Tiểu luận Nghiên cứu thực trạng để đề ra những biện pháp hữu hiệu đẩy nhanh hơn quá trình hòa nhập của Việt Nam với mặt bằng lãi suất thế giới và theo thông lệ quốc tế

pdf 42 trang yenvu 19/08/2024 200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Nghiên cứu thực trạng để đề ra những biện pháp hữu hiệu đẩy nhanh hơn quá trình hòa nhập của Việt Nam với mặt bằng lãi suất thế giới và theo thông lệ quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Nghiên cứu thực trạng để đề ra những biện pháp hữu hiệu đẩy nhanh hơn quá trình hòa nhập của Việt Nam với mặt bằng lãi suất thế giới và theo thông lệ quốc tế

Tiểu luận Nghiên cứu thực trạng để đề ra những biện pháp hữu hiệu đẩy nhanh hơn quá trình hòa nhập của Việt Nam với mặt bằng lãi suất thế giới và theo thông lệ quốc tế
TIỂU LUẬN: 
Nghiên cứu thực trạng để đề ra những biện 
pháp hữu hiệu đẩy nhanh hơn quá trình 
hoà nhập của Việt Nam với mặt bằng lãi 
suất thế giới và theo thông lệ quốc tế 
Mở đầu 
Lãi suất là một phạm trù kinh tế quan trọng được đề cập trên nhiều lĩnh vực của đời 
sống kinh tế từ tiết kiệm, đầu tư, kiểm soát lạm... Nhà nước sử dụng lãi suất làm công cụ 
của chính sách tiền tệ điều tiết các quan hệ kinh tế nhằm mục tiêu tăng trưởng phát triển. 
Do tầm quan trọng và cách thức tác động vào lãi suất của nhà nước hình thành nên nhiều 
quan điểm, xu hướngkhác nhau về lãi suất và điều hành lãi suất. Trong tập chuyên đề này 
sẽ tập trung vào phân tích hai định hương cơ bản của chính sách điều hành lãi suất là kiểm 
soát lãi suất và tự do hoá lãi suất. Kiểm soát lãi suất và cố gắng duy trì một cơ chế ấn định 
lã suất áp đặt vào thị trường. Đây là cong cụ mang tính hành chính.Tự do hoá lãi suất đề 
cao sự ưu việt của cơ chế thị trường trong việc hình thành lãi suất. Các công cụ phục phụ 
cho quà trình tiến tư do hoá cũng được đề cập tới ở mức độ nhất định. 
Để tiếp tục cải cách chính sách lãi suất hướng tới mục tiêu lãi suất dựa trên cơ sở thị 
trường, chuyên đề phân tích thực trạng điều hành chính sách lãi suất thời gian qua ở Việt 
Nam. Việc phân tích sẽ đúc rút ra những ưu nhược điểm nhằm thực hiện triệt để hơn linh 
hoạt hơn vai trò của ngân hàng nhà nước và từ việc nghiên cứu thực trạng để đề ra những 
biện pháp hữu hiệu đẩy nhanh hơn quá trình hoà nhập của Việt Nam với mặt bằng lãi suất 
thế giới và theo thông lệ quốc tế. 
chương i 
lãi suất và tự do hoá lãi suất. 
I. Lãi suất 
1. Những khãi niệm về lãi suất 
Lãi suất là giá của vốn, chi phí phải trả cho việc thuê vốn. 
Trong nền kinh tế luôn có những chủ thể tạm thời dư thừa vốn, cùng lúc đó có những 
người có cơ hội đầu tư sinh lợi, cần vốn song lại thiếu vốn, thị trường tài chính ra đời làm 
thông suốt quá trình chuyển vốn từ người thừa vốn sang người cần vốn, các chủ thể qua 
quan hệ vay mượn tín dụng hoặc mua bán các công cụ nợ đều đạt được mục đích của 
mình; người thừa vốn vừa bảo đảm được vốn vừa thu được lợi, người thiếu vốn vừa dược 
đáp ứng đủ cho đàu tư. Từ thị trường đó, lãi suất được hình thành như giá cả của một loại 
hàng hoá(ở đây là vốn), nó là chi phí mà người đi vay phải trả cho người cho vay để được 
quyền sử dụng vốn, nó vận động tuân theo quy luật cung cầu, xác định trên cơ sở cân bằng 
giữa nhu cầu về vốn vá cung về vốn trên thị trường. 
Như vậy, lãi suất chính là tín hiệu thị trường tham gia vào việc nâng cao hiệu quả sử 
dụng vốn và phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý. 
ở trên là khái niệm lãi suất theo nguyên tắc thị trường, song lãi suất còn được hiểu là 
công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia, nó do ngân hàng trung ương - cơ 
quan thay mặt nhà nước thực thi chính sách tài chính tiền tệ - nắm giữ, và sử dụng nhằm 
điều chỉnh và can thiệp vào thị trường giúp hạn chế và khắc phục những yếu kém của nền 
kinh tế. 
Ngoài ra khái niệm lãi suất như là chi phí cơ hội của việc giữ tiền cũng tương đối phổ 
biến. 
Trong đời sống hàng ngày chúng ta cũng gặp rất nhiều loại lãi suất khác nhau như lãi 
suất các chứng khoán, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất danh nghĩa-lãi 
suất thực, lãi suất trần-sàn. Sự phân biệt các loại lãi suất này dựa trên sự liên quan đến vai 
trò công cụ của chính sách tiền tệ, chỉ số lạm phát hoặc kỳ hạn và rủi ro của mỗi loại chứng 
khoán. Tuy nhiên một điều quan trọng là hầu hết các loại lãi suất này đều diễn biến theo 
nhau. Vì vậy, nếu không ghi cụ thể gì khác thì thuật ngữ lãi suất đề cập trong tập chuyên 
đề này mang ý nghĩa phổ quát chung. 
2. Cơ chế xác định lãi suất 
Từ những khái niệm trên về lãi suất, ta có thể mô hình hoá những yếu tố tham gia vào 
việc hình thành nên lãi suất trong nền kinh tế. 
Tài chính 
gián tiếp 
(NHTM) 
Lãi suất 
NHTƯ 
Ngườ
i 
cho 
Ngườ
i đi 
vay 
Tài chính 
trực tiếp 
Lãi suất 
Dựa vào mô hình chúng ta thấy có hai nhóm lực lượng tham gia vào việc xác định lãi 
suất. 
a. Những yếu tố thuộc lực lượng thị trường. 
Thành phần thuộc nhóm này gồm : 
* Người cho vay : những người dư thừa vốn. 
* Người đi vay: những người cần vốn để kinh doanh, tiêu dùng. 
* Các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trung gian: những chủ thể tham 
gia vào thị trường tài chính, hoạt động tín dụng, huy động vốn để cho vay nhằm mục đích 
kinh doanh thu lợi nhuận. Họ có những vai trò, vị trí, lợi thế mà tài chính trực tiếp không 
có được. 
Lãi 
suất 
NHTƯ 
NHTM 
Người 
đi 
vay 
Người 
cho 
vay 
Những thành phần này tham gia vào việc xác dịnh lãi suất tuân theo theo quy luật thị 
trường. Khi nhu cầu về vốn được đáp ứng bằng cung về vốn ở mức toàn dụng vốn thì lãi 
suất cân bằng được hình thành. Những biến động của các biến số kinh tế vĩ mô sẽ ảnh 
hưởng đến hành vi của các thành phần này, thay đổi cung cầu về vốn và lãi suất cân bằng 
được điều chỉnh cho phù hợp. 
 Lãi 
 suất Cung về vốn 
 Lscb 
 Cầu về vốn 
 Vốn 
b. Nhóm yếu tố thuộc chính sách tiền tệ : 
 Thành phần: Duy nhất là NHTƯ. Cơ quan có nhiệm vụ phát hành tiền, quản lý hành 
chính hệ thống ngân hàng, vai trò người cho vay cuối cùng, xây dựng chính sách tiền tệ. 
Nó tác động đến lãi suất bằng các công cụ mang tính quyền lực nhà nước hoặc các công cụ 
mang tính thị trường. 
NHTƯ sử dụng công cụ lãi suất để tác động vào lượng tiền cung ứng và các biến số 
kinh tế vĩ mô khác nhằm đạtđược các mục tiêu của chính sách tiền tệ: 
 * ổn định tiền tệ. 
 * Tạo việc làm. 
 * Tăng trưởng kinh tế. 
Cách sử dụng công cụ lãi suất phụ thuộc vào chính sách điều hành lãi suất của NHTƯ 
ở mỗi giai đoạn khác nhau của nền kinh tế. Xây dựng chính sách lãi suất đúng đắn nhằm 
hướng dẫn phân bổ hợp lí nguồn vốn, huy động được tất cả các nguồn lực tiềm năng trong 
nền kinh tế, kích thích đầu tư, phù hợp tỷ giá và tạo thuận lợi cho hoạt động ngoại thương, 
mang lại đà phát triển vững mạnh cho nền kinh tế là một yêu cầu bức thiết luôn được đặt ra 
cho mỗi quốc gia cũng như các nhà hoạch định chính sách của nó. 
Các học thuyết , nhgiên cứu về cơ chế điều hành lãi suất chỉ ra rằng, NHTƯcó thể trực 
tiếp hoặc gián tiếp tác động (qua hệ thốngNHTM) lên lãi suất. 
Cơ chế tác động trực tiếp: NHTƯ sử dụng lãi suất với vai trò là một công cụ trực tiếp 
của chiính sách tiền tệ. NHTƯ với hành động mang tính chủ quan áp đặt một khung lãi 
suất, chênh lệch lãi suất tiền gửi- tiền vay hoặc trần- sàn lãi suất và buộc các tổ chức tín 
dụng phải tuân theo. Công cụ này mang tính cưỡng bức với sự đảm bảo bằng quyền lực 
nhà nước, đặc trưng của cơ chế kiểm soát lãi suất . 
Cơ chế tác động gián tiếp: NHTƯ sử dụng công cụ gián tiếp- mang tính thị trường- 
của chính sách tiền tệ để tác động đến lãi suất thông qua hành vi của hệ thống ngân hàng. 
Các công cụ đó là: 
- Dự trữ bắt buộc: dự trữ bắt buộc là công cụ của chính sách tiền tệ. Các ngân hàng 
thương mại được yêu cầu phải giữ lại một tỉ lệ phần trăm các khoản tiền gửi của họ 
dưới dạng dự trữ hoặc là bằng tiền mặt tại quỹ hoặc là bằng tiền gửi tại quỹ dự trữ của 
NHTƯ. Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có tác động mạnh mẽ lên khả năng cho vay 
của các tổ chức tín dụng và cho cả hệ thống tài chính. 
 Thí dụ, khi NHTƯmuốn kiềm chế lạm phát, họ có thể nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, hạn 
chế khả năng mở rộng tín dụng ủa cá tổ chức tín dụng và buộc các ngân hàng thương mại 
phải nâng lãi suất cho vay. Ngược lại,khi NHTƯ muốn đẩy mạnh tăng trưởng, họ giảm tỉ 
lệ dự trữ bắt buộc do đó các tổ chức tín dụng có thể mở rộng tín dụng và hạ lãi suất cho 
vay. 
- Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất NHTƯ cho các tổ chức tín 
dụng vay trên cơ sở những chứng từ có giá của ngân hàng thương mại. Đây là lãi suất 
phạt đối với ngân hàng thương mại khi thiếu hụt khả năng thanh toán. NHTƯ thông qua 
lãi suất tía chiết khấu tác động vào lãi suất thị trường. 
 Thí dụ, việc NHTƯ nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương mại phải 
tăng dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán. Đồng thời ngân hàng thương mại cũng phải 
tăng lãi suất cho vay để bù đắp những chi phí cho những khoản tăng thêm dự trữ, do vậy 
mà lãi suất thị trường tăng lên. Ngược lại, việc giảm lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ cho 
phép các ngân hàng thương mại giảm dự trữ và hạ lãi suất cho vay, do đó mà hạ lãi suất thị 
trường. 
- Nghiệp vụ thị trường mở: nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán chứng 
khoán (thường là chứng khoán nhà nước) trên thị trường tiền tệ ngắn hạn. NHTƯ 
muốn đẩy mạnh tăng trưởng, mở rộng tín dụng, bằng cách mua vào các chứng khoán 
có giá làm cho cung về tiền tệ tăng lên, dẫn tới làm giảm lãi suất. Ngược lại, khi 
NHTƯ muốn thu hẹp tín dụng bằng cách bán ra các chứng khoán có giá làm cho cung 
tiền tệ giảm xuống dẫn tới tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ. 
- Hợp đồng mua lại: hợp đồng mua lại là hợp đồng bán những chứng khoán, trong 
đó người bán cam kết sẽ mua lại chứng khoán này vào một thời điểm trong tương lai 
với mức giá được xác định trước trong hợp đồng. Như vậy, thực chất hợp đồng mua 
bán lại là hợp đồng cho vay có thế chấp, trong đó chứng khoán đóng vai trò thế chấp. 
Khi mua thế chấp (tức cho vay), NHTƯ bơm tiền vào thị trường tài chính và do vậy 
làm giảm lãi suất ngắn hạn. Khi bán thế chấp từ tài khoản của mình NHTƯ rút tiền ra 
khỏi thị trường tiền tệ và do đó tạo ra sức ép làm tăng lãi suất ngắn hạn. 
3. Mối quan hệ giữa lãi suất và các biến số kinh tế vĩ mô khác 
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền 
kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí vì nó trực tiếp ảnh 
hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi người chúng ta và có những hệ quả quan trọng đối 
với sức khoẻ của nền kinh tế. 
Nó tác động to lớn đối với việc tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu thông, thu hẹp hay 
mở rộng tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn, kích thích hay cản trở đầu tư, tạo lợi 
nhuận hay khó khăn cho hoạt đọng ngân hàng. 
Tóm lại, lãi suất là một phạm trù phức tạp có liên quan và tác động trực tiếp hoặc gián 
tiếp tới nhiều nền kinh tế vĩ mô khác. 
a. Lãi suất và đầu tư. 
Lượng cầu về hãng đầu tư phụ thuộc vào lãi suất, để một dự án đầu tư có lãi, lợi nhuận 
thu được phải cao hơn chi phí. Vì lãi suất phản ánh chi phí vốn để tài trợ cho đầu tư, việc 
tăng lãi suất làm giảm số lượng dự án đầu tư có lãi, bởi vậy nhu cầu về hãng đầu tư giảm 
do đó đầu tư tỷ lệ nghịch với lãi suất. 
Lãi suất thực tế phản ánh chi phí thực sự của tiền vay do vậy chúng ta nhận định đầu tư 
phụ thuộc vào lãi suất thực tế chứ không phải lãi suất là lãi suất danh nghĩa. Mối quan hệ 
giữa lãi suất thực tế (r) và đầu tư có thể biểu thị bằng phương trình sau: I = 
I(r). 
Phương trình này hàm ý đầu tư phụ thuộc vào lãi suất. 
 r 
 I = I(r) 
 0 lượng đầu tư I 
Đồ thị biểu thị hàm đầu tư, nó dốc xuống vì khi lãi suất tăng lượng cầu về đầu tư giảm. 
Mặt khác kinh tế học Macxit trong phân tích về tư bản cho vay và chỉ rõ rằng: 
 lãi suất < tỷ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội 
Nếu mối quan hệ này bị vi phạm lợi ích của người đi vay sản xuất không được giải 
quyết thoả đáng sẽ làm giảm ý muốn đầu tư sản xuất, không mở rộng được quy mô, tốc độ 
phát triển của nền kinh tế. Đồng thời người ta thích gửi tiền hơn và hình thành một lớp 
người thực lợi, sống vào lãi suất tiết kiệm. 
b. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm. 
Thu nhập của cá nhân bao giờ cũng được chia làm hai phần là tiêu dùng và tiết kiệm. 
Hành vi tiết kiệm với kỳ vọng phòng ngừa rủi ro, mở rộng sản xuất, tích luỹ và tiêu dùng 
trong tương lai chính là cung về vốn vay trong nền kinh tế. 
Tiêu dùng là một hàm phụ thuộc vào thu nhập khả dụng. ở mỗi giai đoạn của chu kỳ 
kinh doanh, sự thắt chặt hay nới lỏng của chính sách thuế mà ngân sách dành cho chi tiêu 
bị tác động. Tiết kiệm bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như thu nhập, tập quán tiết kiệm và 
lãi suất. Khi lãi suất tăng làm tăng ý muốn tiết kiệm và sự sẵn sàng chi tiêu giảm xuống. 
Tiết kiệm là một hàm phụ thuộc thuận vào lãi suất : S =S (r) . 
 r 
 Khi lãi suất tăng người 
 dân sẽ tích cực tiết kiệm hơn. 
 S = S(r). 
 0 S 
c. Lãi suất và lạm pháp : 
Lạm pháp là sự tăng lên liên tục của mức giá, là hiện tượng mất giá của đồng tiền. Lý 
luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữ lãi suất và lạm phát. Fisher chỉ ra 
rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát cao. Có nhiều nguyên nhân gây nên lạm phát 
và cũng có nhiều biện pháp để kiểm soát lạm phát, trong đó công cụ lãi suất là một giải 
pháp công hiệu khá nhanh. 
Trong thời kỳ lạm pháp, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút 
phần lớn số tiền có trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm; cơ số tiền và 
lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế. 
d. Lãi suất và tỷ giá 
Lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ với nhau. Đây là hai công cụ song 
hàng quan trọng của chính sách tiền tệ, việc cải cách chính sách điều hành ngân hàng hai 
yếu tố này đòi hỏi phải được tiền hành đồng thời. Trong điều kiện một nền kinh tế mở, với 
nguồn được tự do vận động, nếu lãi suất trong nước tăng lên nguồn vốn nước ngoài sẽ đổ 
vào đẩy cầu nội tệ lên cao, với mức cung tiền nhất định tỷ giá sẽ bị nâng lên ảnh hưởng 
đến hoạt động ngoại thương của quốc gia. Ngược lại, khi lãi suất giảm xuống, vốn trong 
nước khoác áo ra đi làm cho cầu ngoại tệ cao tỷ giá tụt xuống. 
e. Lãi suất với cầu tiền 
Tiền là một loại tài sản, cũng là một cách mà mỗi người sử dụng cho việc tích sản của 
mình. Nhu cầu về tiền phụ thuộc nhiều yếu tố trong đó có thu nhập và lãi suất. Khi thu 
nhập tăng, theo lý thuyết lượng cầu tài sản, nhu cầu nắm giữ tiền của dân chúng tăng lên. 
Người ta cần nhiều tiền hơn cho chi tiêu. Lãi suất như đã đề cập từ đầu là chi phí cơ hội 
cho việc giữ tiền. Vì vậy khi lãi suất tăng người ta ít có ý muốn nắm giữ tiền hơn mà 
chuyển sang mua các loại chứng khoán hoặc gửi tiết kiệm để thu lợi. Cầu tiền tỷ lệ nghịch 
với lãi suất. 
II. Tự do hoá lãi suất 
1. Khái niệm về tự do hoá lãi suất 
Tự do hoá lãi suất xuất phát từ những cơ chế điều hành chính sách lãi suất và sử dụng 
công cụ lãi suất trong chính sách tiền tệ. 
Như phần đầu của chuyên đề đã nêu ra ,NHTW có thể tác động vào lãi suất theo trong hai 
cách sau: 
* Dùng qui định hành chính. 
* Dùng tác động kinh tế . 
ở nhiều nước, NHTW đã không còn quản lý lãi suất bằng các công cụ hành chính mà 
chủ yếu sử dụng công cụ kinh tế là lãi suất cho vay của NHTW đối với ngân hàng thương 
mại. Cùng với sự phát triển cao của hệ thống tài chính ngân hàng quốc tế, quan điểm về 
điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế tự do hoá lãi suất tác động bằng công cụ thị 
trường tới lãi suất như của:Anh, Mỹ là mục tiêu mà các quốc gia đều hướng tới. Tự do hoá 
lãi suất -hạt nhân của tự do hoá tài chính -là để cho lãi suất tự hình thành thị trườngtrên cơ 
sở: cung cầu về vốn; mức tiết kiệm; thu nhập và chi tiêu của cá nhân và những nhân tố 
khác; loại bỏ những áp đặt mang tính hành chính nên quá trình hình thành lãi suất; cho 
phép các tổ chức tín dụng tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất. NHTW chỉ gián tiếp 
tác động lên lãi suất thông qua các công cụ có tính định hướng, dấu hiệu cho thị trường là 
các công cụ công cụ tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, hợp đồng mua lại và dự trữ 
bắt buộc. 
Nó ngược với những quan điểm về điều hành chính sách lãi suất một cách cứng nhắc 
thông qua các biện pháp ấn định lãi suất chủ quan, làm mất đi những tính năng ưu việt của 
lãi suất. Cơ chế này được gọi là cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp. 
Làn sóng tự do hóa lãi suất bắt đầu vào những thập kỷ 80- 90.Vậy nguyên nhân từ đâu 
? 
a. Những bất lợi của cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp. 
Trước hết phải thừa nhận rằng, kiểm soát trực tiếp lãi suất có một số ưu điểm và thuận 
lợi sau: 
* Dễ thực hiện. 
* Phù hợp với mức thị trường tài chính sơ khai và mức độ canh tranh kém. 
* Chưa có công cụ kiểm soát tiêng tệ gián tiếp. 
* Hạn chế trong năng lực quản lý. 
* Nguồn vốn tín dụng từ NHTW chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của nền 
kinh tế. Nhưng đối với nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và với quá trình 
toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng, thì không thể duy trì lâu cách kiểm soát lãi suất. 
Kiểm soát lãi suất tỏ ra kém hiệu quả do dễ bị các tổ chức tín dụng lẩn tránh, khả năng 
cạnh tranh thấp, dẫn đến suy giảm chức năng tài chính của hệ thống ngân hàng. 
Kiểm soát lãi suất dẫn đến suy giảm chức năng trung gian tài chính của hệ thống ngân 
hàng: 
- Nguồn tiết kiệm và tích luỹ sẽ chảy ra thị trường tài chính phi tổ chức và không 
bị quản lý chúng biểu hiện dưới dạng : 
* Ngân hàng kiểu chính sách tăng lên. 
* Cho vay qua thị trường không chính thức. 
* Nắm giữ ngoại tệ, tích luỹ kim loại quí hàng lâu bền. 
- Kiểm soát lãi suất kém hiệu quả trong việc điều hành chính sách tiền tệ: 
Kiểm soát lãi suất sẽ khuyến kích kiểm soát chi tiết các chi điều kiện tiền tệ bằng cách 
áp đặt cơ cấu lãi suất phức tạp như tồn tại nhiều loại trần lãi suất cho vay gây kém hiệu quả 
và biến dạng hơn.Việc kiểm soát lãi suất sẽ giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ, bởi vì 
sự gia tăng và mở rộng của các thị trường ngoài thị trường được kiểm soát. Các tổ chức 
kinh tế và ngân hàng thương mại thừơng tìm cách để tránh sự kiểm soát, do đó ngày càng 
nhiều hoạt động kinh tế diễn ra ngoài tài chính chính thức, các ngân hàng thương mại cố 
gắng tìm cách tránh sự kiểm soát của ngân hàng trung ương bằng cách tạo ra các sản phẩm 
mới hoặc các kỹ thuật tài trợ mà nằm ngoài tầm kiểm soát hoặc phạm vi quy định trần lãi 
suất. Trong thực tế, khi các công cụ này bị các ngân hàng lẩn tránh thì các mục tiêu của 
chính sách tiền tệ sẽ không thể thực hiện được. 
- Kiểm soát lãi suất không có lợi cho cạnh tranh: 
Các tổ chức tín dụng kém hiệu quả có thể được bảo vệ từ sức ép của tự do cạnh trnh 
khiến cho quá trình giải quyết khó khăn của họ tồn tại kéo dài. Những khó khăn lớn gắn 
với sự kiểm soát lãi suất là vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Những vấn đề 
này khi trở nên nghiêm trọng, thì các doanh nghiệp lành mạnh và các doanh nghiệp tư nhân 
mới sẽ bị loại khỏi thị trường tín dụng, bởi vì không sẵn sàng trả mức giá cao như các 
doanh nghiệp đang gặp khó khăn. 
b. Tại sao phải tự do hoá lãi suất. 
Bất kỳ cơ cấu lãi suất dựa trên cơ sở thị trường nào cân bằng được cung cầu tiền tệ và 
tín dụng trên thị trường tiền tệ và toàn bộ nền kinh tế thì bản thân nó đã là một cơ chế kiểm 
soát tiền tệ hiệu quả nhất và giảm đáng kể sự cần thiết phải dựa vào bất kỳ công cụ kiểm 
soát nào khác. Lãi suất do thị trường tự do xác định mang lại những thuận lợi sau: 
+ Đảm bảo điều chỉnh tự động và tức thì, do đó giảm rủi ro đối với những sai lầm về 
chính sách. 
+ Truyền tải các tín hiệu chính sách và tác động tới tất cả các bộ phận của nền kinh tế. 
+ Đảm bảo việc phân bổ tiền tệ và tín dụng tối ưu trên cơ sở lãi suất, mức độ rủi ro 
tương đối và lợi nhuận thu được. 
+ Đảm bảo nhất quán giữa chính sách tiền tệ, ngân sách và tỷ giá. 
+ Làm cho áp lực thị trường tiền tệ thể hiện rõ tức thì. 
+ Hỗ trợ và bổ sung cho việc quản lý tỷ giá hối đoái. 
+ Làm giảm sự nhạy cảm chính trị đối với những thay đổi lãi suất. 
+ Cho phép NHTƯ rút về sau thị trường mà không mất khả năng kiểm soát. 
Trên đây là những thuận lợi của lãi suất tự do hoá, song cơ sở lý luận của quá trình tiến 
hành tự do hoá là nhữg điểm trình bày dưới đây: 
+ ở đây, lãi suất tự do hoá, biến động theo cung cầu thị trường về vốn có ý nghĩa 
phân bổ nguồn vốn khan hiếm cho những người vay cạnh tranh nhau, đáp ứng nhu cầu của 
họ và có hiệu quả nhất; đồng thời có tác dụng thu hút tiền gửi từ các nguồn lực trong nền 
kinh tế với chi phí hợp lý nhất được cả ngân hàng và người gửi chấp nhận. Có thể nói rằng 
lập luận phân bổ nguồn vốn hiệu quả là trung tâm của vấn đề. Điều này không thể thực 
hiện trong điều kiện lãi suất bị kiểm soát hành chính, làm cho các hoạt đọng đầu tư bị biến 
dạng. Lãi suất được tự do hoá sẽ linh hoạt hơn so với khi bị kiểm soát, có khả năng điều 
tiết, thích nghi với điều kiện thay đổi, tạo sự kích thích cho tăng trưởng tài chính, cải tiến 
và thay đổi cơ cấu mà chính phủ hoặc là không thể quản lý hoặc là chậm thu được kết quả. 
+ Tự do hoá lãi suất cũng suất phát từ một thực tế là không một chính phủ hay một 
NHTƯ nào có đủ khả năng để phân bổ và kiểm soát sự phân bổ nguồn vốn một cách có 
hiệu quả cho hàng ngàn nhu cầu sử dụng vốn khác nhau. Những tranh cãi về lời giải cho 
bài toán lãi suất bởi cơ chế kiểm soát lãi suất đặt ra nhu một váan đề không thống nhất 
được giữa ý kiến của các tầng lớp khác nhau. Để giảm thiểu những tranh luận này, cách tốt 
nhất là để lãi suất do thị trường quyết định, tức là tự do hoá, tự do hoá lãi suất cũng buộc 
NHTƯ phải thay đổi cách làm việc, tư duy và đặc biệt là thay đổi các công cụ điều hành 
chính sách tiền tệ, chủ yếu dựa vào các công cụ gián tiếp để khống chế lãi suất. 
+ Trên thế giới đang diễn ra quá trình toà cầu hoá nhanh chóng mà toàn cầu hoá tài 
chính là điển hình nhất của quá trình này. Trong lĩnh vực kinh tế, theo nhiều nhà kinh tế, 
thì kẻ thù lớn nhất của chúng ta chính là toàn cầu hoá. Trong quá trình này, nhờ những phát 
triển vượt bậc của công nghệ và những nỗ lực của các nước đang phát triển cạnh tranh thu 
hút các nguồn vốn quốc tế, các luồng vốn quốc tế đã chảy từ nước này qua nước khác tự do 
hơn rất nhiều. Nói chung, lợi ích của toàn cầu hoá là rất lớn mà mỗi quốc gia phải nắm lấy, 
không thể bỏ qua. Trong lĩnh vực tài chính, toàn cầu cầu hoá đặt ra những cơ hội và thách 
thức mới, trong đó một thách thức lớn là việc làm xói mòn và giảm hiệu quả của việc kiểm 
soát tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp, như các quy định trần sàn lãi suất; thay vào đó để 
đảm bảo kiểm soát tiền tệ các nước dần chuyển sang thực hiện công cụ kiểm soát lãi suất 
gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, hợp đồng mua lại..., tức là các công 
cụ định hướng thị trường để đảm bảo hội nhập thành công trong lĩnh vực tài chính, trước 
hết lãi suất phải được tự do hoá. 
+ Tự do hoá lái suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính. Chủ thuyết Mc 
Kinnon- Shaw (1973) đã đi tới kết luận là các nước phát đang phát triển cần tránh can thiệp 
và chỉ đạo trên thị trường tài chính, thực hiện tự do hoá thị trường tài chính để chúng tự 
phản ứng theo các lực lượng thị trường. Chủ thuyết này phản đối cơ chế kiềm chế tài 
chính. Theo Mc Kinnon thì cơ chế kiềm chế tài chính được đặc trưng bởi những bóp méo 
do chính sách trong hệ thống tài chính quốc gia. Những chính sách kiềm chế tài chính bao 
gồm: quy định trần lãi suất dưới mức lãi suất thị trường, xác định hạn mức tín dụng, 
quyđịnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao và quản lý vốn để ngăn chặn các đồng tiền ra. Mc 
Kinnon và Shaw còn giải thích những động cơ để thực hiện các chính sách này là: khuyến 
khích đầu tư vào khu vực ưu tiên cũng như làm giảm các chi phí tài trợ cho thâm hụt ngân 
sách. 
Biểu hiện của một nền kinh tế có cơ chế kiềm chế tài chính là: huy đọng vốn chủ yếu 
và sự thiếu hụt vốn; phân bổ vốn không hiệu quả, sự tồn tại của thị trường tài chính phi 
chính thức. Khi kết luận Shaw nhấn mạnh:” khu vực tài chính của một nền kinh tế có vai 
trò trong phát triển kinh tế. Nếu nó bị kiềm chế và bó méo, nó có thể ngăn cản và phá hoại 
những động lực cho sự phát triển. 
Như vậy những hạn chế của cơ chế tài chính bị kiềm chế tạo ra những cơ sở cho sự 
phát triển của cơ chế tài chính mang tính tự do hơn. Tự do hoá cho phép hệ thống ngân 
hàng tự chủ hơn và điều đó dẫn đến lãi suất tiền gửi và tiền vay cao hơn. Những thay đổi 
như vậy trong lĩnh vực tài chính sẽ tác động đến các doanh nghiệp và các hộ gia đình, 
khiến họ thay đổi hành vi tiết kiệm và đàu tư của mình theo hướng có lợi cho tăng trưởng 
kinh tế. Tăng lãi suất tiền gửi sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiệm nội địa, thay thế được nguồn vốn 
đi vay nước ngoài để tài trợ cho đầu tư. Nguồn vốn tiết kiệm được truyền tải qua hệ thống 
tải qua hệ thống tài chính ngân hàng chính thức , mà không phải qua thị trường tiền tệ 
không chính thức. Tiết kiệm trong nước tăng lên và mức lãi suất thực cao làm mở rộng đầu 
tư và tăng hiệu quả đầu tư.Kết quả tạo ra một tỷ lệ tăng trưởng rộng hơn. 
 Quan điểm tự do hoá lãi suất đối với việc kích thích tiết kiệm nội địa ở trên còn rất 
nhiều tranh cãi và ý kiến khác nhau.Trong khi đó vai trò của tự do hoá lãi suất mang lại sự 
cải thiện việc phan bổ tín dụng và cải thiện hiệu quả đầu tư lại được thống nhất cao. Điều 
này là rất cơ bản để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưỏng bền vững. 
2. Những hạn chế của việc tự do hoá lãi suất đối với các nước đang phát triển 
Tự do hoá lãi suất là mục tiêu của chính sách tiền tệ, song với các quốc gia đang phát 
triển việc ngay lập tức từ thái cực này - kiềm chế sang thái cực khác - tự do là một việc 
làm không khả thi. Tự do hoá lãi suất cần có một trình tự bước đi hợp lý , nếu không sẽ gây 
ra những đổ vỡ to lớn cho nền kinh tế. 
Nguyên nhân của việc cần có một bước trung gian là: 
Thứ nhất, những thuận lợi do tự do hoá lãi suất mang lại là rất cơ bản , nhưng cũng tồn 
tại những trường hợp mà ở đó tự do hoá lãi suất không được thực hiện tốt vai trò của mình, 
như: 
(1) Các nước đang phát triển luôn phải đối mặt với hệ thống tài chính còn kém phát 
triển và tình trạng thiếu thông tin về thị trường tài chính , các sản phẩm tài chính. 
Do đó để tự do hoá lãi suất làm tròn chức năng của mình thì thị trường tài chính 
cần được củng cố và phát triển. Hơn nữa trong nền kinh tế, thị trường tín dụng 
không phải lúc nào cũng đủ nhanh để điều chỉnh cân bằng cung cầu thị trường khi 
điều kiện thay đổi, và tình trạng mất cân bằng vẫn là phổ biến của các nên kinh tế 
đang phát triển. 
(2) Tự do hoá lãi suất sẽ kém hiệu quả nếu áp đặt vào hệ thống tài chính quá nhiều các 
mục tiêu quốc gia. ở các nước đang phát triển những chính sách ưu đãi và tạo điều 
kiện lại luôn cần phải. 
Thứ hai, các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp như lãi suất tái triết khấu còn chưa có 
để thay thế cho vai trò cuả lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Do đó, công cụ 
kiểm soát lãi suất vẫn được coi là một công cụ duy nhất và khả thi để thực hiện chính sách 
tiền tệ. 
Thứ ba, các nước đang phát triển có nền tảng kinh tế vĩ mô chưa thực sự vững chắc đủ 
để chịu những áp lực của việc tự do hoá lãi suất hoàn toàn: chúng có thể làm mất ổn định 
vĩ mô qua việc tăng lạm phát, nợ nước ngoài và làm suy giảm tăng trưởng kinh tế. 
III. kinh nghiệm thế giới trong việc thực hiện tự do hoá lãi suất. 
 Sự ra đời của lý thuyết tự do hoá tài chính mà một trong những nội dung cơ bản là tự 
do hoá lãi suất đã tạo ra trào lưu tự do hoá lãi suất trên thế giới. Bên cạnh một số nước đã 
thực hiện thành công như Đài Loan, Singapore, lại có hàng loạt nước đã rơi vào khủng 
hoảng như Phillipine, Chille, Achentina.....Tuy nhiên, tự do hoá lãi suất vẫn là mục tiêu 
cần đạt tới, không chỉ vì những ưu điểm lý thuyết của nó, mà là tính hiệu quả của các nền 
kinh tế thị trường phát triển ở đó lãi suất dược tự do hoá . 
 Kiểm soát lãi suất rất phổ biến ở hầu hết các nước châu á trước những năm 80. Những 
hạn chế thường áp đặt dưới dạng quy định trần lãi suất đối với tiền gửi và cho vay của các 
ngân hàng thương mại ;các tổ chức tài chính phi ngân hàng ít chịu các hạn chế này hơn. 
Việc áp đặt này là nhằm mục đích cung cấp vốn với chi phí thấp để khuyến khích đầu tư, 
đặc biệt là những lĩnh vực ưu tiên và để tránh tình trạng lãi suất tăng quá mức, điều được 
coi là rất khó chấp nhận về mặt chính trị và xã hội. 
 Tuy nhiên, việc kiểm soát như vậy đã làm giảm vai trò trung gian tài chính của các 
ngân hàng khi những người tiết kiệm và những nhà đầu tư tìm cách khác ngoài thị trường 
tài chính chính thức. Do vậy, thị trường ngoài kiểm soát và trung gian phi ngân hàng phát 
triển mạnh dẫn đến sự kém hiệu quả trong kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. 
Cơ chế kiềm chế này hạn chế việc chuyển tải vốn tới các hoạt động có hiệu quả nhất, làm 
méo mó và ngăn cản sự phát triển của thị trường tài chính. 
 Trong những năm 80-90, các nước châu á đã thực hiện sự thay đổi quan trọng, bắt đầu 
thi hành chính sách tự do hoá lãi suất trong chính sách tiền tệ. Tuy vậy, mức độ thành công 
của các quốc gia khác nhau lại không giống nhau thậm chí gây hiệu quả tiêu cực. Câu trả 
lời nằm trong cách thức và tiến trình tự do hoá. Đến lượt mình, cách thức và tiến trình tự 
do hoá lại phụ thuộc vào xuất phát điểm của mỗi nước (mức độ kiểm soát tài chính , đặc 
điểm và tính chất hệ thống tài chính , khả năng và trình độ quản lý của các cấp quản lý vĩ 
mô...) , vào điều kiện quốc tế trong tưng giai đoạn tự do hoá ( xu hướng chung về cải cách 
tài chính, quyền lợi và mâu thuẫn của các cường quốc tài chính , trạng thái tài chính quốc 
tế như khủng hoảng, suy thoái hay đang phát triển ). 
 Kinh nghiệm của các nước cho thấy khi tự do hoá lãi suất trong một môi trường không 
có kiểm soát cùng với một thị trường tài chính không hoàn hảo và độc quyền, lãi suất thực 
đã tăng lên mức rất cao. Sự tăng lên như vậy không những không khuyến khích đầu tư và 
làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, mà còn dẫn đến phá sản của hàng loạt doanh nghiệp, 
sau đó gây ra khủng hoảng trong hệ thống tài chính, và làm trầm trọng hơn tình trạng bất 
ổn vĩ mô. Đồng thời việc loại bỏ kiểm soát cán cân vốn trong bối cảnh kinh tế vĩ mô bất 
ổn lại làm cho lãi suất tăng lên hơn nữa do có những dự đoán tiếp tục phá giá bản tệ. Giảm 
giá mạnh bản tệ làm cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào nhiều hơn, làm tăng áp lực lạm 
phát và làm giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ. 
 Cho nên, những tác động bên trong và bên ngoài đòi hỏi tự do hoá tài chính phải rất 
thận trọng, bất kỳ sự nhảy vọt nào từ cực này sang cực kia đều dẫn tới khủng hoảng và tình 
trạng vô chính phủ. Tự do hoá phải tiến hành từng bước, gắn liền với đổi mới kinh tế , với 
tự do hoá các lĩnh vực khác, với củng cố hành lang pháp lý, nhận thức của nhân dân , trình 
độ quản lý nền kinh tế và cả với thói quen và truyền thống của dân tộc. 
Chương ii 
Thực trạng chính sách lãi suất của Việt Nam 
I. Bối cảnh chung 
 Năm 1988 là năm mở đầu thời kì chuyển hướng từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung 
sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Với cơ chế kinh tế mới, tất cả các 
tổ chức kinh tế được tự chủ về tài chính, sản xuất, kinh doanh và tung ra hoạt động theo cơ 
chế thị trường. 
 Phối hợp với xu hướng của hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu chuyển đổi. Đặc 
trưng của quá trình này là: Tách hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hai cấp. 
- Ngân hàng nhà nước ( NHNN ): Thực hiện nhiệm vụ phát hành tiền, quản lý vĩ mô 
hoạt động ngân hàng. 
- Hệ thống ngân hàng thương mại: Kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng. 
 Sự chuyển đổi diễn ra 3 năm 1988 – 1990 song chưa có những chuyển biến rõ nét, vẫn 
mang dáng dấp ngân hàng thời bao cấp. Trong giai đoạn này, sự đổ vỡ hàng loạt các quỹ 
tín dụng nhân dân đã gây cho nền kinh tế những tổn thất lớn. Nhưng cũng từ đó chúng ta 
đã có những bài học kinh nghiệm quý báu và tiếp tục kiên trì con đường đôỉ mới. 
 Từ năm 1990 đến nay là giai doạn đổi mới và phát triển hệ thống ngân hàng. Hệ 
thống ngân hàng Việt Nam chuyển hướng nhanh để hoà nhập nền kinh tế thị trường có sự 
điều tiết của nhà nước. Trong năm 1990, hai pháp lệnh hoạt động ngân hàng được ban 
hành trong đó khẳng định: 
- Vị trí chức năng của ngân hàng nhà nước: Là ngân hàng trung ương, cơ quan ngang 
bộ thuộc chính phủ, thay mặt nhà nước thực thi chính sách tiền tệ; làm nhiệm vụ quản 
lý hành chính đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Xác lập rõ quan hệ giữa ngân hàng 
nhà nước và ngân sách là quan hệ vay trả chứ không phải là quan hệ cấp phát. 
- Hệ thống ngân hàng thương mại: Kinh doanh tiền tệ và tương đối độc lập với ngân 
hàng nhà nước trong hoạt động kinh doanh. 
Chính sách tiền tệ bắt đầu được hình thành: 
 Trong thời kì bao cấp, lượng tiền phát hành là bao nhiêu, phục vụ mục đích gì đều 
do chính phủ quyết định. Nhưng do suy thoái kinh tế, ngân sách quốc gia bị thâm hụt. 
Nhằm bù đắp vào những khoản chi tiêu ngân sách, nhà nước tăng lượng tiền phát hành vào 
lưu thông dẫn đến nạn lạm phát phi mã, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Do vậy không 
thể duy trì cơ chế này. 
 Năm 1991 ngân hàng nhà nước Việt Nam bắt tay vào xây dựng chính sách tiền tệ 
với mục tiêu ổn định đồng tiền Việt Nam, tăng trưởng kinh tế. Việc xác định lượng tiền 
cung ứng hàng năm phục vụ hai mục tiêu đó sao cho lượng tiền cung ứng đủ, vừa đảm bảo 
phương tiện lưu thông sản xuất không bị ách tắc vừa kiềm chế lạm phát. 
 Kết quả được minh hoạ qua bảng sau : 
Năm 1989 1990 1991 1992 1993 1994 
Chỉ số lạm phát 34.7% 67.5% 68% 17.5% 5.2% 14.4% 
Chỉ số phát triển 
kinh tế 
6.8% 5.1% 6% 8.3% 8% 8.5-9% 
 Hệ thống các tổ chức tín dụng phát triển đa thành phần theo pháp lệnh ngân hàng và 
hoạt động ngày càng có hiệu quả. Hệ thống ngân hàng thương mại QD đóng vai trò chủ 
đạo trong hệ thống các tổ chức tín dụng. Hoạt động kinh doanh tiền tệ, vàng bạc đá quý 
ngày càng được mở rộng. 
 Sau khi tổng kết và đánh giá đến tháng 10/1998, hai pháp lệnh ngân hàng cũ đã 
được thay thế bằng hai luật ngân hàng mới. Luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức 
tín dụng và ngân hàng đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa hai pháp lệnh và phản ánh kịp 
thời những thay đổi lớn lao trong lĩnh vực ngân hàng. 
i. Các giai đoạn thực hiện chính sách lãi suất ở Việt Nam : 
1. Trước tháng 3/1989: 
 Là thời kì điều hành theo cơ chế lãi suất âm 
 Tuy từng thời gian ngân hàng nhà nước có điều chỉnh lãi suất, nhưng do lạm phát 
phi mã, lãi suất luôn trong tình trạng âm. Điều này có nghĩa là: 
- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát. 
- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát. 
Hệ thống lãi suất âm có nhiều tiêu cực : 
- Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giảm bớt áp lực của tiền 
đối với giá của hàng hoá bị hạn chế nhiều. 
- Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho các doanh nghiệp. 
- Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có cho ngân hàng, 
ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế thị trường. 
- Không có tác dụng khuyến khích khu vực dân cư gửi tiền tiết kiệm vào hệ thống ngân 
hàng, họ tăng nắm giữ vàng bạc và ngoại tệ. Ngân hàng thiếu vốn, lợi nhuận thấp nên 
không có khả năng cho vay ra nền kinh tế. 
Năm 1986 1987 
Lãi suất thực - 6,6% - 5,8% 
2. Từ tháng 3/1989: 
 Ngân hàng nhà nước đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm qua 
lãi suất dương. Để thu hút tiền trong lưu thông và kiềm chế được lạm phát, tránh bao cấp 
qua lãi suất, ngân hàng nhà nước đã nâng lãi suất huy động lên một mức rất cao trong một 
thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm không kì hạn 9%/tháng – tức là 109%/năm ; Lãi suất tiết 
kiệm 3 tháng 12%/tháng – túc là 144%/năm). 
 Nhờ vậy đã : 
- Thu hút một khối lượng lớn tiền trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, gỉm lạm 
phát, kích thích tăng trưởng phát triển. 
- Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát, lãi suất 
cho vay cao hơn lãi suất huy động, xử lý hài hoà lợi ích người gửi tiền người vay vốn 
và tổ chức tín dụng. 
- Hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và tiền vay: Đối với 
ngành kinh tế (công, nông, thương nghiệp) có mức lãi suất riêng ; Đối với các thành 
phần kinh tế (quốc doanh, ngoài quốc doanh) còn phân biệt lãi suất. 
- Mức thực dương phi thực tế (năm 1991 – lãi suất thực 25,6% ; năm 1992 – 17,9%) đã 
kích thích nạn đầu cơ tiền tệ, khan hiếm tiền mặt trong lưu thông và làm tê liệt hoạt 
động tín dụng đầu tư phát triển. 
3. Từ 1/10/1993: 
 Ngân hàng nhà nước vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng lãi suất thoả 
thuận. 
a) Trần : Cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8%/tháng ; Kinh tế ngoài quốc doanh 
2,1%/tháng. 
b) Thoả thuận : Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất 
quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả 
thuận. 
 Trên thực tế khoảng 30-60% tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay bằng lãi 
suất thoả thuận mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân với lãi suất 2,3-
3,5%/tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể hiểu là đủ tự do hoá một phần lãi suất, 
hoặc đó là cơ chế cho vay với lãi suất cứng đi đôi với một biên độ dao động nhất định. 
 Từ cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng thương mại đã cho vay theo 
lãi suất khá cao với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân. Điều đó cũng nói lên 
một tất yếu khách quan la lãi suất đã theo nhu cầu vốn ở nông thôn lớn hơn và chi phí hoạt 
động ngân hàng ở nông thôn cao thì lãi suất cho vay sẽ cao hơn các khu vực khác. 
 Thời kì cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng đạt được mức chênh lệch lãi 
suất cho vay và lãi suất huy động rất cao, phổ biến là từ 0,7 – 1%/tháng, cho nên hầu hết 
các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp và hộ 
nông dân lại gặp khó khăn về tài chính. Từ thực trạng này, quốc hội khoá IX, kì họp thứ 8 
tháng 10/1995 đã thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu hoạt động tín dụng ngân hàng, 
đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động 0,35%/tháng. 
 Đây là duyên cớ để ra đời cơ chế lãi suất trần hoàn toàn và bãi bỏ lãi suất cho vay thoả 
thuận từ 01/01/1996. 
4. Từ 01/01/1996: 
a) Trên cơ sở nghị quyết của quốc hội về mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng, nên ngân 
hàng nhà nước đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo trần lãi suất nhằm 
khống chế lãi suất cho vay tối đa và các ngân hàng thương mại chỉ được hưởng chênh 
lệch 0,35%/tháng bao gồm cả chi phí, thuế, lợi nhuận thay cho việc quy định các mức 
lãi suất tiền gửi cụ thể và xoá bỏ lãi suất cho vay thoả thuận. Chính sách điều hành lãi 
suất vừa quy định trần lãi suất vừa khống chế chênh lệch 0,35%/tháng nên có quan 
điểm cho rằng thực chất của nó là vừa quy định trần vừa quy định sàn lãi suất. 
 Trần lãi suất cho vay được quy định thành nhiều mức khác nhau, xuất phát từ đặc điểm 
có nhiều loại hình tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn khác nhau, cung cầu vốn 
khác nhau, quy, mô khác nhau và do đó chi phí khác nhau, nên quy định nhiều mức trần lãi 
suất cho vay khác nhau, lúc đầu có 4 trần : 
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn : Là lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu vực thành thị. 
- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn : Cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một chút do 
thời hạn dài dễ gặp rủi ro. 
- Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn : Cao hơn trần lãi suất ngắn hạn và trung 
dài hạn do điều kiện hoạt động ở địa bàn nông thôn khó khăn hơn thành thị. 
- Trần lãi suất của quỹ tín dụng đối với các thành viên : Là trần lãi suất cao nhất do quỹ 
tín dụng mới lập thí điểm, quy mô nhỏ lẻ, chi phí hoạt động cao. 
Ưu điểm: 
- Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa của các tổ chức tín dụng không ngừng giảm theo cùng 
sự giảm về tỷ lệ lạm phát. 
- Lãi suất cho vay trung dài hạn giảm nhưng tăng tương đối so với lãi suất ngắn hạn, tăng 
dần và dẫn đến cao hơn so với lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa, phù hợp dần với thông 
lệ quốc tế và nguyên lý chung. 
- Các quyết đinh đảm bảo được cả 3 lợi ích : Nền kinh tế quốc dân, tổ chức tín dụng và 
người gửi tiền. 
- Việc quy định chênh lệch lãi suất đã thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào cạnh tranh 
trong kinh doanh tiền tệ. Thay vì sự quy định từng loại lãi suất cụ thể như trước đây, 
ngân hàng nhà nước chỉ khống chế mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và 
lãi suất huy động bình quân, các tổ chức tín dụng được tự chủ trong việc ấn định các 
mức lãi suất huy động cụ thể. 
- Chính sách lãi suất này đã kích thích hoạt động tín dụng phát triển, tăng trưởng kinh tế, 
tạo việc làm, góp phần thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 
Hạn chế: 
- Việc ấn định mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng gây khó khăn cho hoạt động của 
ngân hàng và các biện pháp để giám sát sự thực hiện quy định này là hầu như không có. 
- Trần lãi suất cho vay nông thôn cao hơn thành thị tạo động lực cho các ngân hàng 
thương mại mở rộng hoạt động song lại bị cản trở trong việc thực hiện chính sách ưu 
đãi nông nghiệp, khuyến khích nông nghiệp phát triển. 
b) Từ 21/01/1998 đến 08/2000: 
 Tại kì họp thứ hai, tháng 12/1997 quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch 
0,35%/tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất cho vay giữa thành thị và 
nông thôn, ngân hàng nhà nước với quyết định số 39/1998_QĐ_NHNH1, quy định các 
mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3 trần và khoảng cách giữa các trần cũng không 
còn xa nhau như trước. 
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2%/tháng. 
- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25%/tháng. 
- Trần lãi suất cho vay quỹ tín dụng cho vay các thành viên 1,5%/tháng. 
Việc quản lý lãi suất theo trên có những ưu điểm sau: 
- Trong phạm vi trần, các tổ chức tín dụng được tự do hoá ấn định mức lãi suất cho vay 
tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện kinh doanh, thực hiện điều kiện kinh 
doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước tự do hoá lãi suất. 
- Phù hợp với đặc điểm, chi phí hoạt động ngân hàng ở các vùng khác nhau. 
- Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước, xoá bỏ lãi suất thoả thuận, vượt quá xa 
mức lãi suất do ngân hàng nhà nước quy định. 
- Có trần khống chế sẽ bảo vệ lợi ích người vay, tổ chức tín dụng và người gửi tiền. 
- Đảm bảo vai trò quản lý của ngân hàng nhà nước về lãi suất trong giai đoạn đầu của thị 
trường tiền tệ mới hình thành trong nền kinh tế thị trường. 
- Lãi suất tiền gửi được hoàn toàn tự do. 
 Tuy nhiên, quản lý theo trần lãi suất là cách quản lý hành chính trong giai đoạn nền 
kinh tế thị trường còn sơ khai, chưa phát huy được hết mặt tích cực, nhạy cảm của nó. Lợi 
dụng mức khống chế "cứng" nhiều tổ chức tín dụng cho vayngay theo mức tối đa, đụng 
trần lãi suất để tối đa hoá lợi nhuận. Nó ít linh hoạt, không được điều chỉnh theo quan hệ 
cung cầu vốn và điều kiện khó khăn thuận lợi của từng vùng. 
5. Từ 8/2000 đến nay : 
 Đang thực hiện điều hành chính sách lãi suất bằng công cụ lãi suất cơ bản. 
 Ngày 02/08/2000 thống đốc ngân hàng nhà nước đã ban hành các quyết định về việc 
thay đổi cơ chế điều hành lãi suất có hiệu lực thi hành từ ngày 05/08/2000. 
- Quyết định số 241/2000_QĐ_NHNH1 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho 
vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. 
- Quyết định số 242/2000_QĐ_NHNH1 công bố lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các tổ 
chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối voứi khách hàng. 
- Quyết định số 243/2000_QĐ_NHNH1 công bố biên độ lãi suất đô la Mỹ làm cơ sở cho 
các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ. 
- Quyết định số 244/2000_QĐ_NHNH1 về việc cung cấp thông tin tham khảo về lãi suất 
của các ngân hàng thương mại cho ngân hàng nhà nước. 
 Đây chính là giai đoạn cụ thể hoá những quyết sách chiến lược đã được nêu ra trong 
trong luật ngân hàng nhà nước, khoản 2 điều 19 xác định "lãi suất cơ bản là lãi suất do 
ngân hàng nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định làm lãi suất kinh 
doanh" ; Điều 18 quy định "ngân hàng nhà nước xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi 
suất tái cấp vốn". 
 Việc chuyển hướng này có nhiều lí do, song về cơ bản là bởi lãi suất trần đã trở thành 
một công cụ chỉ còn tính hình thức, xơ cứng mất hết tác dụng đối với nền kinh tế. Nền tảng 
kinh tế vĩ mô trong nước chưa cho phép thực hiện tự do hoá lãi suất, do vậy thực hiện 
chính sách lãi suất theo lãi suất cơ bản là bước chuyển giao từ việc điều hành hành chính 
sang việc để thị trường xác định và nhà nước chỉ tác động qua các công cụ kinh tế. 
 Nội dung chủ yếu của cơ chế điều hành lãi suất mới : 
 Lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở nguyên tắc thị trường nhưng với bước đi 
thích hợp thận trọng, phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường tiền tệ ; từng bước tiến 
tới tự do hoá lãi suất, quốc tế hoá hoạt động tài chính trong nước, đồng thời với các biện 
pháp phát triển thị trường tiền tệ và nâng cao năng lực điều hành của các tổ chức tín dụng, 
xử lý lãi suất đồng Việt Nam trong mối quan hệ với lãi suất ngoại tệ và chính sách tỷ giá, 
quản lý ngoại hối. Cụ thể là: 
 Đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam : Ngân hàng nhà nước bãi bỏ quy định 
trần lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng, chuyển sang xác định và công bố 
lãi suất cơ bản và tỷ lệ biên độ %, dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông 
thường các ngân hàng thương mại áp dụng với khách hàng vay có uy tín trong việc sử 
dụng vốn vay, trả nợ, có rủi ro thấp. 
 Lãi suất cho vay và huy động của tổ chức tín dụng gắn với lãi suất cơ bản. Theo đó lãi 
suất cho vay của tổ chức tín dụng cao nhất = lãi suất cơ bản + tỷ lệ %. Lãi suất cơ bản và 
biên độ được công bố hàng tháng, trường hợp cần thiết ngân hàng nhà nước sẽ công bố 
điều chỉnh kịp thời, tại thời điểm hiện nay là: 
- Lãi suất cơ bản là 0,73%/tháng. 
- Biên độ trên đối với lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,3%/tháng. 
- Biên độ trên đối với lãi suất cho vay trung và dài hạn là 0,5%/tháng. 
 Với lãi suất cơ bản và biên độ như trên là phù hợp với mặt bằng lãi suất đã và đang 
được hình thành trên thị trường nông thôn và thầnh thị hiện nay, không tác động làm thay 
đổi lãi suất thị trường và không tạo ra tâm lý về việc ngân hàng nhà nước Việt Nam tăng 
trần lãi suất. 
 Đối với lãi suất cho vay bằng đồng ngoại tệ : 
- Cho vay bằng đồng đô la Mỹ : Bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của ngân hàng 
thương mại đối với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh hoạt phù hợp với thị 
trường quốc tế nhưng vẫn còn sự kiểm soát của nhà nước, cụ thể là lãi suất cho vay 
ngắn hạn ( từ 1 năm trở xuống ) không vượt quá mức SIBOR (lãi suất thị trường tiền tệ 
liên ngân hàng Singapore ) kì hạn 3 tháng + 1%/năm ; lãi suất cho vay dài hạn ( từ 1 
năm trở lên ) không vượt quá mức SIBOR kì hạn 6 tháng + 2,5%/năm. 
- Cho vay bằng ngoại tệ khác : Do chiếm tỷ trọng nhỏ trong hoạt động tiền gửi và tín 
dụng trên thị trường nên cho phép các ngân hàng thương mại tự xem xét quyết định lãi 
suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các loại ngoại tệ này trên cơ sở lãi suất thị trường 
quốc tế và cung – cầu vốn tín dụng của từng loại ngoại tệ ở trong nước. 
 Việc cung cấp thông tin tham khảo của các ngân hàng thương mại cho ngân hàng nhà 
nước về lãi suất, bao gồm: ngân hàng ngoại thương Việt Nam, ngân hàng công thương Việt 
Nam, ngân hàng Đầu tư và phát triển, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, 
ngân hàng thương mại cổ phần á châu, ngân hàng thương mại và cổ phần quân đội, ngân 
hàng ANZ, ngân hàng HSBC và ngân hàng VID PUBLIC. 
 Để xác định đúng đắn mức lãi suất cơ bản, quá trình xác định cần phải quán triệt các 
yêu cầu: 
- Từng bước tự do hoá lãi suất nhưng vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của nhà nước đối 
với thị trường, phù hợp với mục tiêu và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiến trình cải cách 
doanh nghiệp nhà nước, điều kiện thực tế thị trường tiền tệ trong nước và hạn chế đến 
mức tối đa rủi ro và tác động xấu của biến động thị trường tiền tệ thế giới. 
- Phù hợp với mức độ hội nhập thị trường tài chính khu vực và quỗc tế, lãi suất trong 
nước cần theo sát lãi suất thị trường quốc tế, nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc quá 
trình tự do hoá lãi suất của các nước từ đó áp dụng cho phù hợp với điều kiện của Việt 
Nam. 
Như vậy, so với cơ chế trần lãi suất tín dụng, cơ chế lãi suất cơ bản có một số ưu việt sau: 
- Nền tảng thị trường đã được đưa vào cơ chế xác định lãi suất cơ bản . 
- Môi trường cho việc ấn định lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng được mở rộng 
tạo khuôn khổ linh hoạt cho các tổ chức tín dụng khi áp dụng lãi suất. 
- Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng và khách hàng gửi, vay vốn có thể thoả thuận để 
lựa chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi có điều chỉnh, có lợi cho các bên khuyến 
khích tổ chức tín dụng mở rộng huy động vốn và cho vay trung và dài hạn. 
- Làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VND – tỷ giá lãi suất ngoại tệ linh hoạt hơn, phản 
ánh được chính xác hơn cung – cầu vốn, ngoại tệ tạo cơ sở cho ngân hàng nhà nước khi 
cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị trường. 
 Tuy đã có yếu tố thị trường, song lãi suất cơ bản là mức lãi suất được ngân hàng nhà 
nước ổn định một cách hành chính. Do vậy, chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất là một 
mục tiêu cần tích cực nỗ lực để đạt tới. 
iii. những đánh giá trong điều hành chính sách lãi suất thời gian qua : 
 Từ năm 1986 đến nay, ngân hàng nhà nước đã có những bước thay đổi về điều hành lãi 
suất trong nền kinh tế để đảm bảo cho chính sách lãi suất phù hợp với định hướng phát 
triển kinh tế xã hội của Đảng, Chính phủ trong mỗi thời kì. 
 Gần 15 năm đổi mới hoạt động ngân hàng, chính sách lãi suất đối với nền kinh tế đã có 
nhiều đổi mới tiến dần đến một chính sách lãi suất theo thị trường, cụ thể: 
- Chuyển từ lãi suất qua lãi suất dương, xoá bỏ bao cấp qua lãi suất. 
- Thực hiện lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn theo 
thông lệ quốc tế và phù hợp với rủi ro do thời hạn. 
- Rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay nội tệ và ngoại tệ phù hợp chính 
sách quản lý ngoại hối và lãi suất trên thị trường quốc tế. 
- Từ việc quy định lãi suất cụ thể, ngân hàng nhà nước với việc công bố trần lãi suất đã 
thực hiện ở một mức độ nhất định ( so với trần ) sự tự do hoá lãi suất tiền gửi và tiền 
vay. 
 Nhờ những quyết sách đúng đắn về điều hành lãi suất, mối quan hệ 3 bên giữa người 
gửi, người vay, tổ chức tín dụng được giải quyết hài hoà. Nguồn vốn huy động được ngày 
càng tăng trưởng, lạm phát kiềm chế ở 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_nghien_cuu_thuc_trang_de_de_ra_nhung_bien_phap_huu.pdf