Tiểu luận Những vấn đề lí luận chung của Giáo dục học Mầm non

doc 210 trang yenvu 29/10/2023 2110
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Những vấn đề lí luận chung của Giáo dục học Mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Những vấn đề lí luận chung của Giáo dục học Mầm non

Tiểu luận Những vấn đề lí luận chung của Giáo dục học Mầm non
Những vấn đề lí luận chung của giáo dục học mầm non Đại học Huế
Trung tâm đào tạo từ xa 
Trịnh dân Đinh Văn Vang 
Giáo trình
Tập một
Nhà xuất bản giáo dục ư2006 
MỤC LỤC 
Chương 1
Những vấn đề líluận chungcủa giáo dục học mầm non......................4
I. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp của giáo dục học mầm non......................................4
1. Các khái niệm cơ bản của giáo dục vàgiáo dục học....................................................4
2. Đối tượng của giáo dụchọc mầm non........................................................................10
3. Nhiệm vụ của giáo dụchọc mầm non........................................................................10
4. Mối liênhệ giữa giáodục học mầm nonvới các khoa học khác...................................12
5. Phươngphápnghiêncứu giáodụchọcmầm non.....................................................13
II. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ em lứa tuổimầm non.........................................17
1. Khái niệmvề con người và sự phát triển nhân cáchtrẻ emlứa tuổi mầm non.........17
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ em lứa tuổi mầm 
non..............................................................................................................................19
III. Một số tưtưởng và quanniệm về vấnđề giáo dục trẻemlứatuổimầmnon................24
IV. Mục đích, mụctiêugiáodụcmầmnon...........................................................................28
1. Kháiniệmchungvềmụcđích giáodục......................................................................28
2. Học thuyết Mác - Ăngghen về con người phát triển toàn diện..................................29
3. Mục tiêugiáo dụcmầm non.......................................................................................33
V. Những quan điểm cơ bản của giáodục mầm non Việt Nam..........................................35
câu hỏi ôn tập và bài tập thực hành......................................................................................39
Câu hỏiôn tập...........................................................................................................39
Bài tập thựchành....................................................................................................40
Hướng dẫn tự học..................................................................................................................40
Tàiliệuthamkhảo...................................................................................................40
Hướng dẫntrả lờicâu hỏi....................................................................................40
Hướng dẫn làm bài tập thựchành.....................................................................41
Chương 2
Nhiệm vụ giáo dục trẻ em lứa tuổi nhà trẻ.................................................42
I. Nhữngcơsởkhoa họccủaviệcgiáodục trẻ em lứa tuổinhà trẻ....................................42
1.Sự cầnthiết của việc giáo dụctrẻ emngay từlứa tuổi nhàtrẻ.................................42
2. Những cơ sở khoa họccủa giáo dụctrẻ em lứa tuổi nhà trẻ.....................................43
II. Một số đặcđiểm tăng trưởng và phát triển của trẻ lứa tuổi nhà trẻ................................45
1. Quan điểmvề sự tăng trưởngvà phát triểncủa trẻ em.............................................45
2. Đặc điểm tăng trưởng và phát triển của trẻ trong năm đầu (từ lọt lòng đến 12 tháng 
tuổi).............................................................................................................................47
3. Đặc điểm tăng trưởng vàphát triển củatrẻtrongnămthứ hai (từ12 -24thángtuổi)50
4. Đặc điểm tăng trưởng và phát triển của trẻ trong năm thứ ba (từ 24 đến 36 tháng tuổi)
....................................................................................................................................53
III. Nhiệm vụ giáo dục trẻ em lứa tuổi nhà trẻ......................................................................56
2
1. Giáo dục thể chất cho trẻemlứa tuổinhà trẻ............................................................56
2. Giáo dục trí tuệ cho trẻ em lứa tuổi nhà trẻ................................................................66
3. Giáo dục đạo đức cho trẻ emlứa tuổinhà trẻ............................................................73
4.Giáo dụcthẩmmĩ chotrẻ lứatuổi nhàtrẻ..................................................................79
Câu hỏi và bài tập thực hành.................................................................................................89
Câu hỏiôntập...........................................................................................................89
Bài tập thựchành.....................................................................................................90
Tài liệu cần tham khảo...........................................................................................90
Hướng dẫntrả lờicâu hỏi....................................................................................90
Hướng dẫn làm bài tập thựchành.....................................................................94
Chương 3 
Những hình tháitổ chức đờisống và hoạt động cho trẻ em lứa tuổi
nhà trẻ...............................................................................................................................97
I. Tổ chức chếđộ sinhhoạt chotrẻ emlứatuổi nhàtrẻ......................................................97
1. Nguyên tắc tổchứcchế độ sinhhoạt cho trẻ em.......................................................97
2. Nội dung chế độsinh hoạt cho trẻ em.......................................................................99
3. Đặc thù của việc tổ chứcchế độsinh hoạt cho trẻ em theocác độ tuổi khácnhau105
II. Tổ chức hoạt động giao tiếp cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ.....................................................128
1. Tổ chức hoạt động giaotiếp cho trẻtrong nămđầu................................................128
2. Tổchứchoạt độnggiao tiếp cho trẻ ấu nhi (từ 12 - 36 tháng tuổi).........................133
III. Tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ ấu nhi (từ 12 đến 36 tháng tuổi).......................140
1. ýnghĩa của hoạt động với đồ vật cho trẻ ấu nhi .....................................................140
2. Đặc điểm của hoạt độngvới đồvật của trẻ ấunhi ..................................................141
3. Phương pháp và biện pháp tổchứchoạt động với đồvật cho trẻ ấu nhi................142
4. Các hình thức tổchứchoạt độngvới đồ vật cho trẻ ấunhi .....................................143
5.Nhữngyêu cầukhi tổchức hoạt động với đồvật cho trẻ.........................................146
6. Đặc thù của việc tổ chứchoạt độngvới đồ vật cho trẻ theo độ tuổi.......................148
Câu hỏiôntập.........................................................................................................155
Bài tập thựchành...................................................................................................156
Tài liệu có bản cần tham khảo..........................................................................156
Hướng dẫn trả lời câu hỏi...............................................................................................157
Hướng dẫn làm bài tập thựchành...................................................................160
Tài liệu tham khảo.........................................................................................................................163
3
Chương 1
Những vấn đề lí luận chung 
của giáo dục học mầm non 
I. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp của giáo dục học mầm non 
"Giáo dục học là khoa học về lí luận và thựctiễn nhằm nghiên cứu những vấn đề cơ bản 
nhưgiáo dục, giáo dưỡng, dạy học..."
( ) 1
Nhưvậy có thể hiểu một cách khái lược nhất: Giáo dục học là khoa học về giáo dục con 
người. Giáo dục học mầm non là một bộ phận, một chuyên ngành của Giáo dục học. Với tư
cách là một khoa học, Giáo dục học mầm non trước hết phải xác định được đối tượng, nhiệm 
vụ, phương pháp và những khái niệm cơ bản, các phạmtrù chính của giáo dục học. Đó là những 
tri thức cơ bản giúp chúng ta tiếp cận được với khoa học giáo dục nóichung, khoa học giáo dục 
mầm non nói riêng. 
1. Các khái niệm cơ bản của giáo dục và giáo dục học 
1.1. Giáo dục (xét dưới góc độ một hiện tượng xã hội) 
Giáo dục được xem xét dưới hai góc độ: 
– Giáo dục với tưcách là một hiện tượng xã hội. 
– Giáo dục với tưcách là một quá trình giáo dục. 
a) Khái niệm 
Triết học duy vật biện chứng đã khẳng định rằng, thế giới tồn tại xung quanh con người là 
thế giới vật chất (thể hiện dưới dạng sự vật và hiện tượng). Trong vô vàn các hiện tượng ấy có 
thể chia thành hiện tượng tự nhiên, xã hội và tưduy. Ví dụ:mây, mưa, ánh sáng, sự biến đổi của 
các dạng vật chất vô cơ và hữu cơ (hiện tượng tự nhiên); chế độ kinh tế – xã hội, tưtưởng 
chính trị, quan điểm đạo đức, luật lệ quốc gia,chuẩn mực các giá trị xã hội v.v... (hiện tượng xã 
hội); thế giới khách quan tồn tại ngoài ý thức của chúng ta nhưng nhận thức của mỗi người về 
thế giới khác nhau, nông – sâu, rộng – hẹp, đúng ưsai v.v... (hiện tượng tưduy). 
Trong số các hiện tượng xã hội đó có một loại hiện tượng có dấu hiệu đặc trưng là truyền 
thụ cho nhau và lĩnh hội (tiếp thu) của nhau những kinh nghiệm lịch sử xã hội (tri thức và kĩ 
( ) 1
Bách khoa giáo dục,Mátxcơva, 1968, tập 3, tr. 281 (bản tiếng Nga). 
4
năng) để sống và hoạt động, để tồn tại và phát triển của mỗi người và cả cộng đồng. Hiện tượng 
này gọi là hiện tượng giáo dục. Ví dụ:cha mẹ giáo dục con cái ở gia đình, thầy cô giáo và tập 
thể sưphạm giáo dục cho mỗi học sinh trong nhà trường, mỗi thành viên xã hội, cả cộng đồng 
và chính thực tiễn là người thầy giáo vĩ đại luôn giáo dục mọi người. Có thể nói rằng, truyền thụ 
và lĩnh hội tri thức (kinh nghiệm xã hội trên bình diện rộng cả lí luận lẫn thực tiễn) là nét đặc 
trưng cơ bản nhất của giáo dục. Với tưcách là một hiện tượng xã hội, giáo dục chỉ nảy sinh 
trong quan hệ giữa người với người (trong quan hệ xã hội) vì thế giáo dục chỉ có trong xã hội 
loài người, còn thế giới động vật không có. 
Kinh nghiệm lịch sử xã hội là những tri thức và kĩ năng, niềm tin và thái độ... đó chính là 
những chân lí khách quan, những chuẩn mực đạo đức xã hội, những phương thức và phương tiện 
của các dạng hoạt động giao lưu của con người trong xã hội. Nhờ những kinh nghiệm lịch sử xã 
hội này mà thế hệ sau kế thừa được nền văn hóa từ thế hệ trước để trở thành nhân cách có nội 
dung phong phú và đa dạng, có sức mạnh về thể chấtvà tinh thần (tình cảm, trí tuệ...) để hoạt 
động xã hội, cải tạo tự nhiên, cải tạo chính bản thân mình vì sự tồn tại và phát triển của mỗi 
người và cả xã hội, cả cộng đồng. 
Vậy giáo dục là gì? 
Giáo dục ở đây được hiểu theo hai nghĩa: rộng và hẹp. 
•Theo nghĩa rộng: Giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách được tổ chức 
một cách có mục đích và có kế hoạch, thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa người giáo 
dục và người được giáo dục nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài 
người"
(1)
. 
ởđây phải đặt khái niệm "giáo dục"vào trong toàn bộ quá trình hình thành con người nói 
chung với các phạm trù cơ bản có mối quan hệmật thiết là: quá trình hình thành con người; quá 
trình xã hội hóa con người; quá trình giáo dục v.v... 
– Quá trình hình thành con người là quá trình phát triển con người một cách tổng thể cả về 
mặt sinh học, tâm lí và xã hội. Đó là quá trình làm tăng trưởng về lượng và biến đổi về chất ở 
mỗi con người dưới ảnh hưởng và biến đổi của các yếu tố bên trong (sinh học, bẩm sinh, các tố 
chất đã có ở con người) và các nhân tố bên ngoài (môi trường, xã hội, giáo dục...) do các ảnh 
hưởng tự phát (tác động ngẫu nhiên cả bên trong và bên ngoài cơ thể, chưa kiểm soát, chưa điều 
khiển được). Ví dụ,ảnh hưởng của các nhân tố bẩm sinh, di truyền và tác nhân xã hội bên ngoài 
từ phía gia đình, xã hội, môi trường lên đứa trẻ; các động tác tự giác có mục đích, có kế hoạch 
của con người (chính là những tác động của giáo dục) có thể chế ngự và điều khiển được. Ví dụ:
tác động của cô giáo, của trường lớp mẫu giáo lên trẻ mẫu giáo... 
– Vấn đề xã hội hóa công tác giáo dục và chămsóc trẻ em: việc chăm sóc và giáo dục trẻ 
em đã vận dụng những thành tựu của nhiều ngành khoa học (sinh lí học, y học, tâm lí học, dinh 
dưỡng học, giáo dục học v.v...), do nhiều cơ quan nghiên cứu, phụ trách, đồng thời tác động 
(1)
Hà Thế Ngữ – Đặng Vũ Hoạt, Giáo dục học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1987, tr. 21.
5
điều tra cũng phải từ nhiều phía (gia đình, các cơ quan chuyên môn y tế, giáo dục, dinh 
dưỡng...), các đoàn thể xã hội, các cơ quan từ thiện... 
Mặt khác, do sự tăng trưởng và phát triển của trẻ có tính tổng thể nên công tác nghiên cứu, 
đặc biệt là các biện pháp tác động vào trẻ cũng phải mang tính tổng thể. Nhưvậy, không những 
cần có chính sách và biện pháp huy động toàn thể xã hội chăm lo đến công tác chăm sóc, giáo 
dục trẻ mà còn cần đảm bảo tính đồng bộ giữa các cơ quan hữu trách, hình thành những chương 
trình thích hợp chăm sóc và giáo dục trẻ đảm bảo hiệu quả tối ưu của các biện pháp giáo dục. 
Đó chính là đặc điểm quan trọng của việc xã hội hóa công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em. 
– Quá trình giáo dục là một bộ phận của quátrình xã hội hình thành nhân cách con người. 
Quá trình này chỉ bao hàm những nhân tố tác động tựgiác, có mục đích, có kế hoạch của nhà 
giáo dục và tổ chức giáo dục trong việc hình thành nhân cách trẻ em (khái niệm này sẽ được 
nghiên cứu kĩ ở phần sau thành một mục riêng). 
•Theo nghĩa hẹp: Giáo dục là bộ phận của quá trình sưphạm (quá trình giáo dục) là quá 
trình hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những nét tính cách, những hành 
vi và thói quen cưxử đúng đắn trong xã hội thuộc các lĩnh vực tưtưởng chính trị, đạo đức, lao 
động và học tập, thẩm mĩ, vệ sinh v.v...".
b) Vị trí, chức năng của giáo dục 
Giáo dục với tưcách là một hiện tượng xã hội – là phương thức để tồn tại và phát triển xã 
hội loài người. Điều này được thể hiện ở ba chức năng sau đây: 
*Chức năng kinh tế  sản xuất 
Lịch sử đã chứng minh rằng, sự phát triển của sản xuất đã quyết định sự phát triển xã hội. 
Con người đã tạo ra mọi giá trị vật chất, tinh thầnvà sáng tạo ra chính bản thân mình. Trong 
lĩnh vực sản xuất thì con người là lực lượng sản xuất có tầm quan trọng bậc nhất – theo ý nghĩa 
này thì trong quá trình lao động, con người tạo ra giá trị vật chất và tạo ra con người, tái sản 
xuất con người bằng con đường giáo dục. ởđây cần nói rằng, giáo dục với ý nghĩa đầy đủ của 
nó chính là đào tạo, chuẩn bị một lớp người lao động trẻ cho xã hội. Nhưta đã biết, con người 
vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Giáo dục chuẩn bị con người 
cho xã hội là chuẩn bị cho họ có được những phẩm chất nhân cách cần thiết để trở thành người 
lao động thực sự tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Con người ấy cần có thể lực khỏe mạnh, tình 
cảm đạo đức tốt đẹp để biết sống trong cộng đồng, có trí tuệ phát triển phong phú kịp với trình 
độ phát triển của khoa học thời đại, có kĩ năng lao động cần thiết để sản xuất trong nền sản xuất 
đương đại. Những người lao động ấy chính là sản phẩm của giáo dục (theo nghĩa rộng). Vì thế 
giáo dục được coi là lực lượng sản xuất trực tiếp. Chẳng thế mà ngay từ Đại hội Đảng Cộng sản 
Việt Nam lần thứ VII (1991) và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tư, khóa VII (tháng 
1 – 1993) đã coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu và luôn đặt song song giữa chiến 
lược con người và chiến lược kinh tế quốc gia, thậm chí giáo dục phải đi trước một bước của sự 
phát triển kinh tế. Vậy có thể nói rằng, chức năng thứ nhất của giáo dục là chức năng kinh tế – 
sản xuất. Giáo dục nhằm đào tạo con người lao động mới, làm tái sản xuất sức lao động của xã 
6
hội, đào tạo ra sức lao động mới khéo léo hơn, có hiệu quả hơn để thay thế sức lao động cũ đã 
già cỗi, đã bị lạc hậu so với thời đại. Nghĩa là giáo dục nhằm đào tạo ra một năng suất lao động 
xã hội cao hơn, có tác dụng đẩy mạnh sản xuất, pháttriển kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế 
công nghiệp ở các nước tưbản chủ nghĩa phát triển (Anh, Pháp, Đức, Nhật...) đã khẳng định 
chức năng to lớn này của giáo dục. 
* Chức năng chính trị - xã hội 
Giáo dục có tác động làm thay đổi bộ mặt cấu trúc của xã hội. Giáo dục làm thay đổi cả vẻ 
mặt bên ngoài cũng nhưnội dung bên trong (hình thức, nội dung) của các nhóm xã hội; của các 
bộ phận dân cưtrong cộng đồng; của các giai cấp khác nhau (khi xã hội có giai cấp). Một số 
vấn đề đặt ra như: giáo dục là của ai? Chất lượng dân cư, dân tộc, giai cấp xã hội khác nhau như
thế nào? Tính chất bình đẳng, tính chất xã hội hóa của giáo dục nhưthế nào? Quan hệ giữa giáo 
dục, người lao động và nền sản xuất ấy, chế độ kinh tế – xã hội ra sao? v.v... Đó là những 
phạm trù luôn đặt ra trong mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng, mỗi giai đoạn nhất định của sự phát 
triển xã hội, những vấn đề này đều có liên quan đến giáo dục và giáo dục góp phần thay đổi bộ 
mặt này của xã hội. 
* Chức năng tưtưởng - văn hóa 
Giáo dục nhằm chuẩn bị lớp người mới cho xã hội. Con người mới ấy không chỉ là người 
lao động có thân thể khoẻ mạnh, có kĩ năng lao động phát triển và đáp ứng yêu cầu của nền sản 
xuất mới mà còn phải được phát triển về tâm lí, tình cảm, đạo đức và ý thức chính trị nhất định 
(đó chính là những thành phần cấu trúc nhân cách) – Đó là những yếu tố cần có của mỗi con 
người cụ thể mà giáo dục đã góp phầntạo ra bằng chính chức năng này: tưtưởng – văn hóa. ở
đây, giáo dục có tác dụng to lớn trong việc xây dựng một hệ tưtưởng cho mỗi người, hình thành 
một nếp sống mới, trên nền tảng một nền văn hóamới, nhân sinh quan mới. Trình độ dân trí của 
mỗi người sống trong cộng đồng có được nâng lên ngang tầm với đòi hỏi của nền kinh tế – xã 
hội, thời đại hay không, ý thức xã hội của mỗi người trong cộng đồng có tác động đến nền văn 
minh xã hội hay không chính nhờ giáo dục có chức năng thứ ba: Chức năng tưtưởng văn hoá. 
Nhưvậy, giáo dục đã đồng thời thực hiện ba chức năng, đó là tái sản xuất sức lao động xã 
hội, cải biến cấu trúc xã hội; hình thành ý thức hệ tưtưởng mới trên nền văn hóa mới. Với ba 
chức năng này, giáo dục đã trực tiếp tham gia vào việc đáp ứng đòi hỏi mới của một hình thái 
kinh tế – xã hội mới về lực lượng sản xuất, về quan hệ sản xuấtvà ý thức xã hội. Đồng nghĩa 
với nó, giáo dục góp phần quan trọng vào việc giải phóng con người, đem tới những quyền cơ 
bản và phúc lợi thực sự của nó cho mỗi thành viên và cả cộng đồng. 
c) Tính chất của giáo dục 
Giáo dục có những tính chất cơ bản sau đây: 
*Giáo dục là một hiện tượng xã hội,chỉ nảy sinh trong xã hội loài người, nghĩa là chỉ con 
người mới có giáo dục, còn thế giới động vật không có giáo dục mà chỉ dừng ở hoạt động bản 
năng. Giáo dục là một phương thức để duy trì và phát triển xã hội loài người. Toàn bộ vấn đề 
7
này đã được lí giải ở trên. Đây chính là đặc điểm của giáo dục – hiện tượng xã hội đặc trưng 
của con người. 
* Giáo dục là một phạm trù phổ biến và vĩnh hằng 
ưGiáo dục là một phạm trù phổ biến vì có con người là có giáo dục, dù ở đâu hoặc trong 
thời điểm nào của lịch sử. 
ưGiáo dục là một phạm trù vĩnh hằng, vì cùng là hiện tượng xã hội nhưng nhiều hiện tượng 
xã hội khác có thể nảy sinh rồi kết thúc nhưng giáo dục với tưcách là một hiện tượng xã hội, đã 
xuất hiện cùng với con người và tồn tại mãi mãi với con người nhưmột đại lượng vĩnh cửu. Thật 
thế, nhà nước với tất cả bộ máy và luật pháp của nó đã xuất hiện khi xã hội phân thành giai cấp 
với tưcách nhà nước là công cụ để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị xã hội. Khi xã hội 
tiến tới không còn giai cấp (ước mơ của nhân loại – xu thế của sự phát triển xã hội) thì nhà 
nước cùng với bộ máy và luật pháp của nó tất yếu sẽ bị tiêu vong. Còn giáo dục đã xuất hiện 
trong xã hội loài người thì mãi mãi tồn tại với xã hội, với cộng đồng bất kì trong thời điểm nào 
của lịch sử phát triển nhân loại. 
* Giáo dục mang tính lịch sử 
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, nó phản ánh mối quan hệ xã hội (người – người) một 
cách cụ thể trong thời gian và không gian nhất định. Vì thế các chuẩn mực giá trị của giáo dục 
luôn mang màu sắc và tính chất của sự tồn tại xã hội, luôn phản ánh trình độ phát triển nhất 
định của lịch sử. Và tất nhiên khi xã hội phân chiathành giai cấp thì giáo dục chứa trong nó nội 
dung của cuộc đấu tranh giai cấp ấy. Vì thế giáo dục luôn mang tính lịch sử và giai cấp (khi xã 
hội phân chia thành giai cấp) – coi đây là một quy luật của giáo dục. 
Từ việc nắm bắt quy luật trên đây của giáo dục, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định quan điểm 
cơ bản của giáo dục Việt Nam là: 
– Giáo dục là một bộ phận của cuộc cách mạng tưtưởng văn hóa. 
– Nhà trường là công cụ của chuyên chính vô sản. 
– Thầy giáo là chiến sĩ trên mặt trận tưtưởng văn hóa. 
Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) và tiếp đó là Hội nghị 
lần thứ tưcủa Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1 – 1993) đã khẳng định "cùng với 
khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu". 
1.2. Giáo dục học - giáo dục học mầm non 
Giáo dục nhưđã phân tích ở trên là một hiện tượng xã hội, đã xuất hiện cùng với loài người 
và nảy sinh trong quá trình lao động sản xuất. Chính trong cuộc sống lao động và quan hệ xã 
hội xa xưa nhất của cộng đồng người nguyên thủy đã nảy sinh giáo dục. Trong thực tiễn lao 
động và cuộc sống xã hội, người xưa đã tích lũy được những kinh nghiệm giáo dục và được lưu 
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác một cách tự nhiên trong kho tàng văn học dân gian của 
các dân tộc như: ca dao, tục ngữ, dân ca, câu đố, trò chơi, chuyện kể... 
8
Tri thức về việc giáo dục con người thời xưa (cổ đại) nằm trong bộ môn triết học (khoa học 
nghiên cứu về đời sống tinh thần). 
Đến thế kỉ XVII, lần đầu tiên xuất hiện hệ thống quan điểm giáo dục của J.A. Cômenxki 
(1592 – 1670) – Nhà giáo dục Tiệp Khắc vĩ đại với tác phẩm kiệt xuất có tựa đề "Phép giảng 
dạy lớn"viết năm 1632. Tác phẩm này chứa đựng hệ thống lí luận giáo dục của J.A. Cômenxki 
với tưcách một khoa học giáo dục con người xuất hiện – đánh dấu mốc thời gian của sự tách 
khỏi triết học một khoa học mới ra đời nghiên cứu việc giáo dục con người, đó là Giáo dục học. 
Tiếp theo J.A. Cômenxki, nhiều nhà giáo dụctiếp tục nghiên cứu làm phong phú thêm giáo
dục học ở các thế kỉ sau như: J.J. Ruxô (thế kỉ XVIII), K.D. Usinxki (thế kỉ XIX) và C. Mác – 
Ph. Ăngghen (giữa thế kỉ XIX)
(1)
. 
Vậy giáo dục học là một khoa học về việc giáo dục con người – có nhiệm vụ chỉ ra bản 
chất và nêu ra các quy luật của quá trình giáo dục con người; xác định mục tiêu giáo dục; quy 
định nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục cho trẻ em ở các đối tượng khác 
nhau nhằm đạt được hiệu quả hoạt động tối ưu trong những điều kiện, xã hội nhất định. 
Giáo dục học mầm nonlà một chuyên ngành của giáo dục học, có nhiệm vụ xây dựng lí 
luận và tổ chức khoa học quá trình giáo dục trẻ em ở độ tuổi từ 0 – 6 tuổi (trước tuổi đến 
trường phổ thông). 
Dựa trên cơ sở khoa học mang tính quy luật chung của giáo dục học và tính đến những đặc 
điểm riêng của sự phát triển tâm sinh lí của trẻ đểhình thành và phát triển nhân cách của trẻ em 
ở lứa tuổi này, giáo dục học mầm non có nhiệmvụ nghiên cứu, xác định mục tiêu, quy định nội 
dung, chỉ dẫn phương pháp và các hình thức tổ chức giáodục trẻ em ở lứa tuổi này một cách 
khoa học để đạt được hiệu quả giáo dục tối ưu cho trẻ em trong độ tuổi trước tuổi đến trường 
phổ thông. 
1.3. Quá trình giáo dục 
Quá trình giáo dục hay còn gọi là quá trình sưphạm. 
Nhưđã nói trên, quá trình giáo dục chính là một bộ phận của quá trình xã hội hình thành 
nhân cách con người. Quá trình giáo dục bao hàm những nhân tố tác động tự giác, có mục đích, 
có kế hoạch của nhà giáo dục và các tổ chức giáo dục trong việc hình thành nhân cách trẻ em. 
Quá trình giáo dục diễn ra theonhững quy luật của nó với những nét đặc trưng chủ yếu sau 
đây: 
a)Quá trình sưphạm hay quá trình giáo dục là một quá trình xã hội được tổ chức một cách 
có ý thức, có kế hoạch nhằm truyền thụ và lĩnh hội tri thức (kinh nghiệm lịch sử xã hội) và việc 
xây dựng và phát triển những nhân cách mới theo yêu cầu của xã hội cụ thể do từng thời kì lịch 
sử quy định. 
(1)
J.J. Ruxô (1712 – 1778) – Nhà giáo dục. 
K.D. Usinxki (1824 – 1870) – Nhà giáo dục Nga. 
C. Mác (1818 – 1883); Ph. Ăngghen (1820 – 1895) – Nhà sáng lập học thuyết XHCN.
9
b)Quá trình giáo dục là một quá trình tác động lẫn nhau giữa người giáo dục và người được 
giáo dục để tạo thành một quan hệ xã hội đặc biệt (quan hệ sưphạm hay quan hệ giáo dục). 
c)Quá trình giáo dục là quá trình mà người giáo dục giữ vai trò chủ đạo, tổ chức, điều 
khiển, điều chỉnh các loại hình hoạt động và giao lưu, còn người được giáo dục giữ vai trò chủ 
động, tích cực, tự giác tham gia vào các loại hình hoạt động giáo dục và giao lưu đó nhằm lĩnh 
hội những kinh nghiệm xã hội, những giá trị văn hóa của loài người. 
d) Nếu quá trình giáo dục được tổ chức tốt thì quá trình giáo dục đó là một bộ phận chủ yếu 
(hoặc toàn bộ) trong hoạt động sống (hoặc sinh hoạt) của người được giáo dục. 
Từ đây có thể đi đến định nghĩa quá trình giáo dục hay quá trình sưphạm nhưsau: 
"Quá trình giáo dục là một quá trình có tính chất xã hội nhằm hình thành con người, được 
tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch, căn cứ vào những mục đích và những điều kiện do 
xã hội quy định, được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục và được tiến hành trong các 
mối quan hệ xã hội giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm lĩnh hội những kinh 
nghiệm xã hội của loài người"
(1)
. 
2. Đối tượng của giáo dục học mầm non 
Con người là đối tượng của nhiều ngành khoa học (triết học, văn học, sử học, xã hội học, 
sinh lí học, tâm lí học...) trong đó con người cũng chính là đối tượng của giáo dục. 
Giáo dục học mầm non nghiên cứu bản chất của quá trình giáo dục, quá trình hình thành 
con người có mục đích, có kế hoạch, một hoạt động tự giác tác động đến việc hình thành nhân 
cách trẻ em của nhà giáo dục hoặc tổ chức giáodục. Trên cơ sở đó, giáo dục học mầm non xác 
định mục đích, mục tiêu giáo dục, quy định nội dung, chỉ ra phương pháp, hình thức tổ chức 
giáo dục thích hợp nhằm tổ chức tối ưu quá trình hình thành con người trong điều kiện và hoàn 
cảnh lịch sử cụ thể. Vậy đối tượng của giáo dục học mầm non chính là quá trình giáo dục trẻ em 
từ 0 – 6 tuổi. 
3. Nhiệm vụ của giáo dục học mầm non 
Giáo dục học mầm non có nhiệm vụ nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau đây: 
1) Mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục trẻ từ 0 – 6 
tuổi. 
2) Xây dựng hệ thống các nguyên tắc giáo dục mầm non. 
3) Tổ chức các hoạt động giáo dục trong các cơ sở giáo dục mầm non. 
4) Tìm ra phương hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình giáo dục trẻ em. 
Ngày nay, đường lối đổi mới giáo dục trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước 
đã vạch ra cho khoa học giáo dục nói chung vàgiáo dục học nói riêng những nhiệm vụ và nội 
(1)
Hà Thế Ngữ ưĐặng Vũ Hoạt, Giáo dục học,NXB Giáo dục, Hà Nội, 1987, T1, tr. 14.
10
dung nghiên cứu phù hợp, đáp ứng các yêu cầu xây dựng và phát triển giáo dục trong giai đoạn 
mới. 
Theo xu thế phát triển chung, giáo dục họcmầm non cần nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh 
các vấn đề lí luận cũng nhưthực tiễn giáo dục mầm non, đảm bảo vừa có giá trị định hướng, vừa 
đáp ứng nhu cầu phát triển của hoạtđộng giáo dục mầm non theo hướng đa dạng hóa, xã hội 
hóa, tạo điều kiện để hoạt động giáo dục mầm non đáp ứng các yêu cầu phát triển của xã hội và 
có cơ sở, có điều kiện hội nhập, tham gia vào hoạt động giáo dục mầm non trên thế giới và khu 
vực. 
Sau đây là một số định hướng nghiên cứu của khoa học giáo dục mầm non trong giai đoạn 
hiện nay: 
– Nghiên cứu tổng thể hiện trạng giáo dục mầm non ở từng khu vực để đánh giá chính xác 
tình hình, có giải pháp từng bước giải quyết các mâu thuẫn, bất cập. 
– Nghiên cứu hoàn thiện mục tiêu giáo dục mầm non, đáp ứng yêu cầu của xã hội trong 
giai đoạn đổi mới. 
– Nghiên cứu nhu cầu của xã hội đối với giáo dục mầm non trong tình hình hiện nay và xu 
thế phát triển của nó. 
– Nghiên cứu các loại hình giáo dục mầm non, xu thế và khả năng phát triển của loại hình 
công lập, bán công, dân lập, tư thục ở từng khu vực.Nghiêncứucácmôhìnhkhảthiđặctrưng, 
thích hợp cho từng vùng, miền.
– Nghiên cứu các giải pháp phát triển giáodục mầm non ở thôn thôn, vùng sâu, vùng xa, 
ưu tiên thiết kế chính sách đảm bảo công bằng xã hội, hỗ trợ người nghèo... 
– Nghiên cứu các điều kiện đảm bảo duy trì và nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. 
– Nghiên cứu đổi mới công tác quản lí giáo dục mầm non. 
– Nghiên cứu các giải pháp đào tạo giáo viên nhằm tăng cường số lượng và đảm bảo chất 
lượng. 
– Xác định rõ những tiêu chí cơ bản trong việc đánh giá, phân loại chất lượng ở mỗi cơ sở 
giáo dục mầm non của mỗi địa phương theo chuẩn mực quốc gia. 
– Nghiên cứu, bổ sung các thuật ngữ trong giáo dục mầm non. 
Giáo dục mầm non gắn liền và chịu ảnh hưởng trực tiếp của sự phát triển chung của xã hội, 
không chỉ vì trẻ em là nguồn nhân lực tương lai của đất nước mà còn vì cha mẹ của các em là 
nguồn nhân lực trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Bởi vậy, nghiên cứu giáo dục 
mầm non chính là góp phần đổi mới những vấn đề liên quan tới phát triển nguồn nhân lực – 
một yếu tố cực kì quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nói trên, giáo dục học mầm non phải dựa trên các thành tựu 
của khoa học hiện đại nghiên cứu trẻ em dưới 6 tuổi và liên kết phối hợp chặt chẽ với nhiều 
ngành khoa học khác. 
11
4. Mối liên hệ giữa giáo dục học mầm non với các khoa học khác
Giáo dục học mầm non là khoa họcnghiên cứu việc giáo dục con người ở độ tuổi từ 0 đến 6 
tuổi, có liên quan mật thiết với nhiều ngành khoa học nhưtriết học, sinh lí học, tâm lí học, xã 
hội học, đạo đức học, điều khiển học v.v... 
4.1. Với triết học 
Triết học là khoa học nghiên cứu các quy luật chung nhất của thế giới về sự phát triển của 
tự nhiên, xã hội và tưduy con người. 
Giáo dục học mầm non lấy triết học duy vật biện chứng làm cơ sở phương pháp luận để có 
cách tiếp cận đúng đắn với con người trong việc xây dựng lí luận khoa học và tổ chức khoa học 
quá trình giáo dục trẻ em. 
4.2. Với sinh lí học 
Sinh lí học được coi là cơ sở tự nhiên của giáo dục học. Việc nghiên cứu giáo dục học mầm 
non phải dựa vào các dữ kiện của sinh lí học về sựphát triển của hệ thần kinh cấp cao, về đặc 
điểm của hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai, về sự phát triển của các cơ quan cảm giác và vận 
động, về nhu cầu của cơ thể v.v... 
Chẳng hạn, từ đặc điểm phát triển của trẻ em từ 0 – 6 tuổi mà chúng ta xây dựng chế độ 
sinh hoạt trong ngày của trẻ, chế độ dinh dưỡng, học tập, vận động một cách khoa học. 
Những thành tựu khoa học mới về sinh lí trẻ em làm thay đổi cả lí luận và thực tiễn giáo 
dục mầm non. 
4.3. Với tâm lí học 
Tâm lí học trang bị cho giáo dục học cơ sở khoa học về việc xây dựng lí luận và tổ chức 
hoạt động thực tiễn giáo dục trẻ em theo các thời kì, với những đặc điểm phát triển tâm lí theo 
lứa tuổi. 
Hiểu một cách ngắn gọn thì tâm lí học là cơ sở khoa học của giáo dục học. Chỉ có hiểu biết 
tâm lí trẻ em mới có thể tổ chức khoa học quá trình giáo dục trẻ em và tránh được sự áp đặt đối 
với trẻ. 
4.4. Với điều khiển học 
Điều khiển học là khoa học điều khiển tối ưu các hệ thống động phức tạp. Là khoa học 
nghiên cứu logic của những quá trình trong tự nhiên và xã hội, xác định những cái chung, quy 
định những điều kiện vận hành các quá trình đó. 
Dựa vào lí thuyết điều khiển học, chúng ta có thể điều khiển quá trình dạy học và giáo dục 
đạt hiệu quả tối ưu. 
4.5. Với đạo đức học và mĩ học 
Đạo đức học, mĩ học giúp cho việc xây dựng cơ sở phương pháp luận và xác định nội dung 
phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mầm non. 
12
Tóm lại: Giáo dục học mầm non có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khoa học khác nhau và 
dựa trên các thành tựu nghiên cứu về con người của các ngành khoa học, giáo dục học mầm non 
đã từng bước hoàn thiện lí luận khoa học của mình và ngày càng đem đến hiệu quả cao cho 
công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. 
5. Phương pháp nghiên cứu giáo dục học mầm non 
Giáo dục học mầm non là một khoa học có đối tượng, nhiệm vụ và hệ thống phương pháp 
nghiên cứu của mình. Khi nghiên cứu giáo dục học mầm non với tưcách là một chuyên ngành 
của giáo dục học, chúng ta cần sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục nói 
chung, nhưng xuất phát từ đặc điểm của đối tượng, phải đặc biệt chú ý một số phương pháp sau: 
5.1. Phương pháp quan sát sưphạm 
Quan sát sưphạm là phương pháp thu thập các thông tin về đối tượng nghiên cứu bằng các 
tri giác có chủ định đối tượng và các yếu tố liên quan đến đối tượng. 
Ví dụ: Quan sát trẻ mẫu giáo trong giờ chơi để thu thập thông tin về hứng thú chơi của trẻ. 
Phương pháp quan sát sưphạm trong giáo dục mầm non được phân thành các loại nhưsau: 
– Quan sát trực tiếp – quan sát gián tiếp. 
– Quan sát toàn diện – quan sát có bố trí. 
– Quan sát lâu dài – quan sát thời gian ngắn. 
– Quan sát phát hiện – quan sát kiểm nghiệm. 
Muốn quan sát đạt hiệu quả cao cần đảm bảo những yêu cầu: 
– Xác định mục đích quan sát rõ ràng (quan sát để làm gì?) 
– Xây dựng kế hoạch, tiến trình quan sát. 
– Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt: lí luận, thực tiễn, các phương tiện cần thiết có liên quan 
đến mục đích quan sát. 
– Tiến hành quan sát cẩn thận và có hệ thống. 
– Ghi chép khách quan, chính xác (các sự kiện, hiện tượng, số liệu đúng nhưđối tượng 
bộc lộ). 
– Lưu giữ tài liệu quan sát phải cẩn thận và thuận tiện sử dụng. 
Phương pháp quan sát sưphạm có khả năng thu thập được nhiều tài liệu cụ thể, sinh động, 
tự nhiên, làm cơ sở cho quá trình tưduy khoa học. Song đây là phương pháp phụ thuộc nhiều 
vào chủ quan của người quan sát, nếu người quan sát không được trang bị những tri thức cần 
thiết và kĩ năng sử dụng phương pháp này thì sẽ dẫn tới tình trạng tài liệu thu được thiếu khách 
quan, không đảm bảo chất lượng. 
13
5.2. Phương pháp trò chuyện (đàm thoại) 
Trò chuyện là phương pháp đặt ra câu hỏi cho người đối thoại và dựa vào câu trả lời của họ 
để thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu. 
Ví dụ:Trò chuyện với giáo viên, trò chuyện với trẻ em. 
Trò chuyện được phân thành các loại sau đây: 
– Trò chuyện trực tiếp. 
– Trò chuyện gián tiếp. 
– Trò chuyện thẳng. 
– Trò chuyện đường vòng. 
– Trò chuyện bổ sung. 
– Trò chuyện đi sâu. 
– Trò chuyện phát hiện. 
– Trò chuyện kiểm nghiệm. 
Tùy theo mục đích, điều kiện, hoàn cảnh và đặc điểm của đối tượng mà vận dụng các hình 
thức trò chuyện cho phù hợp. 
Khi trò chuyện, muốn thu được tài liệu có chất lượng phải tôn trọng các yêu cầu: 
– Xác định rõ mục đích, yêu cầu. 
– Cần tìm hiểu người đối thoại để lựa chọn cách trò chuyện cho phù hợp (hiểu tính cách, 
hứng thú, năng lực, khí chất, hoàn cảnh...). 
– Quá trình trò chuyện phải có ý thức khéo léo lái câu chuyện vào đúng mục đích, tránh 
tràn lan làm loãng chủ đề. 
– Cần tạo không khí tự nhiên, thân mật, cởi mở trong khi trò chuyện. Không nhất thiết 
phải ghi chép các câu trả lời của đối tượng. 
Phỏng vấn cũng là một dạng của đàm thoại, các câu hỏi phải chuẩn bị trước và được hỏi 
theo một trình tự nhất định, các câu trả lời cần được ghi chép một cách công khai. Trong phỏng 
vấn người ta dùng cả phương tiện kĩ thuật hiện đại nhưmáy ảnh, máy ghi âm hoặc ghi hình để 
giữ lại tưliệu nghiên cứu. 
5.3. Phương pháp điều tra 
Điều tra là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lượng đối tượng 
nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến của họ về một vấn đề nào đó. 
ýkiến trả lời có thể được viết ra hoặc trình bày bằng miệng do người điều tra ghi lại. 
Điều tra có thể phân loại nhưsau: 
– Điều tra thăm dò (câu hỏi rộng và nông) nhằm thu thập tài liệu ở mức sơ bộ về đối 
tượng. 
– Điều tra đi sâu (câu hỏi hẹp và sâu) nhằm khai thác sâu sắc một vài khía cạnh nào đó 
của đối tượng nghiên cứu. 
– Điều tra bổ sung nhằm thu thập tài liệu bổ sung cho các phương pháp khác. 
14
Căn cứ vào mục đích, tính chất của việc điều tra, người ta có thể sử dụng nhiều dạng câu 
hỏi khác nhau: 
+ Câu hỏi "đóng"là những câu hỏi có kèm theo phương án trả lời. Người được trưng cầu ý 
kiến có thể lựa chọn một hoặc một vài phương án phù hợp với nhận thức của mình. 
+ Câu hỏi "mở"là những câu hỏi không có phương án trả lời sẵn và người được trưng cầu ý 
kiến tự trả lời. 
Sử dụng phương pháp điều tra có thể trong một khoảng thời gian ngắn thu thập được ý kiến 
của nhiều người ở một phạm vi rộng, tuy nhiên độ tin cậy của tài liệu thu được bị hạn chế, bởi 
vì nó phụ thuộc vào chủ quan của người trả lời. 
Để có tài liệu tương đối chính xác phải điều tra nhiều lần và đảm bảo số lượng người được 
hỏi đủ lớn. Các câu hỏi cần xây dựng theo một hệ thống, chúng ràng buộc lẫn nhau, kiểm tra 
lẫn nhau để có thể buộc người trả lời phải bộc lộ ý nghĩ thật của mình. 
5.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục 
Tổng kết kinh nghiệm giáo dục là phương pháp đi từ thực tiễn giáo dục, dùng lí luận phân 
tích thực tiễn, từ phân tích thực tiễn mà rút ra lí luận. 
Trong khoa học giáo dục nói chung và giáo dục học mầm non nói riêng, tổng kết kinh 
nghiệm, tức là dùng cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác–Lênin, đường lối quan điểm giáo dục của 
Đảng, dùng tri thức về khoa học giáo dục mầm non và các khoa học khác để tìm hiểu, phân 
tích, đánh giá các kinh nghiệm có tác dụng tích cực trong thực tiễn giáo dục, từ đó rút ra những 
bài học mang tính lí luận, lí luận đó được chỉ đạo trở lại thực tiễn giáo dục. 
Ví dụ:Kinh nghiệm phòng chống trẻ suy dinh dưỡng ở trường mầm non; kinh nghiệm huy 
động trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo; kinh nghiệm của các điển hình tiên tiến trong công tác chăm 
sóc giáo dục trẻ; kinh nghiệm quản lí của hiệu trưởng trường mầm non. 
Khi sử dụng phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục cần đảm bảo một số yêu cầu sau: 
– Phát hiện, xác định đúng đối tượng nghiên cứu. Tức là kinh nghiệm có thật và đang tồn 
tại chứ không phải là những dự định sẽ làm hoặc đã làm nhưng chưa tới mức gọi là kinh 
nghiệm. Muốn vậy phải kiểm tra kĩ và đánh giá chính xác hiệu quả đã đạt được do kinh nghiệm 
mang lại. 
– Khi thu thập, xử lí các số liệu phải hết sức khách quan. Muốn vậy phải thu thập, xử lí 
thông tin từ nhiều nguồn và bằng nhiều phương pháp khác nhau như: Phương pháp trò chuyện, 
phương pháp quan sát, phương pháp điều tra. 
– Những lí luận tổng kết từ kinh nghiệm cần tiếp tục khẳng định và phát triển, đồng thời 
phải đem ứng dụng vào thực tế để "nhân"kinh nghiệm bằng cách chỉ đạo điểm hoặc thực 
nghiệm khoa học. 
5.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động 
Nghiên cứu sản phẩm hoạt động là phương pháp tìm hiểu con người thông qua sản phẩm do 
họ tạo ra. 
15
Ví dụ: Nghiên cứu sản phẩm nặn, vẽ, xé dán của trẻ mẫu giáo 5 tuổi để hiểu đặc điểm và 
khả năng sáng tạo của trẻ. Hoặc nghiên cứu sản phẩm của giáo viên mầm non để hiểu về chính 
họ. 
Khi nghiên cứu sản phẩm hoạt động cần nắm được đầy đủ điều kiện và quá trình hoạt động 
của con người đưa đến sản phẩm. Tức là chúng ta không chỉ tìm hiểu con người làm ra cái gì, 
mà quan trọng hơn là làm nhưthế nào? Bởi vì các sản phẩm và năng lực của con người thường 
bộc lộ qua những điều kiện và quá trình làm ra sản phẩm. 
5.6. Phương pháp thực nghiệm sưphạm 
Thực nghiệm sưphạm là phương pháp nghiên cứu một cách chủ động, có hệ thống một hiện 
tượng giáo dục nhằm xác định mối quan hệ giữa tác động giáo dục với hiện tượng giáo dục cần 
được nghiên cứu trong những điều kiện đã được khống chế. 
Nét đặc trưng của phương pháp thực nghiệm sưphạm là nhà nghiên cứu chủ động tạo ra 
điều kiện nghiên cứu và khi cần thiết có thể lặp lại nhiều lần điều kiện đó. 
Thường có 2 loại thực nghiệm: thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thí 
nghiệm. 
– Thực nghiệm tự nhiên là những thực nghiệm được tiến hành trong điều kiện bình thường 
của quá trình sưphạm. 
– Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là những thực nghiệm được tiến hành trong điều 
kiện khống chế nhằm xác định mặt định tính, định lượng và bản chất của hiện tượng giáo dục. 
Phương pháp thực nghiệm cho phép người nghiên cứu tìm hiểu sâu bản chất của hiện tượng 
giáo dục để từ đó phát hiện ra cái mới, nhưng đây là phương pháp đòi hỏi sự chuẩn bị công phu 
cả về lí luận cũng nhưcông việc và trang thiết bị kĩ thuật khi tiến hành thực nghiệm. 
Thực nghiệm sưphạm có thể được tiến hành theo các bước sau đây: 
Bước 1: Xác định được vấn đề thực nghiệm với mục đích rõ ràng. 
Bước 2: Nêu giả thuyết và xây dựng đề cương thực nghiệm. 
Bước 3: Tổ chức thực nghiệm. 
Gồm các công việc: 
– Chọn mẫu thực nghiệm. 
– Bồi dưỡng cộng tác viên. 
– Theo dõi thực nghiệm: quan sát, ghi chép, đo đạc. 
Bước 4: Xử lí kết quả thực nghiệm, rút ra kết luận khoa học. 
Ngày nay, khoa học công nghệ phát triển mạnh, nhiều phương tiện kĩ thuật hiện đại được sử 
dụng trong nghiên cứu khoa học giáodục. Máy vi tính là một phương tiện hiện đại giúp cho 
việc xử lí kết quả thực nghiệm nhanh, chính xác và tiện lợi. 
Yêu cầu nghiêm ngặt của thực nghiệm sưphạm là khi tiến hành thực nghiệm sưphạm, 
không được làm đảo lộn hoạt động bình thường của quá trình sưphạm, và chỉ tiến hành trong 
16
những điều kiện và tiêu chuẩn nghiêm ngặt với luận cứ khoa học để đảm bảo việc đưa những cái 
mới đã được kiểm tra vào quá trình sưphạm. 
II. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ em lứa tuổi mầm non 
Nhưta đã biết, giáo dục có chức năng chuyên biệt là hình thành và phát triển nhân cách, là 
tái sản xuất sức lao động xã hội, là tái sản xuất con người... Con người là vốn quý nhất của xã 
hội, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội. 
ởđây chúng ta sẽ phân tích mối quan hệ giữa giáo dục với sự phát triển nhân cách, xác 
định các nhân tố và tác động của các nhân tố đó đến sự hình thành và phát triển nhân cách của 
trẻ em nhưthế nào. 
1. Khái niệm về con người và sự phát triển nhân cách trẻ em lứa tuổi mầm non 
Có nhiều quan niệm khác nhau về con người. 
1.1. Khái niệm "con người"trước khi có chủ nghĩa Mác 
Thời cổ đại, do trình độ phát triển thấp của khoa học, con người còn quá phụ thuộc vào tự 
nhiên nên không lí giải được một cách khoa học về nguồn gốc của con người và bản chất (nhân 
cách) của nó. Người xưa bất lực trước những vấn đề gay cấn này nên trong triết học xuất hiện 
trường phái "Bất khả tri"– không hiểu nổi con người và bản chất của nó. 
Tiếp đó, con người hiểu được nhưng theo quan niệm duy tâm. Điều này nói lên trong quan 
niệm xưa (trong các triết lí tôn giáo) với nhiều cách lí giải khác nhau, bằng nhiều ngôn từ khác 
nhau nhưng đều gặp nhau ở một quan niệm là: 
– Con người do Thượng đế sinh ra. 
– Bản chất (nhân cách) con người là cái mà Thượng đế phú cho. 
Với quan niệm này thì con người bất lực trước chính mình, vì tất cả đều phụ thuộc vào sức 
mạnh bên ngoài chúng ta, nhân cách là cái gì hết sức trừu tượng, là cái "Trời"cho nên nó là 
phạm trù bất biến. 
Về sau, trên cơ sở phát triển của khoa học tựnhiên (nhất là của sinh học thế kỉ XIX) xuất 
hiện luận điểm duy vật nhưng còn mang tính chất siêu hình. Các triết gia này cho rằng, con 
người là sản phẩm của tự nhiên nhưng "bản chất"của con người (nhân cách) chỉ được lí giải 
dưới góc độ bản năng sinh vật. Điển hình là quan điểm của Phơ rớt (1856 – 1939, bác sĩ tâm 
thần người áo). 
1.2. Con người và nhân cách theo quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen 
C. Mác và Ph. Ăngghen là người sáng lập ra Triết học duy vật biện chứng – dòng triết học 
khoa học nhất của nhân loại tính đến giữa thế kỉ XIX.
Dựa trên thành tựu mới về sinh học của thế kỉ XIX và đứng trên quan điểm triết học duy vật 
biện chứng, Mác và Ăngghen đã nhìn nhận con người trong tiến trình phát triển tiến hóa của 
loài và phát triển của lịch sử xã hội. Để có quan điểm biện chứng này về con người, Mác và 
17
Ăngghen đã tiếp thu có phê phán những quan điểm tiến bộ, khoa học về con người của La Mác 
– nhà sinh vật học Pháp và Đác Uyn – nhà sinh vật học Anh của thế kỉ XIX cùng với những 
quan điểm duy vật trong triết học của Phơ Bách và phép biện chứng của Hêghen (những triết gia 
cổ điển Đức thế kỉ XIX). 
Theo Mác và Ăngghen thì con người vừa là "con"vừa là "người"
(1)
. 
– "Con": là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự tiến hóa sinh vật của loài mà thành. 
Nhưvậy, lần đầu tiên trong lịch sử, Mác vàĂngghen đã tìm thấy nguồn gốc của con người 
và nhân cách nằm ngoài sức mạnh của chúa Trời. 
Trước hết con người là con (sinh vật) nên nó có những đặc điểm, cấu trúc và cơ chế sinh 
học của loài. 
ưHai là, con người không chỉ là thực thể tự nhiên (con) mà còn là "người" – là sản phẩm 
của lịch sử xã hội. Điều này được hai ông nói rõ trong tác phẩm "Lút Vích Phoi-ơ-Bắc và sự cáo 
chung của triết học cổ điển Đức"bằng luận điểm nổi tiếng là "... Bản chất con người không 
phải là một cái trừu tượng, cố hữu của mỗi cá nhân riêng lẻ. Trong tính hiện thực của nó, bản 
chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội"
(2)
. 
Nhưvậy, theo Mác và Ăngghen thì bản chất của con người là điều có thể nhận biết được. 
– "Nhân cách"không phải là phạm trù cố hữu. 
– Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội – nghĩa là do mối quan hệ xã 
hội (quan hệ giữa người với người; quan hệ kinh tế – xã hội; do hoàn cảnh lịch sử cụ thể xung 
quanh con người tạo nên). ởđây, tất cả môi trường xung quanh luôn tác động đến con người 
đang sống trong đó; thông qua sự tiếp nhận, phản ứng có ý thức của con người với những tác 
động của môi trường mà tạo nên cái riêng trong mỗi con người (đó chính là nguồn gốc của nhân 
cách). 
Đây chính là quan điểm động mang tính biện chứng duy vật. ởđây Mác và Ăngghen đã 
giải thích nội hàm của nhân cách; nguồn gốc và cơ sở hình thành nhân cách. Điều này có ý 
nghĩa to lớn đối với việc hình thành và phát triển nhân cách của con người. 
Đứng trên luận điểm duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen về con người, khoa học giáo 
dục hiện đại đã đạt được nhiều thành tựu mới về lĩnh vực này. ởđây, những đặc điểm sinh học 
của mỗi con người có ảnh hưởng nhất định đến quá trình hình thành các phẩm chất nhưtài 
năng, xúc cảm, sức khỏe, thể chất... song ảnh hưởng của nó chỉ tạo nên cái nền, chỉ tác động 
đến tốc độ, cường độ mạnh yếu của nhân cách chứ không quyết định nội dung ý thức, nội dung 
nhân cách mà chất lượng của nhân cách là do sự tham gia của con người vào quá trình lịch sử 
– xã hội cụ thể quy định, cái mà Mác và Ăngghen nói: "... là tổng hòa các mối quan hệ xã 
hội...". 
(1)
Xem lígiảinguồn gốc con ngườicủa Ph. Ăngghen trong tác phẩm "Vaitrò của lao động trong sự chuyển biến 
từvượn thành người". 
(2)
Ph. Ăngghen ưC. Mác, Lút Vích Phoi-ơ Bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức,
. 
NXB Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 99.
18
Nói nhưvậy không có nghĩa là "quan hệ xã hội" làm hạ thấp vai trò của nhân tố sinh học 
trong đời sống con người. Trở lại vấn đề này, ta phải xác định rõ vai trò của từng nhân tố trong 
việc hình thành và phát triển cá nhân ra sao trên quan điểm triết học duy vật biện chứng. 
1.3. Thế nào là sự phát triển nhân cách? 
Sự phát triển nhân cách là quá trình trưởng thành (lớn lên về lượng và đặc biệt có sự biến 
đổi cơ bản về chất) về thể chất, về tâm lí và về xã hội của cá nhân. 
– Sự phát triển về mặt thể chất biểu hiện ở sự tăng trưởng của cơ thể về chiều cao, cân 
nặng, cơ bắp, hoàn thiện các giác quan, phối hợp các vận động cơ bản của cơ thể. 
– Sự phát triển về mặt tâm lí biểu hiện ở những biến đổi cơ bản trong quá trình nhận thức, 
xúc cảm, tình cảm, ý chí, ở sự hình thành các thuộc tính tâm lí mới của nhân cách. 
– Sự phát triển về mặt xã hội của cá nhân biểu hiện ở những biến đổi trong ứng xử của cá 
nhân đó với những người xung quanh, ở sự tích cực tham gia của cá nhân đó vào đời sống xã 
hội. 
Cần nhấn mạnh rằng, sự phát triển của nhân cách không chỉ diễn ra đối với những thuộc 
tính mới được hình thành trong quá trình sống mà còn đối với cả các yếu tố mang tính chất bẩm 
sinh, di truyền. 
Sự phát triển cá nhân là kết quả tác động của nhiều yếu tố: tự nhiên và xã hội, bên trong và 
bên ngoài, khách quan và chủ quan,tự phát và có ý thức... được thể hiện qua những yếu tố chính 
là: di truyền, bẩm sinh; môi trường; giáo dục và hoạt động cá nhân. 
Các cô giáo mầm non cần có sự hiểubiết khoa học về các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình 
thành và phát triển nhân cách trẻ để làm tốt công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em lứa tuổi tiền 
học đường. 
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ em lứa 
tuổi mầm non 
2.1. Yếu tố bẩm sinh, di truyền 
– Bẩm sinh là những yếu tố sinh học có sẵn trong mỗi con người, mang dấu ấn của loài 
khi mới sinh ra. Ví dụ: màu da, màu mắt, loại hình thần kinh, trẻ bị tật nguyền, trẻ có năng 
khiếu... 
– Di truyền là sự tái tạo ở trẻ những thuộc tính sinh học nhất định của cha mẹ, của loài là 
sự truyền lại từ thế hệ trước cho thế hệ sau những phẩm chấtvà những đặc điểm sinh học nhất 
định đã được ghi lại trong chương trình các gen. Ví dụ:con cái có thể giống cha mẹ về vóc 
dáng, hình thù, màu tóc, nước da, loại hình thần kinh, sự thông minh, năng khiếu riêng của bố, 
mẹ... 
Có nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về việc đánh giá vai trò của yếu tố 
bẩm sinh, di truyền trong việc hình thành và phát triển nhân cách. 
19
Quan điểm duy tâm trong "Thuyết ưu sinh"đã tuyệt đối hóa yếu tố di truyền. Theo họ, trẻ 
em sinh ra có những yếu tố sinh học thuận lợi hoặc bất lợi sẽ quyết định mặt "thiên tài"hoặc 
"đần độn"sau này của trẻ. Theo quan điểm này, điển hình là phái "Nhi đồng học"(Pedalog

File đính kèm:

  • doctieu_luan_nhung_van_de_li_luan_chung_cua_giao_duc_hoc_mam_no.doc