Tiểu luận Người yêu cầu công chứng phải xuất trình các giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ đề yêu cầu công chứng để chứng minh họ là người nước ngoài? Những rủi ro công chứng viên thường gặp khi công chứng giao dịch nước ngoài
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Người yêu cầu công chứng phải xuất trình các giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ đề yêu cầu công chứng để chứng minh họ là người nước ngoài? Những rủi ro công chứng viên thường gặp khi công chứng giao dịch nước ngoài", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Người yêu cầu công chứng phải xuất trình các giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ đề yêu cầu công chứng để chứng minh họ là người nước ngoài? Những rủi ro công chứng viên thường gặp khi công chứng giao dịch nước ngoài
HỌC VIỆN TƯ PHÁP KHOA ĐÀO TẠO CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ CÁC CHỨC DANH KHÁC BÁO CÁO KẾT THÚC HỌC PHẦN TÊN MÔN HỌC CHUYÊN ĐỀ NGƯỜI YÊU CẦU CÔNG CHỨNG PHẢI XUẤT TRÌNH CÁC GIẤY TỜ, TÀI LIỆU TRONG HỒ SƠ ĐỀ YÊU CẦU CÔNG CHỨNG ĐỂ CHỨNG MINH HỌ LÀ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI? NHỮNG RỦI RO CÔNG CHỨNG VIÊN THƯỜNG GẶP KHI CÔNG CHỨNG GIAO DỊCH CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Họ Và Tên: Sinh Ngày.. Tháng Năm Số Báo Danh: Lớp: Ngày Tháng Năm 2021 MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Nghĩa của từ viết tắt HĐCC Hợp đồng công chứng QLNN Quản lý nhà nước NNN Người nước ngoài VPCC Văn phòng công chứng PHẦN MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các giao dịch dân sự ngày một gia tăng về số lượng và tính chất phức tạp, đòi hỏi Nhà nước phải có những biện pháp hữu hiệu để quản lý cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và của công dân khi tham gia giao dịch. Trong xu hướng tự do hóa, toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển của nền kinh tế thị trường, kinh tế hàng hóa đã làm cho các mối quan hệ trong xã hội ngày càng phát triển, nhất là mối quan hệ giao dịch, các biện pháp bảo đảm an toàn cho các quan hệ xã hội trên mọi lĩnh vực cũng đang được hình thành, hoàn thiện và ngày càng cần thiết, tác động tích cực cho quá trình phát triển của đất nước. Biện pháp đảm bảo an toàn cho các giao dịch thì tổ chức và hoạt động công chứng, chứng thực có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng.Một trong những biện pháp quản lý đối với các giao dịch dân sự, đó là hoạt động công chứng. Các giao dịch có liên quan đến văn bản nước ngoài đã trở nên vô cùng phổ biến. Thông thường các giao dịch này sẽ được thiết lập thông qua các bản hợp đồng nhằm đảm bảo sự thỏa thuận, ràng buộc một cách rõ ràng. Pháp luật hiện hành từ Bộ luật Dân sự đến các luật chuyên ngành như Luật Đất đai, Luật Nhà ở đều có quy định một số hợp đồng về bất động sản như mua bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn... bắt buộc phải công chứng. Kể từ khi Luật Công chứng được ban hành, hoạt động công chứng nói chung, công chứng các hợp đồng trong lĩnh vực dân sự nói riêng đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển của đất nước thì vai trò của công chứng càng trở nên quan trọng và cụ thể để góp phần đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, có tác dụng góp phần chủ động phòng ngừa các tranh chấp và vi phạm pháp luật, cung cấp tài liệu có giá trị chứng cứ cũng như phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân trong xã hội hiện đại. Chính vì vậy, Nghị quyết đại hội X của Đảng chỉ rõ: “xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách đảm bảo cung ứng các dịch vụ công cộng thiết yếu bình đẳng cho mọi người dân”. “ đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng”. Trên cơ sở kết quả đạt được trong việc thực hiện xã hội hóa một số lĩnh vực như giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao. Nhà nước tiếp tục cho phép xã hội hóa hoạt động công chứng. Hoạt động công chứng trong những năm qua ở nước ta có những đóng góp thiết thực vào việc cải cách thủ tục hành chính đóng góp một phần vào việc lập lại trật tự trong lĩnh vực giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại đã đi vào cuộc sống và có ý nghĩa thiết thực. Song tình hình đặt ra hiện nay là vấn đề tổ chức và hoạt động công chứng còn gặp phải những vướng mắc nhất định và những vấn đề này sẽ được từng bước giải quyết và hoàn thiện. Đồng thời, cần nhìn nhận rằng vai trò của công chứng đối với các bản dịch cần được chú ý. Bởi lẽ, xuất phát từ tính chất của quá trình hội nhập kinh tế- quốc tế, Việt Nam mở cửa giao lưu với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới thì yêu cầu phải thực thi pháp luật liên quan đến quyền và lợi ích của các chủ thể thông qua hợp đồng công chức đã góp phần quan trọng cho quá trình áp dụng các quy định về trình tự, thủ tục công chứng bản dịch theo quy định pháp luật hiện hành. Bên cạnh các kết quả đã đạt được trên phương diện lý luận và thực tiễn thì trình tự thủ tục về công chứng các bản dịch vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Vì vậy, lựa chọn đề tài: Người yêu cầu công chứng phải xuất trình các giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ đề yêu cầu công chứng để chứng minh họ là người nước ngoài? Những rủi ro công chứng viên thường gặp khi công chứng giao dịch có yếu tố nước ngoài làm đề tài nghiên cứu là cần thiết. Nghiên cứu đề tài nhằm mục tiêu góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận chung về quy trình công chứng có liên quan đến người nước ngoài và pháp luật về quy định vấn đề này; chỉ ra được những bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về quy trình công chứng bản dịch; đánh giá được thực tiễn áp dụng các quy định này trong thực tế và đề xuất được một số giải pháp góp phần hoàn thiện hơn pháp luật về quy trình công chứng bản dịch, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, đảm bảo lợi ích Nhà nước, lợi ích chung của xã hội; góp phần bảo đảm các quy định pháp luật được nhận thức và thực hiện thống nhất trong giai đoạn hiện nay. Bố cục đề tài gồm 03 phần gồm mở đầu, nội dung, kết luận và phần tài liệu tham khảo. NỘI DUNG 1. Quy định pháp luật về vấn đề nghiên cứu 1.1. Khái quát chung về văn phòng công chứng Trong các Nghị định trước đây, cụ thể là ở Nghị định số 45/HĐBT ngày 27 tháng 2 năm 1991, Nghị định số 31/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm 2000 đều xác định công chứng ở nước ta là nhà nước thực hiện công chứng chứ chưa hướng đến việc xã hội hóa các hoạt động về công chứng. Ở các nước khác trên thế giới, mô hình VPCC đã có từ rất sớm nhưng mãi đến khi Luật công chứng 2006 ra đời thì nước ta mới thừa nhận mô hình VPCC, tồn tại song song bên cạnh phòng công chứng. Có thể nói với sự ra đời của VPCC đã đánh dấu một bước tiến mới trong hoạt động công chứng ở nước ta hiện nay, là bước ngoặt quan trọng trong lĩnh vực công chứng tư, là cơ sở để nhà nước quản lý các giao dịch dân sự, thúc đẩy chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng nói chung và xã hội hóa hoạt động công chứng nói riêng. Tại Điều 22 Luật công chứng năm 2014 quy định như sau: “1. VPCC được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh. VPCC phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên. VPCC không có thành viên góp vốn. 2. Người đại diện theo pháp luật của VPCC là Trưởng Văn phòng. Trưởng VPCC phải là công chứng viên hợp danh của VPCC và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên. 3. Tên gọi của VPCC phải bao gồm cụm từ “VPCC” kèm theo họ tên của Trưởng Văn phòng hoặc họ tên của một công chứng viên hợp danh khác của VPCC do các công chứng viên hợp danh thỏa thuận, không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề công chứng khác, không được vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. 4. VPCC phải có trụ sở đáp ứng các điều kiện do Chính phủ quy định.VPCC có con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí công chứng, thù lao công chứng và các nguồn thu hợp pháp khác. 5. VPCC sử dụng con dấu không có hình quốc huy. VPCC được khắc và sử dụng con dấu sau khi có quyết định cho phép thành lập. Thủ tục, hồ sơ xin khắc dấu, việc quản lý, sử dụng con dấu của VPCC được thực hiện theo quy định của pháp luật về con dấu”. Từ những quy định trên của pháp luật, có thể hiểu một cách khái quát: VPCC không phải là cơ quan hành chính nhà nước mà là một doanh nghiệp hoạt động theo Luật công chứng và Luật Doanh nghiệp bởi VPCC là loại hình có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh như vậy có thể xếp VPCC vào hệ thống các DNNVV nhưng vẫn mang tính quyền lực nhà nước. VPCC phải có từ hai CCV hợp danh trở lên thành lập, được tổ chức theo hình thức là công ty hợp danh, thực hiện các hoạt động công chứng theo quy định của pháp luật và đặt dưới sự quản lý của nhà nước. * Khái niệm hợp đồng công chứng Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch); tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. (khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014). Như vậy, Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của các tài liệu mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. * Đặc điểm của hoạt động công chứng hợp đồng Một là, hoạt động của công chứng vừa mang tính công quyền vừa mang tính chất dịch vụ công. Tính công quyền thể hiện ở chỗ công chứng viên của phòng công chứng hay của các văn phòng công chứng đều do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để dịch thuật công chứng các hợp đồng giao dịch giữa các tổ chức, công dân theo qui định của pháp luật. Khi tác nghiệp, công chứng viên nhân danh nhà nước thực thi công việc. Hoạt động công chứng còn mang tính chất dịch vụ công tức là thực hiện một loại dịch vụ của Nhà nước nhưng được Nhà nước giao cho tổ chức hành nghề công chứng đảm nhiệm, đó là công chứng các hợp đồng giao dịch mà các tổ chức và cá nhân yêu cầu. Một trong những nguyên tắc cơ bản của dịch vụ công là phải bảo đảm được tính liên tục không bị gián đoạn của dịch vụ công. Hai là, là hoạt động thể hiện tính chuyên môn cao: Công chứng viên có sự độc lập, trong tác nghiệp chuyên môn, công chứng viên không chịu trách nhiệm trước các cơ quan cơ quan cấp trên hay trước trưởng phòng, trưởng văn phòng mà tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Vì vậy, trong tác nghiệp chuyên môn, công chứng viên không bị lệ thuộc vào cấp trên. Ba là, chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước: Các tổ chức hành nghề công chứng được Nhà nước chuyển giao cho một phần quyền của Nhà nước để thực hiện chức năng của Nhà nước trong một lĩnh vực cụ thể là công chứng các hợp đồng giao dịch. Đồng thời, Nhà nước cũng chuyển giao cho các tổ chức hành nghề công chứng một trách nhiệm và nghĩa vụ lớn là phải thực hiện công chứng một cách đúng pháp luật và đảm bảo được lợi ích của Nhà nước. của việc công chứng hợp đồng. Công chứng, chứng thực có tầm ảnh hưởng rất lớn và quan trọng đến đời sống, xã hội và phát triển kinh tế. Bởi trong cuộc sống đời thường cũng như dân sự, kinh tế, thương mại diễn ra nếu không suôn sẻ thì các đương sự tìm kiếm chứng cứ, hoặc là để bênh vực cho lý lẽ của mình, hoặc là bác bỏ lập luận của đối phương, Để phòng ngừa các tranh chấp, bảo đảm an toàn pháp lý cho các quan hệ giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại mà đương sự tham gia, họ cần đến chứng cứ công chứng- loại chứng cứ xác thực, chứng cứ đáng tin cậy hơn hẳn các loại giấy tờ không có công chứng hoặc chỉ trình bày bằng miệng. Công chứng là một hoạt động quan trọng, một thể chế không thể thiếu được của Nhà nước pháp quyền. Thông qua hoạt động công chứng và các quy định hướng dẫn, điều chỉnh pháp luật trở thành hiện thực sinh động của đời sống xã hội, thành hành vi xử sự theo đúng pháp luật. 1.2. Vấn đề công chứng các văn bản có liên quan đến người nước ngoài Trong thực tế thì hoạt động liên quan đến người nước ngoài ở nước ta trong những năm trở lại đây trở nên hiệu quả hơn bao giờ hết, đối với hoạt động công chứng cũng vậy. Hiện các quy định pháp lý điều chỉnh vấn đề này được thể hiện thông qua một số văn bản, cụ thể: Bộ luật Dân sự ngày 24 tháng 11 năm 2015 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2017); Luật Công chứng ngày 20 tháng 6 năm 2014 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015); Luật Nhà ở ngày 25 tháng 11 năm 2014 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2015); Luật Đất đai ngày 29 tháng 11 năm 2013 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2014); Luật Kinh doanh bất động sản ngày 25 tháng 11 năm 2014 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2015); Luật Hôn nhân và gia đình ngày 19 tháng 6 năm 2014 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015); Luật Hộ tịch ngày 20 tháng 11 năm 2014 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016); Luật Cư trú ngày 29 tháng 11 năm 2006 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2007); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú ngày 20 tháng 06 năm 2013 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014); Luật Doanh nghiệp ngày 26 tháng 11 năm 2014 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2015); Luật Căn cước công dân năm 2014 ngày 20 tháng 11 năm 2014 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016); Luật Hợp tác xã ngày 20 tháng 11 năm 2012 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2013); Luật Thương mại ngày 14 tháng 06 năm 2005 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2006); Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài ngày 18 tháng 06 năm 2009 (có hiệu lực kể từ ngày 02 tháng 09 năm 2009); Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016); Nghị định số 76/2015/NĐ-CP ngày 10 tháng 09 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bất động sản (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 11 năm 2015); Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở (có hiệu lực kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2015); Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp (có hiệu lực kể từ ngày 08 tháng 12 năm 2015); Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 03 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 05 năm 2015); Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình (có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 02 năm 2015); Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2014); Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2014); Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ quy định về giá đất (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2014); Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2014); Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai (có hiệu lực kể từ ngày 03 tháng 03 năm 2017); Nghị định số 31/2014/NĐ-CP ngày 18 tháng 04 năm 2014 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú (có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 06 năm 2014); Nghị định 106/2013/NĐ-CP ngày 17 tháng 09 năm 2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/1999/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 1999 của Chính phủ về chứng minh nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 170/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/1999/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 1999 của Chính phủ (có hiệu lực kể từ ngày 02 tháng 11 năm 2013); Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (có hiệu lực kể từ ngày 10 tháng 04 năm 2012); Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 05 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 02 năm 2012); Nghị định số 130/2008/NĐ-CP ngày 19 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về Giấy chứng minh sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (có hiệu lực kể từ ngày 16 tháng 01 năm 2009); Nghị định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17 tháng 08 năm 2007 của Chính phủ về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam (có hiệu lực kể từ ngày 14 tháng 09 năm 2007); Nghị định số 170/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/1999/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 1999 của Chính phủ về chứng minh nhân dân (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 12 năm 2007); Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (có hiệu lực kể từ ngày 27 tháng 01 năm 2007); Nghị định số 05/1999/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 1999 của Chính phủ về chứng minh nhân dân (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 5 năm 1999); Thông tư số 26/2015/TT-NHNN ngày 09 tháng 12 năm 2015 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn trình tự, thủ tục thế chấp và giải chấp tài sản là dự án đầu tư xây dựng nhà ở, nhà ở hình thành trong tương lai (có hiệu lực kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2015); Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16 tháng 11 năm 2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch (có hiệu lực kể từ ngày 02 tháng 01 năm 2016); Thông tư số 257/2016/TT-BTC ngày 11 tháng 11 năm 2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí công chứng; phí chứng thực; phí thẩm định tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề công chứng; phí thẩm định điều kiện hoạt động Văn phòng Công chứng; lệ phí cấp thẻ công chứng viên (có hiệu lực kể ngày từ 01 tháng 01 năm 2017); Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15 tháng 06 năm 2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 08 năm 2015); Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19 tháng 05 năm 2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (có hiệu lực kể từ ngày 05 tháng 7 năm 2014); Trên cơ sở các văn bản này, người nước ngoài khi thực hiện hoạt động công chứng cần chuẩn bị các giấy tờ sau, cụ thể: Thứ nhất, đối với cá nhân nước ngoài cần chuẩn bị các loại giấy tờ sau khi đi công chứng các hợp đồng, giao dịch: - Giấy tờ tùy thân: Hộ chiếu (phải còn giá trị có đóng dấu kiểm chứng nhập cảnh của cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh Việt Nam vào hộ chiếu). Giấy tờ chứng minh về của hoạt động công chứng trong các giao dịch yêu cầu phải công chứng. Thứ hai, đối với tổ chức nước ngoài cần chuẩn bị các loại giấy tờ sau khi đi công chứng các hợp đồng, giao dịch: - Có các giấy tờ thể hiện tư cách pháp nhân và thẩm quyền quyết định thực hiện giao dịch theo pháp luật của nước sở tại: + Giấy đăng ký kinh doanh/Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; + Con dấu của pháp nhân (để đóng dấu vào văn bản công chứng theo Điều lệ của doanh nghiệp) hoặc hình thức pháp lý khác theo quy định của nước sở tại; + Biên bản họp của cơ quan có thẩm quyền trong công ty; + Văn bản ủy quyền cho người nước ngoài khác thay mặt người đại diện giao kết hợp đồng. + Giấy tờ tùy thân của người đại diện: Hộ chiếu (phải còn giá trị có đóng dấu kiểm chứng nhập cảnh của cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh Việt Nam vào hộ chiếu) + Giấy tờ do cơ quan, tổ chức nước ngoài cấp hoặc công chứng, chứng thực ở nước ngoài để sử dụng cho giao dịch dân sự tại Việt Nam phải được Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam hoặc Bộ Ngoại giao hợp pháp hóa lãnh sự (trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại); + Giấy tờ bằng tiếng nước ngoài phải được dịch ra tiếng Việt, bản dịch phải được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật Việt Nam. + Trường hợp người yêu cầu công chứng không thông thạo tiếng Việt thì họ phải có người phiên dịch (Người phiên dịch phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, thông thạo tiếng Việt và ngôn ngữ mà người yêu cầu công chứng sử dụng; Người phiên dịch do người yêu cầu công chứng mời và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc phiên dịch của mình). 1.3. Quy trình về công chứng bản dịch Công chứng từ trước đến nay đang đóng vai trò là thiết chế quản lý các hợp đồng, giao dịch, đặc biệt là các hợp đồng, giao dịch có liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, cho ra đời và chứng nhận tính xác thực và hợp pháp của những văn bản có giá trị thi hành, không chỉ đối với các bên giao kết, mà còn đối với các bên có liên quan khác. Qua đó, Nhà nước có thể kiểm tra, giám sát, điều tiết một cách khách quan, công minh và hiệu quả những hợp đồng, giao dịch này. Trong điều kiện hiện nay, ý thức chấp hành pháp luật của đa số người dân còn thấp, hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, còn nhiều bất cập, chồng chéo, hiệu lực chưa cao, khả năng "hậu kiểm” của các cơ quan chức năng còn cần phải tiếp tục kiện toàn thì những hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất không thể "thả rông” cho các bên tự ý quyết định mà cần được quản lý hết sức chặt chẽ. Vấn đề công chứng bản dịch đã và đang trở thành một trong những quy định quan trọng cho quá trình áp dụng trong thực tế. Quy trình công chứng bản dịch được thực hiện theo trình tự sau: 1. Căn cứ pháp lý - Luật công chứng 2014; - Khoản 6 Điều 4 Thông tư 257/2016/TT-BTC; 2. Điều kiện được công chứng bản dịch => Bản dịch được dịch từ người phiên dịch công tác với văn phòng công chứng tiến hành công chứng bản dịch đó. 3. Hồ sơ công chứng - Phiếu yêu cầu công chứng (Văn phòng công chứng có sẵn mẫu); - Bản chính cần dịch. 4. Phương thức thực hiện => Người yêu cầu công chứng có thể đến trực tiếp tại văn phòng công chứng. Nếu người yêu cầu công chứng thuộc các trường hợp công chứng ngoài trụ sở văn phòng công chứng thì việc công chứng sẽ được tiến hành ngoài trụ sở văn phòng công chứng; 5. Cơ quan giải quyết Văn phòng/phòng công chứng nơi có QSDĐ (trên phạm vi cấp tỉnh). 6. Thời hạn giải quyết Thời hạn công chứng không quá 02 ngày làm việc; đối với hợp đồng, giao dịch có nội dung phức tạp thì thời hạn công chứng có thể kéo dài hơn nhưng không quá 10 ngày làm việc. 7. Phí công chứng => Phí công chứng bản dịch: 10 nghìn đồng/trang với bản dịch thứ nhất. Trường hợp người yêu cầu công chứng cần nhiều bản dịch thì từ bản dịch thứ 2 trở lên thu 05 nghìn đồng/trang đối với trang thứ nhất, trang thứ 2; từ trang thứ 3 trở lên thu 03 nghìn đồng/trang nhưng mức thu tối đa không quá 200 nghìn đồng/bản. 1.4. Giá trị pháp lý của bản dịch Trong các giao dịch đơn thuần giữa các bên về dân sự cũng như trong hoạt động kinh doanh, thương mại, do sự thiếu am hiểu luật pháp, thiếu thông tin về tình trạng pháp lý của các đối tượng giao dịch của một hoặc cả hai bên sẽ khiến cho các giao dịch chứa đựng rất nhiều rủi ro, dẫn đến những hậu quả bất lợi, những tranh chấp xâm hại đến quyền lợi ích của các bên tham gia giao dịch đồng thời cũng đẩy gánh nặng về phía cơ quan chức năng trong việc giải quyết những hậu quả này. Công chứng là một dịch vụ công ích quan trọng, một thể chế không thể thiếu được của Nhà nước pháp quyền để đảm bảo giá trị pháp lý, sự an toàn của các giao dịch nói trên. Theo Điều 5 của Luật Công chứng 2014 có qui định về Giá trị pháp lý của văn bản công chứng như sau: 1. Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng. 2. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác. 3. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. 4. Bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch. Một cách khái quát, ta thấy rằng hợp đồng được công chứng có hai giá trị cơ bản là giá trị thi hành (giá trị thực hiện) và giá trị chứng cứ. 2. Các rủi ro mà công chứng viên gặp phải khi công chứng các giao dịch nước ngoài Hoạt động công chứng từ khi xã hội hóa đã mang lại nhiều lợi ích cho xã hội, tạo sự thuận lợi lớn cho cá nhân, tổ chức yêu cầu công chứng, giảm bớt gánh nặng lên các cơ quan Nhà nước và làm cho giao lưu dân sự, kinh tế thuận lợi, từ đó thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu, thì thực trạng hoạt động công chứng vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết. - Đối với các các giao dịch liên quan đến người nước ngoài có nhiều trang, hầu hết chưa có đầy đủ chữ ký của người phiên dịch vào từng trang. Thậm chí, không có chữ ký của người phiên dịch và công chứng viên vào từng trang của bản dịch, vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 61 Luật Công chứng. - Không đóng chữ “Bản dịch” vào chỗ trống phía trên bên phải của từng trang hoặc chỉ đóng dấu chữ “Bản dịch” vào chỗ trống phía trên bên phải của trang đầu, vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 61 Luật Công chứng. - Bản dịch được đính kèm với bản sao của bản chính, nhưng không được đóng dấu giáp lai; - Hầu hết các bản đính kèm bản dịch trong hồ sơ đều là bản chứng thực. Điều này gây tốn kém, phiền hà cho người yêu cầu công chứng bản dịch. Vì theo quy định tại Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch: “bản sao” là bản chụp từ bản chính hoặc bản đánh máy có nội dung đầy đủ, chính xác như nội dung ghi trong sổ gốc. - Lời chứng không đúng mẫu quy định tại Thông tư số 06/2015/TT-BTP như: thiếu các nội dung “Bản dịch này do ông (bà).dịch từ tiếng sang tiếng”; “Bản dịch gồm tờtrang, lưu một bản tại Phòng công chứng sốtỉnh” - Các Hồ sơ công chứng bản dịch nhưng không thực hiện việc công chứng bản dịch mà thực hiện chứng thực chữ ký của Người phiên dịch là thực hiện không đúng quy định tại Điều 61 Luật Công chứng năm 2014; 3. Nguyên nhân, giải pháp và kiến nghị 3.1 Nguyên nhân Cùng với việc chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, Khoản 1, Điều 2, Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Công chứng viên có quyền chứng nhận tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Tuy nhiên, quá trình thực thi quy định, có rất nhiều thiếu sót từ hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng. Hiện nay, có một thực tế đang xảy ra là các tổ chức hành nghề công chứng không “mặn mà” với việc công chứng bản dịch, xuất phát từ các lý do chính sau đây: - Tổ chức hành nghề công chứng cho rằng phí công chứng bản dịch theo quy định hiện nay là thấp so với trách nhiệm mà tổ chức hành nghề công chứng phải chịu. Công chứng viên phải chịu trách nhiệm về mặt nội dung (nội dung bản dịch chính xác) trong khi họ không thể biết về nội dung bản dịch. Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng. Thêm vào đó, cũng có tổ chức cho rằng, không phải lúc nào họ cũng có sẵn đội ngũ cộng tác viên phiên dịch riêng biệt, nên họ thường liên kết với các công ty dịch thuật. Khi khách hàng có nhu cầu công chứng bản dịch, nhân viên của VPCC sẽ mang hồ sơ của khách hành đến công ty dịch thuật để cộng tác viên phiên dịch thực hiện. Việc mang hồ sơ gốc của khách hành mà nhiều khi là những giấy tờ rất quan trọng đi như vậy có thể có những trường hợp mất mát, thất lạc xảy ra, khi đó hậu quả rất khó khắc phục, do đó, họ cũng ái ngại mà không nhận công chứng bản dịch. - Về phía người dân, đa số người dân không phân biệt được giá trị và sự khác nhau giữa công chứng bản dịch và chứng thực chữ ký người dịch. Do đó, họ lại cho rằng, phí công chứng bản dịch là cao so với chứng thực chữ ký người dịch (50.000đ/bản so với 10.000đ). - Một bất cập nữa cũng phát sinh trong trường hợp dịch từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài, do phần lời chứng của bản dịch là tiếng Việt nên khi người dân mang giấy tờ đã công chứng bản dịch này ra cơ quan có thẩm quyền nước ngoài lại không được chấp nhận. Do đó, sẽ làm mất thời gian và chi phí tốn kém cho người dân do phải thực hiện lại theo thủ tục chứng thực chữ ký người dịch. - Có VPCC cho rằng: Giá trị pháp lý của bản dịch công chứng so với dịch chứng thực là như nhau. Tuy nhiên, cơ chế tính phí cho hoạt động công chứng/chứng thực bản dịch và cơ chế chịu trách nhiệm giữa công chứng viên với cán bộ tư pháp cấp quận huyện (công chứng viên chịu trách nhiệm về nội dung, cán bộ tư pháp chỉ chứng nhận chữ ký, không chịu trách nhiệm về nội dung) đối với hoạt động này là chưa tương xứng. Từ đó, VPCC đề nghị: Cùng với các quy định về công chứng bản dịch như Luật Công chứng hiện hành, pháp luật cần bổ sung thêm thẩm quyền cho phép Công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng được chứng thực chữ ký người dịch giấy tờ, tài liệu như các quy định về chứng thực. Lý do của đề nghị này là Luật công chứng đã cho phép công chứng viên chứng thực chữ ký của cá nhân thì không thể không cho chứng thực chữ ký người dịch. Nếu cho phép như vậy, người dân có thêm sự lựa chọn nơi cung cấp dịch vụ và bảo đảm cho người dân khi có nhu cấu thực hiện cùng một việc thì dù họ được Phòng tư pháp cấp huyện hay TCHNCC giải quyết cũng chỉ trả một mức phí như nhau. Điều 38, Luật công chứng; Điều 21, Thông tư số 06/2015/TT-BTP của Bộ Tư pháp quy rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng và trách nhiệm bồi hoàn của cộng tác viên phiên dịch. Theo đó, tổ chức hành nghề công chứng, phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng. Đây là một trong những lý do ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động công chứng bản dịch. Bởi, pháp luật về công chứng đã quy định rõ, công chứng viên phải chịu trách nhiệm về mặt nội dung (nội dung bản dịch chính xác) trong khi họ không thể biết về nội dung bản dịch. Điều này, dẫn đến thực tế không hiếm các tổ chức hành nghề công chứng “né” việc công chứng bản dịch. Công chứng viên, Phòng Công chứng số 1, tỉnh Quảng Bình Trà Đình Phúc nêu thực tế, hiện nay trình độ ngoại ngữ của nhiều công chứng viên chưa cao nên nhiều khi chưa hiểu chính xác nội dung của bản dịch, mà theo quy định của Luật và văn bản hướng dẫn thi hành thì công chứng viên phải chịu trách nhiệm cả về tính chính xác của nội dung bản dịch (nếu phiên dịch sai công chứng viên cũng phải chịu trách nhiệm) do đó còn tâm lý e ngại khi thực hiện công chứng bản dịch. 3.2. Đề xuất hướng khắc phục các khó khăn trong vấn đề công chứng các giao dịch liên quan đến người nước ngoài Từ những vấn đề phát sinh như trên thì nhóm xin kiến nghị một số giải pháp nhằm hạn chế, khắc phục thực trạng này. Một là, tiến hành rà soát các quy định về công chứng hợp đồng bản dịch và từ đó thông qua hoạt động rà soát để tiến hành xây dựng đề án hoàn thiện trong hoạt động công chứng bản dịch trong thực tế. Đồng thời, phải hoàn thiện các qui định pháp luật liên quan tổ chức và hoạt động công chứng bao gồm cả Luật công chứng, luật dân sự, luật đất đai, luật nhà ở, luật hôn nhân và gia đình, luật đăng ký bất động sản, luật thuế thu nhập cá nhân, qui định về thu thuế trước bạ...v.v. sao cho các qui định pháp luật phải theo kịp, phù hợp và đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn và xã hội, để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu chính đáng của công dân và tổ chức, giảm thiểu được các kẻ hở của pháp luật. Hai là, Nhằm đảm bảo tính thực tiễn và khả thi của quy định, Luật Công chứng nên sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 61 Luật Công chứng theo hướng công chứng viên chịu trách nhiệm chứng thực chữ ký của người dịch và nội dung bản dịch thì người dịch phải chịu trách nhiệm. KẾT LUẬN Trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp cùng với sự phát triển của nền kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, hoạt động công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoài sẽ luôn diễn ra và ngày càng trở thành thị trường giao dịch sôi động. Để giải quyết kịp thời và có hiệu quả các tranh chấp đất đai nói chung và tranh chấp hợp đồng công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoài nói riêng trong thời gian tới. Trên cơ sở phân tích những tồn tại, vướng mắc từ các quy định của pháp luật và thực tiễn công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoàitrong những năm qua, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu điều chỉnh của pháp luật với thực tiễn, đảm bảo sự phát triển kinh tế, xã hội và ổn định tình hình chính trị của địa phương cũng như của cả nước, bảo vệ lợi ích của người dân của Nhà nước và của cả cộng đồng. Trên cơ sỡ những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoài tại địa phương nhằm giúp các cơ quan soạn thảo văn bản pháp luật có thể tham khảo làm tư liệu cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật và giúp các cơ quan công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoài tại địa phương ngày càng nâng cao trình độ, kinh nghiệm trong công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoài, cũng như người dân nâng cao nhận thức pháp luật để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp cùng với sự phát triển của nền kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, hoạt động công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoài sẽ luôn diễn ra và ngày càng trở thành thị trường giao dịch sôi động. Để giải quyết kịp thời và có hiệu quả các tranh chấp đất đai nói chung và tranh chấp hợp đồng công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoài nói riêng trong thời gian tới. Trên cơ sở phân tích những tồn tại, vướng mắc từ các quy định của pháp luật và thực tiễn công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoàitrong những năm qua, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu điều chỉnh của pháp luật với thực tiễn, đảm bảo sự phát triển kinh tế, xã hội và ổn định tình hình chính trị của địa phương cũng như của cả nước, bảo vệ lợi ích của người dân của Nhà nước và của cả cộng đồng. Trên cơ sỡ những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoài tại địa phương nhằm giúp các cơ quan soạn thảo văn bản pháp luật có thể tham khảo làm tư liệu cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật và giúp các cơ quan công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoài tại địa phương ngày càng nâng cao trình độ, kinh nghiệm trong công chứng giao dịch liên quan đến người nước ngoài, cũng như người dân nâng cao nhận thức pháp luật để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/Văn bản qui phạm pháp luật Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 Bộ luật Dân sự 2005 Luật Đất đai 2013 Luật Công chứng 2014 Luật Nhà ở 2014 Nghị định 23/2015/NĐ-CP Thông tư số 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng. Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Tài liệu khác Cẩm Lai, Nhọc nhằn thực hiện quy định về công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất, [Truy cập ngày 20/10/2015]. Châu Hoàng Vinh, Tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta, 2011. Hỏa Long, Công chứng tư và những “lỗ hổng”... chết người, [Truy cập ngày 20/10/2015] Nguyễn Thanh Đình (Trưởng phòng Công chứng số 1 TP Cần Thơ), Lợi dụng công chứng để giao kết hợp đồng giả tạo và hậu quả pháp lý. Tuấn Đạo Thanh (Công chứng viên, Trường Phòng Công chứng số 3 T.P Hà Nội), Văn bản công chứng: giá trị pháp lý và vai trò quản lý thị trường bất động sản. Võ Đình Nho (Công chứng viên, Phó trưởng Phòng Công chứng số 4 TP. Hà Nội), Một số vướng mắc trong các quy định của pháp luật và trong thực tiễn hoạt động công chứng.
File đính kèm:
- tieu_luan_nguoi_yeu_cau_cong_chung_phai_xuat_trinh_cac_giay.docx