Tiểu luận Phân tích bản chất và những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Nhận xét và rút ra ý nghĩa

pdf 16 trang yenvu 27/01/2024 2420
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Phân tích bản chất và những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Nhận xét và rút ra ý nghĩa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Phân tích bản chất và những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Nhận xét và rút ra ý nghĩa

Tiểu luận Phân tích bản chất và những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Nhận xét và rút ra ý nghĩa
 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM 
KHOA KẾ TOÁN 
BÀI TIỂU LUẬN 
ĐỀ TÀI: 
PHÂN TÍCH BẢN CHẤT VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN 
CHỦ YẾU CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN 
NHÀ NƯỚC. NHẬN XÉT VÀ RÚT RA Ý NGHĨA. 
 GV: NGUYỄN M INH TUẤN 
NHÓM 15: 
 Trần Kim Chi 33121021028 
 Phan Ngọc H uyền Trân 33121021892 
 Phạm Thị Duyên 33121021693 
 Võ Hoàng Thanh Thúy 33121022181 
 Cao Thị Vân 33121021749 
 Nguyễn Bảo Quỳnh 33121021583 
TP.HCM 10/2012 
 2
A. LỜI MỞ ĐẦU 
Nhà nước tư bản ra đời đó là một tất yếu lịch sử. Nhà nước tư bản đã trải qua 
nhiều hình thái khác nhau. Theo V.I.Lênin “ tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản 
xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn 
tới độc quyền”. Do đó, tiếp theo giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản phát 
triển lên giai đoạn cao hơn là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và sau đó là chủ 
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Sự ra đời và phát triển của Chủ Nghĩa Tư Bản 
Độc Quyền Nhà Nước là một biến đổi quan trọng trong quan hệ quản lý và là đặc 
điểm nổi bật của chủ nghĩa tư bản đương đại. Thực chất, đây là những nấc thang 
mới trong quá trình phát triển và điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về cả lực lượng 
sản xuất và quan hệ sản xuất để thích ứng với những biến động mới trong tình hình 
kinh tế - chính trị thế giới cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX cho đến nay. 
Ở Việt Nam, từ sau đại hội VI năm 1986 của Đảng, chúng ta đã thực hiện 
chính sách mở cửa, mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, khoa học kĩ thuật, công nghệ 
thông tin phát triển như vũ bão, kinh tế công nghiệp đang chuyển dần sang kinh tế 
tri thức, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã vận dụng rất linh hoạt, 
thành công những lí luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong việc điều 
hành nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. 
Để hiểu rõ hơn về Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền Nhà Nước, bài tiểu luận 
với đề tài "Bản chất và những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, 
nhận xét và rút ra ý nghĩa" sẽ làm sáng tỏ vấn đề này. Thông qua đó làm rõ được 
tầm quan trọng của Nhà nước trong việc điều hành kinh tế ở Việt Nam hiện nay. 
 Bài tiểu luận đã hoàn thành, tuy nhiên do tầm hiểu biết còn hạn chế nên 
những tìm hiểu, phân tích của chúng em không tránh khỏi có nhiều thiếu sót, chúng 
 3
em rất mong nhận được sự bổ sung, đóng góp ý kiến của Thầy để bài tiểu luận được 
hoàn chỉnh hơn. 
 Chúng em xin chân thành cảm ơn Thầy. 
Sinh viên thực hiện: 
 Trần Kim Chi 
 Phan Ngọc Huyền Trân 
 Phạm Thị Duyên 
 Võ Hoàng Thanh Thúy 
 Cao Thị Vân 
 Nguyễn Bảo Quỳnh 
 B. PHẦN NỘI DUNG 
I. BẢN CHẤT VÀ BIỂU HIỆN CHỦ YẾU CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC 
QUYỀN NHÀ NƯỚC. 
1. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước 
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ 
chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và 
thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ 
nghĩa tư bản 
V.I. Lênin chỉ ra rằng: “Bọn đầu sỏ tài chính dùng một mạng lưới dày đặc 
những quan hệ lệ thuộc để bao trùm hết thảy các thiết chế kinh tế và chính trị đó 
là biểu hiện rõ rệt nhất của sự độc quyền ấy”. Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản 
độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nó cũng là 
chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê 
như một nhà tư bản thông thường.Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ, nhà nước còn có 
chức năng chính trị và các công cụ trấn áp xã hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù,  
 4
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính 
trị, xã hội chứ không phải chỉ là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ 
nghĩa tư bản 
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định với xã hội mà nó 
thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi 
thích hợp đối với xã hội đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản chủ yếu can thiệp 
bằng bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản 
tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quá trình kinh tế, vai trò của 
nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật. Ngày nay, vai trò của 
nhà nước tư sản đã có sự biến đổi, không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng 
thuế, luật pháp mà còn có vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực 
kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các biện pháp đòn bẩy kinh tế vào tất cả các khâu 
của quá trình tái sản xuất: sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tư 
bản độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản 
chủ nghĩa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản 
thích nghi với điều kiện lịch sử mới. 
2. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước 
2.1 Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước 
V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng sự liên minh cá nhân cả các ngân hàng 
với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của ngân hàng và công 
nghiệp với chính phủ: “Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay 
là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng”. 
Sự kết hợp về nhân sự thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. Chính các 
đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự 
thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước. Cùng với 
các đảng phái tư sản, là các hội chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau: Hội công 
nghiệp toàn quốc Mỹ, Tổng Liên đoàn công nghiệp Italia, Liên đoàn các nhà kinh 
tế Nhật Bản, Liên minh Liên bang công nghiệp Đức, Hội đồng quốc gia giới chủ 
Pháp, Tổng Liên đoàn công thương Anh, Các hội chủ xí nghiệp này trở thành lực 
 5
lượng chính trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà 
nước. Vai trò của các hội lớn đến mức mà dư luận thế giới đã gọi chúng là những 
chính phủ đằng sau chính phủ, một quyền lực thực tế đằng sau quyền lực của chính 
quyền. 
Sự thâm nhập lẫn nhau này (còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện 
mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước. 
2.2 Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước 
Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền 
có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại 
của chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên 
mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư 
nhân, hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá trình tuần hoàn của tông tư 
bản xã hội. 
Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần 
cho hoạt động của bộ máy nhà nước, mà gồm cả những doanh nghiệp nhà nước 
trong công nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao 
thông vận tải, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội trong đó ngân sách nhà nước là bộ 
phận quan trọng nhất. 
Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây dựng 
doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; quốc hữu hoá các xí nghiệp tư 
nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phần của các doanh nghiệp tư nhân; mở 
rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích luỹ của các doanh nghiệp tư nhân 
Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện các chức năng quan trọng như: mở 
rộng sản xuất tư bản công nghiệp, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của 
chủ nghĩa tư bản; giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi để 
đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn; làm chỗ dựa vững chắc cho sự 
điều tiết kinh tế tư bản công nghiệp theo những chương trình nhất định. 
2.3 Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản 
 6
Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hình thành một tổng thể những thiết 
chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống 
chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc 
dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được 
thực hiện dưới nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc 
bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chính pháp lý, bằng cả ưu đãi và 
trừng phạt,  
Các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là sự thể hiện rõ nét nhất sự điều 
tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Chúng bao gồm nhiều lĩnh 
vực như chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát, chính sách về tăng 
trưởng kinh tế, chính sách xã hội, chính sách kinh tế đối ngoại. Các công cụ chủ 
yếu của nhà nước tư sản để điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế như 
ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ - tín dụng,  
3. Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước 
3.1 Sự phát triển chưa từng có và rộng khắp của chủ nghĩa tư bản độc 
quyền nhà nước. 
Biểu hiện chủ yếu là: 
- Tỷ trọng của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tăng lên rõ rệt. 
- Sự kết hợp giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân cũng tăng lên nhanh chóng. 
- Chi tiêu tài chính của các nhà nước tư bản phát triển dùng để điều tiết quá trình tái 
sản xuất xã hội tăng. 
 Sở dĩ như vậy là do: 
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ xã hội hoá cao đã đặt ra một loạt 
vấn đề mới đòi hỏi phải có sự giải quyết của nhà nước. 
- Cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước gay gắt đòi hỏi nhà nước 
phải đứng ra mở cửa thị trường. 
3.2 Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản cũng có những biểu hiện mới: 
 7
Vai trò kinh tế và phương thức điều tiết nền kinh tế thị trường hiện đại của 
nhà nước tư bản độc quyền lại có những nét độc đáo và là đặc điểm cơ bản của chủ 
nghĩa tư bản ngày nay. 
 - Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế là nhằm khắc phục những khuyết tật của 
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, định hướng cho sự phát triển kinh tế - xã hội 
nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. 
 - Để điều tiết nền kinh tế, nhà nước tư bản độc quyền đã tổ chức bộ máy điều 
tiết gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt nhân sự có sự tham gia 
của những đại biểu của tập đoàn lớn và các quan chức nhà nước. Đồng thời bên 
cạnh bộ máy này còn có hàng loạt các tiểu ban được tổ chức dưới những hình thức 
khác nhau. 
 - Cơ chế đièu tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là: cơ 
chế kết hộp thị trường tự do cạnh tranh với tính năng động của tư bản độc quyền tư nhân. 
 -- Phương thức điều tiết của nhà nước linh hoạt, mềm dẻo hơn, phạm vi rộng 
hơn. 
II. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
Ở VIỆT NAM 
1. Lý luận và thực trạng nền kinh tế Việt Nam đối với chủ nghĩa tư bản 
độc quyền nhà nước. 
1.1 Một số quan điểm về chủ nghĩa tư bản độc quyền ở nước ta 
Hiện nay, ở nước ta cũng có nhiểu cách giải thích khác nhau: 
 - Loại ý kiến thứ nhất quá nhấn mạnh lý luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền 
nhà nước, xem đó như là một “thứ chủ nghĩa”, một phương thức sản xuất xã hội, 
một học thuyết hoàn chỉnh cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. 
 - Loại ý kiến thứ hai xem chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chỉ là một 
phương pháp cải tạo hoà bình giai cấp tư sản, như là một thành phần kinh tế thứ yếu 
(và cũng có lúc xem như “không đáng kể”). 
Thực ra đó là hai loại ý kiến cực đoan khác nhau, cách tiếp cận khai thác 
khác nhau trong những khuynh hướng khác nhau của các giai đoạn lịch sử nhận 
 8
thức và xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội Trong mô hình chủ nghĩa xã hội với 
nền kinh tế hiện vật trước đây, người ta quá xem nhẹ chủ nghĩa tư bản nhà nước nói 
chung và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước nói riêng. Ngược lại, trong khủng 
hoảng, khó khăn của sự đổ vỡ mô hình chủ nghĩa tư bản, người ta lại có khuynh 
hướng đưa vào nội hàm của lí luận chue nghĩa tư bản nhà nước nội dung quá rộng. 
Cách tiếp cận có hiệu quả cao chính là nhận thức đúng đắn cơ sở lý luận biện 
chứng của V.I. Lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, vận dụng sát với 
thực tiễn cuộc sống kinh tế xã hội đang diễn ra ở nước ta trong quá trình đổi mới 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, cần phải xuất phát từ tình hình cụ thể, 
từ sự đối sánh lực lượng cụ thể trong điều kiện lịch sử cụ thể. 
Tóm lại, nói một cách khái quát thì chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là 
sự dung hợp giữa nhà nước và hoạt động của các xí nghiệp tư bản tư nhân. Nếu nhà 
nước là của giai cấp tư sản và địa chủ thì chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước 
phục vụ lợi ích của tư bản và địa chủ. Nếu nhà nước là của giai cấp công nhân và 
nhân dân lao động thì chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước phục vụ cho lợi ích của 
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, 
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một hình thức quá độ, có tính chất quá độ 
chủ nghĩa. 
Tuy nhiên, theo V.I. Lênin, đây là một hình thức đấu tranh, là sự tiếp tục 
của đấu tranh giai cấp dưới một hình thức khác, chứ tuyệt nhiên không phải là sự 
thay thế đấu tranh giai cấp bằng hoà bình giai cấp. Vì vậy, phải tỉnh táo, sắc bén 
trong việc sử dụng hình thức kinh tế quá độ này. 
1.2 Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay 
Có thể nói nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 
gần 80% dân số tham gia hoạt động nông nghiệp.Công nghiệp nhỏ bé, thương 
nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ chưa phát triển. 
Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công 
cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục tiêu đưa nước ta từ 
một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp tiên tiến hiện đại, 
 9
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới ấy, nền kinh tế nước 
ta cũng được chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp 
sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự 
điều tiết của nhà nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội.Trong đó, kinh tế tư bản 
nhà nước là một trong năm thành phần kinh tế cơ bản. Đó là một chủ trương đúng 
đắn của Đảng vì những nguyên nhân sau đây: 
Thứ nhất, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó tất 
yếu tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Mặt khác, với chính sách khuyến 
khích tự do trao đổi hàng hoá, tất yếu sẽ nảy sinh một tầng lớp tư sản mới.Như vậy, 
sự tồn tại của kinh tế tư bản nhà nước vừa mang tính tất yếu khách quan vừa như là 
một sách lược kinh tế của nhà nước để định hướng cho các thành phần kinh tế khác 
đi lên chủ nghĩa xã hội. 
Thứ hai, ở một nước mà nền tiểu sản xuất chiếm ưu thế như nước ta thì chủ 
nghĩa tư bản nhà nước sẽ là mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa 
xã hội, đồng thời giúp chúng ta phát triển lực lượng sản xuất vì kinh tế tư bản nhà 
nước có ưu thế về vốn, kỹ thuật và công nghệ cũng như những kinh nghiệm và biện 
pháp quản lý tiên tiến. 
Thứ ba, việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước còn phù hợp với xu 
thế quốc tế hoá đang diễn ra trên toàn bộ thế giới và đặc biệt là khu vực Đông Nam 
Á. Chúng ta không thể phát triển được nếu không mở rộng quan hệ kinh tế với các 
nước trong khu vực và trên thế giới kể cả các nước chủ nghĩa xã hội cũng như các 
nước tư bản chủ nghĩa. 
Hơn nữa, tố chất cạnh tranh vốn có của hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa 
sẽ như chất xúc tác cho một một môi trường kinh tế cạnh tranh sôi động. 
2. Các hình thức chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vận dụng ở nước 
ta. 
2.1 Liên doanh, liên kết giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với các chủ sở 
hữu tư nhân ở trong nước hoặc ngoài nước. 
 10 
Thông qua sự liên doanh, liên kết giữa nhà nước và các chủ thể sở hữu ngoài 
quốc doanh ở trong nước, nhà nước có thể huy động được vốn, đổi mới kỹ thuật và 
quy trình công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩmĐồng thời, nhà nước cũng 
thực hiện được lợi nhuận, chức năng kiểm kê, kiểm soát, hướng dẫn, điều tiết sự 
phát triển để thúc đẩy cải cách cơ cấu kinh tế với cơ cấu sản phẩm cho phù hợp với 
nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới, cấu trúc lại nền kinh tế. 
Các nước trên thế giới hiện nay đều đang trên con đường tìm kiếm hình thức 
liên doanh kinh tế có lợi nhất. Hình thức liên doanh này đã và đang có xu hướng 
mở rộng với nhiều nước và phá vỡ quan niệm độc quyền liên doanh. 
Trong liên doanh, liên kết phải tích cực chủ động tìm bạn hàng, trước hết là 
các tập đoàn xuyên quốc gia, kinh doanh nhiều ngành, bởi vì, những tập đoàn này 
có đặc trưng là rất linh hoạt, có những quan hệ bền vững với nhiều nước, có bộ 
máy tiêu thụ đã được sắp đặt hoàn hảo.Nhưng cũng có một số điều cần lưu ý, chẳng 
hạn như, trong phân công lao động thì các nước kém phát triển thường bị phân công 
làm những quy trình cần nhiều lao động giản đơn. Các công ty liên doanh thường 
đầu tư lớn vào các nước phát triển để sử dụng tiềm lực khoa học lớn ở nơi đây 
nhằm đón trước các thành tựu khoa học kỹ thuật. 
2.2 Thành lập công ty cổ phần, cổ phần hoá xí nghiệp để thành lập xí 
nghiệp tư bản nhà nước. 
Công ty cổ phần cũng như cổ phần hoá xí nghiệp không phải là vấn đề mới 
mẻ, như cái mới là vấn đề này được đặt trong điều kiện của nhà nước xã hội chủ 
nghĩa hiện nay. 
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, công ty cổ phần được xem là 
một tất yếu kinh tế - sự tồn tại của nó không những chỉ là kết quả của quá trình tích 
tụ vốn, mà còn là nhu cầu khách quan của việc củng có tính hiệu quả của nền kinh 
tế nhiều thành phần nói chung, của quốc doanh nói riêng. 
Cùng với việc xây dựng các công ty cổ phần là việc bán cổ phần và thu hút 
vốn, công ty cổ phần được thành lập trên cơ sở các xí nghiệp quốc doanh hiện hành 
bằng biện pháp “cổ phần hoá xí nghiệp” mà gần đây được bàn tới nhiều. 
 11 
Thực chất cổ phần hoá xí nghiệp quốc doanh hiện nay là chuyển từ sở hữu 
nhà nước thành sở hữu tập thể, hỗn hợp; là làm gọn nhẹ, tối ưu thành phần kinh tế 
quốc doanh, tăng thành phần kinh tế tập thể, cá thể, tư nhân. Nó là một giải pháp 
nhằm thoát khỏi tình trạng làm ăn thua lỗ của một số xí nghiệp quốc doanh. 
Tuy nhiên, việc chuyển thành công ty cổ phần chỉ nên diễn ra ở những ngành 
mà tư nhân có khả năng về vốn và sức đầu tư như may, dệt, sành sứ, thuỷ tinh, sản 
xuất và chế biến nông, lâm, thuỷ sản có quy mô vừa và nhỏ, nhiều cơ sở vận tải 
đường bộ, đường thuỷ, thương nghiệp bán lẻ, dịch vụ 
2.3 Đặc khu kinh tế. 
Đặc khu kinh tế là một vùng lãnh thổ quốc gia mà trên đó người ta áp dụng 
chế độ đặc biệt đối với các hoạt động kinh tế đối ngoại. Mục tiêu của nó là tăng 
cường khả năng cạnh tranh của nền sản xuất, tăng cường khả năng xuất khẩu, thu 
hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài đẩy nhanh các quá trình khai thác công nghệ, kỹ 
thuật mới và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới. 
Có thể rút ra một số nhận xét sau đây về đặc khu kinh tế: 
 - Đặc khu kinh tế là một nội dung quan trọng trong chính sách kinh tế đối 
ngoại, mang tính chất mới của nền kinh tế thế giới. 
 - Đặc khu kinh tế không chỉ xuất hiện ở các nước xã hội chủ nghĩa mà còn 
xuất hiện ở các nước có chế độ chính trị khác nhau, thậm chí ở ngay các nước tư 
bản phát triển. 
Vị trí địa lý kinh tế là yếu tố quan trọng nhất trong việc lựa chọn thành lập 
“đặc khu kinh tế”. Kinh nghiệm cho thấy, các đặc khu kinh tế thường đặt ở những 
trung tâm hoặc các địa điểm nằm trên các trục giao thông đường bộ, đường biển, 
đường sông, thuận tiện cho việc giao lưu hàng hoá với nước ngoài. 
 - Muốn thu hút vốn đầu tư trực tiếp của người nước ngoài, điều quan trọng là 
tại các đặc khu kinh tế phải có được môi trường cho hoạt động kinh tế càng gần với 
điều kiên và trình độ bên ngoài càng tốt. 
 - Cần thiết lập ở các đặc khu kinh tế hệ thống tài chính ngân hàng có hiệu 
lực, một yếu tố làm cho hoạt động kinh doanh nhộn nhịp. 
 12 
 - Sự ổn định chính trị xã hội cũng là yếu tố quyết định để nước ngoài yên 
tâm bỏ vốn đầu tư ở các đặc khu kinh tế. 
2.4 Khu công nghiệp chế biến xuất khẩu (Khu chế xuất). 
Khu chế xuất là khu công nghiệp được quy định chuyên môn, sản xuất chủ 
yếu cho xuất khẩu, trong đó người ta áp dụng quy chế tự do thuế quan, tự do mậu 
dịch. 
Đặc khu kinh tế cũng như khu chế xuất, về thực chất được coi là các hình 
thức của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Ở đây không phải chỉ có một hình 
kinh tế tư bản nhà nước đơn độc, thuần tuý mà có nhiều hình thức cụ thể, bao gồm 
cả hình thức tô nhượng, liên doanh, cho tư bản nước ngoài thuê 
Hiện nay ở nước ta đang chủ trương thí điểm thành lập khu chế xuất ở Tân 
Thuận (thành phố Hồ Chí Minh). Vì vấn đề còn hết sức mới mẻ nên cần tham khảo 
kinh nghiệm các khu chế xuất trên thế giới. 
2.5 Cho tư bản trong và ngoài nước, cho nông dân thuê các cơ sở sản xuất 
kinh doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân 
Trong nền kinh tế nông nghiệp nước ta đã và sẽ tồn tại các chế độ kinh 
doanh khác nhau trên cùng một cơ sở dữ liệu sản xuất cơ bản là ruộng đất thuộc sở 
hữu toàn dân: chế độ kinh doanh của nhà nước, của tập thể, của từng hộ riêng lẻ, 
chế độ kinh doanh hỗn hợp (nhà nước, tập thể, từng hộ; nhà nước với tập thể, tập 
thể với tư nhân cả trong và ngoài nước). 
Cần và có thể phát triển hình thức liên doanh, liên kết rộng rãi không chỉ 
trong mà cả ngoài nước. Cần mở rộng việc cho thuê đất (hình thức đấu thầu, thầu 
khoán) với quy mô hạn đinh về rừng đồi trọc, thềm lục địa, đất rừng, đồi hoang, 
Khuyến khích phát triển những hộ kinh doanh độc lập trên nhiều lĩnh vực: trông 
trọt, chăn nuôi, kinh tế vườn, rừng, kinh tế gia đình, đặc biệt những hộ kinh doanh 
lớn tổng hợp hoặc chuyên canh, có hoặc không thuê mướn lao động. 
Không thể liệt kê toàn bộ danh mục các hình thức kinh tế tư bản nhà nước 
trong nông nghiệp vì quá trình thực hiện mới chỉ vừa bắt đầu. Nhưng đó là con 
đường hữu hiệu nhất để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuât trong nông nghiệp, 
 13 
chuyển nền sản xuất từ phân tán đến tập trung, từ nền nông nghiệp nửa tự nhiên, tự 
nhiên sang nền kinh tế hàng hoá. Đó là con đường xã hội hoá sản xuất nông nghiệp 
trong thực tế. 
2.6 Các tổ chức hợp tác liên doanh với tư cách là các hình thức kinh tế tư 
bản nhà nước. 
Thực tiễn cho thấy, hợp tác xã trong sản xuất và kinh doanh là xu thế tất yếu 
của những người sản xuất riêng lẻ. 
Những hợp tác xã được tổ chức theo những nguyên tắc xã hội chủ nghĩa, đặc 
biệt là thực hiện phân phối theo lao động, có sự hỗ trợ của nhà nước, sự lãnh đạo 
trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì thuộc thành phần kinh tế tập thể mà 
chúng ta vẫn thường nói là một thành phần xã hội chủ nghĩa. Nhưng trên thực tế, 
còn xuất hiện những tổ chức hợp tác liên doanh khác nữa giống như ở nhiều nước 
khác. 
Ở nước ta mấy năm nay cũng xuất hiện những tổ chức hợp tác tương tự như 
kinh doanh liên hộ, tổ hợp dịch vụ, chế biến, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm, 
Những tổ chức hợp tác liên doanh này mà có sử dụng đất đai của sở hữu toàn 
dân, có vay vốn của nhà nước, và nhất là có sự kiểm soát của nhà nước, thì với 
quan niệm rộng theo tư tưởng V.I. Lênin đó đều là hình thức chủ nghĩa tư bản độc 
quyền nhà nước. Chúng ta cần nắm lấy để phát triển nền kinh tế quốc dân. 
3. Điều kiện để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà 
nước ở nước ta. 
3.1 Tính chất và kết cục của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước phụ 
thuộc vào tính chất của nhà nước và khả năng điều tiết của nhà nước ấy. 
Bộ máy nhà nước vững mạnh là bộ máy cứng rắn, nghĩa là phải hạn chế, 
ngăn chặn những tội ác, nghiêm khắc trừng trị bất cứ chủ nghĩa tư bản nào vượt ra 
khỏi khuôn khổ quy định kinh tế và pháp luật. Bộ máy nhà nước vững mạnh còn là 
bộ máy có cơ sở chính trị vững mạnh: đó là sự liên minh vững chắc giữa công 
nhân, nông dân, trí thức, sự liên minh đó là một lực lượng “vô địch”. Sự liên minh 
công – nông – trí thức chẳng những tạo nên cơ sở chính trị vững chắc cho sự thực 
 14 
hành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, mà còn làm “tăng thêm quyền lực kinh 
tế” của nhà nước chúng ta. 
3.2 Tăng cường sức mạnh kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa. 
Sức mạnh của bộ máy nhà nước là sức mạnh về kinh tế. Nhưng trong nền 
kinh tế thị trường, ai nắm được nguồn tài chính, người đó sẽ chi phối sự phát triển 
kinh tế - xã hội theo định hướng của mình nên sức mạnh kinh tế của nhà nước biểu 
hiện tập trung ở sức mạnh tài chính. 
Vì vậy, nhà nước ta cần vươn tới là nhà nước độc quyền tài chính. Thông 
qua công cụ tài chính – ngân hàng, nhà nước vừa điều khiển được toàn bộ sự vận 
động xã hội, vừa thoát khỏi sự can thiệp trực tiếp, vụn vặt vào cac hoạt động sản 
xuất kinh doanh. 
3.3 Xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp luật. 
M uốn sử dụng tốt các hình thức tư bản nhà nước, cần hoàn thiện hệ thống 
pháp luật, trong đó đặc biệt là pháp luật về kinh tế.Và luật cùng với những văn bản 
luật trong điều kiện thực hành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước phải xuất phát 
từ nguyên tắc: củng cố vững mạnh nhà nước. 
Trước mắt, cần nhanh chóng thiết lập đầy đủ các cơ chế của kinh tế hàng 
hoá; xây dựng các điều kiện về kết cấu kinh tế hạ tầng, thông tin, dịch vụ, hoàn 
chỉnh các luật như luật đầu tư, luật liên doanh liên kết, luật về công ty cổ phần, luật 
xuất nhập khẩu 
 C. KẾT LUẬN 
Trên đây là một vài nhận xét của em về bản chất, biểu hiện của chủ nghĩa tư 
bản độc quyền nhà nước, và việc vận dụng vấn đề này vào nền kinh tế Việt Nam. 
 15 
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của 
các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản. Các biểu hiện 
của nó gồm: Sự thâm nhập lẫn nhau về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà 
nước, Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước, Sự điều tiết kinh tế của nhà 
nước tư sản bằng một hệ thống những thiết chế và thể chế kinh tế. 
V.I. Lênin cho rằng: “phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước làm mắt 
xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội , làm phương tiện, con 
đường, phương pháp, phương thức để tăng lưc lượng sản xuất lên”.Do đó, việc vận 
dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở một đất nước đang trong thời kì quá 
độ như nước ta chính là phương thức để chúng ta huy động mọi sức mạnh của dân 
tộc, kết hợp nội với các yếu tố bên ngoài để đưa nước ta thoát khỏi đói nghèo, 
hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” như đại hội 
VIII của Đảng đã khẳng định. 
Tuy nhiên, vấn đề vận dụng này ở nước ta còn khá mới mẻ và phức tạp. 
Những thành tựu đạt được mới chỉ ở bước đầu. Vì vậy, cần xuất phát từ thực tiễn 
đổi mới để tìm ra con đường, biện pháp phù hợp đưa nước ta từng bước đi lên chủ 
nghĩa xã hội một cách vững chắc. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Giáo trình: “ Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”, nhà 
xuất bản Chính trị quốc gia-2009 
[2] V.I.Lênin : Toàn tập, nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva, 1980. 
 16 
[3] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà 
Nội, 1994 
[4] website: 
[5] website: 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_phan_tich_ban_chat_va_nhung_bieu_hien_chu_yeu_cua.pdf