Tiểu luận Những thay đổi của giai cấp công nhân và ảnh hưởng của sự thay đổi đó đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Những thay đổi của giai cấp công nhân và ảnh hưởng của sự thay đổi đó đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Những thay đổi của giai cấp công nhân và ảnh hưởng của sự thay đổi đó đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay
NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY ĐỔI ĐÓ ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAYChủ nghĩa xã hội khoa học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) lOMoARcPSD|12184112 Học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học ĐỀ TÀI : NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY ĐỔI ĐÓ ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY Giảng viên hướng dẫn : Sinh viên thực hiện : Lớp : Hà Nội, ngày 8 tháng 6 năm 2021 lOMoARcPSD|12184112 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VỀ GCCN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN 2 1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân 2 1.2. Đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân 5 1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 8 Chương 2: NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GCCN HIỆN NAY VÀ ẢNH HƯỞNG ĐÓ ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN HIỆN NAY 9 2.1. Sự phát triển và thay đổi của GCCN hiện nay 9 2.2. Những ảnh hưởng của thay đổi của GCCN hiện nay đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN hiện nay 13 2.3. Liên hệ với GCCN Việt Nam 16 KẾT LUẬN 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO 17 lOMoARcPSD|12184112 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNTB Chủ nghĩa tư bản CNXH Chủ nghĩa xã hội GCCN Giai cấp công nhân TBCN Tư bản chủ nghĩa XHCN Xã hội chủ nghĩa lOMoARcPSD|12184112 1MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài: Công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để tiếp tục phát triển đất nước theo hướng XHCN, cùng với việc phát triển nền kinh tế trí thức thì sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với mỗi quốc gia đều đóng vai trò vô cùng quan trọng. Vậy nên, việc nghiên cứu những biến đổi của GCCN hiện nay và ảnh hưởng của nó đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử mang tính cấp thiết trong giai đoạn đất nước đang phát triển hiện nay. II. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Quá trình biến đổi của GCCN và ảnh hưởng của quá trình đó đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử. Khách thể nghiên cứu: GCCN qua các thời kỳ thay đổi và phát triển. III. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu: 1. Mục tiêu: Trên cơ sở hệ thống hóa làm rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho đội ngũ công nhân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, đồng thời hoàn thành những sứ mệnh lịch sử. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ các khái niệm, đặc điểm, nội dung của giai cấp cho công nhân; những thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay; những ảnh hưởng của việc thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay đến sứ mệnh lịch sử của GCCN hiện nay. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN lOMoARcPSD|12184112 2VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN 1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân: Thuật ngữ giai cấp dùng để chỉ một nhóm xã hội mà các thành viên có vị trí tương đương nhau trong một cơ cấu bất bình đẳng khách quan về vật chất do một hệ thống những quan hệ kinh tế đặc trưng cho một phương thức sản xuất cụ thể tạo ra. Theo C.Mác, chuẩn mực chủ yếu của sự phân chia giai cấp xã hội là quan hệ đối với tư liệu sản xuất, có sở hữu về tư liệu sản xuất hay không, là vai trò đối với quá trình sản xuất - quản lý quá trình đó hay bị quản lý quá trình đó, là cách phân chia kết quả sản xuất - cách phân phối và hưởng thụ sản phẩm xã hội. Với những chuẩn mực kinh tế ấy, các giai cấp có những dấu hiệu xã hội và chính trị khác nhau như lối sống, địa vị xã hội, văn hóa, ý thức Và, theo Lênin, “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn, những tập đoàn này khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định” [1, tr.17-18]. Về khái niệm công nhân, theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, đó là người lao động phổ thông, theo nghĩa rộng, là người kiếm sống bằng cách làm việc thể xác (lao động chân tay), bằng cách của mình - cung cấp lao động để lãnh tiền công (tiền lương) của chủ nhân (người sử dụng lao động), để nỗ lực tạo ra sản phẩm cho người chủ và thường được thuê với hợp đồng làm việc (giao kèo) để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể được đóng gói vào một công việc hay chức năng. lOMoARcPSD|12184112 3Với sự ra đời của công nghệ tiên tiến và việc thành lập các công ty, tập đoàn, công nhân ngày nay thường là thành phần lao động trong những xí nghiệp, nhà máy, công ty và làm công ăn lương. Người công nhân cũng thường kết hợp thành các Công đoàn hoặc nghiệp đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi của mình. Luật pháp nhiều quốc gia cũng có nhiều quy định cụ thể đẻ bảo vệ quyền lợi công nhân. Trong hầu hết các nền kinh tế hiện đại, thuật ngữ "nhân viên", "công nhân" đề cập đến một mối quan hệ được xác định cụ thể giữa một cá nhân và một công ty, mà khác với những khách hàng tiêu dùng. Về khái niệm GCCN, chủ nghĩa Mác - Lênin đã diễn đạt quan niệm về GCCN dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong các tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê ghen” (1844), “Tình cảnh những người lao động ở Anh” (1844-1845), “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản” (1847), “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (1848)... C. Mác và Ph. Ăngghen đã dùng các từ “giai cấp công nhân”, “giai cấp vô sản”, “giai cấp vô sản công nghiệp”, “giai cấp vô sản hiện đại”, “giai cấp công nhân hiện đại”, “giai cấp vô sản công nghiệp”, “giai cấp công nhân công xưởng, nhà máy”, “giai cấp công nhân đại cơ khí”. Những từ đồng nghĩa này chỉ là sự khác nhau về hình thức biểu đạt trong những văn cảnh cụ thể của một khái niệm - GCCN. Những diễn đạt nêu trên về GCCN của các nhà kinh điển được đặt trong hoàn cảnh lịch sử từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, trên cơ sở hai tiêu chí để phân định GCCN với các giai tầng xã hội khác. Đó là: Thứ nhất, về phương thức sản xuất: GCCN là tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đối với C. Mác và Ph. Ăngghen, khái niệm “GCCN” và “giai cấp vô sản” đồng nghĩa với nhau, đấy là tập đoàn người, bao gồm những người công nhân công xưởng, là sản phẩm của nền đại công lOMoARcPSD|12184112 4nghiệp và phát triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Là sản phẩm của nền đại công nghiệp nên GCCN là hiện thân của lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại, đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, và do đó, nó có những phẩm chất riêng mà không có giai tầng nào có được. Đó là tính tiên tiến, hiện đại; ý thức tổ chức kỷ luật cao; tác phong công nghiệp; tinh thần khoa học và thái độ cách mạng triệt để; tinh thần quốc tế cao cả và trong sáng. Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất TBCN: GCCN, do không có tư liệu sản xuất nên “Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ như nhau” [2, tr.605]. Phát triển học thuyết của C. Mác và Ph. Ănghen trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, đặc biệt là trong quá trình xây dựng CNXH hiện thực, Lênin bổ sung những thuộc tính mới của GCCN. Theo Lênin, sự phân chia giai cấp trong xã hội phải phụ thuộc vào địa vị và sự khác nhau của các tập đoàn người trong quan hệ đối với chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, sự khác nhau trong quan hệ đối với quản lý sản xuất và sự khác nhau trong quan hệ phân phối sản phẩm. Trong tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga”, “Nhà nước và cách mạng”, “Kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”, dựa vào những đặc trưng trên và xét vai trò của GCCN trong cách mạng xã hội, Lênin đưa ra định nghĩa về GCCN: là giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Đảng ta đã kế thừa các luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về GCCN, gắn với thực tiễn thời đại ngày nay, để đưa ra các khái niệm về GCCN. Đến Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết về xây dựng GCCN Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, trong đó, Đảng xác định: lOMoARcPSD|12184112 5“Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” [3, tr.43]. Khái niệm về GCCN Việt Nam này, nói chung, phù hợp với quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với những đặc điểm của thời đại và của đội ngũ công nhân nước ta trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế. 1.2. Đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân: - Giai cấp công nhân là sản phẩm của đại công nghiệp: Trong thời đại cách mạng xã hội lần thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất, đặc biệt là của lực lượng sản xuất và đại công nghiệp đã tạo nên một hệ quả kép. Một mặt, đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa không ngừng tạo ra một lực lượng sản xuất có trình độ công nghệ, kỹ thuật ngày càng hiện đại, với tính chất xã hội ngày càng cao. Mặt khác, nền đại công nghiệp ấy không ngừng sản sinh ra một cơ cấu xã hội – giai cấp mới, trong đó sự thống nhất và đấu tranh giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản ngày càng trở thành quan hệ cơ bản nhất, chi phối sự vận động, biến đổi đời sống chính trị của xã hội hiện đại. Theo hệ quả thứ nhất, các điều kiện và tiền đề kinh tế - xã hội, văn hóa - xã hội cho sự ra đời của một hình thái kinh tế - xã hội mới - cộng sản chủ nghĩa, ngày càng chín muồi. Theo hệ quả thứ hai, giai cấp công nhân ngày càng trở thành giai cấp trung tâm, đủ sức để thực hiện bước chuyển cách mạng của nhân loại lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn - hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền đại công nghiệp, của cách mạng khoa học - công nghiệp, của lOMoARcPSD|12184112 6cách mạng khoa học - công nghệ, một cách khách quan, đã làm gia tăng tính chất gay gắt của mâu thuẫn cơ bản của xã hội - mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất được xã hội hóa ngày càng cao, có trình độ công nghệ và kỹ thuật ngày càng hiện đại với chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa. Đến lượt nó, mâu thuẫn kinh tế - xã hội này của nền sản xuất hiện đại, lại tác động và làm gay gắt thêm mâu thuẫn chính trị - xã hội của hai giai cấp cơ bản, đối lập nhau, được sản sinh ra và được trưởng thành từ chính sự phát triển của sản xuất và kinh tế - giai cấp công nhân với giai cấp tư sản. Trong sự thống nhất và đối lập ấy, giai cấp tư sản đại diện cho quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, quan hệ sản xuất mà trên đó xây dựng và phát triển toàn bộ hệ thống kiến trúc thượng tầng tương ứng. Chế độ xã hội ấy, về bản chất luôn là phương tiện công cụ cơ bản nhất duy trì và bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn xã hội. Cũng trong sự thống nhất và đối lập ấy, giai cấp công nhân đại diện cho một phương thức sản xuất mới, tiến bộ, mà những tiền đề cơ bản của phương thức sản xuất ấy đã, đang hình thành, được chín muồi từ chính chủ nghĩa tư bản. Với ý nghĩa trên đây, ta có thể nhận thấy rằng, giai cấp tư sản, “không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình, nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy”. Những kết luận khoa học ấy được xuất phát từ chỗ là chủ nghĩa cộng sản hình thành từ chủ nghĩa tư bản, phát triển lên trong quá trình lịch sử, là kết quả của sự tác động của một giai cấp công nhân –“lực lượng xã hội do chủ nghĩa tư bản sinh ra”. - Giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích chính trị cơ bản đối lập với giai cấp tư sản: Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, như ta đã thấy, không ngừng sản sinh ra giai cấp công nhân hiện đại, lực lượng sản xuất hàng đầu, cách mạng nhất của xã hội hiện đại. Sự đối lập giữa giai cấp tư sản thống trị, đại biểu cho quan hệ sở hữu tư nhân với giai cấp lOMoARcPSD|12184112 7công nhân, đại biểu của lực lượng sản xuất có trình độ công nghệ kỹ thuật hiện đại, có tính chất xã hội cao, ngày càng trở nên gay gắt. Giai cấp công nhân trở thành giai cấp có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Điểm đồng nhất giữa các giai cấp có sứ mệnh lịch sử trong các thời đại cách mạng trước với giai cấp công nhân thể hiện ở chỗ đều là những giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất mới đang ra đời trong lòng hình thái kinh tế - xã hội cũ đã lỗi thời, đều là những giai cấp có lợi ích chính trị đối lập với giai cấp thống trị trong xã hội cũ đã lỗi thời, của những hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời ấy. Điểm khác biết căn bản ở đây chính là ở chỗ, trong các thời đại cách mạng trước, cả giai cấp quý tộc chúa đất và giai cấp tư sản đều là các giai cấp đại diện cho những phương thức sản xuất mới, dựa trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân – đại diện của một phương thức sản xuất dựa trên chế độ sở hữu xã hội (công hữu) đối với các tư liệu sản xuất và là giai cấp bị bóc lột cơ bản của chủ nghĩa tư bản. - Giai cấp công nhân có lợi ích chính trị thống nhất về cơ bản với nhân dân lao động và toàn xã hội: Trong chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn chính trị cơ bản và là mâu thuẫn đối kháng trong xã hội đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân. Hơn nữa, đó còn là mâu thuẫn giữa một bên là đại quần chúng nhân dân lao động với một bên là chế độ tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là nguyên nhân cơ bản của những cuộc nổi dậy, đấu tranh chống lại ách áp bức của giai cấp tư sản. Đấu tranh nhằm lật đổ ách áp bức thống trị của giai cấp tư sản là nhu cầu cơ bản, thường trực không chỉ của giai cấp công nhân, mà còn là của đông đảo các giai cấp và tầng lớp lao động và của xã hội. Đây chính là điểm tương đồng, sự thống nhất căn bản về lợi ích chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, các tầng lớp xã hội khác trong xã hội. Chính sự thống nhất lâu dài và căn bản về lợi ích chính trị ấy đã làm nên sự khác biết về chất, căn bản lOMoARcPSD|12184112 8trong nội dung, tiến trình và động lực thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân với sứ mệnh lịch sử của giai cấp quý tộc chúa đất và giai cấp tư sản. 1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra lực lượng xã hội to lớn là giai cấp công nhân, giai cấp có khả năng tổ chức, lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trong phạm vi từng quốc gia, dân tộc và trên phạm vi toàn thế giới. Hai ông đề cập đến mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và nền đại công nghiệp, khẳng định giai cấp công nhân vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của nền công nghiệp hiện đại, là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức sản xuất tiên tiến. Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại. Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân xuất phát từ bản chất quốc tế, với sự tồn tại “có tính lịch sử thế giới” của giai cấp vô sản. Ngay trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: Như vậy là giai cấp vô sản chỉ có thể tồn tại trên quy mô của ìịch sử thế giởi, cũng như chủ nghĩa cộng sản, tức là hoạt động của giai cấp vô sản, hoàn toàn chỉ có thể tồn tại được với tư cách là một tồn tại “có tính lịch sử thế giới”. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một tất yếu khách quan, nhưng để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân. Trong những nhân tố chủ quan đó, việc thành lập Đảng Cộng sản, một Đảng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc, vững mạnh về chính trị, tư tưỏng và tổ chức là nhân tố” giữ vai trò quyết định nhất, bảo đảm cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. lOMoARcPSD|12184112 9V.I.Lênin kế thừa và phát triển những luận điểm khoa học, cách mạng của C.Mác và Ph.Ăngghen vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ông tiếp tục khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, đồng thời bổ sung, phát triển thêm nhiều luận điểm quan trọng, ông đã đưa ra nhiều luận điểm có giá trị, khẳng định: Lực lượng sản xuất của toàn thể nhân loại là công nhân, rằng giai cấp công nhân đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất. V.I.Lênin nêu quan niệm vể sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong điều kiện mối; là giai cấp thống trị về mặt chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh chống lại sự bóc lột của tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mối, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. V.LLênin kế thừa những tư tưỏng của C.Mác, Ph.Ăngghen, tiếp tục phát triển học thuyết về chính đảng kiểu mối của giai cấp công nhân trong điều kiện giai cấp công nhân đã giành được chính quyền. CHƯƠNG II: NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GCCN HIỆN NAY VÀ ẢNH HƯỞNG ĐÓ ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN HIỆN NAY 2.1. Sự phát triển và thay đổi của GCCN hiện nay: 2.1.1. Sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại làm phát triển về số lượng và thay đổi về quy mô của giai cấp công nhân: Đại công nghệ cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay là quá trình phát triển tất yếu của xã hội loài người, là con đường duy nhất đưa các quốc gia nông nghiệp, kém phát triển thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vức và trên thế giới. Bên cạnh đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn là quá trình tạo ra cơ sở cho sự phát triển về tốc độ và số lượng đội ngũ giai cấp công nhân. Công nhân chiếm tỷ trọng ngày càng lOMoARcPSD|12184112 10 cao trong dân cư do quá trình phát triển thêm nhiều ngành mới, tạo thêm nhiều việc làm mới và phát triển nhanh lực lượng sản xuất. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, tính tập trung về quy mô của công nhân không còn giống như trước đây. Công nhân ở các xí nghiệp quy mô lớn giảm nhiều, có xu hướng phân tán về các xí nghiệp quy mô vừa, nhỏ và làm việc tại gia đình. Tính chất xã hội hóa của lao động công nghiệp cũng có nhiều biểu hiện mới: sản xuất công nghiệp trong toàn cầu hóa kinh tế đang mở rộng thành “chuỗi toàn cầu”; quá trình sản xuất một sản phẩm phải liên kết nhiều công đoạn của nhiều vùng, miền, quốc gia khác nhau. Liên kết trong sản xuất hiện đại, bên cạnh những hình thức cũ như phối hợp theo dây chuyền, tổ chức theo nhóm đã xuất hiện những hình thức mới như: “xuất khẩu lao động tại chỗ”, “làm việc tại nhà”, “nhóm chuyên gia quốc tế”, quốc tế hóa các tiêu chuẩn sản xuất công nghiệp Theo đó, tính xã hội của lao động hiện đại đang được mở rộng và nâng cao. Điều đó càng làm cho giai cấp công nhân phát triển nhanh chóng về số lượng và quy mô. 2.1.2. Sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại và sự biến đổi về cơ cấu của giai cấp công nhân: Hiện nay, công nhân có mặt trong các ngành nghề, các thành phần, lĩnh vực kinh tế, các loại hình sở hữu ở các loại nước; cơ cấu giai cấp công nhân hiện nay khác xa so với cơ cấu giai cấp công nhân thế kỷ XIX, nhất là ở các nước tư bản phát triển. Giai cấp công nhân không chỉ có mặt trong các ngành công nghiệp truyền thống, mà còn hiện diện ngày càng tăng trong các ngành sản xuất mới, nhất là ở ngành công nghiệp trí tuệ. Tỷ trọng của bộ phận công nhân trong các ngành công nghiệp truyền thống, công nhân trong khu vực sản xuất vật chất ngày càng giảm. Trái lại, công nhân trong các ngành nghề mới như: điện tử, tin học, hàng không, dịch vụ công nghiệp tăng lên nhanh chóng. Sự phân hóa về thu nhập trong nội bộ giai cấp công nhân đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Số công nhân có mức sống trung lưu tăng lên, một bộ phận công nhân có cổ phần được “trung lưu” hóa. Về mặt hình thức, họ không còn là lOMoARcPSD|12184112 11 “vô sản” nữa và có mức sống cao hơn trước đây, nhưng thực chất, ở các nước tư bản, do công nhân không chiếm được tỷ lệ cổ phẩn cao, nên quá trình sản xuất và phân chia lợi nhuận vẫn do những cổ đông lớn quyết định. Việc làm, lao động và đời sống của công nhân hiện đại vẫn lệ thuộc vào giai cấp tư sản. Quyền định đoạt quá trình sản xuất, phân phối lợi nhuận vẫn thuộc về giai cấp tư sản. 2.1.3. Sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại từng bước nâng cao chất lượng giai cấp công nhân: Cùng với sự phát triển về số lượng, sự thay đổi về quy mô và cơ cấu, sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại càng đẩy nhanh quá trình xã hội hóa, hiện đại hóa lực lượng sản xuất và do đó chất lượng của giai cấp công nhân ngày càng tăng lên. Sản xuất và dịch vụ hiện đại đòi hỏi người lao động phải có hiểu biết sâu rộng về tri thức và kỹ năng nghề nghiệp. Chính tri thức là một động lực cơ bản cho việc gia tăng năng suất lao động và cạnh tranh toàn cầu. Nó là yếu tố quyết định trong quá trình phát minh, sáng chế và tạo ra của cải cho xã hội. Công nhân được đào tạo chuẩn mực và thường xuyên được đào tạo lại theo các chu kỳ thay đổi công nghệ. Hao phí lao động hiện đại chủ yếu là hao phí về trí lực, chứ không phải là sự thuần túy về sự mệt mỏi cơ bắp. Bên cạnh những nhu cầu về vật chất, nhu cầu tinh thần, văn hóa của công nhân ngày càng cao hơn và đa dạng hơn. Đặc biệt, đội ngũ công nhân lao động trí tuệ tăng nhanh, đa số công nhân có trình độ học vấn, văn hóa và tay nghề cao. Người công nhân không hoàn toàn vô sản như trước đây một bộ phận công nhân có quyền sỏ hữu tư liệu sản xuất ở một chừng mực nhất định; đòi sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao. Do sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đòi hỏi đội ngũ công nhân ngày nay có trí tuệ ngày càng cao. Trong những dây chuyền sản xuất hiện đại, lao động trí tuệ của người công nhân nhiều hơn lao động cơ bắp. Trong các nước tư bản chủ nghĩa, quá trình xã hội hóa và hiện đại hóa lực lượng sản xuất càng làm cho mâu thuẫn kinh tế và xã hội ngày càng gay gắt. lOMoARcPSD|12184112 12 Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chông lại sự bóc lột và thống trị của giai cấp tư sản càng phát triển thì giai cấp công nhân càng trưởng thành về chính trị, tư tưỏng và tổ chức. Sự trưởng thành của giai cấp công nhân về ý thức, trình độ, năng lực đấu tranh cách mạng, là một trong những điều kiện quan trọng cho việc nhận thức và thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của nó. Nhìn chung, đội ngũ công nhân ngày càng được “trí thức hóa”, tức được nâng cao ý thức chính trị, ý thức pháp luật, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghề nghiệp và tay nghề, năng lực cải tiến công cụ lao động trong quá trình sản xuất... Đó là một thực tế khách quan của quá trình phát triển của giai cấp công nhân. Dưói góc độ khái quát chung nhất có thể hiểu; trí thức hoá giai cấp công nhân là quả trình nâng nhận thức và năng lực thực tiễn của công nhân lên một trình độ cao, qua đó đem lại chất lượng mới cho sự phát triển giai cấp công nhân, xứng đáng vói vị trí tiên phong, lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với xã hội. Dưới góc độ của các quá trình cụ thể thì: trí thức hoá giai cấp công nhân là quá trình khách quan gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp; là quá trình tăng lên mối quan hệ trực tiếp và xích lại gần nhau giữa giai cấp công nhân với tầng lớp trí thức trong hoạt động thực tiễn; là quá trình tạo ra sự thay đổi căn bản và toàn diện về tri thức, năng lực vận dụng tri thức và năng lực tham gia sáng tạo của công nhân trong hoạt động thực tiễn nói chung và trong lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nói riêng để đạt năng suất lao động và hiệu quả hoạt động xã hội cao. Từ đó có thể thấy rằng, trí thức hóa giai cấp công nhân là một quá trình tất yếu khách quan, quá trình nâng cao trình độ toàn diện của giai cấp công nhân về mọi mặt và do đó là quá trình làm tăng lên khả năng hoàn thành sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, và toàn cầu hóa hiện nay. lOMoARcPSD|12184112 13 2.2. Những ảnh hưởng của thay đổi của GCCN hiện nay đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN hiện nay 2.2.1. Thực hiện nội dung kinh tế - kỹ thuật của sứ mệnh lịch sử C. Mác khẳng định, giai cấp công nhân là chủ thể của phương thức sản xuất công nghiệp với các đặc tính: công cụ lao động là máy móc, năng suất lao động cao, lao động có tính chất xã hội hóa cao và gợi mở nhiều giải pháp tích cực cho quá trình phát triển xã hội. Chính từ quá trình sản xuất vật chất bằng phương thức công nghiệp, giai cấp công nhân được xác định là giai cấp quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại và thông qua đó, chuẩn bị những tiền đề vật chất cho xã hội tương lai. Hiện nay, người ta nói nhiều đến vấn đề giảm dần nhu cầu về lao động giản đơn, tăng lao động trình độ cao nhưng chưa chú ý đến khả năng tiếp cận giáo dục - dạy nghề cũng tăng lên và dễ dàng hơn với đa số. Người lao động hiện đại dễ dàng hơn trong việc học tập để nâng cao tay nghề và mở rộng khả năng chuyển đổi nghề nghiệp trước những thách thức về việc làm do Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra. Kiến thức, kỹ năng lao động hiện đại đang có xu hướng xã hội hóa. Máy tính, điện thoại thông minh, các kho dữ liệu khổng lồ có thể dễ dàng tiếp cận với chi phí thấp, các trường đại học, cao đẳng với nhiều chương trình đào tạo từ xa là những điều kiện thuận lợi để người lao động bình thường có thể học tập và tự học để nâng cao trình độ chuyên môn thông qua cơ sở của truyền thông số. Nhu cầu của thị trường sức lao động hiện đại vừa đặt ra yêu cầu cao về chất lượng của nguồn nhân lực, vừa nâng cao vị thế của người lao động. Khi đã có một trình độ tương đương với nhu cầu của thị trường, vị thế của người công nhân cũng khác trước khi thương lượng với người sử dụng lao động về giá cả của hàng hóa sức lao động. Trong điều kiện mới, khả năng tự bảo vệ của người lao động đã được tăng lên. lOMoARcPSD|12184112 14 Sự biến đổi cấu tạo hữu cơ tư bản thay đổi cũng đang làm rõ xu thế xã hội hóa lực lượng sản xuất. Tri thức khoa học và công nghệ có vai trò lớn trong sản xuất đang tạo ra một thay đổi quan trọng: tư bản khả biến tăng nhanh, tư bản bất biến giảm tương đối trong tỷ lệ cấu thành giá trị của hàng hóa. Vai trò to lớn của tri thức, tay nghề, văn hóa, kinh nghiệm của người công nhân trong sản xuất công nghiệp đang từng bước phá vỡ cơ chế chiếm hữu của giai cấp tư sản, vốn bắt nguồn từ độc quyền sở hữu tư liệu sản xuất, độc quyền chiếm đoạt giá trị thặng dư. Máy móc, công nghệ sẽ vẫn tiếp tục đóng vai trò là “những nhà cách mạng” thầm lặng. Chính xu hướng “tích hợp, hội tụ của thế giới vật chất, thế giới số và con người” quy định và thúc đẩy xã hội phải phát triển khác đi. Nó buộc con người trong quá trình sản xuất hiện đại không chỉ chú ý đến lợi nhuận, hiệu quả kinh tế mà còn phải quan tâm đến nhiều khía cạnh khác của phát triển bền vững. 2.2.2. Thực hiện nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử: Nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được xác định là cuộc đấu tranh vì các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, như công bằng, bình đẳng, dân chủ và tập trung nhất là việc xác lập chế độ chính trị - xã hội mới do giai cấp công nhân lãnh đạo - chế độ xã hội chủ nghĩa để tạo ra tiền đề chính trị cho xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo cơ hội và làm nổi bật các nội dung sau: Dân chủ hóa - công nghệ số góp phần mở rộng truyền thông, tạo điều kiện để thông tin đến với mọi người, qua đó phát triển dân chủ. Với những nước phát triển, thông qua thành tựu khoa học - công nghệ, người dân có điều kiện tốt hơn để giám sát và chia sẻ quyền lực với nhà nước đương trị. Công nghệ và thiết bị ngày càng cho phép người dân tiếp cận gần hơn với chính phủ để nêu ý kiến, để cùng phối hợp hoạt động. Đồng thời, các chính phủ cũng sở hữu sức lOMoARcPSD|12184112 15 mạnh về công nghệ để tăng cường sự quản trị của mình đối với người dân dựa trên những hệ thống giám sát rộng rãi và khả năng điều khiển kết cấu hạ tầng số. Cách mạng công nghiệp 4.0 với những tiền đề mà nó tạo ra sẽ cho thấy những bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đều rất quan tâm và quyết tâm mạnh mẽ hướng tới Cách mạng công nghiệp 4.0. Đây cũng là một con đường để phát triển rút ngắn, để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. 2.2.3. Thực hiện nội dung văn hóa - xã hội của sứ mệnh lịch sử: Trên bình diện thế giới hiện nay, hòa bình, hợp tác cùng phát triển trong môi trường dân chủ, công bằng, bình đẳng đang là xu thế lớn. Xu thế ấy tạo điều kiện thuận lợi cho Cách mạng công nghiệp 4.0 và cả sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Cách mạng công nghiệp 4.0 là một thành tựu của văn minh, có những đóng góp, bổ sung vào nhận thức duy vật lịch sử về các vấn đề trong phát triển. Ở phương diện xã hội, sát cánh cùng giai cấp sản xuất ra của cải vật chất - giai cấp công nhân. Hệ giá trị của giai cấp công nhân theo đó có thể được bổ sung những giá trị tuy khá đặc thù nhưng gần gũi của các tầng lớp khác như trí thức - nhóm xã hội coi sáng tạo, dân chủ như điều kiện môi trường để lao động và phát triển. 2.3. Liên hệ với GCCN Việt Nam Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định được via trò của mình, xứng đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia giải quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Các vấn đề đó có tính thời sự cao như dân số, môi trường, văn hóa, năng lượng, lương thực,.. lOMoARcPSD|12184112 16 Giai cấp công nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị. Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu. Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu cực, tham nhũng, tệ ạn xã hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng trong việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử như sau: Một là, xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hai là, phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào sản xuấ nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới. KẾT LUẬN Cách mạng công nghiệp 4.0 là một thành tựu của văn minh nhân loại, có những đóng góp, bổ sung vào nhận thức duy vật lịch sử về các vấn đề trong phát triển của xã hội. Ở phương diện xã hội, sát cánh cùng giai cấp công nhân sản xuất ra của cải vật chất ngày càng lớn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân, đang xuất hiện ngày càng đông đảo trình độ ngày càng nâng cao, cơ cấu, phân tầng sâu sắc. Cùng với sự phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế sáng tạo, giai cấp công nhân ngày càng chiếm vị trí chủ đạo trong lực lượng lao động xã hội, sứ mệnh lịch sử của lOMoARcPSD|12184112 17 giai cấp công nhân có những thay đổi trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, vai trò vị trí tiên phong trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không giai cấp nào thay thế được. Chính vì vậy, em hy vọng bài tiểu luận của em góp phần giúp mỗi cá nhân nhận thức được vị trí, vai trò trò trách nhiệm xã hội của bản thân, luôn cố gắng vươn lên học tập rèn luyện, bản lĩnh chính trị vững vàng, chinh phục khoa học, làm chủ công nghệ, tăng năng suất lao động góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước văn minh, giàu mạnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 2. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2012), Tập Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Một số quan điển cơ bản của C. Mác, Ph. Ăng ghen, V. I. Lênin và Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng”, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2012), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 5. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2014), Giáo trình Học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. lOMoARcPSD|12184112
File đính kèm:
- tieu_luan_nhung_thay_doi_cua_giai_cap_cong_nhan_va_anh_huong.pdf