Tiểu luận Phân tích mối liên hệ giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức, liên hệ với tình hình thực tế ở nước ta hiện nay

docx 10 trang yenvu 29/02/2024 2300
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Phân tích mối liên hệ giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức, liên hệ với tình hình thực tế ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Phân tích mối liên hệ giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức, liên hệ với tình hình thực tế ở nước ta hiện nay

Tiểu luận Phân tích mối liên hệ giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức, liên hệ với tình hình thực tế ở nước ta hiện nay
TIỂU LUẬN
Phân tích mối liên hệ giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức, liên hệ với tình hình thực tế ở nước ta hiện nay 
Sinh viên thực hiện :
Lớp : 
Học phần:
Mã học phần: 
Giảng viên hướng dẫn: 
MỤC LỤC
LỜI 
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta luôn tồn tại những hành vi, biểu hiện của con người và những hành vi đó hình thành nên những giá trị, chuẩn mực đạo đức khác nhau, nó làm cho con người trở nên tốt đẹp và sống có trách nhiệm hơn với những người xung quanh. Bên cạnh những chuẩn mực đạo đức thì pháp luật cũng là một nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ và quản lý cũng như chi phối đến chuẩn mực đạo đức của con người trong xã hội. Trong thực tế, sự tác động qua lại, chi phối, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau là không bàn cải giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó thì giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xây dựng và hình thành nên những giá trị tốt đẹp vốn có mà cả pháp luật và chuẩn mực đạo đức mang lại. Chính vì vậy, việc nghiên cứu phân tích làm rõ mối liên hệ giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức, qua đó đưa ra những ví dụ cụ thể, điển hình trong lĩnh vực hình sự là hết sức quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Với lý do đó học viên lựa chọn chủ đề “Phân tích mối liên hệ giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức, liên hệ với tình hình thực tế ở nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu luận kết thúc môn học.
2. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu mối liên hệ giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức thông qua các quy định của pháp luật trong lĩnh vực hình sự và áp dụng các quy định giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức trong thực tiễn ở nước ta hiện nay. Qua đó, phát hiện những khó khăn, vướng mắc, thiếu sót trong quá trình áp dụng mối liên hệ giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức. Từ đó đề xuất một số giải pháp cụ thể góp phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Nghiên cứu mối liên hệ giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức.
Phạm vi không gian: Nghiên cứu thông qua các quy định cụ thể trong lĩnh vực hình sự.
Phạm vi thời gian: Tình hình thực tế ở nước ta hiện nay.
NỘI DUNG
1. Nhận thức chung
1.1. Khái niệm pháp luật, chuẩn mực đạo đức
- Khái niệm pháp luật
Có nhiều quan điểm khác nhau định nghĩa về pháp luật, nhưng có thể hiểu một cách chung nhất pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí nhà nước, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Khái niệm chuẩn mực đạo đức
Chuẩn mực đạo đức là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi đối với hành vi xã hội của con người, trong đó xác lập những quan điểm, quan niệm chung về công bằng và bất công, về cái thiện và cái ác, về lương tâm, danh dự, trách nhiệm và những phạm trù khác thuộc đời sống đạo đức tinh thần của xã hội.
1.2. Các đặc điểm của pháp luật và chuẩn mực đạo đức
- Các đặc điểm cơ bản của pháp luật
Đặc trưng của pháp luật bao gồm tính quy định xã hội của pháp luật, tính chuẩn mực của pháp luật, tính ý chí và tính cưỡng chế của pháp luật. 
- Các đặc điểm của chuẩn mực đạo đức
Chuẩn mực đạo đức là loại chuẩn mực xã hội bất thành văn, nghĩa là các quy tắc, yêu cầu của nó không được ghi chép thành văn bản dưới dạng một “bộ luật đạo đức” nào cả, mà nó tồn tại dưới hình thức là những giá trị đạo đức, những bài học về luân thường đạo lý, phép đối nhân xử thế giữa con người với nhau trong xã hội. Chuẩn mực đạo đức thường được củng cố, giữ gìn và phát huy vai trò, hiệu lực của nó thông qua con đường giáo dục truyền miệng, thông qua quá trình xã hội hóa cá nhân; được củng cố, tiếp thu và lưu truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Chuẩn mực đạo đức mang tính giai cấp, mặc dù tính giai cấp của nó không thể hiện mạnh mẽ, rõ nét như tính giai cấp của chuẩn mực pháp luật. Tính giai cấp của chuẩn mực đạo đức thể hiện ở chỗ, nó được sinh ra cũng là nhằm để củng cố, bảo vệ hay phục vụ cho các nhu cầu, lợi ích vật chất, tinh thần của giai cấp này hay giai cấp khác trong một xã hội nhất định. Chuẩn mực đạo đức được đảm bảo tôn trọng và thực hiện trong thực tế xã hội là nhờ vào hai nhóm các yếu tố bao gồm các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan.
Chuẩn mực đạo đức được sinh ra từ sự mâu thuẫn được quy định về mặt vật chất giữa các lợi ích chung và lợi ích riêng, từ thể hiện cái có và cái cần có, nó thể hiện năng lực của con người đối với sự hoàn thiện và phát triển năng lực, nhân cách của mình.
2. Phân tích mối liên hệ giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức, cho ví dụ cụ thể trong lĩnh vực hình sự
Pháp luật và chuẩn mực đạo đức có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại, thúc đẩy và ảnh hưởng lẫn nhau
2.1. Tác động của chuẩn mực đạo đức tới pháp luật
Chuẩn mực đạo đức là nền tảng tinh thần để thực hiện các quy định của pháp luật. Trong nhiều trường hợp, các cá nhân trong xã hội thực hiện một hành vi pháp luật hợp pháp không phải vì họ hiểu các quy định của pháp luật, mà hoàn toàn xuất phát từ các quy tắc của đạo đức. Nhiều quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi các chuẩn mực đạo đức được nhà nước sử dụng và nâng lên thành quy phạm pháp luật. Khi xây dựng và ban hành pháp luật, nhà nước không thể không tính tới các quy tắc chuẩn mực đạo đức. Ví dụ như “Tội che giấu tội phạm” và “Không tố giác tội phạm” Điều 18 và 19 Bộ luật hình sự 2015
, nếu tội phạm đó không phải là tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng thì nhà nước không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh, chị, em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội vì về mặt đạo đức và tâm lý, không ai muốn người thân mình dính vào vòng tù tội.
- Đối với việc hình thành pháp luật
+ Nhiều quan điểm đạo đức được thể chế hoá trong pháp luật, nhiều quy tắc đạo đức phù hợp với ý chí của nhà nước được thừa nhận trong pháp luật qua đó góp phần tạo nên pháp luật. Ví dụ như quan niệm, quy tắc đạo đức về mối quan hệ thầy trò được thừa nhận trong giáo dục.
+ Những quan niệm, quy tắc đạo đức trái với ý chí của nhà nước sẽ trở thành tiền đề để hình thành nên những quy phạm thay thế chúng, từ đó cũng góp phần hình thành nên pháp luật. Ví dụ quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” trong hôn nhân trước đây trở thành tiền đề để hình thành nên quy định hôn nhân là tự nguyện trên cơ sở giữ tình yêu nam và nữ trong luật hôn nhân và gia đình Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình 2014
.
- Đối với việc thực hiện pháp luật
+ Những quan niệm, quy tắc đạo đức được thừa nhận trong pháp luật góp phần làm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác hơn, bởi vì chúng đã ngấm sâu vào tiềm thức của nhân dân nên ngoài những biện pháp của nhà nước, chúng còn được đảm bảo thực hiện bằng thói quen, bằng lương tâm và niềm tin của mỗi người, bằng dư luận của xã hội. Ngược lại, những quan niệm, quy tắc đạo đức trái với ý chí của nhà nước sẽ cản trở thực hiện pháp luật trong thực tế. Ví dụ quan niệm trọng nam khinh nữ dẫn đến tình trạng một số người cố đẻ đến con thứ ba, thứ tư, tức là vi phạm chính sách và pháp luật về dân số của nhà nước.
+ Ý thức đạo đức cá nhân có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp luật. Người có ý thức đạo đức cao trong mọi trường hợp đều nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Ngay cả trường hợp pháp luật có những “khe hở” thì họ cũng không vì thế mà có hành vi “lợi dụng”, để làm điều bất chính. Đối với nhiều trường hợp “đã trót” thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, ý thức đạo đức giúp chủ thể ăn năn, hối cải, sửa chữa lỗi lầm. Tình cảm đạo đức còn có thể khiến các chủ thể thực hiện hành vi một cách hào hứng, nhiệt tình, tận tâm, triệt để. Ngược lại, đối với những người có ý thức đạo đức thấp thì thái độ tôn trọng pháp luật, ý thức tuân thủ pháp luật cũng không cao, họ dễ có các hành vi vi phạm pháp luật.
2.2. Tác động của pháp luật tới chuẩn mực đạo đức
Trong một số trường hợp, định hướng đạo đức muốn được thực hiện một cách phổ biến trong xã hội thì phải thông qua các quy phạm pháp luật để thể hiện. Điều đó cho thấy ở một số khía cạnh nhất định pháp luật có ưu thế nổi trội hơn so với chuẩn mực đạo đức. Pháp luật không chỉ là sự ghi nhận các chuẩn mực đạo đức, mà còn là công cụ phương tiện bảo vệ chuẩn mực đạo đức một cách hữu hiệu bằng các biện pháp, chế tài cụ thể. Pháp luật có vai trò to lớn trong việc duy trì, bảo vệ và phát triển các quy tắc đạo đức phù hợp, tiến bộ trong xã hội.
- Pháp luật  có thể góp phần củng cố, phát huy vai trò, tác dụng thực tế của các quan niệm, quy tắc đạo đức khi chúng phù hợp với ý chí của nhà nước và được thừa nhận trong pháp luật, bởi vì ngoài việc đảm bảo thực hiện bằng lương tâm, niềm tin, dư luận xã hội,chúng còn được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước. Ví dụ như quy định cha mẹ có nghĩa vụ yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các con trong luật hôn nhân và gia đình Điều 69 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014
 đã góp phần củng cố, phát huy vai trò, tác dụng thực tế của quan niệm, quy tắc đạo đức về vấn đề này.
- Pháp luật giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức của dân tộc, ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức. Bằng việc ghi nhận các quan niệm, chuẩn mực đạo đức trong pháp luật, nhà nước bảo đảm cho chúng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế. Một khi được thể chế hóa thành pháp luật, việc thực hiện những chuẩn mực đạo đức đó trở thành nghĩa vụ của toàn thể xã hội, các cá nhân, tổ chức dù không muốn cũng phải thực hiện theo. Đặc biệt, bằng việc xử lí nghiêm những chủ thể có hành vi đi ngược với các giá trị đạo đức xã hội, pháp luật góp phần bảo vệ và giữ gìn các giá trị đạo đức của xã hội, ngăn chặn sự tha hóa, xuống cấp của đạo đức.
- Pháp luật cũng có thể loại bỏ các chuẩn mực đạo đức đã lỗi thời, cải tạo các chuẩn mực đạo đức, góp phần tạo nên những chuẩn mực đạo đức mới, phù hợp hơn với tiến bộ xã hội. Ví dụ quy định cấm cưỡng ép kết hôn, tảo hôn trong luật hôn nhân và gia đình góp phần loại bỏ quan hệ đạo đức “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” trong hôn nhân.
3. Liên hệ với tình hình thực tế ở nước ta hiện nay
3.1. Những kết quả đạt được và những khó khăn, hạn chế 
- Kết quả
Ở Việt Nam hiện nay, vị trí cũng như vai trò mối quan hệ của pháp luật và chuẩn mực đạo đức ngày càng được nhìn nhận đúng đắn, tích cực.
Thứ nhất, do được nhà nước xây dựng dựa trên các quan điểm đạo đức của nhân dân, pháp luật không những thể hiện được tư tưởng cách mạng, đạo đức truyền thống dân tộc, đạo đức tiến bộ mà còn thể hiện được ý chí, nguyện vọng và hướng tới lợi ích của nhân dân lao động. Cụ thể là được thể hiện trong Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” Điều 2 Hiến pháp năm 2013
.
Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành được xây dựng trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ phẩm giá con người, coi việc phục vụ con người là mục đích cao nhất của nó. Hiến pháp năm 2013 đã đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của chế định quyền con người, quyền công dân trong tư duy lập hiến Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 đã dành 21 điều quy định về quyền con người. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền Công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013.
.
Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt Nam phản ánh khá rõ nét tư tưởng nhân đạo, một tư tưởng đạo đức cơ bản của nhân dân ta. Tính nhân đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam được thể hiện rất rõ trong các quy định về các chính sách xã hội của nhà nước. Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách ưu đãi, quan tâm đặc biệt tới các thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, người già, trẻ em không nơi nương tựa, người tàn tật Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2020 
.
Tính nhân đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam còn được thể hiện ngay cả trong các quy định về xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật. Chẳng hạn các quy định của Bộ luật hình sự, quy định về các tình tiết giảm nhẹ hình sự; quyết định hình phạt nhẹ hơn quyết định của bộ luật (Điều 54); miễn hình phạt (Điều 59, Điều 88 và Điều 390); miễn chấp hành hình phạt (Điều 62); giảm mức hình phạt đã tuyên (Điều 63); các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội (Chương XII); các quy định về tạm hoãn chấp hành hình phạt tù đối với phụ nữ có thai hoặc mới sinh đẻ, người bị mắc bệnh hiểm nghèo, người bị kết án là người lao động duy nhất trong gia đình nếu ở tù sẽ làm cho gia đình đặc biệt khó khăn.
Thứ ba, đạo đức trong xã hội đã thực sự hỗ trợ, bổ sung, hoàn thiện cho pháp luật, tạo điều kiện cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống. Khi pháp luật chưa được ban hành kịp thời, không đầy đủ, đạo đức giữ vai trò bổ sung, thay thế cho pháp luật. Nhà nước ta thừa nhận tập quán có thể thay thế pháp luật trong những trường hợp pháp luật chưa quy định và nội dung tập quán không trái với quy định của pháp luật.
Đạo đức còn tạo điều kiện để pháp luật được thực hiện nghiêm minh trong đời sống xã hội. Gia đình, nhà trường, các thiết chế xã hội đã thực sự phát huy vai trò tích cực của mình trong vấn đề giáo dục nhân cách, lối sống. Chính vì vậy, về cơ bản, tuyệt đại đa số các thành viên trong xã hội đều có ý thức đạo đức tốt, có lối sống lành mạnh, tôn trọng mọi người, tôn trọng các quy tắc sống chung của cộng đồng.
Thứ tư, pháp luật đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy các quan niệm đạo đức tốt đẹp, hình thành những tư tưởng đạo đức tiến bộ, ngăn chặn sự thoái hoá xuống cấp của đạo đức, loại trừ những tư tưởng đạo đức cũ, lạc hậu. Để giữ gìn và phát huy các quan niệm đạo đức của dân tộc, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân” (Điều 60). Để giữ gìn và phát huy các quan điểm đạo đức tiến bộ, ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức, pháp luật quy định các xử sự bắt buộc đối với các chủ thể khi họ ở trong các điều kiện hoàn cảnh xác định. Chẳng hạn, Hiến pháp quy định công dân có nghĩa vụ chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng (Điều 79); Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội” (Điều 69);Bên cạnh đó, pháp luật nghiêm cấm các hành vi trái với đạo đức xã hội như nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” (Điều 37); Nghiêm cấm những hoạt động văn hoá, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam. Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; cấm kết hôn giả, lừa dối để kết hôn, ly hôn”.
Pháp luật cũng đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần loại bỏ những tư tưởng đạo đức phong kiến khác, chẳng hạn tư tưởng “sống lâu lên lão làng”, pháp luật quy định về các chính sách trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức, các quy định về bố trí, sắp xếp cán bộ
- Những khó khăn, hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực trong mối quan hệ giữa pháp luật với chuẩn mực đạo đức, thực tế mối quan hệ giữa pháp luật và chuẩn mực đạo đức ở nước ta vẫn còn tồn tại một số hạn chế:
Một là trong một số trường hợp, ranh giới điều chỉnh giữa đạo đức và pháp luật chưa rõ ràng hay sự pháp luật hoá các quy tắc các quan niệm đạo đức không cụ thể dẫn đến khó ứng dụng vào cuộc sống. Chẳng hạn, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định, các giao dịch dân sự không được trái với đạo đức xã hội. Trên thực tế, đánh giá một hành vi nào đó là trái hay không trái với đạo đức xã hội, không phải là vấn đề đơn giản, cùng một hành vi nhưng có thể có các đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Hai là trong xã hội nhiều quan niệm, tư tưởng đạo đức cổ hủ, lạc hậu vẫn còn tồn tại mà chưa bị ngăn chặn đúng mức cần thiết. Ví dụ như tư tưởng gia trưởng, thói cá nhân chủ nghĩa, tư tưởng địa vị, đẳng cấp, trọng nam khinh nữ,vẫn có ảnh hưởng không nhỏ trong đại bộ phận dân cư.
Cuối cùng, đạo đức trong xã hội xuống cấp là nguyên nhân chính làm gia tăng các vi phạm pháp luật. Nguyên nhân cơ bản là sự nhận thức không đúng đắn về vai trò của đạo đức, nhất là đạo đức truyền thống.
3.2. Giải pháp khắc phục những hạn chế
Để khắc phục được những hạn chế nói trên, nhà nước ta cần xác định rõ những quan điểm đạo đức tích cực phù hợp với xã hội hiện tại để đưa vào pháp luật. Vì suy cho cùng, pháp luật cũng chỉ là hiện tượng của đạo đức. Không những thế, sự tác động của pháp luật hiện đại sẽ tạo điều kiện làm thông thoáng và tháo gỡ những quan niệm đạo đức vốn dĩ trước đây rất khắt khe. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ pháp luật khi ban hành dù có hiện đại đến đâu cũng phải phù hợp với đạo đức, vì nếu không pháp luật đó sẽ không tồn tại được. Chính sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức sẽ bổ sung, hoàn thiện lẫn nhau, nhằm tiến đến xây dựng xã hội tốt đẹp và công bằng hơn.
Trong quá trình áp dụng pháp luật và chuẩn mực đạo đức vào trong đời sống xã hội sẽ không tránh khỏi những mâu thuẫn, xung đột. Nhìn chung, giữa pháp luật và đạo đức không có những mâu thuẫn sâu sắc, vì cả hai đều chung một mục đích là cùng bảo vệ những hành vi tốt, bài trừ những quan điểm, hành vi xấu, nhằm hướng đến mục tiêu xác lập trật tự và điều hòa lợi ích chung của xã hội. Nếu xét về yếu tố con người thì đạo đức là một lĩnh vực mang đậm tính nhân văn và nhân đạo. Trong khi đó, pháp luật tiến bộ dù coi con người là trọng tâm nhưng pháp luật còn trọng trách điều chỉnh trật tự xã hội nên nó không đáp ứng đầy đủ nhu cầu về đạo đức của con người. Vì thế, có những hành vi được coi là vi phạm đạo đức nhưng không vi phạm pháp luật và ngược lại. Đối với những trường hợp như vậy thường khó có thể giải quyết triệt để được, vì cho dù xã hội có phát triển và hiện đại mấy đi chăng nữa thì không thể xóa nhòa tương quan giữa pháp luật và đạo đức. Trong trường hợp nếu pháp luật chưa điều chỉnh thì giải quyết theo quy phạm đạo đức hay nếu có xung đột giữa pháp luật và đạo đức thường giải quyết theo hướng thiên về quy phạm đạo đức.
Hiện nay, khi bước sang cơ chế thị trường, pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các quan hệ kinh tế, vì thế phần nào những giá trị đạo đức đang dần bị xem nhẹ và bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Do đó, việc giáo dục đạo đức trong nhân dân cũng như đội ngũ thế hệ trẻ là hết sức cần thiết để tránh những tác hại về mặt tư tưởng, dẫn đến băng hoại về đạo đức. Vì thế, phải nhận thức sâu sắc vai trò của đạo đức và các nguyên tắc xã hội khác trong việc thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội. Cũng chính vì thế tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”.
KẾT LUẬN
Từ những vấn đề đã phân tích có thể thấy được pháp luật và chuẩn mực đạo đức có những điểm chung và  đồng thời cũng có những điểm khác biệt. Đạo đức và pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động, ảnh hưởng qua lại và thúc đẩy lẫn nhau. Một xã hội có chuẩn mực đạo đức sẽ là cơ sở để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và tự giác. Mặt khác, pháp luật nghiêm sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc giữ gìn, phát triển nền đạo đức xã hội chuẩn mực và tốt đẹp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia.
2. Thành Duy (1995), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, đạo đức và lợi ích công dân, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 3.
3. Hoàng Văn Tuệ (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội.
4. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự 2015.
5. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013.
6. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
7. Uỷ ban thường vụ quốc hội (2020), Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2020. 
8. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
9. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự năm 2015.
10. Trần Công Huyền (2019), Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, <https://baotanghochiminh.vn/ho-chi-minh-ve-phap-luat-va-dao-duc.htm.

File đính kèm:

  • docxtieu_luan_phan_tich_moi_lien_he_giua_phap_luat_va_chuan_muc.docx