hội giúp cho nhu cầu xã hội ngày càng được đáp ứng đầy đủ hơn trước. Khi sản xuất, trao đổi hàng hóa được mở rộng quy mô trên nhiều quốc gia thì còn khai thác tối đa lợi thế của nhiều quốc gia khác nhau. lOMoARcPSD|12184112 Quy mô sản xuất hàng hóa không bị giới hạn Đối với sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất sẽ không bị giới hạn trong nhu cầu và nguồn lực hạn hẹp của các cá nhân, gia đình, cơ sở kinh doanh, hay địa phương mà nó được mở rộng dựa trên nhu cầu cũng như nguồn lực của xã hội. Điều này góp phần tạo điều kiện thuận lợi giúp ứng dụng nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, thúc đẩy phát triển sản xuất. Nâng cao khả năng cạnh tranh Trong một nền kinh tế sản xuất hàng hóa, sự tác động từ các quy luật sẵn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa như cung cầu, quy luật giá trị, canh tranh khiến người sản xuất hàng hóa luôn năng động, nhạy bén, biến thay đổi, cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng. Từ đó tăng hiệu quả kinh tế, cải tiến quy cách, hình thức và chủng loại hàng hóa giúp chi phí sản xuất được giảm xuống tối thiểu nhằm đáp ứng thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa, việc phát triển của sản xuất, mở rộng cũng như giao lưu kinh tế giữa cá nhân, tổ chức, giữa các vùng miền với nhau hay giữa nhiều quốc gia giúp cho đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao, đa dạng và phong phú hơn. 1.2. Các quy luật của sản xuất hàng hóa 1.2.1. Quy luật giá trị Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thị ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. Về nội dung, quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở của hao phi lao động xã hội cần thiết. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, người sản xuất muốn bán được hàng hóa trên thị trường, muốn được xã hội thừa nhận sản phẩm thì lượng giá trị của một hàng hoá cả biệt phải phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết. Vì vậy họ phải luôn luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong lĩnh vực trao đổi, phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt. lOMoARcPSD|12184112 Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông qua sự vận động của giả cả xung quanh giá trị dưới sự tác động của quan hệ cung - cầu. Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hóa trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị. Thông qua sự sự vận động cầu giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động còn quy luật giá trị. Những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo mệnh lệnh của giá cả thị trường. Trong nền kinh tế hàng hóa, quy luật giá trị có những tác động cơ bản sau: Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trong sản xuất, thông qua sự biến động của giả cả, người sâu xuất sẽ biết được tình hình cung - cầu về hàng hóa đó và quyết định phương án sản xuất. Nếu giá cả hàng hơn bằng giá trị thì việc sản xuất là phù hợp với yêu cầu xã hội hàng hoá này nên được tiếp tục sản xuất. Nếu giá cả hàng hóa cao hơn giá trị, sản xuất cần mở rộng để cung ứng hàng hoá đó nhiều hơn vì nó đang khan hiếm trên thị trường tư liệu sản xuất và sức lao động sẽ được tự phát chuyển vào ngành này nhiều hơn các ngành khác. Nếu giá cả hàng hóa thấp hơn giá trị, cung về hàng hóa này đang thừa so với nhu cầu xã hội, cần phải thu hẹp sản xuất ngành này để chuyển sang mặt hàng khác. Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Thông qua mệnh lệnh của giá cả thị trường, hàng hoá ở nơi có giá cả thấp được thu hút, chảy đến nơi có giá cả cao hơn, góp phần làm cho cung cầu hàng hoá giữa các vùng cân bằng, phân phối lại thu nhập giữa các vùng miền, điều chỉnh sức mua của thị trưởng (nếu giá cao thì mun ít, giá thấp mua nhiều) ... Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao động. Trên thị trưởng, hàng hóa được trao đổi theo giá trị xã hội. Người sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội, khi bán theo giá trị xã hội sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Ngược lại, người sản xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội sẽ gặp bất lợi hoặc thu lỗ. Đế đứng vững trong cạnh tranh và tránh không bị phá sản, người sản xuất phải luôn tin cách làm cho giá trị cá biệt hàng hóa của mình nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Muốn vậy, phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới phương pháp quản lý, thực hiện tiết kiệm... Kết quả lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động xã hội tăng lên, chi phí sản xuất hàng hóa giảm xuống. Trong lưu thông, để bản được nhiều hàng hóa, người sản xuất phải không ngừng tăng chất lượng phục vụ, quảng cáo tổ chức lOMoARcPSD|12184112 tốt khâu bán hàng làm cho quá trình lưu thông được hiệu quả cao hơn, nhanh chóng, thuận tiện với chi phí thấp nhất. Thứ ba, phân hoá những người sản xuất thành những người giàu, người nghèo một cách tự nhiên. Trong quá trình cạnh tranh, những người sản xuất nhạy bén với thị trường, trình độ năng lực giỏi, sản xuất với hao phí cả biệt thấp hơn mức hao phí chung của xã hội sẽ trở nên giàu có. Ngược lại, những người do hạn chế về vốn, kinh nghiệm sản xuất thấp kém, trình độ công nghệ lạc hậu thì giá trị cá biệt sẽ cao hơn giá trị xã hội và để lâm vào tình trạng thua lỗ, dẫn đến phá sản, thậm chí phải đi làm thuê. Trong nền kinh tế thị trường thuần túy, chạy theo lợi ích cá nhân, đầu cơ, gian lận, khủng hoảng kinh tế, là những yếu tố có thể làm tăng thêm tác động phân hóa sản xuất công nhàng tiêu cực và kinh tế xã hội khác. Tóm lại, quy luật giá trị vẫn có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất, vừa có cả những tác động tích cực lẫn tiêu cục. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên thị trường nên cần có sự điều tiết của nhà nước để hạn chế tiêu cực, thúc đẩy tác động tích cực. 1.2.2. Quy luật cạnh tranh Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều tiết một cách khách quan mối quan hệ ganh đua kinh tế của các chủ thể trong tần suất và trao đổi hàng hoá. Khi đã tham gia thị trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh, bên cạnh sự hợp tác, luôn phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh là sự ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm có được những ưu thế về sản xuất cũng như tiêu thụ và thông qua đó mà thu được lợi ích tối đa. Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trườn càng trở nên thường xuyên, quyết liệt hơn. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể diễn ra giữa các chủ thể trong nội bộ ngành, cũng có thể diễn ra giữa các chủ thể thuộc các ngành khác nhau. Cạnh tranh trong nội bộ ngành Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng một ngành, cùng sản xuất một loại hàng hóa. Đây là một trong những phương tiện để thực hiện lợi ích của doanh nghiệp trong cùng một ngành sản xuất Biện pháp cạnh tranh là các doanh nghiệp ra sức cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, thúc đẩy năng suất lao động để hạ thấp giá trị cá biệt của lOMoARcPSD|12184112 hàng hóa, làm cho giá trị hàng hoá của doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá đó. Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành giá trị thị trường (trị xã hội) của từng loại hàng hóa. Cùng một loại hàng hóa được sản xuất ra trong các doanh nghiệp sản xuất khác nhau, do điều kiện sản xuất (điều kiện trang bị kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất, trình độ tay nghề của người lao động khác nhau, cho nên hàng hóa sản xuất ra có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường các hàng hóa phải bán theo một giá thống nhất, đó là giá cả thị trưởng. Giá cả thị truông dựa trên cơ sở giá trị thị trường (giá trị xã hội). Giá cả thị trường chính là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường. Giá cả thị trường do giá trị thị trường quyết định. Giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng hóa được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó hay là giá trị cá biệt của những hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện trung bình của khu vực và chiếm đại bộ phận trong tổng số những hàng hóa của khu vực đó. Theo C. Mác, “Một mặt phải coi giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng hoá được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó, Mặt khác, lại phải coi giá trị thị trường là giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiển trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong tổng số những sản phẩm của khu vực này”. Cạnh tranh giữa các ngành Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh giữa các ngành khác nhau. Cạnh tranh giữa các ngành, vì vậy, cũng trở thành phương thức để thực hiện lợi ích của các chủ thể thuộc các ngành sản xuất khác nhau trong điều kiện kinh tế thị trường. Cạnh tranh giữa các ngành là phương thức để các chủ thể sản xuất kinh doanh ở các ngành sản xuất khác nhau tìm kiếm lợi ích của mình. Mục đích của cạnh tranh giữa các ngành là nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất. Biện pháp cạnh tranh giữa các ngành là các doanh nghiệp tự do di chuyển nguồn lực của mình từ ngành này sang ngành khác, vào các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau. lOMoARcPSD|12184112 1.2.3. Quy luật cung cầu Quy luật cùng cầu là quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung (bên bán) và cầu (bên mua) hàng hóa trên thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung - cầu phải có sự thống nhất, nếu không có sự thống nhất giữa chúng thì sẽ có các nhân tố xuất hiện điều chỉnh chúng. Trên thị trường, cung - cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thưởng xuyên tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị; ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị; nếu cung bằng cầu thì giá cá bằng với giá trị. Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau. Quy luật cung – cầu có tác dụng điều tiết quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng hóa; làm biến đổi cơ cấu và dung lượng thị trường, quyết định giá cả thị trường. Căn cứ quan hệ cung - cầu, có thể dự đoán xu thế biển động của giá cả; khi giá cả thay đổi, cần đưa ra các chính sách điều tiết giá cho phủ hợp nhu cầu thị trường...Ở đâu có thị trưởng thì ở đó quy luật cung - cầu tồn tại và hoạt động một cách khách quan. Nếu nhận thức được chúng thì có thể vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh theo hướng có lợi cho quá trình sản xuất. Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung - cầu thông qua các chính sách, các biện pháp kinh tế như giá cả, lợi nhuận, tín dụng hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng... để tác động vào các hoạt động kinh tế, duy trì những tỷ lệ cân đối cung - cầu một cách lành mạnh và hợp lý. 1.2.4. Quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát Theo C. Mác, để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, ở mỗi thời kỳ cần phải đua vào lưu thông một số lượng tiền tệ thích hợp. Số lượng tiền cần cho lưu thông hàng hoá được xác định theo một quy luật là quy luật lưu thông tiền tệ. Theo quy luật này, số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ nhất định được xác định bằng công thức tổng quát sau: M = Trong đó M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định; P là mức giá chi; Q là khối lượng hàng hóa dịch vụ đưa ra lưu thông; V là số vòng lưu thông của đồng tiền. Như vậy, khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá cả hàng hóa được đưa ra thị trưởng và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông của tiền tệ. Đây là quy lOMoARcPSD|12184112 luật lưu thông tiền tệ. Quy luật này có ý nghĩa chung cho mọi hình thái kinh tế - xã hội có sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khi lưu thông hàng hóa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt trở nên phổ biến thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định như sau: M = Trong đó P.Q là tổng giá cả hàng hóa; G1 là tổng giá cả hàng hóa bán chịu; G2 là tổng giá cả hàng hóa khẩu trừ cho nhau; G3 là tổng giá cả hàng hóa đến kỳ thanh toán; V là số vòng quay trung bình của tiền tệ. Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau: Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu thông hàng hoá quyết định. Số lượng tiền được phát hành và đưa vào lưu thông phụ thuộc vào khối lượng hàng hóa được đưa ra thị trường. Khi tiền giấy ra đời, thay thế tiền vàng trong thực hiện chức năng phương tiện lưu thông đã làm xuất hiện khả năng tách rời lưu thông hàng hóa với lưu thông tiền tệ. Tiền giấy bản thân nó không có giá trị mà chỉ là ký hiệu giá trị. Nếu tiền giấy được phát hành quá nhiều, vượt quá lượng tiền vàng cần thiết cho lưu thông mà tiền giấy là đại diện, sẽ làm cho tiền giấy bị mất giá trị, giá cả hàng hóa tăng lên dẫn đến lạm phát. Bởi vậy, nhà nước không thể in và phát hành tiền giấy một cách tùy tiện mà phải tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ. CHƯƠNG II. VẬN DỤNG LÝ LUẬN SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM 2.1. Kinh tế thị trường 2.1.1. Nền kinh tế thị trường 2.1.1.1. Khái niệm và phân loại thị trường a) Khái niệm Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra hành vi trao đổi mua bán hàng hóa giữa các chủ thể kinh tế với nhau. Tại đó, người có nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ sẽ nhận được thứ mà mình cần ngược lại, người có hàng hóa dịch vụ sẽ nhận được một số tiền tương ứng. Thị trường có biểu hiện dưới hình thái thể là chợ, cửa hàng, quầy lưu động, văn phòng giao dịch hay siêu thị, lOMoARcPSD|12184112 Theo nghĩa rộng, thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao đổi, mua bán hàng hóa trong xã hội nhất định. Theo nghĩa này, thị trường là tổng thể các mối quan hệ giá trị, giá trị sử dụng; quan hệ hợp tác, cạnh tranh; quan hệ trong nước, ngoài nước, Cùng với đó là các yếu tố kinh tế như nhu cầu (người mua hàng); người bán; tiền – hàng; dịch vụ mua bán Tất cả các quan hệ và yếu tố kinh tế này được vận động theo quy luật của thị trường. b) Phân loại thị trường Căn cứ vào đối tượng hàng hóa đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường, có thể chia ra thị trường tư liệu sản xuất và thị trường tư liệu tiêu dùng. Căn cứ vào phạm vi hoạt động, có thể chia ra thị trường trong nước và thị trường thế giới. Căn cứ vào đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất có thể chia ra thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường hàng hóa đầu ra. Căn cứ vào tính chuyên biệt của thị trường có thể chia thành các loại thị trường gắn với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Căn cứ vào tính chất và cơ chế vận hành của thị trường, có thể chia ra thị trường tự do, thị trường có điều tiết, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo (độc quyền). 2.1.1.2. Đặc trưng phổ biến của nền kinh tế thị trường - Thứ nhất, kinh tế thị trường đòi hỏi sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, các chủ thế kinh tế bình đẳng trước pháp luật. - Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực xã hội thông qua hoạt động của các thị trường bộ phận như thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ, - Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường; cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển. - Thứ tư, động lực trực tiếp của các chủ thể sản xuất kinh doanh là lợi ích kinh tế - xã hội. lOMoARcPSD|12184112 - Thứ năm, nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các quan hệ kinh tế, đồng thời, nhà nước thực hiện khắc phục những khuyết tật của thị trường, thúc đẩy những yếu tố tích cực, đảm bảo sự bình đẳng xã hội và sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. - Thứ sáu, kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trong nước gắn liền với thị trường quốc tế. 2.1.1.3. Ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường a) Ưu thế của nền kinh tế thị trường - Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự hình thành ý tưởng mới của các chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể luôn có cơ hội để tìm ra động lực cho sáng tạo của mình. Thông qua vai trò của thị trường mà nền kinh tế thị trường trở thành phương thức hữu hiệu kích thích sự sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ, qua đó thúc tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất làm cho nền kinh tế hoạt động năng suất hiệu quả. Nền kinh tế thị trường chấp nhận mọi ý tưởng sáng tạo mới trong thực hiện sản xuất kinh doanh và quản lý. Nền kinh tế thị trường tạo môi trường rộng mở cho các mô hình kinh doanh mới theo đà phát triển của xã hội. Hai là, nền kinh tế thị trường luôn thực hiện phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia trong quan hệ với thế giới. Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế đều có thể được phát huy, đều có thể trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. thông qua vai trò gắn kết của thị trường mà nền kinh tế thị trường trẻo thành phương thức hiệu quả hơn hẳn so với nền kinh tế tự cung tự cấp hay nền kinh tế kế hoạch hóa để phát huy tiềm năng, lợi thế của từng thành viên, từng vùng miền trong quốc gia, của từng quốc gia trong quan hệ kinh tế với phần còn lại của thế giới. Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội. lOMoARcPSD|12184112 Trong nền kinh tế thị trường các thành viên của xã hội luôn có thể tìm thấy cơ hội tối đa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nền kinh tế thị trường với sự tác động của các quy luật thị trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu tiêu dùng của xã hội. nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau được đáp ứng kịp thời; người tiêu dùng được thỏa mãn nhu cầu cũng như đáp ứng đầy đủ mọi loại hàng hóa, dịch vụ. thông qua đó, nền kinh tế thị trường trở thành phương thức để thúc đẩy văn minh, tiến bộ xã hội. b) Khuyết tật của nền kinh tế thị trường Một là, xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng. Khủng hoảng có thể diễn ra cục bộ, có thể diễn ra trên phạm vi tổng thể. Khủng hoảng có thể xảy ra với mọi loại hình thị trường, với mọi nền kinh tế thị trường. sự khó khăn đối với các nền kinh tế thị trường thể hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó dự đoán chính xác thời điểm xảy ra khủng hoảng. Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Do phần lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đặt mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên, suy thoái môi trường. Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa về xã hội, thu nhập là tất yếu. Bản thân nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được khía cạnh phân hóa có xu hướng sâu sắc. các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham gia thị trường cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu. đây là khuyết tật của nền kinh tế thị trường cần phải có sự bổ sung và điều tiết bởi vai trò của nhà nước. lOMoARcPSD|12184112 2.1.1.4. Tính tất yếu khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Vi ệt Nam Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật phát triển khách quan của Việt Nam trong bối cảnh thế giới hiện nay. Như đã đề cập ở trên, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Khi có đủ các điều kiện cho sự tồn tại và phát triển, nền kinh tế hàng hóa tự hình thành. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa theo các quy luật tất yếu đạt tới trình độ nền kinh tế thị trường. Đó là tính quy luật. Ở Việt Nam, các điều kiện cho sự hình thành và phát triển kinh tế kinh tế thị trường đang tồn tại khách quan. Do đó, sự hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan. Hai là, kinh tế thị trường có rất nhiều ưu việt, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Dưới tác động của các quy luật thị trường, nền kinh tế luôn phát triển theo hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Xét trên góc độ đó, sự phát triển của kinh tế thị trường không hề mâu thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Do vậy, Việt Nam cần phải phát triển kinh tế thị trường để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường cần chú ý tới những thất bại và khuyết tật của thị trường để có sự can thiệp, điều tiết kịp thời của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ba là, mô hình kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội phù hợp với nguyện vọng mong muốn một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn mình của nhân dân Việt Nam. Trên thế giới có nhiều mô hình kinh tế thị trường, nhưng nếu việc phát triển mà dẫn tới tình trạng dân không giàu, nước không mạnh, thiếu dân chủ, kém văn minh thì không quốc gia nào mong muốn. Cho nên, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là khát vọng của nhân dân Việt Nam. Để hiện thực hóa khát vọng đó, thực hiện kinh tế thị trường, trong đó hướng tới những giá trị mới. lOMoARcPSD|12184112 Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phá vỡ tính chất tự cấp, tự túc, lạc hậu của nền kinh tế; đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành, nghề; tạo việc làm cho người lao động; thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, khuyến khích ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới bảo đảm tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hóa, dịch vụ góp phần từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân; thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng, miền trong nước và với nước ngoài; khuyến khích tính năng động, sáng tạo trong các hoạt động kinh tế; tạo cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực xã hội một cách hợp lý, tiết kiệm... 2.1.2. Tình hình nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Có thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện. Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt: Việt Nam từ trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của đại dịch COVID – 19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5 năm (2016 - 2020) tăng trung bình 5,9%/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới. Quy mô nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 343 tỷ USD. Đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh lOMoARcPSD|12184112 tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập trung bình thấp). Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần, năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 3.500 USD. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng, tiết kiêṃ - đầu tư, năng lượng, lương thực, lao đôṇg - viêc̣ làm tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô, đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khung khổ thể chế từng bước được hoàn thiện tạo điều kiện phát huy vai trò tích cực của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, trong tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp luật: Kinh tế nhà nước, hệ thống doanh nghiệp nhà nước từng bước được cơ cấu lại, cổ phần hóa theo Luật Doanh nghiệp và đang giảm mạnh về số lượng. Thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Cho đến nay đã có 59 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Thành công ký kết 10 Hiệp định thương mại tự do khu vực và song phương (gồm 06 FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN; 4 FTA đàm phán với tư cách là một bên độc lập); hoàn tất đàm phán 5 FTA (EVFTA, CPTPP, RCEP, UKVFTA, AHKFTA); đang tích cực đàm phán 2 FTA khác (EFTA; Việt Nam - Israel). Việc tham gia ký kết và đàm phán tham gia các FTA có tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, nhất là đến nay Việt Nam đã tham gia vào ba chuỗi giá trị có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu đó là: Chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực; chuỗi giá trị năng lượng và an ninh năng lượng (dầu mỏ, khí, than) và chuỗi giá trị hàng dệt may và da giày. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020 được xếp thứ 42/131 nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập. Xếp hạng về phát triển lOMoARcPSD|12184112 bền vững của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020, cao hơn nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế thị trường Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế, khuyết điểm: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bát cập; nhiều doanh nghiệp nhà nước chậm thực hiện cơ cấu lại và đổi mới cơ chế quản trị; phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị yếu; nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài công nghệ trung bình, gia công, lắp ráp, thiếu gắn kết, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển; đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác còn chậm, nhiều hợp tác xã chưa làm tốt vai trò liên kết, hỗ trợ kinh tế hộ; thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hóa, dịch vụ công còn lúng túng; một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất; hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả có mặt chưa cao Những hạn chế, bất cập này được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cần kiên quyết khắc phục và giải quyết trong thời gian tới. 2.1.3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu” dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. lOMoARcPSD|12184112 Thứ nhất, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Sự hiện đại, hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được kế thừa, phát triển từ Đại hội XII và được thể hiện ở nhiều nội dung, tiêu chí khác nhau như sự hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế của thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách; sự hiện đại của quản trị quốc gia; sự đồng bộ, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới của hệ thống các loại thị trường, yếu tố thị trường trong nền kinh tế Thứ hai, trên cơ sở phát triển nhận thức lý luận về các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ, đầy đủ hơn vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế, chú trọng việc gắn kết giữa các thành phần kinh tế trong chỉnh thể nền kinh tế: Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Đây là chức năng quan trọng của kinh tế nhà nước, đồng thời cũng là điểm đặc trưng khác biệt, tiến bộ của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có phạm vi hoạt động rộng lớn, với vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu. Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nội dung và mục đích mới. Nếu ở Đại hội XII, việc hoàn thiện thể chế nhằm “nâng cao hiệu lực” quản lý kinh tế và quản lý nhà nước về kinh tế, thì Đại hội XIII nhấn mạnh mục đích xây dựng “thể chế kinh tế thị trường định lOMoARcPSD|12184112 hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập” và “tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh”. Thứ tư, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Điểm mới ở đây là khẳng định thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản. Thứ năm, về mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội trong vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điểm mới nổi bật chính là trong mối quan hệ này bổ sung thêm nhân tố xã hội so với nhận thức trong các Đại hội trước đó. Trong đó, nêu rõ vai trò, chức năng của nhà nước, thị trường và xã hội trong mối quan hệ chung. Nội dung xã hội được hiện ở chỗ hỗ trợ, bổ sung, khắc phục các khiếm khuyết cho các yếu tố nhà nước, thị trường nhằm tạo cơ chế vận hành hoàn chỉnh, đồng bộ nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đốì lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trương hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sổng nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trưòng. Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. lOMoARcPSD|12184112 Thứ sáu, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Văn kiện Đại hội XIII xác định rõ: “Giữ vững độc lập tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối chiến lược phát triển kinh tế đất nước; Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Tăng cường bồi dưỡng đào tạo cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế”. 2.2. Sơ lược về lịch sử phát triển của sản xuất hàng hóa - Từ nền sản xuất hàng hóa giản đơn thời phong kiến tới nền kinh tế hàng hóa sau này, nền sản xuất hàng hóa của nước ta đã không ngừng biến đổi và phát triển. - Thời kỳ phong kiến, trình độ lao động và năng suất lao động nước ta chưa cao, chính sách bế quan ở một số triều đại kìm hãm sự lưu thông hàng hóa. Sở hữu về tư liệu lao động nằm trong tay một số ít người ở tầng lớp trên. Tóm lại, ở thời kỳ này, nền sản xuất hàn hóa ở nước ta mới chỉ xuất hiện, chưa phát triển. - Trong thời kỳ bao cấp trước Đổi mới, nền kinh tế hàng hóa đồng thời là nền kinh tế kế hoạch. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Biến hình thức tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực sản xuất, thủ tiêu cạnh tranh và lưu thông thị trường, Sự nhận thức sai lầm của nước ta thời kỳ này đã khiến nền kinh tế suy sụp, sức sản sản xuất hàng hóa xuống dốc không phanh. Từ năm 1976 đến nam 1980, thu nhập quốc dân đã tăng rất chậm, lOMoARcPSD|12184112 có năm còn giảm: năm 1977 tăng 2,8%, năm 1978 tăng 2,3%, năm 1979 giảm 2%, năm 1980 giảm 1,4%, bình quân 1977 đến 1989 chỉ tăng 0,4%, thấp xa so với tốc độ tăng trưởng dân số, thu nhập quốc dân bình quân đầu người và bị sụt giảm 14%. - Từ năm 1986 sau khi Đảng và Nhà nước đã kịp thời chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế sản xuất hàng hóa nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ thời kỳ này chia thành 3 giai đoạn: Năm 1986 đến năm 2000: giai đoạn chuyển tiếp của nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần được công nhận và bước đầu phát triển. Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện phát triển. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, thời kỳ này nền kinh tế Việt Nam còn nhiều tồn tại chưa giải quyết được. Điều này khiến nền kinh tế chậm phát triển chiều sâu. Giai đoạn năm 2000 - 2007 đây là giai đoạn nền kinh tế hàng hóa ở nước ta phát triển mạnh mẽ. GDP liên tục tăng mạnh. Tốc độ tăng trưởng năm 2007 là 8,5% cao nhất từ năm 1997 đến nay. Việc gia nhập WTO giúp Việt Nam phát triển nền kinh tế hàng hóa dễ dàng hơn khi có cơ hội mở rộng thị trường ra thế giới Giai đoạn 2007 đến nay: kinh tế Việt Nam có dấu hiệu chững lại. Tăng trưởng GDP giảm tốc với mức tăng trưởng bình quân là 6,2% trong khi mức tăng trưởng bình quân CPI là 11,8%. Lạm phát kéo dài và mới được kiềm chế trong hai năm 2012 và 2013 các chính sách đưa ra dừơng nhưng không đem lại hiệu quả mong muốn. 2.3. Tình hình sản xuất hàng hóa ở Việt Nam a) Đánh giá chung tình hình sản xuất hàng hóa lOMoARcPSD|12184112 Trong khoảng thời gian gần đây, nền kinh tế hàng hóa Việt Nam có xu hướng sụt giảm. Tuy khủng hoảng trong thời gian dài nhưng tính đến nay, nền kinh tế nước ta đã có những dấu hiệu hồi phục. Bình quân giai đoạn 2016-2019, tốc độ tăng GDP đạt 6,78%, cao hơn 0,87 điểm phần trăm so với mức tăng bình quân 5,91%/năm của giai đoạn 2011-2015, đồng thời đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5%-7%/năm của Kế hoạch 5 năm 2016-2020. Riêng năm 2020, tăng trưởng kinh tế đạt 2,91%, tuy là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 2011-20202 nhưng trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới thì đây là thành công lớn của Việt Nam với mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới. Cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam sau khi đổi mới tới nay đã có nhiều thay đổi đáng mừng. Có sự chuyển đổi tích cực từ khu vực I (nông lâm nghiệp và thủy sản) sang khu vực II (công nghiệp và xây dựng) và khu vực III (dịch vụ). Bảng: Tổng độ tăng tổng sản phẩm trong nước giai đoạn 2016 – 2020 phân theo khu vực kinh tế 2016 2017 2018 2019 2020 GDP 6,21 6,81 7,08 7,02 2,91 Nông, lâm nghiệp và thủy sản 1,36 2,9 3,76 2,01 2,68 Công nghệ và xây dựng 7,57 8,00 8,85 8,90 3,98 Dịch vụ 6,98 7,44 7,03 7,30 2,34 lOMoARcPSD|12184112 Cơ cấu thành phần kinh tế của nước ta cũng đã có sự tiến bộ. Từ nền kinh tế mang nặng tính công hữu, lấy kinh tế quốc doanh là hình thức cao nhất, đến nay, nước ta đã có nền kinh tế nhiều thành phần với sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của kinh tế ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2020, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội ước đạt 2.164,5 tỷ động, trong đó vốn khu vực Nhà nước đạt 728,9 nghìn tỷ đồng (chiếm 33,7% tổng vốn, tăng 14,5%); khu vực ngoài Nhà nước đạt 972,2 nghìn tỷ đồng (chiếm 44,9%, tăng 3,1%); khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 463,3 nghìn tỷ đồng (chiếm 21,4 %, giảm 1,3%). Tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định song nền kinh tế hàng hóa Việt Nam vẫn chưa thể hiện được một cách triệt để những ưu thế của mình. Bên cạnh đó là sự tồn động những hạn chế của nền sản xuất hàng hóa nước ta cần được sớm giải quyết. Về thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: lực lượng sản xuất của Việt Nam dù đã có sự phát triển lớn so với trước khi đổi mới, song hiện nay trình độ lao động của Việt Nam còn kém. Theo đánh giá mới nhất của Ngân hàng Thế giới (WB), chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam chỉ đạt mức 3,79/10 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng. Về đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất. Năng suất lao động xã hội ở Việt Nam còn thấp. Việc xuất khẩu hàng Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn do giá thành cao, bị kiến bán phá giá hay bị kiểm soát ở thị trường một số nước như Hoa Kỳ. lOMoARcPSD|12184112 Về đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội: nước ta đã đáp ứng khá tốt cả về mẫu mã và chất lượng. Tuy nhiên sự xuất hiện của hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng trên thị trường ngày càng nhiều. Giá các mặt hàng thiết yếu như điện, nước liên tục tăng. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu Trong những năm vừa qua, ngành Công nghiệp Việt Nam đã sản xuất nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân và xuất khẩu tới nhiều quốc gia trên thế giới. Nhiều sản phẩm công nghiệp mới và chủ lực xuất hiện, đó là những sản phẩm có sức mạnh, có khả năng lan tỏa và đóng góp lớn cho 97 quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm mũi nhọn là những doanh nghiệp dẫn đầu ngành Công nghiệp, luôn áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất và quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao năng suất lao động, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Năm 2020, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng khá như: Ti vi lắp ráp năm 2020 đạt 18,2 triệu cái, gấp 1,7 lần năm 2016, bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 27%/năm; máy giặt dùng trong gia đình đạt 3.297,3 nghìn cái, gấp 1,6 lần và tăng 20,7%/năm; quặng đồng và tinh quặng đồng đạt 115,7 nghìn tấn, gấp 2,4 lần và tăng 18,7%/năm; quặng sắt và tinh quặng sắt đạt 5.238,7 nghìn tấn, gấp 1,7 lần và tăng 14,2%/năm; phốt pho vàng đạt 126,7 nghìn tấn, gấp 1,5 lần và tăng 13%/năm; thuốc trừ sâu đạt 169,4 nghìn tấn, gấp 1,6 lần và tăng 11,1%/năm; xi măng đạt hơn 109 triệu tấn, gấp 1,5 lần và tăng 10%/năm; điện phát ra đạt 232,3 tỷ kwh, gấp 1,3 lần và tăng 8%/năm; nước máy thương phẩm đạt 2.992,2 triệu m3 , gấp 1,2 lần và tăng 6,3%/năm; xe mô tô, xe máy lắp ráp đạt 4,392 nghìn cái, gấp 1,2 lần và tăng 5,1%/năm; than sạch đạt 48,4 triệu tấn, gấp 1,2 lần và tăng 3%/năm. Tuy nhiên, một số sản phẩm công nghiệp có tốc độ tăng thấp hoặc giảm là: Phân hóa học đạt 4.097,5 nghìn tấn, gấp 1,2 lần năm 2016, bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 1,9%/năm; điện thoại di động đạt 253,2 triệu cái, gấp 1,3 lần và tăng 1,5%/năm; phân lOMoARcPSD|12184112 NPK đạt 3.520 nghìn tấn, gấp 1,1 lần và tăng 1,3%/năm; ngói nung đạt 447,5 triệu viên, bằng 0,8 lần và giảm 2,9%/năm; khí tự nhiên ở dạng khí đạt 9.160 triệu m3 , bằng 0,9 lần và giảm 3%/năm; máy điều hòa không khí đạt 456,6 nghìn cái, bằng 0,7 lần và giảm 3,1%/năm; gạch nung đạt 12.780,8 triệu viên, bằng 0,7 lần và giảm 7,1%/năm; tấm lợp fibro xi-măng đạt 38,4 triệu m2 , bằng 0,6 lần và giảm 7,2%/năm; dầu thô khai thác đạt 11.470 nghìn tấn, bằng 0,6 lần và giảm 9,4%/năm; điện thoại cố định đạt 1.550,9 nghìn cái, chỉ bằng 0,3 lần và giảm 23,4%/năm b) Một số vấn đề thực tiễn Thành tựu Sản xuất hàng hóa là để trao đổi, đáp ứng nhu cầu của xã hội, nên người sản xuất có điều kiện để chuyên môn hóa cao. Trình độ tay nghề được nâng lên do tích lũy kinh nghiệm, tiếp thu được tri thức mới. Công cụ chuyên dùng được cải, kỹ thuật mới được áp d
File đính kèm:
- tieu_luan_nghien_cuu_ly_luan_san_xuat_hang_hoa_cua_c_mac_va.pdf