Tiểu luận Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ
Tiểu luận "Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ" MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 PHẦN NỘI DUNG 4 CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG 4 Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 4 Phân phối thu nhập là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội 4 Phân phối thu nhập là một mặt của quan hệ sản xuất 5 Những chức năng cơ bản của phân phối thu nhập 5 Phân phối thu nhập theo lao động: 5 Phân phối thu nhập theo vốn đóng góp 6 Phân phối thu nhập thông qua phúc lợi xã hội 6 Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 6 CHƯƠNG II: Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua ở Việt Nam 8 Chính sách tiền lương 8 1/ Chính sách tiền lương sau đợt cải cách tiền lương năm 1993. 8 Chính sách thuế 10 Chính sách bảo hiểm xã hội 11 Chính sách việc làm 12 PHẦN KẾT LUẬN 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 16 MỤC LỤC 17 LỜI MỞ ĐẦU trang 1 17 Chương I: Lý luận chung trang 2 - 6 17 Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ..trang 2 - 4 17 Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trang 4 - 6 17 Chính sách tiền lương .trang 6 - 8 17 Chính sách thuế .trang 8 - 11 17 Chính sách bảo hiểm xã hội ...trang 11 - 12 17 Chính sách việc làm trang 12 - 12 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO 17 LỜI MỞ ĐẦU Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ là một khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuát và là một trong ba mặt của hệ thống quan hệ sản xuất, có liên quan trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các tổ chức, các chủ thể và cá nhân trong xã hội. Phân phối thu nhập vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, vừa là thước đo mức độ phát triển giữa sản xuất và tiêu dùng. Vì vậy mà từ lâu nó đã trở thành vấn đề nhạy cảm, chi phối sự vận động của quá trình kinh tế – xã hội, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mô hình mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Xuất phát từ vai trò quan trọng của phân phối thu nhập, Ngay từ những ngày đầu trong công cuộc xây dựng đất nước, Đảng ta đã hết sức quan tâm đến việc cải tiến, từng bước hoàn thiện quan hệ phân phối thu nhập.Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối thu nhập là chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức độ đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua quỹ phúc lợi xã hội”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã rất quan tâm đến vấn đề này. Ở nước ta trong những năm qua đã có nhiều cố gắng để giải quyết vấn đề phân phối thu nhập. Đặc biệt rõ nét là từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đến nay, hàng lọat các chính sách kinh tế được áp dụng để giải quyết vấn đề tiền lương, lợi nhuận, lợi tức địa tô, bảo hiểm, trợ cấp xã hội... nhằm tháo gỡ những khó khăn trong phân phối lưu thông, để “cởi trói” cho lĩnh vực sản xuất. Tuy nhiên vấn đề phân phối thu nhập vẫn còn nhiều khiếm khuyết, đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Vấn đề đặt ra là cần làm sao để phân phối thu nhập phải dựa trên các nguyên tắc của kinh tế thị trường một cách triệt để. Vì vậy, chúng ta cần phải đi sâu nghiên cứu thêm về vấn về này từ đó đưa ra được các giải pháp thích hợp để phân phối thu nhập ngày càng hợp lý, đảm bảo công bằng trong xã hội. Từ đó đẩy mạnh phát triển kinh tế đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội./. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 1/ Bản chất và vị trí của phân phối thu nhập. Phân phối thu nhập là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội: Quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm 4 khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Các khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Phân phối thu nhập phụ thuộc vào sản xuất, do sản xuất quyết định và có tác động trở lại tạo động lực thúc đẩy sản xuất phát triển; Ph.Ăngghen viết: “Phân phối thu nhập không phải chỉ đơn thuần là kết quả thụ động của sản xuất và trao đổi. Nó cũng có tác động trở lại đến sản xuất và trao đổi”. Phân phối thu nhập cũng liên quan mật thiết với việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Phân phối thu nhập là một mặt của quan hệ sản xuất: Theo C.Mác: “Quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với quan hệ sản xuất ấy, chúng cấu thành mặt sau của quan hệ sản xuất ấy”. Xét về quan hệ giữa người với người thì phân phối thu nhập do quan hệ sản xuất quyết định. Vì vậy, mỗi phương thức sản xuất có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó. Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau. Quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan hệ sở hữu. Các quan hệ phân phối vừa có tính đồng nhất vừa có tính lịch sử. Phân phối có tác động rất lớn đối với sản xuất nên Nhà nước cách mạng cần sử dụng phân phối như là một công cụ để xây dựng chế độ mới, để phát triển kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa. Những chức năng cơ bản của phân phối thu nhập: Cùng với lưu thông nối liền sản xuất với tiêu dùng Xác định tỉ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng trong thu nhập quốc dân để đảm bảo công bằng xã hội Các hình thức phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Phân phối thu nhập theo lao động: Phân phối theo lao động tức là dùng thước đo số lượng, chất lượng lao động để đo mức độ cống hiến và hưởng thụ của người lao động. Căn cứ phân phối theo lao động: + Số lượng lao động. + Chất lượng lao động. + Tính chất lao dộng. + Điều kiện và môi trường của người lao động. + Các ngành nghề cần đươc khuyến khích. - Ưu điểm: + Kích thích người lao động quan tâm đến kết quả lao động, nâng cao năng suất lao động. + Tạo điều kiện cho người lao động phát triển toàn diện. + Góp phần phân phối và sử dụng hợp lý nguồn lao động - Khuyết điểm: Theo C.Mác, phân phối theo lao động về nguyên tắc vẫn là sự bình đẳng trong khuôn khổ “Pháp quyền tư bản”. Phân phối thu nhập theo vốn đóng góp: Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là một nền kinh tế nhiều thành phần, để có thể khai thác được khả năng của nền kinh tế, huy động được mọi nguồn vốn trong xã hội và phát triển sản xuất cần phải có hình thức phân phối theo vốn đóng góp. Hình thức thực hiện: + Trong kinh tế tư bản nhà nước, phần giá trị mới được phân thành khoản trả công lao động và quản lý, khoản nộp thuế chi nhà nước, phần còn lại được chia theo số lượng cổ phần dưới hình thức lợi tức. + Trong thành phần kinh tế tư bản tư nhân phần giá trị mới được phân thành khoản trả công lao động và quản lí, khoản nộp thuế cho nhà nước, phần còn lại là lợi nhuận của nhà tư bản. + Trong xã hội nhiều tầng lớp dân cư có những khoản thu nhập dưới hình thức tiền tệ tạm thời để rỗi chưa sử dụng, họ đem gửi ngân hàng hoặc cho vay để nhận lợi tức. Phân phối thu nhập thông qua phúc lợi xã hội: Trong xã hội ngoài những người có vốn, có sức lao động góp vào quá trình sản xuất để nhận được thu nhập còn có nhũng người không có khả năng lao động (tật nguyền) hoặc hết khả năng lao động mà xã hội vẫn phải đảm bảo cuộc sống của họ. Đồng thời để đảm bảo công bằng xã hội, những người lao động ngoài thu nhập về tiền lương, tiền công, đặc biệt là những người có thu nhập thấp cũng cần nhận được một phần thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Phân phối thông qua trợ cấp xã hội có ý nghĩa quan trọng, phát huy tính tích cực của mọi thành viên trong xã hội, góp phần nâng cao mức sống của nhân dân đặc biệt là những người có thu nhập thấp, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện để giáo dục ý thức cộng đồng. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 1/ Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Trong “Bài nói tại hội nghị rút kinh nghiệm công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp toàn miền Bắc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Sản xuất được nhiều đồng thời phải chú ý phân phối cho công bằng. Muốn phân phối cho công bằng, cán bộ phải chí công vô tư thậm chí có khi cán bộ vì lợi ích chung mà phải chịu thiệt một phần nào. Chớ nên cái gì tốt thì dành cho mình, xấu để người khác.” Đứng trên tư tưởng này, Người đã phê bình những việc làm sai trái của các cấp chính quyền và của cá nhân một số cán bộ đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng: "Phân phối phải theo mức lao động. Lao động nhiều thì được phân phối nhiều, lao động ít thì được phân phối ít. Lao động khó thì được phân phối nhiều, lao động dễ thì được phân phối ít. Không nên có tình trạng người giỏi, ngưòi kém, việc khó việc dễ cũng công điểm như nhau. Đó là chủ nghĩa bình quân. Phải tránh chủ nghĩa bình quân.” Bằng những bài nói và viết xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, chủ tịch Hồ Chí minh đã để lại cho chúng ta những quan điểm, tư tưởng cơ bản về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những quan điểm và tư tưởng đó mang đậm tính nhân văn. 2/. Quan điểm của Đảng ta về phân phối thu nhập: Từ khi đất nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến nay, Đảng ta luôn nhận thức rằng phân phối thu nhập là một nội dung quan trọng trong chính sách kinh tế - xã hội của đất nước. Trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế nhằm trở lại với những tư tưởng đích thực của chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta xác định phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải trên cơ sở sự đóng góp thực tế của mỗi người về lao động, tài năng, vốn, tài sản vào quá trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra xã hội phải điều tiết thu nhập cá nhân giữa những người có thu nhập cao, thấp khác nhau do đóng góp sức lao động và các nguồn lực vào sản xuất khác nhau nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Việc thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi mộtc cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính chất bình quân áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt vói kết quả lao động và hiệu quả kinh tế”. Phải thực hiện phân phối một cách công bằng “ở cả khâu phân phối hợp tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”. Quan điểm phân phối được bắt nguồn từ mục đích tối cao của đảng là dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nó thể hiện đặc trưng của quan hệ phân phối trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lấy phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần kinh tế làm phương tiện. Đây là quan điểm mới về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc thực hiện quan điểm đó sẽ tạo nên động lực cho việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội vào sự nghiệp phát triển đất nước. CHƯƠNG II: Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua ở Việt Nam Cơ chế phân phối thu nhập ở nước ta bao gồm các nguyên tắc phân phối của kinh tế thị trường (chịu ảnh hưởng của quy luật giá trị) và nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội (chịu ảnh hưởng của quy luật kinh tế cơ bản và quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân). Cơ chế phân phối bao Chính sách tiền lương. 1/ Chính sách tiền lương sau đợt cải cách tiền lương năm 1993 Nhìn lại sau những năm áp dụng chính sách lương mới, chúng ta thấy có nhiều ưu điểm và tiến bộ so với hệ thống tiền lương trong thời kỳ bao cấp, như Nghị quyết phiên họp thường kỳ (tháng 8-2001) của Chính phủ cũng đã đánh giá : "... thực hiện phân phối công bằng hơn, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả công tác". Tuy vậy, trong nền kinh tế thị trường luôn có những biến động về giá cả., trong khi tiền lương lại chủ yếu nằm trong trạng thái tĩnh, ít có thay đổi trong cả hệ thống thang bảng lương, cho nên nó đã bộc lộ nhiều mặt hạn chế. - Hạn chế : + Tiền lương thực tế vẫn chưa làm được chức năng tái sản xuất sức lao động. Mức lương của nhiều chức danh chưa thể chu cấp đủ để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống đã được tiền tệ hóa vào lương. Mức lương tối thiểu còn quá thấp, mặc dầu đã qua 3 lần điều chỉnh (từ 120 lên 144, 180, 210 ngàn đồng), nhưng mới bù lại phần nào giá trị thực tế của tiền lương bị giảm đi do lạm phát. + Hệ thống thang bảng lương năm 1993 chưa thực sự khuyến khích người lao động phấn đấu về mặt chuyên môn, mà còn vô tình đưa công chức chạy đua theo chức vụ. Hậu quả là chính sách tiền lương chưa thực sự khuyến khích nguồn lao động, chưa khuyến khích các tài năng, đặc biệt là tài năng trẻ. + Tình trạng bất hợp lý và không công bằng vẫn còn là vấn đề bức bách của chính sách tiền lương hiện nay. Điều đó được thể hiện trên cả hai khía cạnh : Thứ nhất, tình trạng bình quân chủ nghĩa vẫn chưa được khắc phục, thứ hai, tình trạng bất hợp lý do vẫn tồn tại nhiều ngành, nhiều cơ quan và khu vực có sự chênh lệch quá mức về thu nhập, hình thành nhiều khoản thu và chia chác trong các cơ quan mà Nhà nước không quản lý nổi. + Những chênh lệch ấy đang là lý do cả về vật chất lẫn ý thức làm cho người lao động coi tiền lương là một khoản "thu nhập phụ", Nhà nước không quản lý được thu nhập... và chúng đang gây ra những hậu quả tiêu cực, như : hạch toán sai, báo cáo không đầy đủ, giấu nguồn thu, trốn thuế thu nhập, sử dụng thu nhập mập mờ, tùy tiện, cản trở kiểm tra, kiểm soát + Diện hưởng lương từ ngân sách nhà nước quá rộng, cơ cấu bất hợp lý và vẫn mang nặng tính chất bao cấp. - Những giải pháp để cải cách tiền lương: + Tìm cách giảm tỷ lệ tích lũy từ ngân sách nhà nước để có nguồn cho việc nâng tiền lương, mà vẫn không làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng nền kinh tế. + Tìm cách giảm bao cấp, bao biện từ ngân sách nhà nước bằng cách sớm nghiên cứu để phân định lại ranh giới giữa hành chính với sự nghiệp, tách khối sự nghiệp ra khỏi khối hành chính về áp dụng chính sách tiền lương. + Tìm nhiều biện pháp để giảm gánh nặng chi ngân sách nhà nước, như chuyển hẳn số biên chế phục vụ, như nhân viên bảo vệ, lái xe, tạp vụ, văn thư... sang dạng lao động hợp đồng, lương hợp đồng sẽ cao hơn lương ngạch bậc hiện nay dễ có điều kiện cho người lao động thuộc các ngạch bậc quá thấp tự nguyện lựa chọn việc làm cải thiện cuộc sống. Và tránh được tình trạng bao biện sinh ra từ chế độ biên chế suốt đời, khuyến khích mọi người hăng say học tập để nâng cao dân trí, tăng cường chất lượng và hiệu quả công tác. + Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế cấp phát ngân sách hiện hành bằng cách áp dụng cơ chế khoán kinh phí hoạt động, khoán quỹ lương theo chức năng nhiệm vụ. 2/ Cải cách chính sách tiền lương 2004: Ngày 25-12-2004, Ban chỉ đạo nghiên cứu chính sách tiền lương Nhà nước đã họp báo công bố các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách tiền lương mới của Ban Bí thư, ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ. Theo Bộ trưởng Đỗ Quang Trung, chính sách tiền lương có một số điểm mới căn bản: Về lương tối thiểu, đã nhiều lần được điều chỉnh, từ 120.000 (năm 1993) lên 290.000 đồng (năm 2003). Và từ 1-10-2004, cho phép khu vực hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước được áp dụng mức lương tối thiểu khác nhau tùy thuộc vào nguồn trả lương của từng khu vực này. Tuy nhiên việc tăng lương lần này là không đáng kể, chưa giải quyết triệt để vấn đề trả lương theo đúng năng suất lao động, tạo động lực để làm việc. Chính sách thuế. Trước yêu cầu khách quan và đòi hỏi cấp bách thực hiện tốt nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ của cách mạng, từ năm 1990, việc cải cách hệ thống thuế đã được tiến hành. Từ năm 1995 đến nay, ngành thuế bước sang giai đoạn cải cách thuế bước 2 và đã đạt được những kết quả quan trọng. Có thể nói từ năm 1990 đến nay, khi điều hành cải cách hệ thống thuế, tình hình trong nước và thế giới có nhiều yếu tố không thuận lợi. Nhằm bảo đảm được những mục tiêu lớn đặt ra trong quá trình cải cách, toàn ngành thuế đã nỗ lực xây dựng một hệ thống chính sách, một cơ chế quản lý phù hợp yêu cầu thời kỳ mới. Kết quả cải cách đã mang lại những thành tựu kinh tế đáng tự hào, sau mười năm đưa tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng hơn gấp đôi (2,07 lần). Cơ cấu kinh tế đã có sự thay đổi, tỷ trọng nông nghiệp giảm; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng nhanh. Tổng kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng qua các năm, bảo đảm nguồn ngoại tệ phục vụ nhập khẩu thiết bị, vật tư, nguyên nhiên vật liệu cho phát triển sản xuất và đời sống. Tổng thu thuế và phí luôn hoàn thành vượt mức dự toán thu hằng năm được Quốc hội thông qua, đạt tốc độ tăng trưởng cao. Năm 2000 tăng 13,7 lần so với năm 1990. Số thu về thuế và phí trong tổng thu NSNN năm 1990 chỉ chiếm 76,78%, đến năm 2003 đã chiếm 92,9%. Hệ thống chính sách thuế mới cũng đã xóa bỏ sự chênh lệch về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong cơ chế thị trường. Về quản lý thuế, công cuộc cải cách cũng đã mang lại kết quả quan trọng, hình thành một hệ thống tổ chức quản lý thuế thống nhất trong cả nước, dưới sự lãnh đạo song trùng giữa ngành dọc và cấp ủy, chính quyền địa phương. Công tác quản lý thuế từng bước chuyển đổi từ chế độ chuyên quản khép kín sang chế độ tự tính, tự khai và nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế. Từ đó đề cao nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế trước pháp luật; cơ quan thuế tăng cường chức năng tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn, đôn đốc thu nộp và kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm thuế. Từng bước thực hiện chuyên môn hóa quản lý thuế theo chức năng, không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ thuế. Công tác quản lý đã chuyển biến tích cực theo hướng rõ ràng, công khai, dân chủ và minh bạch hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, hệ thống chính sách thuế hiện nay vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần tiếp tục khắc phục. Đó là hệ thống chính sách chưa bao quát hết đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế; còn nhiều mức thuế suất; một số chính sách thuế như thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt còn nặng về bảo vệ sản xuất trong nước; chưa thật sự bảo đảm bình đẳng, công bằng xã hội về nghĩa vụ thuế... Trong công tác quản lý thuế cũng còn những tồn tại, đó là môi trường quản lý thuế chưa tạo điều kiện cho công tác quản lý thu. Năng lực, trình độ quản lý thuế còn có những điểm chưa đáp ứng so với yêu cầu quản lý hiện đại, khoa học. Đối với người nộp thuế, tình trạng trốn lậu thuế, gian lận thuế, nợ đọng thuế tồn tại ở nhiều khoản thu, sắc thuế, ở các địa phương trong cả nước, làm thất thu ngân sách nhà nước. Một số đối tượng kinh doanh còn cố ý tìm mọi thủ đoạn để gian lận thuế. Một số cấp ủy, chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng chưa quan tâm đúng mức, chưa coi công tác thuế là nhiệm vụ của địa phương mình, thiếu sự phối hợp đồng bộ với cơ quan thuế để giải quyết các trường hợp vi phạm nhằm thu đúng, thu đủ thuế vào ngân sách nhà nước. Từ yêu cầu khách quan, toàn ngành thuế đang phấn đấu thực hiện mục tiêu chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010, tập trung xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu phù hợp nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từng bước hiện đại hóa công tác quản lý thuế, bảo đảm chính sách động viên thu nhập quốc dân của Đảng và Nhà nước; tăng cường nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Chính sách thuế, phí trở thành công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô của Nhà nước, vừa động viên được các nguồn lực, đồng thời thúc đẩy phát triển nhanh sức sản xuất, khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ... bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững. Để đáp ứng hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách thuế phải phù hợp tiến trình hội nhập, thực hiện bảo hộ hợp lý, có chọn lọc, có thời hạn và có điều kiện, qua đó tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển và bảo đảm lợi ích quốc gia, tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng. Đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai. Nhanh chóng hiện đại hóa và nâng cao năng lực bộ máy quản lý thuế, khắc phục hiện tượng tiêu cực, yếu kém, từng bước kiện toàn bộ máy trong sạch, vững mạnh. Ngày 5/10/1997, Quốc hội ban hành luật thuế Giá trị gia tăng, được áp dụng chính thức từ ngày 1/1/1999. Trong quá trình phát triển nền kinh tế tại Việt nam, đã xuất hiện nhiều vấn đề gây tranh cãi và cho đến nay, chính sách thuế của Bộ tài chính vẫn đang liên tục được sửa đổi và hoàn thiện. Chính sách bảo hiểm xã hội. Năm 1994, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa IX đã thông qua Bộ luật Lao động, trong đó có một chương quy định về chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc theo nguyên tắc có đóng có hưởng, cân đối thu - chi với năm chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Sau hơn 10 năm thực hiện, việc đổi mới chính sách bao hiểm xã hội đã có nhiều bước tiến quan trọng, thích nghi dần với nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội được mở rộng đến mọi người lao động thuộc các thành phần kinh tế có hợp đồng lao động từ ba tháng trở lên. Nếu như năm 1996 mới có 2,8 triệu lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì đến năm 2003 số lao động tham gia đã lên đến 5,4 triệu người, tăng gần hai lần so với năm 1996. Nhờ đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức bộ máy, việc chi trả chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội cho đối tượng được quản lý chặt chẽ hơn, bảo đảm đúng đối tượng, kịp thời và đầy đủ hơn. Kết quả hoạt động trong thời gian qua của bảo hiểm xã hội Việt Nam đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển đổi chính sách bảo hiểm xã hội. - Sau hơn mười năm đổi mới, bảo hiểm xã hội đã bộc lộ những hạn chế về chính sách cũng như việc tổ chức thực hiện như: + Nhiều người sử dụng lao động vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội và hàng triệu người lao động thuộc diện bắt buộc nhưng chưa tham gia , đặc biệt là ở khu vực ngoài Nhà nước. + Quỹ bảo hiểm hưu trí, tử tuất lại có nguy cơ mất cân đối trong tương lai. + Quỹ bảo hiểm xã hội ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp kết dư khá cao. Chính sách việc làm. Chính sách việc làm là sự thể chế hóa bằng pháp luật của Nhà nước một hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương hướng và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động. Ở nước ta, trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, giải quyết vấn đề thất nghiệp là một trong những vấn đề lớn cần phải coi trọng. Trong chính sách việc làm, một nguyên tắc cơ bản cần phải được thực hiện, đó là đảm bảo công bằng xã hội, chống lại quan điểm chạy theo cơ chế thị trường tự do trong giải quyết việc làm, coi nhẹ trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, khiến cho tình trạng thất nghiệp trở thành vấn đề xã hội gay cấn. - Thực trạng việc làm , mâu thuẫn và thách thức: + Mâu thuẫn giữa nhu cầu về việc làm ngày càng lớn với khả năng giải quyết còn hạn chế, trong khi tiềm năng phát triển việc làm còn lớn nhưng chưa được phát huy, chưa gắn lao động với tiềm năng đất đai và tài nguyên thiên nhiên. + Mâu thuẫn giữa lao động và việc làm ngày càng gay gắt + Mâu thuẫn giữa nhu cầu giải quyết việc làm rất lớn với trình độ tổ chức quản lí chưa theo kịp yêu cầu của cơ chế mới. Chương III: phương hướng và giải pháp thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập trong thời gian tới ở Việt Nam Để thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những phương hướng và giải pháp sau: Hoàn thiện các chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư đều có cơ hội tiếp cận một cách công bằng đối với các yếu tố "đầu vào" của sản xuất, kinh doanh. Đối với các kết quả "đầu ra" của quá trình sản xuất, kinh doanh, có thể và cần phải tiếp tục thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào quá trình trên. Ngăn ngừa sự chênh lệch quá đáng về mức thu nhập cá nhân và sự phân hóa xã hội bằng cách đưa ra chính sách điều tiết thu nhập giữa những người tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh phù hợp. Ngoài việc phân phối cho những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh như trên đã nói, ở tầm quản lý vĩ mô, Nhà nước xã hội chủ nghĩa còn cần phải thi hành chính sách phân phối lại thông qua các sắc thuế để tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước và phân bổ hợp lý các khoản chi từ ngân sách này cho đầu tư phát triển và cho tiêu dùng. Cần có quy hoạch và kế hoạch cụ thể để cân đối hợp lý mức đầu tư cho các vùng lãnh thổ khác nhau. Việc dành mức đầu tư cao hơn cho các vùng kinh tế động lực là rất cần thiết nhằm tạo ra những "đầu tàu" tăng trưởng để kéo toàn bộ "đoàn tàu" kinh tế Việt Nam đi lên. Mở rộng chính sách xã hội thành chính sách an sinh nhiều tầng nấc để áp dụng cho các đối tượng chính sách xã hội khác nhau. Trong số những chính sách có liên quan đến phân phối lại tổng thu nhập quốc dân, không nên chỉ đặt vấn đề phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Bởi lẽ khái niệm phúc lợi xã hội chỉ giới hạn trong phạm vi những lợi ích chung mà mọi người dân đều được hưởng như nhau. Còn trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay, các đối tượng của chính sách xã hội là rất đa dạng, do đó cần mở rộng chính sách phúc lợi xã hội thành hệ thống chính sách an sinh xã hội nhiều tầng nấc.Như: + Chính sách ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm mức sống ít nhất trên trung bình cho những người có công trong quá trình cách mạng và kháng chiến trước đây. + Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm huy động sự tích góp một phần thu nhập của những người lao động lúc bình thường để trợ cấp khi thất nghiệp. + Chính sách trợ cấp xã hội để trợ giúp người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ côi lang thang cơ nhỡ... + Chính sách cứu tế xã hội để cưu mang những người bị thiệt hại nặng do địch họa, thiên tai hoặc rủi ro trong cuộc sống. + Chính sách tương trợ xã hội nhằm phát huy truyền thống tương thân tương ái, "lá lành đùm lá rách" trong cộng đồng để giúp nhau vượt qua khó khăn, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi những hiện tượng làm giàu phi pháp./. PHẦN KẾT LUẬN Tóm lại, phân phối thu nhập giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong tổng thể cơ chế quản lý kinh tế xã hội. Phân phối đúng sẽ tạo động lực, ngược lại sẽ là lực cản sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Từ khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tới nay, Đảng ta luôn nhận thức rằng phân phối thu nhập là một nội dung quan trọng trong chính sách kinh tế_ xã hội của đất nước, liên quan trực tiếp đến cuộc sống của hàng chục triệu con người, đến động lực phát triển kinh tế, đến ổn định chính trị xã hội và nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước. Trong những năm qua, tại Việt Nam đã có nhiều cố gắng để giải quyết vấn đề phân phối thu nhập. Đặc biệt rõ nét là từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đến nay, hàng lọat các chính sách kinh tế được áp dụng để giải quyết vấn đề tiền lương, lợi nhuận, lợi tức địa tô, bảo hiểm, trợ cấp xã hội... nhằm tháo gỡ những khó khăn trong phân phối lưu thông, để “cởi trói” cho lĩnh vực sản xuất. Tuy nhiên vấn đề phân phối thu nhập vẫn còn nhiều khiếm khuyết đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Vì vậy vấn đề phân phối thu nhập vẫn cần được tiếp nghiên cứu thêm để có thể đi đạt được mục đích thúc đẩy kinh tế và công bằng xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO 2002 Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin _ Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – năm Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII _ Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX _ Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Tạp chí Cộng sản Tìm hiểu chế độ tiền lương mới Tạp chí kinh tế phát triển. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU trang 1 PHẦN NỘI DUNG trang 2 -14 Chương I: Lý luận chung trang 2 - 6 Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ..trang 2 - 4 Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trang 4 - 6 Chương II: Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua ở Việt Nam trang 6 - 12 Chính sách tiền lương .trang 6 - 8 II.Chính sách thuế .trang 8 - 11 Chính sách bảo hiểm xã hội ...trang 11 - 12 Chính sách việc làm trang 12 - 12 Chương III: Phương hướng và giải pháp thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập trong thời gian tới ở Việt Namtrang 13 - 14 PHẦN KẾT LUẬN .trang 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO
File đính kèm:
- tieu_luan_phan_phoi_thu_nhap_trong_thoi_ky_qua_do.docx