Tiểu luận Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay

pdf 30 trang yenvu 17/02/2024 3280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay

Tiểu luận Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
XHH NGUYỄN BẢO ANH 2155380003
Chủ nghĩa xã hội khoa học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền)
lOMoARcPSD|12184112
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÃ HỘI HỌC
- - - - - - - - - - - - - - - - - 
 TIỂU LUẬN
 HỌC PHẦN: XÃ HỘI HỌC
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Bảo Anh
Mã sinh viên: 2155380003
Lớp chuyên ngành: Truyền thông chính sách K41
Lớp tín chỉ: K41.2
Hà Nội, tháng 05 năm 2022
lOMoARcPSD|12184112
1MỤC LỤC
NỘI DUNG...........................................................................................................1
Câu 1.....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết...................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.......................................................................................6
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................................6
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận..............................................................................6
3.2. Nghiên cứu thực tiễn....................................................................................6
4. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................6
5. Khách thể nghiên cứu.....................................................................................7
6. Phạm vi nghiên cứu.........................................................................................7
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu..........................................7
7.1. Nghiên cứu định tính....................................................................................7
7.2. Nghiên cứu định lượng.................................................................................8
7.3. Phương pháp lấy mẫu của nghiên cứu định lượng....................................8
Câu 2.....................................................................................................................9
1. Khái niệm gia đình..........................................................................................9
2. Đối tượng nghiên cứu của Xã hội học gia đình...........................................11
2.1. Gia đình là một thiết chế xã hội................................................................12
2.2. Gia đình là một nhóm tâm lý tình cảm xã hội đặc thù............................13
3. Mối quan hệ trong gia đình Việt Nam truyền thống và hiện đại...............12
3.1. Khái niệm về gia đình ở Việt Nam............................................................12
3.2. Gia đình Việt Nam truyền thống và hiện đại...........................................14
3.2.1. Bối cảnh của sự thay đổi từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện 
đại........................................................................................................................14
3.2.2. Sự biến đổi trong mối quan hệ gia đình truyền thống và hiện đại......14
lOMoARcPSD|12184112
23.2.2.1. Trong mối quan hệ................................................................................14
3.2.2.2. Trong đạo đức.......................................................................................17
3.2.2.3. Trong quan niệm của con người về giá trị gia đình...........................21
3.2.2.4. Trong quy mô gia đình.........................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................28
NỘI DUNG
lOMoARcPSD|12184112
3Câu 1: Anh/ Chị hãy xây dựng một đề cương nghiên cứu xã hội học.
ĐỀ TÀI: NHU CẦU SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN HỌC
VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN HIỆN NAY
1. Tính cấp thiết
 Ngày này trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự phát triển vượt bậc của khoa học 
thông tin, ngày càng nhiều những dịch vụ liên quan đến công nghệ số ra đời để 
đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao và cấp thiết của con người. Và một trong 
những dịch vụ truyền thông đại chúng hàng đầu hiện nay là Internet đặc biệt là 
mạng xã hội. Nhất là trong hoàn cảnh dịch bệnh, khi mà mạng xã hội trở thành 
công cụ vô cùng tiện lợi và nhanh gọn để kết nối mọi người với nhau, không 
những thế, Internet đã và đang thâm nhập vào hầu như mọi lĩnh vực từ kinh tế, 
chính trị, văn hóa, xã hội và mọi hoạt động của con người thuộc mọi tầng lớp xã 
hội. Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống Internet và mạng xã hội đã góp phần 
đưa Việt Nam tiến nhanh vào con đường hội nhập và giúp cho mọi người dân 
Việt Nam bình đẳng trên mạng như những “Công dân quốc tế”. Sự bùng nổ của 
các mạng xã hội đang là vấn đề thời sự đặc biệt của mỗi quốc gia, nó trở thành 
một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Tuy nhiên bên cạnh tính tiện ích, tiện 
lợi thì việc không thể kiểm soát thông tin hoặc đua theo những phong trào vô 
cảm đang biến mạng xã hội trở thành những cái bẫy nguy hiểm cho người sử 
dụng. Mạng xã hội ngày nay con được gọi là mạng xã hội ảo (tên Tiếng Anh là: 
social network) là dịch vụ kết nối những thành viên có chung mục đích và sở 
thích trên mạng Internet lại với nhau mà không phân biệt không gian và thời 
gian. Ở Việt Nam, mạng xã hội phổ biến từ sau khi Yahoo ra mắt người dùng và 
nở rộ, sau đó là Facebook, Instagram,Giờ đây việc kết nối bạn bè trở nên dễ 
dàng hơn bao giờ hết và đó là nhu cầu cần thiết của những bạn tẻ. Mạng xã hội 
xuất hiện trong nhưng năm qua đã tạo nên chuyển biến vượt bậc trong đời sống 
lOMoARcPSD|12184112
4xã hội, Trước đây các trang mạng như Yahoo, Zing me đã gây nên những cơn sốt
trong xã hội, sau đó phát triển một thời gian và ngừng hoạt động. Thay vào đó 
những trang mạng nổi tiếng, hiện hành ngày nay như Facebook, Youtube, Zalo, 
Tiktok ngày càng thu hút.
 Tại Việt Nam, theo điều tra quốc gia về thanh niên do Bộ Y tế, Tổ chức Y tế
thế giới và Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc tiến hành vào năm 2005 cho thấy 50%
thanh thiếu niên ở thành thị và 13% thanh thiếu niên ở nông thôn đã sử dụng
Internet. Phần lớn thanh thiếu niên trong nghiên cứu này, 69% trong số đó cho 
biết họ sử dụng Internet để trò chuyện và 62% cho biết họ sử dụng Internet để 
chơi trò chơi trực tuyến. Một nghiên cứu khác vào năm 2004 đã xác định 
Internet là một không gian mới ở Việt Nam, nơi mà thanh thiếu niên có thể trao 
đổi khá thoải mái. Mới nhất, theo số liệu báo cáo Digital Việt Nam 2020 tính đến
tháng 1 năm 2020, có 68.17 triệu người sử dụng Internet chiếm 70% dân số, 
trong số đó có 65 triệu người dùng các trang mạng xã hội chiếm 67% dân số của 
cả nước. Trong đó, tổng số người sử dụng các dịch vụ có liên quan tới Internet 
tại Việt Nam đã chính thức tăng khoảng 6,2 triệu (tăng hơn 10,0% kể từ tháng 01
năm 2019 tính đến năm tháng 01 năm 2020. Cũng theo số liệu từ báo cáo này, 
trung bình hằng ngày một người ở nước ta dành 6 giờ 30 phút (tức hơn ¼ ngày) 
để sử dụng/truy cập Internet.
 Trong đó, khoảng 2 giờ 22 phút cho việc sử dụng các trang mạng xã hội, 2 giờ 
09 phút cho việc xem truyền hình, 1 giờ 01 phút cho việc nghe nhạc và các dịch 
vụ trực tiếp và 1 giờ cho việc chơi điện tử . Điểm đáng chú ý là 70,1% người 
dùng các trang mạng xã hội ở nước ta có độ tuổi từ 13 đến 34.
 Những con số trên cho thấy nhu cầu sử dụng Internet cũng như mạng xã hội 
của người dân Việt Nam là rất cao và có xu hướng ngày càng tăng nhanh. Bên 
cạnh các phương tiện truyền thông như sách báo, tivi, đài radio, thì Internet cũng
lOMoARcPSD|12184112
5được ưa chuộng. Hơn tất cả mạng xã hội đang chứng tỏ sức mạnh và tốc độ phát 
triển của chúng. Thật vậy con người ngày nay đang sống và làm việc trong một 
môi trường truyền thông đa phương tiện. Cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm việc, 
cùng yêu, cùng ghét,với truyền thông. Trong thời đại được gọi là “Thế giới 
phẳng”, không ai có thể phủ nhận lợi ích từ mạng xã hội, đặc biệt là giới trẻ. Ở 
đây là lứa tuổi sinh viên, là những người có biểu hiện tâm lý và đội tuổi phù hợp 
nhất với việc dễ dàng tiếp cận khoa học công nghệ, là những người tiếp nhận 
một cách tích cực nhất khoa học kỹ thuật, đồng thời cũng chịu tác động của 
chúng trên cả hai phương diện tích cực, tiêu cực. Nhưng hiện nay nổi lên tình 
trạng giới trẻ phụ thuộc quá nhiều vào mạng xã hội, thay vì đến với nhau để nói 
chuyện gặp mặt hỏi thăm ở ngoài thì họ lại dán mắt vào màn hình máy tính để 
nhắn tin trò chuyện, không biết cảm xúc của đối phương như nào. Dần dần họ sẽ 
mất dần kỹ năng sống, kỹ năng xử lý tình huống, không ít người trong số họ đã 
bị “nghiện” mạng xã hội, họ sử dụng mạng xã hội một thói quen. Đây có thể coi 
là một bệnh tâm lý của những người bị “nghiện” mạng xã hội, nếu không có sẽ 
trở nên khó chịu, đứng ngồi không yên.
 Đối với sinh viên, đặc biệt là sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền, thế 
hệ sinh viên của trường Đảng, việc cử dụng mạng xã hội như nào cũng là một 
yếu tố qua trọng giúp sinh viên phân định ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của 
mạng xã hội. Từ đó có thể hiểu biết, vận dụng những mặt tích cực mà nó đem lại
đồng thời cũng hạn chế, loại bỏ những mặt tiêu cực mà nó gây ra. Chính vì vậy 
việc đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu về chủ đề nhu cầu sử dụng mạng xã hội của 
các bạn sinh viên là một vấn đề vô cùng cần thiết. Nhận thức được vấn đề trên, 
em đã chọn và xây dựng chủ đề “Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên 
Học viện Báo chí và Tuyên truyền”.
2. Mục đích nghiên cứu
lOMoARcPSD|12184112
6- Tìm hiểu thực trạng về nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên Học viện 
Báo chí và Tuyên truyền.
- Đưa ra những đánh giá về thực trạng và những tác động ảnh hưởng của 
Internet đối với đời sống sinh viên hiện nay.
- Từ đó đề xuất, đưa ra một số giải pháp định hướng nâng cao cho sinh viên sử 
dụng mạng xã hội một cách hiệu quả nhất.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận
 Đọc và phân tích một số công trình nghiên cứu có liên quan để xây dựng cơ 
sở lý luận cho đề tài, làm rõ khái niệm công cụ của đề tài nghiên cứu: Nhu cầu 
sử dụng mạng xã hội của sinh viên.
3.2. Nghiên cứu thực tiễn
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng mạng xã hội, mức độ sử dụng mạng xã hội của
sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ nhu cầu sử dụng mạng xã hội 
của sinh viên Học viện.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm giúp cho sinh viên nói chung và sinh viên 
Học viện Báo chí và Tuyên truyền nói riêng có định hướng tốt hơn trong việc
sử dụng mạng xã hội.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
5. Khách thể nghiên cứu
Toàn bộ sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
lOMoARcPSD|12184112
76. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung các nội dung sau:
 Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên.
 Mức độ sử dụng MXH của sinh viên.
 Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên.
 Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên.
 Cách thức bảo mật thông tin cá nhân trên MXH của sinh viên.
 Lợi ích và tác động tiêu cực khi sử dụng MXH của sinh viên.
- Phạm vi về thời gian: Khảo sát về việc sử dụng MXH của sinh viên năm học 
2021-2022.
- Phạm vi khách thể: Toàn bộ sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
 7.1. Nghiên cứu định tính
 Phương pháp phân tích tài liệu
- Thu thập và xử lý các tài liệu, số liệu có sẵn ở các nghiên cứu trước về 
truyền thông, mạng xã hội hay Internet
- Các đề tài khoa học, giáo trình, kỷ yếu, tài liệu hội thảo khoa học, bài 
báo, tạp chí,liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Các loại sách trong và ngoài nước
- Các cuộc điều tra, nghiên cứu về đề tài trước đó trong nước và trên thế 
giới.
- Thu thập các tài liệu liên quan trên Internet.
 Phương pháp quan sát
lOMoARcPSD|12184112
8 Để thu thập thông tin phục vụ đánh giá thực trạng sử dụng MXH của sinh 
viên, nhóm ngành nghiên cứu quan sát hành vi sử dụng MXH của sinh 
viên trong mỗi giờ lên lớp và quan sát các hoạt động sử dụng MXH trên 
các trang cá nhân của sinh viên. Từ đó làm cơ sở để đánh giá thực trạng sử
dụng MXH của sinh viên.
 Phương pháp phỏng vấn sâu
 Phỏng vấn khoảng 15 – 20 sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 
trọng tâm câu hỏi liên quan đến những vấn đề cá nhân về mục đích sử 
dụng mạng xã hội, thói quen sử dụng mạng xã hội và sự hiểu biết của bản 
thân về mạng xã hội. Bản thân sinh viên có những trải nghiệm như thế nào
và những đánh giá của sinh viên về tác động mà mạng xã hội đem lại cho 
bản thân nói riêng và toàn bộ giới trẻ nói chung.
7.2. Nghiên cứu định lượng
Phương pháp nghiên cứu này được thực hiện bằng khoảng 100 bảng hỏi, 
được trả lời bởi 100 sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Chọn 
mẫu từ khắp các sinh viên, sinh viên từ năm nhất đến năm cuối, từ các 
khoa và chuyên ngành cũng như đến từ nhiều tỉnh thành trên khắp mọi 
miền tổ quốc.
7.3. Phương pháp chọn mẫu của nghiên cứu định lượng
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân chùm, có thể thực hiện theo các 
bước sau:
Bước 1: :Lấy danh sách tất cả các lớp trong trường, mỗi lớp được coi như 
một cụm/chùm (bao gồm các sinh viên từ năm nhất đến năm cuối thuộc cả
hai khối lý luận và nghiệp vụ).
lOMoARcPSD|12184112
9Bước 2: Chọn ngẫu nhiên đơn giản 10 lớp (tương ứng với 10 chùm).
Bước 3: Tiếp tục chọn ngẫu nhiên mỗi lớp 10 sinh viên trong mỗi lớp đã 
chọn ở bước 2 để phát bảng hỏi điều tra.
 Phương pháp điều tra bảng hỏi
 Đây là phương pháp chính của đề tài nhằm thu thập những thông tin về 
nhu cầu sử dụng mạng xã hội, mức độ sử dụng mạng xã hội (thời gian sử dụng 
và thiết bị vào mạng,), mục đích, hành vi sử dụng MXH của sinh viên, cách 
thức bảo mật thông tin, những lợi ích và những tác động tiêu cực khi sử dụng 
MXH của sinh viên. Phiếu được sử dụng theo các hình thức phát phiếu trực tiếp
và khảo sát bằng phiếu online trên các trang mạng xã hội Facebook, Instagram, 
Zalo, cũng như Google FormTrước khi gửi phiếu và sau khi nhận phiếu trả 
lời của nghiệm thể, nhóm nghiên cứu đều tiến hành bước làm sạch phiếu để 
đảm bảo tính khách quan trong nghiên cứu.
Câu 2: Trình bày khái niệm gia đình và đối tượng nghiên cứu của Xã hội 
học gia đình. Phân tích mối quan hệ trong gia đình Việt Nam truyền thống 
và hiện đại. Liên hệ thực tế.
1. Khái niệm về gia đình
 Theo Unesco: Gia đình là nơi sinh ra và trú ngụ của mỗi con người, là 
một thiết chế có luật lệ và tôn ti trật tự, có thể không làm vừa lòng một 
số người nhưng mang đến cảm giác an toàn cho tất cả.
 Theo Kingsley Davis (Nhà dân số học người Mỹ) thì gia đình là một 
nhóm người mà quan hệ giữa họ với nhau dựa trên cơ sở dòng dõi, máu 
thịt. Do vậy họ có quan hệ họ hàng với nhau.
lOMoARcPSD|12184112
10
 Theo Levi Dtrauss (Nhà nhân chủng học người Pháp) thì gia đình là một 
nhóm xã hội được quy định bởi ba đặc điểm thông thường nhiều nhất:
- Hôn nhân
- Quan hệ huyết thuống
- Những ràng buộc về mặt pháp lý, nghĩa vụ và quyền lợi có tính chất 
kinh tế, sự cấm đoán tình dục gắn với các thành viên và những ràng 
buộc về tình cảm, tâm lý, tình yêu, tình thương, sự kính trọng và sợ hãi.
Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các 
mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ 
nuôi dưỡng và hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và 
đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có những 
ảnh hưởng và những tác động mạnh mẽ đến xã hội.
Ngay từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách 
kiếm sống, gia đình luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ 
bản cho các thành viên trong gia đình. Song để đưa ra được một cách xác
định phù hợp với khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu xã hội học 
đã đưa ra sự so sánh giữa gia đình loài người với cuộc sống lứa đôi của 
động vật, gia đình loài người luôn luôn bị ràng buộc theo các điều kiện 
văn hóa xã hội của đời sống gia đình ở con người. Gia đình ở loài người 
luôn bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự kiểm tra và 
sự tác động của xã hội; vì thế theo các nhà xã hội học, thuật ngữ gia đình 
chỉ nên dùng để nói về gia đình loài người.
Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh 
học, tâm lý, văn hóa, kinh tế,... khiến cho nó không giống với bất kỳ một 
nhóm xã hội nào. Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học 
khi xem xét về gia đình đều có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, 
lOMoARcPSD|12184112
11
phù hợp với nội dung nghiên cứu phù hợp và chỉ có như vậy mới có cách
tiếp cận phù hợp đến với gia đình.
Và đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì 
vậy, có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như 
một thiết chế xã hội mà có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã 
hội hóa con người. Gia đình là một thiết chế đặc thù xã hội, một nhóm xã
hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn 
nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về
sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu 
riêng của mỗi thành viên như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái 
sản xuất con người.
2. Đối tượng nghiên cứu của Xã hội học gia đình
Do gia đình có vị trí quan trọng đối với cá nhân và xã hội nên gia đình đã
và đang là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học khác nhau. 
Gia đình là hòn đá tảng của xã hội, là tế bào của xã hội.
Khi nghiên cứu về gia đình, xã hội học nghiên cứu giới hạn trong một 
phạm vi nhất định.
Ở phạm vi hẹp, xã hội học đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa các thành 
viên trong gia đình; mối quan hệ giữa gia đình và thân tộc; nghiên cứu 
hành vi, sự kiện, hiện tượng và các quá trình diễn ra trong gia đình.
Ở phạm vi rộng, xã hội học nghiên cứu mối quan hệ gia đình và các 
nhóm xã hội, các tổ chức thiết chế xã hội, các cộng đồng xã hội và xã hội
tổng thể.
Tùy theo từng chủ đề và khía cạnh quan tâm trong một đề tài nghiên cứu,
mà con người ta chọn vấn đề nghiên cứu khác nhau. Thông thường, để 
lOMoARcPSD|12184112
12
làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, Xã hội học quan tâm nghiên cứu gia đình
như một hiện tượng xã hội hoàn chỉnh trên bình diện.
2.1. Gia đình là một thiết chế xã hội
Thiết chế gia đình là một trong năm thiết chế quan trọng nhất (bốn thiết 
chế quan trọng khác là: chính trị, kinh tế, pháp luật, giáo dục).
Xã hội học gia đình nghiên cứu mối quan hệ tác động qua lại giữa gia 
đình và xã hội thông qua các chức năng của gia đình. Đây là hướng 
nghiên cứu truyền thống
Khi xem xét gia đình như một thiết chế xã hội là nghiên cứu xem: Gia 
đình tồn tại nhằm mục đích gì? Thực hiện chức năng gì? Có thể thấy, gia 
đình biểu hiện với các mục đích:
- Thiết chế gia đình ra đời, tồn tại và phát triển trước hết xuất phát từ sự 
điều tiết quan hệ nam – nữ.
- Thiết chế gia đình thừa nhận và bảo vệ sự chung sống của cặp nam nữ 
dưới hình thức hôn nhân
- Thiết chế gia đình quy định về trách nhiệm giữa vợ chồng với nhau, cha
mẹ với con cái, gia đình với xã hội.
- Thiết chế gia đình thực hiện các chức năng: kiểm soát tình dục, tái sản 
xuất con người, xã hội hóa – chuyển giao văn hóa, chăm sóc người già
Bên cạnh đó, gia đình có các đặc điểm bền vững tương đối và biến đổi 
chậm. Các thiết chế có xu hướng phụ thuộc vào nhau. Gia đình là tấm 
gương phản chiếu đời sống kinh tế, văn hóa, lối sống, phong tục, tập 
quán, chuẩn mực đạo đứccủa một quốc gia, một dân tộc.
Khi nghiên cứu gia đình, với tư cách là một thiết chế xã hội, cần chú ý 
các điểm sau:
lOMoARcPSD|12184112
13
Trước hết là, mối quan hệ giữa gia đình và xã hội thông qua việc thực 
hiện các chức năng gia đình.
Hai là, mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau giữa gia đình với các 
thiết chế xã hội khác; mối quan hệ giữa gia đình với các tập hợp xã hội 
khác như làng xóm, bạn bè, đồng nghiệp
2.2. Gia đình là một nhóm tâm lý tình cảm xã hội đặc thù
Ở góc độ này, xã hội học gia đình quan tâm nghiên cứu mối quan hệ bên 
trong gia đình như quan hệ giới, quan hệ giữa các thành viên, giữa các 
thế hệ
Ngoài những yếu tố sinh học đời thường, gia đình còn mang những yếu 
tố tâm linh, nó giải quyết, đáp ứng cả nhu cầu cá nhân (tình yêu, làm cha 
mẹ, tâm sinh lý, tâm linh,) và nhu cầu xã hội (tái sản xuất con người, 
cụng cấp lực lượng lao động mới, xã hội hóa thế hệ trẻ)
Tóm lại, nghiên cứu gia đình như một thiết chế xã hội là nhấn mạnh đến 
mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa gia đình và xã hội thông qua việc 
thực hiện các chức năng gia đình.
Nghiên cứu gia đình như là nhóm tâm lý tình cảm xã hội đặc thù là chú ý
đến tính độc lập tương đối của nó, là sự tác động qua lại trong nội bộ các 
thành viên của gia đình để thỏa mãn nhu cầu riêng tư của họ.
3. Mối quan hệ trong gia đình Việt Nam truyền thống và hiện đại
3.1. Khái niệm về gia đình ở Việt Nam
- Quan hệ hôn nhân là quan hệ nền tảng của gia đình.
- Quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa đôi nam nữ được xã hội phê chuẩn 
với nhiều hình thức: Chính quyền về mặt pháp lý và nghi lễ về mặt công 
nhận của cộng đồng.
lOMoARcPSD|12184112
14
- Có thể định nghĩa về gia đình Việt Nam: Gia đình là một nhóm người 
có quan hệ hôn nhân hoặc huyết thống với nhau, thường chung sống hoặc
hợp tác kinh tế với nhau để thỏa mãn nhu cầu trong cuộc sống của họ về 
sinh đẻ, nuôi dạy, con cái, chăm sóc người già và người ốmdưới dạng 
phổ biến nhất hiện nay là gia đình người Kinh ở Việt Nam bao gồm cả 
hai giới nam và nữ, có con đẻ hoặc con nuôi.
3.2. Gia đình Việt Nam truyền thống và hiện đại
3.2.1. Bối cảnh của sự thay đổi từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện 
đại
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, văn hóa gia đình Việt 
Nam đang chịu những tác động nhiều chiều và biến đổi mạnh mẽ. Việc 
phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình truyền thống trong thời 
đại ngày nay, khắc phục những hệ quả tiêu cực do xu thế toàn cầu hóa, 
hội nhập quốc tế mang lại là yêu cầu bức thiết của toàn xã hội: “Ba trụ 
cột của ý thức cộng đồng người Việt, đó là gia đình (nhà), làng và nước. 
Ngày nay, xây dựng một xã hội công bằng, văn minh đòi hỏi chúng ta 
phải trở lại với những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp từ gia đình” 
(Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng).
3.2.2. Sự biến đổi trong mối quan hệ gia đình truyền thống và hiện đại
3.2.2.1. Trong mối quan hệ
Cùng với sự thay đổi mô hình gia đình truyền thống, tính cố kết gia đình 
đã giảm sút. Mối quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ hơn. 
Sự đứt đoạn trong quan hệ “cha truyền con nối” về nghề nghiệp là một 
minh chứng cho sự giảm sút tính cố kết gia đình. Với sự hỗ trợ đắc lực 
của nhiều loại phương tiện thông tin truyền thông, lớp trẻ ngày nay được 
lOMoARcPSD|12184112
15
tiếp xúc với nhiều nguồn tài liệu phong phú, đa chiều nên thu nhận 
được nhiều kiến thức mới, hình thành và phát triển nhiều năng lực trong 
tư duy cũng như chuyên môn, nghiệp vụ. Đây là một trong những cơ sở 
để nhiều bạn trẻ không tiếp bước cha anh trong con đường nghề nghiệp. 
Con cái phần lớn làm nghề khác cha mẹ và tự do lựa chọn, định hướng 
nghề nghiệp tương lai cho chính mình.
Về phương diện tổ chức cuộc sống cũng cho thấy sự lỏng lẻo trong các 
mối quan hệ cá nhân – gia đình. Gia đình truyền thống rất coi trọng và 
khắt khe trong việc gìn giữ nề nếp gia phong, mọi người đều phải tuân 
theo những quy tắc chung. Nhưng ngày nay đã có xu hướng nới lỏng, 
giản tiện lại các nghi lễ phép tắc, không coi trọng hóa những luật lệ quy 
định chungNgoài ra thì những nếp sống sinh hoạt thường ngày cũng 
thể hiện sự giảm sút như sự gắn kết của gia đình: người lớn bận đi là từ 
sáng đến tối, trẻ con thì bận học và có những gia đình cả ngày chả nhìn 
thấy đủ mặt nhau và có một bữa cơm chung đầy đủ tất cả các thành viên 
trong gia đình, bố mẹ con cái có rất ít thời gian bên nhau. Nhiều gia đình,
dù đông người nhưng vẫn có nững lý do khác nhau để vắng mặt, những 
dịp lễ tết cũng không tụ tập, tập hợp được đông đủ. Con cháu chỉ gọi 
điện, gửi thư điện tư thăm hỏi, chúc mừng,thay cho sự gặp mặt trực 
tiếp thăm non.
Địa vị các thành viên trong gia đình trở nên bình đẳng, dân chủ cũng là 
một sự thay đổi lớn trong mối quan hệ gia đình Việt Nam hiện nay. Sự 
bình đẳng, dân chủ biểu hiện rõ nhất trong mối quan hệ vợ chồng. Trước 
đây, ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, người phụ nữ luôn phải khuôn 
mình theo đạo “tam tòng” (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử 
tòng tử). Trong gia đình, địa vị vợ chồng được phân định rõ ràng : 
“chồng chúa vợ tôi” hay “phu vi thê cương”, “phu xướng phụ tùy”, và 
lOMoARcPSD|12184112
16
người phụ nữ mặc nhiên chấp nhận, chỉ biết suốt đời bó mình trong ngôi 
nhà với những công việc bếp núc, nữ công gia chánh, không được học 
hành, giao lưu, không được tham gia các công tác xã hội Với quan 
niệm này, nói như học giả Trần Ngọc Thêm, đã “loại bỏ hạt nhân dân 
chủ”(1). Trong thời kỳ hội nhập, với sự giao lưu, tiếp xúc với văn hóa 
của phương Tây, đặc biệt tinh thần dân chủ, bình đẳng, trong gia đình 
người Việt đã có một luồng gió mới mát lành. Người phụ nữ đã được 
đánh giá công bằng hơn, được đối xử nhân văn hơn, mối quan hệ giữa 
người vợ và người chồng cũng đã thay đổi tích cực. Ngày nay, vợ chồng 
bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Người phụ nữ được thể hiện năng 
lực, theo đuổi mơ ước của mình, được tạo điều kiện học hành, phấn đấu, 
được tham gia công việc xã hội và giữ trọng trách trong bộ máy Nhà 
nước, trong các tổ chức, đoàn thể. Vợ và chồng thực sự là những người 
bạn đời, có thể cùng nhau cảm thông, chia sẻ, cùng chung tay xây đắp 
mái ấm gia đình.
Gia đình truyền thống đặt lợi ích gia đình lên trên lợi ích cá nhân, đề cao 
lòng hiếu thảo, đòi hỏi sự phục tùng tuyệt đối của con cái đối với bố mẹ. 
Con cái một lòng nghe theo ý cha mẹ mới làm tròn đạo hiếu, ngay cả lĩnh
vực đáng được quyền tự do nhất là tình yêu, hôn nhân cũng phải “cha mẹ
đặt đâu, con ngồi đấy” Ngày nay, trong những gia đình tiến bộ, cha mẹ
và con cái là những “người bạn vong niên”. Cha mẹ có thể lắng nghe, 
chia sẻ với con cái mọi niềm vui nỗi buồn, đặc biệt các bậc phụ huynh 
luôn tôn trọng ý kiến, lập trường, ước mơ, hoài bão chính đáng của con 
cái
3.2.2.2. Trong đạo đức
lOMoARcPSD|12184112
17
Mối quan hệ gia đình hiện nay vẫn kế thừa được nhiều truyền thống quý 
báu của cha ông, giữ đạo nghĩa tốt đẹp. Tuy nhiên bên cạnh đó đã nổi lên
một số hiện tượng xuống cấp về đạo đức, lối sống gây rạn nứt các mối 
quan hệ trong gia đình.
 Cuộc sống thời kinh tế thị trường khiến cho nhiều giá trị tốt đẹp bị băng 
hoại. Tình yêu vốn là thứ tình cảm tốt đẹp, lãng mạng nhất của nhân loại 
nhưng không nhiều cặp đến với tình yêu hôn nhân bằng những mục đích 
xấu, không đúng đắn, đầy những sự toan tính, lừa lọc. Tình yêu giả dối, 
tình dục dễ dãi, hôn nhân thực dụng, đang là chuyện phổ biến, diễn ra 
rất nhiều trong xã hội. Bên cạnh đó những tình trạng ngoại tình, ly hôn, 
ly thân nhiều vô kể, khiến nhiều người đùa rằng đó là “mốt thời thượng”.
Điều này không chỉ làm rạn nứt mối quan hệ vợ chồng mà còn chia cắt 
mối quan hệ cha mẹ và con cái. Bởi vì khi cuộc hôn nhân thì gia đình 
cũng sẽ ly tán, mỗi người một nơi, cha mẹ mỗi người chọn một con 
đường riêng, con cái cũng sẽ bị chia ra không được nhận đủ tình thương 
từ một mái ấm gia đình có đủ bố và mẹ cũng như không nhận được sự 
giáo dục trọn vẹn. Còn chưa kể đến khi bố mẹ tái hôn, hiện tượng “con 
anh, con tôi” còn khiến cho tình cảm bị sẻ chia sứt mẻ.
Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, từ ngàn xưa vẫn là mối quan hệ 
thiêng liêng, bền vững nhất trong các mối quan hệ con người nói chung 
và gia đình nói riêng. Tuy nhiên trong thời kỳ hội nhập, quan hệ đó đã 
biến đổi theo những chiều hướng xấu. Khi chủ nghĩa cá nhân phát triển, 
con người đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích của tất cả mọi người. Không
ít gia đình bố mẹ mải mê chạy theo đồng tiền mà bỏ quên con cá của 
mình; đi thuê giúp việc và phó mặc con cái cho nhà trường và xã hội. 
Những đứa trẻ lớn lên thiếu thốn tình yêu và sự dạy bảo, chăm sóc của 
cha mẹ - người thầy đầu tiên của đời mình - đã mất đi những nền tảng cơ 
lOMoARcPSD|12184112
18
bản của việc hình thành nhân cách tốt đẹp, nhiều em sinh ra đua đòi, hư 
hỏng, thậm chí trở thành tội phạm.
Mặt khác, không ít những đứa con bất hiếu với cha mẹ. Hiện tượng con 
cái bỏ rơi cha mẹ lúc tuổi già, không chăm non vì mải chạy theo đồng 
tiền, chạy theo những lợi ích cá nhân bỏ quên cha mẹ. Hay vì mải ăn 
chơi, chỉ thích bay nhảy ở ngoài không muốn về nhà chăm sóc, “hầu hạ” 
những người già trong khi đó họ là những đấng sinh thành, người bố 
người mẹ của mình. Hiện tượng toan tính tiền bạc, chia ngày tính tháng 
nuôi cha mẹ không còn là chuyện lạ trong xã hội. Tệ hơn nữa có những 
trường hợp họ đã ra tay với chính bố mẹ của mình vì không cho tiền, 
không đáp ứng nhu cầu của chúng, để từ đó xảy ra những vụ việc hết sức
thương tâm gây ra một làn sóng nhức nhối đầy sự tức giận trong dư luận.
Anh em như thể chân tay, rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần” là truyền 
thống tốt đẹp tự ngàn xưa của người Việt. Nhưng ngày nay, do tác động 
tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã 
làm nảy sinh tư tưởng thực dụng, coi vật chất cao hơn nghĩa tình. Đã 
không ít gia đình lâm vào cảnh anh chị em mâu thuẫn dẫn đến cãi vã, 
đánh đập lẫn nhau vì quyền lợi kinh tế như tranh chấp đất đai, quyền 
thừa kế tài sản, nghĩa vụ chăm sóc phụng dưỡng cha mẹTất cả chỉ vì 
lợi ích của mình, họ không còn biết nhường nhau, chia ngọt sẻ bùi lẫn 
nhau. Khi anh em của mình vào hoàn cảnh khó khăn thì bỏ mặc, thờ ơ, 
nhờ không giúp, coi như không quen biết nhau. Còn khi họ đã giàu có 
thành đạt thì bắt đầu nịnh nọt, giúp đỡ tận tình để mình cũng được hưởng
những thành quả và dễ nhờ vả vào những chuyện cá nhân. Đến khi không
lợi dụng được nữa thì quay sang chửi bới, đánh đập, thậm chí là xuống 
tay với nhau, làm những hành động vô cùng man dợ.
lOMoARcPSD|12184112
19
Sự du nhập ồ ạt của các nền văn hóa phương Tây làm nảy sinh vấn đề là 
những tập tục, tập quán đã cũ, lỗi thời nếu vẫn được lưu giữ sẽ khiến cho 
gia đình Việt Nam không phù hợp với xu hướng phát triển chung của xã 
hội và trở nên lạc hậu, chậm thích ứng. Trong khi đó, thời đại mới lại 
mang đến nhiều giá trị tiến bộ cần tiếp nhận như sự bình đẳng nam nữ, 
bình đẳng trong nghĩa vụ trách nhiệm, dân chủ trong các mối quan hệ gia
đình, tôn trọng tự do và lợi ích cá nhân... Điều cần thiết là phải biết tiếp 
thu một cách có chọn lọc các tinh hoa, giá trị tiên tiến của gia đình hiện 
đại đồng thời bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống quý báu và cải
biến, loại bỏ những giá trị cũ không còn phù hợp. Nếu thực hiện tốt được
điều đó thì gia đình Việt Nam sẽ có cơ hội để phát triển theo xu hướng 
bình đẳng, tiến bộ, ấm no và hạnh phúc. Như vậy ngay trong khuôn khổ 
những hệ giá trị của gia đình cũng đã có sự xung đột giữa những giá trị 
mới tiến bộ cần thu nhận và những giá trị cũ lỗi thời cần loại bỏ. Điều đó 
cũng góp phần thúc đẩy sự biến đổi về quy mô của gia đình Việt Nam. 
Còn nhân tố chủ yếu quyết định sự biến đổi vẫn là xung đột trong các 
quan hệ xã hội, thách thức đặt ra cho gia đình Việt Nam là mâu thuẫn 
giữa các thế hệ. Với việc trong một gia đình có ba bốn hay thậm chí là 
năm thế hệ cùng chung sống, ngoài những ưu điểm thì cũng tồn tại khá 
nhiều những điều bất tiện. Mâu thuẫn giữa các thế hệ diễn ra do có sự 
khác biệt về tuổi tác, tư tưởng, quan niệm, lối sống sẽ làm cho các cá 
nhân cảm thấy gò bó mất tự do khi cùng chung sống với nhau, cuộc sống 
của gia đình luôn đặt trong tình trạng căng thẳng. Người già thường 
hướng về các giá trị truyền thống, do vậy họ có xu hướng bảo thủ, áp đặt 
nhận thức và cách nghĩ của mình đối với những người trẻ. Điều đó dẫn 
đến sự khó hòa hợp về lối sống, đôi khi có thể dẫn đến những sự va 
chạm, bất đồng, khiến cho những người trẻ cảm thấy không thoải mái, 
lOMoARcPSD|12184112
20
không thể tự mình quyết định các vấn đề riêng mà phải thông qua ý kiến 
những người lớn tuổi. Trong khi đó lớp trẻ do tiếp cận nhiều hơn với các 
tiến bộ khoa học kỹ thuật, các trào lưu văn hóa mới từ nước ngoài nên 
hướng tới thay đổi về suy nghĩ và nhận thức, họ trở nên độc lập hơn, cái 
tôi cá nhân phát triển hơn, họ muốn được tự do nói lên những suy nghĩ 
của mình, tiếp thu những giá trị hiện đại. 
Lẽ tất nhiên là những cái mới không phải đều chứa đựng yếu tố tích cực, 
tốt đẹp, khó tránh được có những cái không phù hợp với truyền thống, 
bởi vậy cần tiếp thu có chọn lọc. Lớp trẻ khi nhận được sự góp ý của 
người già thì cảm thấy khó chịu, cho rằng những người già là cổ hủ, lạc 
hậu, thích dạy bảo. Sự chênh nhau về thế hệ này khiến cho xu hướng tách
ra ở riêng tăng cao, khi đó mỗi cá nhân sẽ thỏa mãn được nhu cầu tự do 
của riêng mình, có thể hành động theo ý muốn của bản thân. Một gia 
đình chỉ có hai thế hệ: cha mẹ - con cái tất nhiên sẽ tồn tại ít xung đột 
hơn so với một gia đình có ba, bốn thế hệ. Việc những xung đột thế hệ 
ngày càng trở nên phổ biến làm cho g
Mặc dù ở nước ta, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã có hiệu lực từ 
tháng 7-2008 nhưng hiện tượng bạo lực vẫn chưa thuyên giảm. Hiện 
tượng bạo hành gia đình hiện nay xảy ra khá phổ biến với mức độ, tính 
chất và hình thức phức tạp, đa dạng: không chỉ có bạo hành của chồng 
đối với vợ, mà còn của vợ đối với chồng, của cha mẹ đối với con cái, 
không chỉ bạo hành về thể xác mà cả tinh thần. Số liệu khảo sát điều tra 
xã hội học cho biết: Bạo lực gia đình ảnh hưởng đến sự phát triển nhân 
cách của trẻ chiếm 91,0%, gây tổn hại về sức khỏe, thể chất: 87,5%, gây 
tổn thương về tâm lý, tinh thần: 89,4%, gây tan vỡ gia đình: 89,7% và 
làm rối loạn trật tự, an toàn xã hội: 89% .Điều này khiến cho mối quan hệ
tình cảm giữa con người với gia đình trở nên rạn vỡ. Gia đình, với một số
lOMoARcPSD|12184112
21
người, không còn là mái ấm, là bến đỗ bình yên, mà là một nỗi kinh 
hoàng. Đặc biệt, với trẻ thơ, hậu quả là hết sức nguy hại vì nó làm cho 
các em mất niềm tin vào hạnh phúc gia đình, hoang mang trước cuộc 
sống, từ đó chán học, sa ngã vào các tệ nạn xã hội hoặc có hành vi phạm 
pháp.
3.2.2.3. Trong quan niệm của con người về giá trị gia đình
Chịu ảnh hưởng của môi trường tự nhiên và điều kiện lịch sử dựng nước 
và giữ nước, dân tộc Việt Nam ta có truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn 
nhau từ xa xưa. Sự gắn bó của cá nhân với gia đình (nhất là với làng, xã, 
quê hương) đã trở thành một trong những giá trị văn hóa cơ bản của dân 
tộc Việt Nam. Đối với người Việt Nam truyền thống, gia đình có vai trò 
vô cùng quan trọng. Gia đình không chỉ là nơi con người sinh sống, nuôi 
dưỡng về thể chất mà còn là cái nôi hun đúc trí tuệ, nhân cách của con 
người. Gia đình là giá trị cao quý mà con người mong muốn đạt được. 
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, một gia đình hạnh phúc và đáng tự 
hào là gia đình có nhiều thế hệ cùng tồn tại trên một con đường theo hình
thức “tam đại” “tứ đại” và “ngũ đại”. Trong đó, hạnh phúc gia đình dựa 
trên sự gắn kết hài hòa các mối quan hệ giữa các cá nhân, các thế hệ với 
những chuẩn mực, giá trị tình cảm, đạo đức tốt đẹp.
Nhận thức của con người về gia đình cũng có nhiều sự thay đổi. Tinh 
thàn tự do, chủ nghĩa cá nhân lên ngôi đã khiến cho con người hướng tới 
cuộc sống độc lập. Nhiều người không còn thiết tha với việc kết hôn, lập 
gia đình, họ không còn coi gia đình là giá trị duy nhất. Ngoài gia đình, họ
còn quan tâm đến nhiều những vấn đề khác, để cố gắng thực hiện vươn 
tới và đạt được nó. Hiện nay, ở nước ta, số người hướng đến cuộc sống 
hôn nhân ngày càng nhiều. Khi không tìm thấy niềm hạnh phúc từ tình 
lOMoARcPSD|12184112
22
yêu, từ cuộc sống hôn nhân gia đình họ đã chọn sẽ sống một mình hết 
phần đời còn lại, họ nghĩ rằng không phải cứ yêu là phải tiến tới hôn 
nhân, không cần cái đích đến của một cuộc tình là kết hôn, có những tình
yêu mãi mãi không có bến đỗ, có đám cưới, hôn thú. Họ còn thường nói 
những câu đùa rằng “Hôn nhân chính là nấm mồ của tình yêu”, mối quan
hệ vợ chồng là không cần thiết với phần lớn số ban trẻ. Các bạn nam 
nghĩ rằng tại sao mình phải lấy vợ? “lấy vợ như đeo gông vào cổ”, “như 
tự cho mình vào tròng”, “như tự khóa tuổi xuân”, sẽ không được thoải 
mái có những cuộc vui chơi cá nhân tự do ngoài kia, cũng như những 
nhu cầu sở thích cá nhân. Họ không muốn phải chịu trách nhiệm với mối 
quan hệ này, chỉ đơn giản là yêu chứ không có gì ràng buộc. Cũng như 
vậy, các bạn nữ cũng cho rằng khi cuộc sống độc thân đang thích gì làm 
nấy, tha hồ có thời gian chăm sóc bản thân, yêu bản thân, làm những gì 
mình thích, bây giờ lại phải ghép mình vào mối quan hệ vợ chồng, bước 
vào cuộc sống hôn nhân, trách nhiệm gia đình nhà chồng con cái cũng 
như tương lai,Hàng trăm những vấn đề được họ đặt ra, họ cho rằng rất 
phức tạp và quyết định gạt qua. Điều này đã đi ngược lại đạo đức truyền 
thống hàng ngàn năm nay cuat con người Việt Nam: Tình yêu phải gắn 
liền với hôn nhân, hôn nhân là kết quả tốt đẹp và tất yếu của tình yêu 
chân chính.
Một bộ phận những bạn trẻ vị thành niên vì muốn khẳng định cái tôi của 
mình, mặc dù được bố mẹ chu cấp cho một cuộc sống đầy đủ nhưng lại 
muốn thoát ly gia đìn, sống xa vòng tay bố mẹ, và tự sống độc lập bên 
ngoài. Họ mang một tâm lý thoải mái khi muốn được dọn ra ở riêng, 
sống một mình tự trải với cuộc sống ngoài kia. Ở đó họ sẽ được tự mình 
học cách lớn lên, tự mình chống lại những cám dỗ, vượt qua những khó 
khăn ngoài kia. Phần lớn các bạn trẻ hiện nay muốn ra ở riêng vì cảm 
lOMoARcPSD|12184112
23
thấy ở nhà bí bách, không được thoải mái, không hài lòng với việc bố mẹ
cứ hàng ngày kiểm soát cũng như góp ý cho việc làm của mình. Họ chỉ 
muốn sống một mình để tự có thể quyết định cuộc đời của mình mà 
không phải nghe lời góp ý cũng như phàn nàn của bất kỳ ai. Đây là một 
quan niệm mới, nếu như xuất phát từ những mục đích tốt như muốn 
khẳng định cái tôi cá nhân, bản linh tuổi trẻ, muốn trải nghiệm bẩn thân, 
hướng đến cuộc sống tương lai độc lâọ, không phụ thuộc dựa dẫm vào 
bất kì ai thì quả đó là một điều thật tốt. Nhưng nếu vì những ham muốn 
ích kỷ và bồng bột của tuổi trẻ, thậm chí là vì muốn được tự do ngoài 
vòng kiểm soát hay vì đua đòi bạn bè xấu, vì quen được chiều chuộng 
kiểu các cậu ấm, cô chiêu thì đây lại là một điều tai hại cho gia đình và
xã hội, nhất là trong bối cảnh cạm bẫy, cám dỗ rình dập mà bản thân các 
em chưa đủ bản lĩnh để có thể “miễn dịch” trước những cái xấu, tiêu cực,
để giữ phần thiện căn, thiên lương trong sáng của mình.
3.2.2.4. Trong quy mô gia đình
Quy mô gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ so với trước kia, số 
thành viên trong gia đình trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống 
xưa có thể tồn tại đến ba bốn thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà 
thì hiện nay, quy mô gia đình hiện đại đã ngày càng được thu nhỏ lại. Gia
đình Việt Nam hiện đại chỉ có hai thế hệ cùng sống chung: cha mẹ - con 
cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như trước, cá biệt còn có số 
ít gia đình đơn thân, nhưng phổ biến nhất vẫn là loại hình gia đình hạt 
nhân quy mô nhỏ. Sự thay đổi đó, ngoài những nguyên nhân khách quan 
như chính sách kế hoạch hóa gia đình hay đô thị hóa... còn do nhiều 
nguyên nhân chủ quan khác.
lOMoARcPSD|12184112
24
 Xu hướng hạt nhân hóa gia đình trở nên phổ biến ở Việt Nam hiện nay là
do những ưu điểm và lợi thế của nó, đặc biệt là tính phù hợp với thời đại 
mới. Theo cách nhìn của xã hội học, gia đình được coi là một nhóm xã 
hội nhỏ và đóng vai trò là một thiết chế xã hội cơ bản. Nếu như coi gia 
đình là một nhóm xã hội thì các nhà xã hội học sẽ nghiên cứu các vấn đề,
các mối quan hệ bên trong nó, còn khi đóng vai trò là thiết chế xã hội thì 
gia đình sẽ được nghiên cứu trong mối quan hệ giữa nó với tổng thể xã 
hội. Trên cơ sở thuyết cấu trúc và chức năng, nhà xã hội học người Mỹ 
Robert Merton đã phần nào lý giải được vấn đề này thông qua ý tưởng về
chức năng và phản chức năng của mình. Ông cho rằng, một thành tố của 
cấu trúc xã hội thực hiện các chức năng, tức các hệ quả quan sát được, 
tạo ra sự thích nghi và điều chỉnh của hệ thống, ngoài những hệ quả tích 
cực cũng có thể gây ra các hệ quả tiêu cực (phản chức năng) .Gia đình là 
thành tố cơ bản của cấu trúc xã hội và thực hiện chức năng của nó để duy
trì sự thích nghi và ổn định của xã hội. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam 
bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa, hội nhập
kinh tế thế giới, nhiều chuyển biến lớn lao đã xảy ra, tất yếu khiến quy 
mô gia đình truyền thống không còn thích nghi được với hoàn cảnh xã 
hội mới. Nền kinh tế thị trường, sự du nhập của các nền văn hóa nước 
ngoài đã làm cho xã hội đổi thay từng ngày. Sự đổi thay ấy diễn ra cả 
trong quan niệm của con người, chẳng hạn, ngày nay sự bình đẳng đã 
được đề cao hơn, những chuẩn mực lạc hậu cũng được loại bỏ nhằm 
hướng tới một xã hội tiến bộ hơn.
 Đáng kể nhất là việc giải phóng phụ nữ: họ được đối xử bình đẳng hơn 
và có nhiều điều kiện để phát triển, nâng cao vị thế xã hội của mình; vai 
trò của họ trong cuộc sống, trong sản xuất,... ngày càng trở nên quan 
lOMoARcPSD|12184112
25
trọng hơn, gánh nặng gia đình cũng dần được chia sẻ và cơ hội phát huy 
tiềm năng cũng đến nhiều hơn, được toàn xã hội công nhận. 
Bình đẳng giới nói riêng và bình đẳng nói chung được tôn trọng làm cho 
mỗi người được tự do phát triển mà không phải chịu nhiều ràng buộc. 
Hội nhập kinh tế làm cho mức sống con người được nâng cao hơn, chất 
lượng cuộc sống được cải thiện, từ đó cũng làm cho nhu cầu hưởng thụ 
của họ tăng lên và mang những nét cá nhân hơn. Mỗi một thành viên 
trong gia đình, chứ không chỉ riêng lớp trẻ, đều muốn được có khoảng 
không gian riêng, thoải mái để làm những gì mình thích, không phải bận 
tâm đến sự nhận xét của người khác. Do có công ăn việc làm ổn định, 
con cái đến tuổi kết hôn cũng không phải phụ thuộc kinh tế nhiều vào 
cha mẹ, từ đó sẽ nảy sinh ra nhu cầu ở riêng cho thuận tiện về sinh hoạt. 
Mặt khác, việc duy trì gia đình truyền thống sẽ kìm hãm sự tự do, làm 
cho cái tôi, cá tính riêng, năng lực của con người không có cơ hội phát 
triển, dẫn đến sự thiếu hụt về lực lượng nhân tài cho đất nước trong thời 
buổi công nghiệp hóa hiện đại hóa. 
Vậy, rõ ràng là quy mô gia đình Việt Nam ngày càng thu nhỏ để đáp ứng 
những nhu cầu và điều kiện của thời đại mới đặt ra. Bên cạnh đó, nó 
cũng thay đổi chính xã hội hay những giá trị của xã hội, làm cho sự bình 
đẳng nam nữ được đề cao hơn, cuộc sống riêng tư của con người được 
tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống của gia đình 
truyền thống. Sự biến đổi của gia đình cho thấy chính nó đang làm chức 
năng tích cực, thay đổi chính bản thân gia đình và cũng là thay đổi hệ 
thống xã hội, làm cho xã hội trở nên thích nghi và phù hợp hơn với tình 
hình mới, thời đại mới.
Mặt hạn chế của gia đình hiện đại so với gia đình truyền thống xưa. 
Chính sự coi trọng kinh tế, đặt kinh tế lên hàng đầu ấy đã làm cho những 
lOMoARcPSD|12184112
26
giá trị tốt đẹp xưa của gia đình bị phai nhạt dần, thậm chí còn dễ dẫn tới 
các hệ lụy xấu. Có thể lấy ví dụ về việc chăm sóc và giáo dục trẻ em 
trong gia đình - nơi được coi là môi trường xã hội hóa đầu tiên của mỗi 
con người. Một đứa trẻ được sinh ra và lớn lên trong gia đình truyền 
thống định hình nhân cách bằng sự quan tâm giáo dục dạy bảo thường 
xuyên của ông bà cha mẹ ngay từ khi rất nhỏ. Còn trong gia đình hiện 
đại, việc giáo dục trẻ em gần như được phó mặc hoàn toàn cho nhà 
trường mà thiếu đi sự chăm sóc, dạy dỗ của cha mẹ. Chính điều đó đã 
gây ra hiện trạng có nhiều trẻ em lang thang, phạm tội hay rơi vào các tệ 
nạn xã hội. Hay như người cao tuổi trong gia đình, trước đây họ được 
sống cùng với con cháu, vì vậy mà nhu cầu về tâm lý, tình cảm được đáp 
ứng đầy đủ. Còn khi quy mô gia đình bị biến đổi, người cao tuổi phải đối
mặt với sự cô đơn thiếu thốn về tình cảm, trong khi tuổi già cần nhất là 
được vui vầy bên con cháu, được chăm sóc khi ốm đau bệnh tật. Họ luôn 
có nguy cơ bị đẩy ra viện dưỡng lão, trung tâm hay các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe chứ không nhận được nhiều sự quan tâm của người thân trong 
gia đình. Phản chức năng của quá trình biến đổi đó không chỉ xảy ra đối 
với người già và trẻ em mà còn trên phạm vi toàn xã hội, nhất là trong 
các mối quan hệ gia đình. Ngày càng tồn tại nhiều hiện tượng mà trước 
đây chưa hề hoặc ít có như bạo lực gia đình, ly hôn, ly thân, ngoại tình, 
sống thử... Chúng đã làm rạn nứt, phá hoại sự bền vững của gia đình, làm
cho gia đình trở nên mong manh, dễ tan vỡ hơn. Ngoài ra, các tệ nạn như 
trẻ em lang thang, nghiện hút, buôn bán phụ nữ qua biên giới... cũng 
đang đe dọa, gây nhiều nguy cơ làm tan rã gia đình.
Như vậy, dưới góc nhìn xã hội học, có thể thấy rằng sự biến đổi quy mô 
gia đình Việt Nam là một tất yếu không thể tránh khỏi do tác động của 
toàn cầu hóa. Gia đình, dù được nhìn nhận với tư cách là một thiết chế xã
lOMoARcPSD|12184112
27
hội cơ bản hay với tư cách là một nhóm xã hội, đều chứa đựng nhiều yếu 
tố tạo nên sự thay đổi. Sự thay đổi đó điều chỉnh chính bản thân gia đình 
cho phù hợp với xã hội và đồng thời cũng điều chỉnh xã hội cho phù hợp 
với điều kiện cụ thể bên ngoài. Hệ quả tạo ra là một mô hình gia đình 
mới có khả năng thích ứng tốt hơn với sự biến đổi của xã hội để thay thế 
gia đình truyền thống cũ. Đó là xu hướng tiến bộ chung dù cho cũng còn 
tồn tại nhiều mặt hạn chế. Điều quan trọng nhất là phải gìn giữ được 
những giá trị tốt đẹp, quý báu của gia đình truyền thống và phát huy 
những mặt tích cực của gia đình hiện đại, tạo ra một khuôn mẫu gia đình 
Việt Nam tiến bộ, phát triển. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
lOMoARcPSD|12184112
28
1. Giáo trình nhập môn Xã hội học – Khoa Xã hội học, Học viện Báo chí 
và Tuyên truyền.
2. Vấn đề nghiện Internet ở Thanh- Thiếu niên Việt Nam và một số tác 
động – Báo Tỉnh Đoàn Khánh Hòa.
3. Một số biến đổi của văn hóa gia đình trong bối cảnh toàn cầu hóa – 
Tạp chí cộng sản.
4. Nhu cầu giải trí của Thanh niên – Đinh Thị Vân Chi, Nxb Chính trị 
Quốc gia.
5. Mạng xã hội ảo – đặc điểm và khuynh hướng – Nguyễn Minh Hòa, 
Viện nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh
lOMoARcPSD|12184112

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_nhu_cau_su_dung_mang_xa_hoi_cua_sinh_vien_hoc_vien.pdf