Tiểu luận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp Chủ nghĩa xã hội khoa học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) lOMoARcPSD|12184112 lOMoARcPSD|12184112 MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 1. Lý do nghiên cứu vấn đề ............................................................................................ 1 1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 2 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 2 3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài ............................................................................ 3 NỘI DUNG4 Chƣơng1: Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...................................... 4 1.1 Khái niệm về nhà nước pháp quyền ......................................................................... 4 1.2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ............................... 5 1.3. Chức nĕng vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .............................. 5 Chƣơng 2: Thực trạng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ..................................................................................................................................... 8 2.1. Về tổ chức của bộ máy nhà nước ............................................................................ 8 2.2. Về hệ thống pháp luật .............................................................................................. 9 2.3. Dân chủ hoá đời sống xã hội ................................................................................. 10 2.4. Về hoàn thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân ...................................... 11 2.5. Đảng và nhà nước trong công cuộc phòng chống dịch bệnh Covid ..................... 12 Chƣơng 3: Giải pháp xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .........................................................................................................................................12 3.1. Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước ......................................................................................................................................15 3.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật .......................................................... 16 3.3. Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội ..................................... 16 3.4. Tĕng cường công tác đấu tranh phòng và chống tham nhũng .............................. 18 3.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ........................................................................................ 19 KẾT LUẬN .................................................................................................................... 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 21 MỤC LỤC lOMoARcPSD|12184112 1 1. Lý do nghiên cứu vấn đề Lý luận và lịch sử về nhà nước và pháp luật cho thấy, nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị chung của nhân loại tiến bộ, đề cao pháp luật, thê hiện ước muốn, khát vọng của con người về một xã hội dân chủ và bình đẳng.Tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi việc xây dựng, tĕng cường, kiện toàn Nhà nước là một nhiệm vụ cốt tử hàng đầu, làm cho nhà nước ta thực sự là trụ cột của hệ thống chính trị, đề cao việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều đó được thể hiện rõ nét trong các vĕn kiện Hội nghị thành lập Đảng. Điều 2 Hiến pháp nĕm 2013 khẳng định rõ vấn đề này “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” [6, tr.1]. Đó là cơ sở pháp lý và cũng là vĕn bản pháp luật quan trọng nhất để xây dựng đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời cũng thể chế hoá đường lối của Đảng đề ra trong “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội”. Xây dựng nhà nước pháp quyền vừa tạo nên thiết chế phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước toàn diện vừa tạo ra các cơ cấu tổ chức, pháp luật phù hợp, cơ chế tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ các quyền, lợi ích của công dân, tổ chức và xã hội; đảm bảo cho các cơ quan nhà nước trở về với xã hội công dân, chấm dứt tình trạng Nhà nước đứng trên xã hội. Sự ra đời của mô hình nhà nước này từ nhận thức lý luận đến thực tiễn đã có những tác động tích cực, ảnh hưởng to lớn tới đời sống con người. MỞ ĐẦU lOMoARcPSD|12184112 2 Như vậy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết và vô cùng quan trọng của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nói chung cũng như đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nói riêng, là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị nước ta giai đoạn 2021 – 2030. Chính vì sự cần thiết và tính thời sự của vấn đề này, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp” để làm đề tài kết thúc học phần môn Chủ nghĩa xã hội khoa học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của bài tiểu luận là nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu và làm sáng tỏ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ờ Việt Nam hiện nay cũng như những thực trạng và giải pháp xây dựng nhà nước ngày một hoàn thiện và phát triển giàu mạnh. Để đạt được mục đích đó, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải ba vấn đề có tính thời sự, song cũng rất phức tạp, đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu.Từ đó thể hiện những nhiệm vụ chính của luận vĕn là: - Khái quát chung các khái niệm, đặc trưng, chức nĕng vai trò về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xuyên suốt thời kỳ lịch sử cho đến nay. - Phân tích, tìm hiểu, nhận định và đánh giá những quan điểm chủ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm, tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với phạm vi nghiên cứu là nhà nước Việt Nam giai đoạn hiện nay. lOMoARcPSD|12184112 3 4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu về “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay – thực trạng và giải pháp” đã giúp em có nhận thức rõ hơn về đường lối lãnh đạo của nhà nước ta từ khi giành lại được chính quyền đến nay, đồng thời nắm bắt được những đặc điểm, hình thái kinh tế, trính trị nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó tích cực tham gia tốt công tác xây dựng đảng, có trách nghiệm và ý thức chung tay góp phần vì một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày một giàu mạnh phát triển. Bên cạnh đó luôn biết ơn qua trình đấu tranh xây dựng đảng của nhà nước, khát vọng về một xã hội dân chủ và bình đẳng. Qua bài tiểu luận này, em xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, cụ thể của giáo viên bộ môn đã giúp em hoàn thiện kiến thức để phân tích đề tài này. Có thể bài tiểu luận này còn có thiếu sót nhưng em mong rằng sẽ nhận được sự góp ý từ giảng viên bộ môn để bài làm được hoàn thiện hơn. lOMoARcPSD|12184112 4 1.1 Khái niệm về nhà nƣớc pháp quyền Những ý niệm đầu tiên về nhà nước pháp quyền xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu tiên của nền vĕn minh nhân loại. Ngay từ thời cổ đại xa xưa, những hình thức xã hội công bằng, tốt đẹp đã được con người tìm thấy. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, các nhà tư tưởng đã vận dụng những ý niệm ban đầu này để phát triển và hình thành nên tư tưởng về hình thức tổ chức quyền lực xã hội mà trong đó pháp luật trở thành quy phạm bắt buộc đối với mọi người, là sức mạnh mang tính nhà nước và quyền lực xã hội được pháp luật thừa nhận trở thành quyền lực nhà nước. Chung quy,nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị – pháp lý phức tạp được hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Hiểu đơn giản nhà nước pháp quyền là một nhà nước quản lý kinh tế – xã hội bằng pháp luật và nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật. Nhà nước pháp quyền là vị thế pháp lý hay một hệ thống thể chế, nơi mỗi người đều phải phục tùng và tôn trọng luật pháp, từ cá nhân đơn lẻ cho tới cơ quan công quyền. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là hình thức tổ chức và hoạt động của quyền lực chính trị công khai và các mối quan hệ tương hỗ của nó với các cá nhân trong xã hội, với tư cách là những chủ thể pháp luật, những người đem lại quyền tự do của con người và công dân. CHƢƠNG 1: NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM lOMoARcPSD|12184112 5 Thứ nhất, nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Thứ hai, nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Thứ ba, Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội. Thứ tư, quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm soát quyền lực. Thứ nĕm, nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật phù hợp. Thứ sáu, trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội. Chức nĕng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là những phương diện hoạt động chủ yếu phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ vai trò của nó. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế trong từng giai đoạn phát triển của đất nước quyết định và định hướng bởi thực tế khách quan của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 1.3.1. Chức nĕng bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Đây là một trong những chức nĕng chủ yếu của nhà nước, bởi vì tất cả những chức nĕng đối nội của nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được thực hiện khi Tổ 1.2. Đặc trƣng cơ bản của nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Bản chất này của nhà nước tiếp tục được khẳng định trong các Cương lĩnh, các vĕn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới, được thể chế hoá rõ trong Hiến pháp 2013. Các đặc trưng cơ bản này được trình bày dưới các dạng thức khác nhau bởi các nhà lý luận, phục thuộc vào lập trường chính trị - pháp lý và quan điểm học thuật của từng người. Cách trình bày có thể khác nhau, song về bản chất có thể quy về các giá trị có tính tổng quát sau: 1.3. Chức nĕng vai trò của nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa lOMoARcPSD|12184112 6 quốc xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc. Chức nĕng này thể hiện ở việc bảo vệ chủ quyền đất nước; bảo vệ chế độ chính trị mà Hiến pháp đã xác lập; thực hiện ý chí của nhân dân trong các đạo luật và các quyết định của nhà nước; đại diện chính thức cho đất nước trên trưởng quốc tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định rõ: "Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền vĕn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc" [1, tr. 117]. 1.4.2. Chức nĕng tổ chức quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Nếu phân chia đời sống xã hội thành hai lĩnh vực lớn là chính trị và kinh tế - xã hội thì có thể thấy rằng chức nĕng tổ chức quản lý kinh tế của nhà nước nói chung là một hoạt động của nhà nước, hoạt động này thể hiện vai trò của nhà nước đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nhà nước ban hành và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô; xây dựng kế hoạch để phát triển kinh tế quốc dân, xác định các trương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,đề ra các biện pháp cụ thể đạt tới mục tiêu đó trong từng thời kì nhất định; sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng phát huy vai trò tạo ra các yếu tố kích thích hay hạn chế sự phát triển của các quan hệ kinh tế theo hướng nhất định. Nhà nước quản lí kinh tế vĩ mô bằng pháp luật, đóng vai trò quan trọng nhất trong hệ thống công cụ quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước ở nền kinh tế thị trường. 1.4.3. Chức nĕng xã hội Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: "tĕng trưởng kinh tế đi liền với phát triển vĕn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội" [1, tr.89] Vĕn kiện Đại hội X nêu rõ "chúng ta nhận thức ngày càng sâu sắc rằng, xã hội, vĕn hóa là những lĩnh vực thể hiện rõ nhất chức nĕng của nhà nước nói chung và chức nĕng xã hội của nhà nước nói riêng luôn gắn liền với các phạm trù như "bản chất nhà nước" và "vai trò của nhà nước" [2, tr.32]. lOMoARcPSD|12184112 7 1.4.4. Chức nĕng bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một chức nĕng rất quan trọng, một trong những tiêu chí đánh giá mức độ dân chủ. Trong sự nghiệp đổi mới, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm tốt trật tự, an toàn xã hội nhằm duy trì ổn định và trật tự, tạo điều kiện quan trọng để thực hiện đầy dủ quyền con người, quyền công dân mà Hiến pháp đã ghi nhận. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có đủ sức mạnh và kịp thời dập tan mọi âm mưu và hành động của các thế lực thù địch chống đối cách mạng, đồng thời đấu tranh chống, phòng ngừa có hiệu quả tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, làm cho xã hội luôn luôn ổn định, trật tự pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa được giữ gìn, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và trên toàn thế giới. Vì vậy, ở nước ta hiện nay, tĕng cường bảo vệ trật tự, an toàn xã hội là yêu cầu khách quan, cấp bách chẳng những bảo vệ chính quyền, bảo vệ cách mạng mà còn tạo điều kiện trong công cuộc đổi mới và phát tiển nhà nước. 1.4.5. Chức nĕng mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác và hữu nghị với các dân tộc vì hoà bình, ổn định và phát triển Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu và phát tiển trong quan hệ ngoại giao quốc tế hiện đại.. Xu hướng đó tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc gia, làm thay đổi sâu sắc nhận thức và hành động của mỗi quốc gia trong quan hệ quốc tế.. Việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác và hữu nghị với các dân tộc theo tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế vì hoà bình, độc lập và phát triển là một trong những nguyên tắc rất quan trọng trong quan hệ đối ngoại của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Củng cố duy trì tình hữu nghị với các nước láng giềng cũng như có cơ hội giao thương hợp tác phát triển là mục tiêu mở rộng quan hệ ngoại giao của nhà nước [9, tr.179-210]. lOMoARcPSD|12184112 8 Thấm nhuần lời dạy của Người cũng như nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng và phát huy dân chủ, trong suốt những nĕm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định tính dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy của sự phát triển đất nước. Đảng ta đã quán triệt những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng phù hợp với những điều kiện cụ thể của đất nước để tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đảng đã xác định lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, xác định đúng mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cũng như các lĩnh vực khác. Nhà nước ta đã từng bước được kiện toàn, từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế hoạt động trên các lĩnh vực tam pháp. Quản lý nhà nước bằng pháp luật được tĕng cường, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy trên nhiều lĩnh vực, trước hết là về kinh tế, ổn định chính trị được giữ vững. Có thể nhận thấy sự thay đổi và phát triển của quá trình phấn đấu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên những mặt sau: 2.1. Về tổ chức của bộ máy nhà nƣớc 2.1.1. Những thành tựu đạt được Bộ máy nhà nước đã được tổ chức lại theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm cho mỗi cơ quan nhà nước thi hành có hiệu quả chức nĕng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, không phải là CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY lOMoARcPSD|12184112 9 sự phân chia, cắt khúc, đối lập nhau giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp mà ở đây có sự phối hợp, hỗ trợ nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước. Vị trí, chức nĕng, nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ đã được xác định rõ thêm. Cải cách hành chính đã bước đầu được tiến hành đồng bộ trên các lĩnh vực: cải cách tổ chức bộ máy, cải cách thể chế và cải cách thủ tục hành chính. 2.1.2. Một số hạn chế về tổ chức bộ máy nhà nước Có thể nhận thấy bên cạnh những thành tựu và ưu điểm, việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước hiệu lực và hiệu quả chưa cao. Việc phân định chức nĕng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước còn chưa thật rõ ràng, chồng chéo về nhiệm vụ và quyền hạn. Trước hết là tổ chức, bộ máy của một số bộ phận trong các cơ quan của Quốc hội chưa được sắp xếp hợp lý. Hoạt động lập pháp của Quốc hội còn có phần hạn chế: chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa thật phù hợp, luật ban hành còn chậm, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu bằng luật; kỹ thuật lập pháp vẫn là khâu yếu, luật ban hành thiếu đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống, một số luật ban hành chưa phát huy hết tác dụng, chất lượng chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống, còn phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần. 2.2. Về hệ thống pháp luật 2.2.1. Những thành tựu đạt được Trong hơn 20 nĕm đổi mới, có những tiến bộ đáng kể trong chất lượng về nội dung của các vĕn bản quy phạm pháp luật. Nhìn chung, các vĕn bản quy phạm pháp luật ở nước ta đang dần dần tiếp cận gần hơn với những tiêu chí của một vĕn bản quy phạm pháp luật “tốt” - vĕn bản “chứa đựng đúng đắn, khách quan các giá trị chính trị – kinh tế – xã hội ở trong nước, đồng thời chứa đựng các giá trị nhân loại được thừa nhận chung” [5, tr.5] Về mặt nội dung có thể thấy đường lối, chính sách đổi mới của Đảng được thể chế hoá trong các vĕn bản pháp luật. Các đạo luật, pháp lệnh ngày càng thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân dân lao động. Bên lOMoARcPSD|12184112 10 cạnh đó, các đạo luật, pháp lệnh có sự kế thừa và phát triển các giá trị tiến bộ của nhân loại được thừa nhận chung trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta. 2.2.2. Một số hạn chế của hệ thống pháp luật Nhìn chung hệ thống pháp luật vẫn nhiều yếu kém và bất cập. Hệ thống pháp luật còn chưa theo kịp và chưa đáp ứng đầy đủ cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; hệ thống các cơ quan thi hành và bảo vệ pháp luật, đặc biệt là các cơ quan tư pháp chưa đủ mạnh; ý thức sống và làm việc theo pháp luật của cán bộ và nhân dân còn nhiều hạn chế. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xây dựng được chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Còn nhiều hạn chế về tính khách quan, tính khả thi, tính minh bạch của pháp luật. Ngoài ra, một số đạo luật, pháp lệnh còn chứa đựng yếu tố mâu thuẫn, chồng chéo trong bản thân từng đạo luật, pháp lệnh và mâu thuẫn với hệ thống pháp luật. 2.3. Dân chủ hoá đời sống xã hội 2.3.1. Những thành tựu đạt được Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ sự cần thiết phải thực hiện dân chủ trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới là trách nhiệm của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên” [7, tr. 232].Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển nĕm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, vĕn minh và do nhân dân làm chủ” [4, tr. 70] Dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự phát triển đất nước, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế, vĕn hóa, xã hội; bởi lẽ, thực hiện tốt dân chủ sẽ phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân với vai trò “chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử”. lOMoARcPSD|12184112 11 2.3.2. Một số điểm hạn chế của việc dân chủ hóa Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên trong đời sống xã hội, có tình trạng vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu kỷ cương. Quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ. Trong xã hội còn không ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức, có nơi còn diễn ra rất nghiêm trọng. Ở nhiều nơi, pháp luật quy định một số quyền của công dân nhưng không được tôn trọng, nhiều khiếu nại, kiến nghị của người dân chưa được giải quyết, thậm chí vẫn còn tình trạng bắt oan, xử oan người vô tội. Mặt khác, trật tự xã hội còn nhiều mặt yếu kém, hiện tượng coi thường không chấp hành kỷ cương, pháp luật còn nhiều. Cơ chế pháp luật bảo đảm dân chủ hoá tuy đã có tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều vấn đề còn thiếu sót và chưa cụ thể. Việc thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp và hình thức dân chủ đại diện hiệu quả chưa cao, có nội dung thực hiện ccòn chỉ mang tính hình thức. 2.4. Về hoàn thiện mối quan hệ giữa nhà nƣớc và công dân 2.4.1. Những thành tựu đạt được Sau nhiều kỳ đại hội, lý luận về mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý đã trở thành hệ thống quan điểm của Đảng trong thời kỳ đổi mới.Phát huy tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, Thực tiễn Việt Nam qua các nĕm đổi mới cho thấy ý chí và quyền lực của nhân dân được thể hiện trong pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật, trong thể chế dân chủ của đất nước. Nhân dân thực hiện quyền làm 70 chủ của mình thông qua nhà nước, thông qua các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Vì vậy nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm để mọi công dân thực hiện tốt các quyền cơ bản của mình. 2.4.2. Một số hạn chế Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân còn chậm trễ và thiếu sót. Sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước, còn tình trạng hờ hững và bao biện nên chưa phát huy tốt vai trò lOMoARcPSD|12184112 12 lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước.. Quan hệ trong nội bộ Đảng, quan hệ giữa Đảng và nhân dân còn nhiều mặt chưa được củng cố vững chắc, hiện tượng quan liêu, xa dân còn phổ biến, hiện tượng mất đoàn kết trong cấp uỷ đảng ở một số nơi chưa được khắc phục triệt để, chưa ngĕn chặn được bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy cơ quan công quyền [8, tr. 67-70]. 2.5. Đảng và nhà nƣớc trong công cuộc phòng chống dịch bệnh Covid Trong nĕm 2021, từ những ngày đầu đại dịch bùng phát, cả nước ta đã xác địch nhiệm vụ là quyết tâm ngĕn chặn sự lây lan của dịch COVID-19 dưới sự lãnh đạo sát sao của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự chỉ đạo điều hành quyết liệt của Thường trực Chính phủ và Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch quốc gia; kèm theo đó là hàng loạt chủ trương, biện pháp rất cụ thể để thực hiện mục tiêu cao cả nói trên. Trước tình hình bệnh Covid 19 đang diễn biến phức tạp và khó lường, hơn lúc nào hết đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải đoàn kết một lòng chiến thắng đại dịch. Một giai đoạn mới của cuộc chiến với bao nhiệm vụ gian nan, đã và đang được triển khai mạnh mẽ, cả nước đã bước sang một “trạng thái bình thường mới”, hành động với khẩu hiệu cụ thể: “Chống dịch như chống giặc”. Với tinh thần bình tĩnh đối mặt, tự tin, các bộ, ban, ngành và cả hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân ta từ nông thôn đến thành thị, trong nĕm 2021 vừa qua với tinh thần khẩn trương, vào cuộc một cách mạnh mẽ, quyết liệt, không quản khó khan gian lao đã đạt được những thành quả to lớn trong công cuộc chống dịch Covid 19, được truyền thông và bạn bè quốc tế hết sức ca ngợi, nhân rộng mô hình, cách làm của Việt Nam, cụ thể: Thứ nhất, tĕng cường giám sát ở mọi cấp độ với phương châm "đi từng ngõ, gõ từng nhà" để phát hiện, sàng lọc những người bị lây nhiễm nhanh chóng cách ly và tránh lây lan ra cộng đồng. Thứ hai, Việt Nam đã nêu những khẩu hiệu có tính khuyến khích, động viên, phổ biến chủ trương, biện pháp, hướng dẫn nhân dân tự nguyện làm theo. Trong việc này, chiếc loa ở các phường, xã có tác dụng cao. Họ nhấn mạnh, truyền thông Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động thông tin, tuyên truyền, lOMoARcPSD|12184112 13 khơi dạy lòng yêu nước của nhân dân, biểu dương kịp thời những tấm gương tập thể, cá nhân tham gia hỗ trợ chống dịch. Thứ ba, sự đồng lòng của các tầng lớp nhân dân thực hiện nghiêm các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Theo họ, sự thành công bước đầu này, đã làm tĕng thêm lợi thế chính trị của đảng cầm quyền. Nhiều doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế... đã tự nguyện chấp nhận thiệt hại lợi ích trước mắt để phục vụ nhiệm vụ chống dịch, được báo đài ca hết sức ca ngợi. Nhân dân cả nước hưởng ứng mạnh mẽ lời kêu gọi quyên góp của Chính phủ để mua sắm thêm thiết bị y tế cũng như trợ giúp cuộc sống khó khĕn của những hoàn cảnh khó khĕn trong xã hội. Thứ tư, hiếm có nước nào, các lực lượng quân đội, công an tự nguyện, dũng cảm nhiệt huyết chấp hành Chỉ thị của Thủ tướng, huy động tối đa lực lượng và phương tiện hậu cần phục vụ có kết quả nhiệm vụ chống dịch. Ngành Y tế Việt Nam có đội ngũ thầy thuốc tận tâm với trình độ chuyên môn cao, đã chĕm sóc và cứu chữa nhiều người khỏi dịch bệnh. Thứ nĕm, Việt Nam đã làm tốt việc chủ động công khai, minh bạch số người bị nhiễm và phân loại cụ thể; đồng thời tĕng cường hợp tác quốc tế, nhất là hỗ trợ một nước láng giềng các thiết bị y tế phục vụ chống dịch. Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh, một mặt tập trung cứu chữa người bệnh; mặt khác đồng thời chĕm lo duy trì, ổn định đời sống các tầng lớp nhân dân; giao các bộ, ngành trình các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội ngay trong và sau kết thúc dịch bệnh. Không có một phép lạ nào thay thế được sự đồng tâm, hiệp lực của các tầng lớp nhân dân ta sát cánh cùng Đảng, Nhà nước trong cuộc chiến đẩy lùi đại dịch. Trong thời gian qua, quá trình phòng, chống dịch Covid-19 ở Việt Nam cho thấy sức mạnh của hệ thống chính trị ở Việt Nam; vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự chèo lái tài tình của Chính phủ; sự đồng lòng, tin tưởng của quần chúng nhân cùng hướng về mục tiêu chung đã nâng cao tầm vóc Việt Nam trên thế giới. Thắng lợi to nhất mà chúng ta gặt hái được ở chặng đường đầu tiên của cuộc chiến chống Covid-19 là đã củng cố được pháo đài trong lòng dân về nhiều phương diện; là nâng cao ý thức trách nhiệm của công dân trước những hiểm hoạ đối với cộng đồng; là lOMoARcPSD|12184112 14 hình ảnh đất nước, con người Việt Nam sáng thêm trong con mắt của bè bạn và những giá trị nhân vĕn, lòng hào hiệp của Việt Nam đã nối gần thêm bè bạn khắp nĕm châu. lOMoARcPSD|12184112 15 Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân" [4, tr. 169] Sự nghiệp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện cả về cơ sở pháp lý và cơ chế tổ chức thực hiện để hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho nhân dân thực sự được là chủ và làm chủ, từ đó phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân [10]. 3.1. Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nƣớc Cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng một bộ máy nhà nước gọn nhẹ, có hiệu lực trong quản lý xã hội, nhà nước có phân công, phân nhiệm rõ ràng: lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất là nội dung trọng tâm của xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để làm được điều này chúng ta phải đổi mới đồng bộ hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trước hết là phải kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất- Quốc hội, từ đó làm cơ sở CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY lOMoARcPSD|12184112 16 kiện toàn các cơ quan nhà nước khác. Nâng cao nĕng lực và bản lĩnh của Đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện chức nĕng lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước. 3.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có chất lượng tốt cả về nội dung lẫn hình thức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, một đòi hỏi cấp thiết, một tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Không sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật với chất lượng tốt sẽ không kịp thời tạo ra được môi trường pháp lý bình đẳng, thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế tồn tại và phát triển, không thể quản lý xã hội ổn định nếu thiếu pháp luật. Chính vì vậy, cần có những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, từ đó thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật mới đạt hiệu quả cao. Trước hết, pháp luật phải thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động - số đông người trong xã hội. Nội dung của ý chí và nguyện vọng thể hiện trong luật phải phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tồn tại một cách khách quan trong thời kỳ đó. Pháp luật phải thể chế đúng đắn đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của luật, bảo đảm sự điều chỉnh đồng bộ, có hệ thống; bảo đảm luật, pháp lệnh phải có nội dung điều chỉnh bao quát và có tính khả thi; bảo đảm tính minh bạch của luật, pháp lệnh. 3.3. Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội Đảng ta coi dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng đất nước. Vì vậy Đảng và nhà nước phải không ngừng hoàn thiện những thiết chế bảo đảm thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là biện pháp không thể thiếu được trong quá trình tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Gồm có: - Nhà nước tạo ra mọi điều kiện để bảo đảm các quyền tự do bầu cử, ứng cử của nhân dân. Đảm bảo nhân dân đều được thực hiện quyền bầu cử và đưa ra những ý kiến quan điểm cá nhân cho Quốc hội một cách minh bạch và khoa học. lOMoARcPSD|12184112 17 - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ cho người dân, thực sự hướng về cơ sở, đến với dân, nói cho dân nghe và nghe dân nói. Công tác tư tưởng phải gắn với vấn đề dân sinh, dân trí, dân quyền để thực hiện được dân chủ. - Tìm tòi, thử nghiệm, cải tiến dần hình thức thích hợp để bảo đảm quyền của nhân dân trong việc giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước. Để làm được điều đó, cơ quan nhà nước phải thông tin kịp thời cho dân biết những hoạt động chủ yếu của cấp mình; những thông tin về tình hình phát triển kinh tế xã hội, kết quả thi hành pháp luật, nội dung và tình hình thực hiện nghị quyết của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, về kết quả khiếu nại, tố cáo của nhân dân. - Cải tiến chế độ tiếp xúc, báo cáo của đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân với cử tri, tạo điều kiện cho nhân dân không chỉ phản ánh nguyện vọng của mình mà còn tham gia nhận xét, đánh giá hoạt động của đại biểu dân cử, của cơ quan nhà nước, Quốc hội và Hội đồng nhân dân. - Cơ quan nhà nước các cấp mở rộng các hình thức tham khảo ý kiến của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc xây dựng và triển khai thực hiện chính sách pháp luật. Cần chưng cầu ý dân về các vĕn bản pháp luật theo hướng thiết thực. Các cơ quan nhà nước cần tổ chức hội nghị nhân dân hoặc đại biểu nhân dân các cấp cơ sở để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân trên địa bàn dân cư, tổng hợp dư luận xã hội về những vấn đề cần thiết để nâng cao công tác lãnh đạo và quản lý nhà nước, để nhân dân tham gia rộng rãi vào các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. - Bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, cụ thể là quyền dân chủ về sở hữu, về lao động, về quản lý và hưởng thụ. Nhà nước cần mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, thực hiện đúng đắn chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần ban hành các chính sách chế độ và thi hành những biện pháp cần thiết bảo đảm cho nhân dân lao động thực sự là người chủ nắm tư liệu sản suất, làm chủ các quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông, phát huy được tính sáng tạo, nĕng động, tự chủ trong sản xuất. lOMoARcPSD|12184112 18 - Trên các lĩnh vực khoa học-kỹ thuật, vĕn hoá giáo dục cần phải tạo mọi điều kiện về môi trường và sự ưu tiên để phát huy trí tuệ, tài nĕng của các nhà khoa học. Có những chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút chất xám của đội ngũ trí thức. Cần có những quy định cụ thể để khuyến khích tự do nghiên cứu, phát minh, sáng tác, phê bình nhằm nâng cao trách nhiệm của nhân dân. Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là một bộ phận của xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mỗi bước phát triển của dân chủ hoá xã hội là một điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Làm tốt việc này chính là góp phần tạo ra một động lực tổng hợp cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 3.4. Tĕng cƣờng công tác đấu tranh phòng và chống tham nhũng Tình hình tham nhũng hiện nay diễn ra rất phức tạp, ở nhiều lĩnh vực và có xu hướng tĕng về quy mô, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Bởi vậy, cần phải có những quy chế cụ thể, nề nếp, nhanh chóng khắc phục mọi biểu hiện quan liêu, tham nhũng, xử lý nghiêm những hành vi nhũng nhiễu cần tiến hành đấu tranh kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống tham nhũng như sau: - Đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức bảo đảm thu nhập, đãi ngộ thoả đáng, kích thích được tính tích cực phấn đấu của cán bộ, công chức, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước, cán bộ công chức tận tâm với công việc, không tham nhũng. - Công khai, minh bạch tài sản, thu nhập và hoạt động của cơ quan, tổ chức. Phải thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản, thu nhập và xác minh bản kê khai theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng. - Xử lý nghiêm minh người có hành vi tham nhũng cũng như những người đứng đầu cơ quan, tổ chức để xảy ra hành vi tham nhũng sẽ nâng cao trách nhiệm của họ trong việc điều hành, quản lý cơ quan, tổ chức, đơn vị mình. lOMoARcPSD|12184112 19 - Tổ chức thực hiện tốt các cơ chế, chính sách đã có về quản lý kinh tế, xã hội, cải cách hành chính; tiếp tục nghiên cứu, bổ sung một số chủ trương mới nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý, phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. 3.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nƣớc đáp ứng yêu cầu của nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là một yêu cầu tất yếu trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, những giải pháp về vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ gồm : - Xây dựng và thực hiện tốt chiến lược và quy hoạch cán bộ. Trong đó chú ý xây dựng cơ cấu cán bộ cấp chiến lược; cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, công nghệ có trình độ cao; cán bộ cơ sở, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán bộ trẻ, cán bộ là con em các gia đình có công với nước, cán bộ xuất thân từ công nhân trong các cấp uỷ, tạo nguồn cán bộ. Đào tạo chuyên sâu cho các cán bộ làm việc ở vùng sâu vùng xa. - Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức bảo đảm nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, thành thạo kỹ nĕng quản lý điều hành. - Đổi mới cơ chế đánh giá, tuyển dụng cán bộ, công chức bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, khoa học để đánh giá đúng đắn, bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ hợp lý, tuyển dụng đúng người đáp ứng được yêu cầu công việc. - Tĕng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức. Thủ trưởng cơ quan và bộ phận làm công tác tổ chức cán bộ, phải nắm vững đội ngũ cán bộ, công chức của mình, thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát công việc của họ để đánh giá đúng đắn, bố trí hợp lý, có chế độ chính sách thích hợp và ngĕn chặn những biểu hiện tiêu cực ở họ. - Có những đãi ngộ hấp dẫn và thích đáng cho người có tài, có công với đất nước. Tạo mọi điều kiện để những người có tài nĕng có cơ hội mà môi trường để phát triển, tránh hiện tượng “chảy máu chất xám” [8, tr. 109]. lOMoARcPSD|12184112 20 Mục tiêu của xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là xây dựng một nhà nước thực sự của dân, nhà nước của khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là công việc khó khĕn cả về lý luận và thực tiễn. Việc tổ chức xây dựng nhà nước pháp quyền trên cơ sở đổi mới và hoàn thiện nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải cùng cố gắng, vạch định những bước đi thích hợp, thực hiện đồng bộ các giải pháp. Do đó, việc nghiên cứu để chỉ ra những thành tựu và hạn chế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hết sức cần thiết. Điều đó góp phần cung cấp cĕn cứ khoa học, giúp Đảng và Nhà nước xây dựng những chính sách, biện pháp thực hiện dân chủ xã hội ngày càng tốt hơn. Về phía bản thân, mỗi một người dân cần nâng cao sự hiểu biết về chính sách, pháp luật và có ý thức phát huy quyền làm chủ của mình, tích cực tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, vi phạm dân chủ ở cơ sở góp phần thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, vĕn minh” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra. Chấp hành tốt những quy định của Đảng và nhà nước, đặc biệt là trong công cuộc phòng chống dịch bệnh Covid. Đồng thời, luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc về tình hình dân chủ ở nước ta hiện nay. KẾT LUẬN lOMoARcPSD|12184112 21 1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 2011. 2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2006. 3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2011 4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016. 5) GS, TS. Trần Ngọc Đường, Về việc nâng cao chất lượng của các dự án luật, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2003 6) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (nĕm 2013) 7) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2011 8) Luật, Khoa, Trần Quỳnh Nga. Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. 2007 9) Nguyễn Duy Quý, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2010 10) Nguyen Hoa, “Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”. Tạp chí khoa học đại học Huế: Khoa học xã hội và nhân vĕn (16/7/2020) truy cập ngày 15/12/2021 TÀI LIỆU THAM KHẢO lOMoARcPSD|12184112
File đính kèm:
- tieu_luan_nha_nuoc_phap_quyen_xa_hoi_chu_nghia_o_viet_nam_hi.pdf