Tiểu luận Phân tích những đặc trưng cơ bản của văn hóa chính trị ở Việt Nam. Liên hệ việc nâng cao trình độ văn hóa chính trị cho cán bộ quần chúng ở tỉnh Bình Dương

docx 24 trang yenvu 28/02/2024 1950
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Phân tích những đặc trưng cơ bản của văn hóa chính trị ở Việt Nam. Liên hệ việc nâng cao trình độ văn hóa chính trị cho cán bộ quần chúng ở tỉnh Bình Dương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Phân tích những đặc trưng cơ bản của văn hóa chính trị ở Việt Nam. Liên hệ việc nâng cao trình độ văn hóa chính trị cho cán bộ quần chúng ở tỉnh Bình Dương

Tiểu luận Phân tích những đặc trưng cơ bản của văn hóa chính trị ở Việt Nam. Liên hệ việc nâng cao trình độ văn hóa chính trị cho cán bộ quần chúng ở tỉnh Bình Dương
PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM. LIÊN HỆ VIỆC NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ QUẦN CHÚNG Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIÊN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II
BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ CAO CẤP CHÍNH TRỊ
(Bìa này nộp rời, không đóng kèm vào cuốn Bài thu hoạch)
TÊN MÔN HỌC: CHÍNH TRỊ HỌC
TÊN BÀI THU HOẠCH:
Họ và tên học viên: 	
Mã học viên: 	
Lớp: 	
Hệ: 	
Khóa học: 	
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIÊN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II
BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ CAO CẤP CHÍNH TRỊ
C (C16 LÂM ĐỒNG 2019)
TÊN MÔN HỌC: CHÍNH TRỊ HỌC
TÊN BÀI THU HOẠCH: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM. LIÊN HỆ VIỆC NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ QUẦN CHÚNG Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG
ĐIỂM TRUNG BÌNH MÔN HỌC
Bằng số
Bằng chữ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
MỤC LỤC
NỘI DUNG BÀI THU HOẠCH
PHẦN I: MỞ ĐẦU
	Như chúng ta đã biết, văn hóa chính trị được xem là tổng thể những giá trị được hình thành trong thực tiễn chính trị, thể hiện nhận thức, lý tưởng – niềm tin chính trị và cách thức tham gia vào đời sống của các chủ thể hướng tới những giá trị phù hợp cho từng điều kiện nhất định, trên cơ sở đảm bảo tiêu chí chân, thiện, mỹ. Văn hóa chính trị của cán bộ, Đảng viên ở nước ta, nhất là cán bộ, lãnh đạo là sự kết tinh toàn bộ các phẩm chất giá trị đạo đức, trình độ năng lực, nhân cách chính trị, biểu hiện ở các giá trị chuẩn mực xã hội, ở trình độ và năng lực nhận thức chính trị trên từng cương vị. Văn hoá chính trị làm cho sự tác động của chính trị đến đời sống xã hội giống như sức mạnh nội sinh của văn hoá. Đó là loại sức mạnh không dựa vào quyền lực hay ép buộc là chủ yếu, mà chủ yếu là được tạo dựng từ sự đồng thuận xã hội thông qua cảm hoá, khơi dậy tinh thần sáng tạo, ý thức tự giác của các tầng lớp nhân dân. 
	Đất nước Việt Nam ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bên cạnh những mặt thuận lợi đất nước ta đang đứng trước không ít những thử thách. Đất nước ta đang đi vào chiều sâu của cải cách chính trị, của dân chủ hóa đời sống chính trị thì văn hóa chính trọ thật sự trở thành một yêu cầu bức xúc và có ý nghĩa hết sức quan trọng ảnh hưởng tới quyết định thắng lợi của cách mạng. Việc tìm hiểu những đặc trưng cơ bản của văn hóa chính trị có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì lý do đó, học viên chọn chủ đề: “PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM. LIÊN HỆ VIỆC NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ QUẦN CHÚNG Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG” làm tiểu luận kết thúc môn học của mình.
PHẦN II: NỘI DUNG
	1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
	1.1. Cơ sở lý luận
	1.1.1. Khái niệm văn hóa chính trị
	Ý niệm về văn hóa chính trị đã được xuất hiện manh nha từ thời cổ đại. Platon, nhà triết học cổ đại Hy Lạp định nghĩa: “Chính trị là nghệ thuật cai trị những con người với sự bằng lòng của họ”[8]. Tuy nhiên, chỉ đến khoảng giữa thế kỷ XX, các nhà khoa học mới nêu ra thuật ngữ văn hóa chính trị (political culture). Từ cách tiếp cận thể chế của quốc gia có thể nhận thấy, văn hóa chính trị biểu hiện mối quan hệ chặt chẽ, sự chi phối, hỗ trợ lẫn nhau giữa văn hóa và chính trị, mà cụ thể là giữa thể chế văn hóa và thể chế chính trị [2].
	Văn hóa chính trị chỉ là một khía cạnh, một lĩnh vực của văn hóa. Hoạt động chính trị được coi là văn hóa thì đều phải có một thể chế và niềm tin chính trị. Do vậy, văn hóa chính trị có thể được hiểu là hệ thống các niềm tin về quyền lực, quyền và thẩm quyền - những yếu tố gắn với thiết chế nhà nước. Cũng có thể hiểu rằng, văn hóa chính trị là những định hướng chính trị, thái độ chính trị của chủ thể đối với hệ thống chính trị cũng như đối với vai trò của bản thân chủ thể đó trong hệ thống chính trị. Còn theo Lucian Pye và Sidney Verba - các nhà khoa học người Mỹ, thì “Văn hóa chính trị là một hệ thống các niềm tin được hình thành trong thực tiễn chính trị”.
	Có hai vấn đề lớn liên quan đến văn hóa chính trị, đó là: “(1) bộ máy nhà nước nên được tổ chức, điều hành như thế nào; (2) bộ máy nhà nước nên làm những gì. Hai vấn đề này chính là sự đề cập đến vai trò của chính trị đối với phát triển kinh tế, xã hội. Ngoài ra, trong văn hóa chính trị có một số nguyên tắc liên quan đến các giá trị, niềm tin và thái độ, cảm xúc của các thành viên trong cộng đồng. Đó là, (1)những niềm tin được san sẻ; (2) những luật lệ được chấp nhận một cách phổ biến. Các nguyên tắc này chính là sự đề cập đến mối quan hệ gắn bó, mang tính pháp lý giữa chính trị và văn hóa” [2].
	Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương diện xã hội có giai cấp. Văn hóa chính trị là sự thẩm thấu, thâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau giữa văn hóa với chính trị, giữa chính trị với văn hóa. Việc nghiên cứu văn hóa chính trị trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta dựa trên cơ sở kế thừa những giá trị văn hóa trước đây, những quan niệm văn hóa chính trị hiện nay trên thế giới và vận dụng chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 
	Tiếp cận từ quan niệm của chủ nghĩa Mác – xít cho rằng: “Văn hóa chính trị là chất lượng tổng hợp của các tri thức, kinh nghiệm hoạt động chính trị, là tình cảm và niềm tin chính trị của mỗi cá nhân tạo thành ý thức chính trị của mỗi công dân, thúc đẩy họ tới những hành động tích cực, phù hợp với lý tưởng chính trị - xã hội” [6, tr.213].
	Nếu xem xét văn hóa chính trị từ góc độ rộng hơn của khoa học chính trị thì “Văn hóa chính trị là một phương diện văn hóa xã hội có giai cấp, nói lên tri thức, năng lực sáng tạo hoạt động chính trị hiện thực cùng những thể chế chính trị tiến bộ được lập ra để thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự phát triển của lịch sử. Văn hóa chính trị nói lên phẩm chất và hình thức hoạt động chính trị của con người cùng thiết chế chính trị mà họ lập ra để thực hiện những lợi ích cơ bản của chủ thể tương ứng” [6, tr.213].
	Từ những quan niệm cho thấy, con đường hình thành và phát triển văn hóa chính trị trong xã hội nhất định là sự hoàn thiện chế độ xã hội cùng các thiết chế chính trị và việc nâng cao năng lực của xã hội. Việc kế thừa và phát triển những giá trị vật chất, giá trị tinh thần do hoạt động chính trị sáng tạo của nhân loại, của dân tộc là điều tất yếu trong quá trình phát triển văn hóa, chính trị hiện nay.
	1.1.2. Đặc trưng của văn hóa chính trị
	Thứ nhất, văn hóa chính trị bao giờ cũng mang tính giai cấp [6, tr.214].
	Văn hóa chính trị hình thành trong thực tiễn đấu tranh giai cấp vì vậy nó luôn bị chi phối bởi thế giới quan hệ tư tưởng, những quan điểm chính trị của giai cấp nhất định và phục vụ cho lợi ích của mỗi giai cấp. Tuy rất quan trọng nhưng tính giai cấp không phải là thuộc tỉnh duy nhất của văn hóa chính trị Tinh dần tộc và tinh nhân loại luôn tồn tại trong văn hóa chính trị của từng giai cấp. Đặc biệt trong bối cảnh của thế giới hiện đại, mối quan hệ giữa tỉnh giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại càng gắn bó chặt chẽ hữu cơ hơn bao giờ hết. văn hóa trước hết là vấn đề tồn tại và phát triển của một cộng đồng người nhất định, cộng đồng trở nên bền vững khi nó trở thành dân tộc. Tính dân tộc luôn gắn liền tính nhân loại, tính giai cấp.
	Thứ hai, văn hóa chính trị phản ánh quan hệ quyền lực chính trị [6, tr.214]
	Các giá trị của văn hóa chính trị thể hiện mối quan hệ quyền lực giữa giai cấp và chính Đảng, tổ chức và thành viên... trong nội bộ giai cấp: quan hệ giữa các giai cấp và nhà nước, nhà nước và công dân...; quan hệ giữa các nhà nước, các quốc gia dân tộc, các tổ chức chính trị quốc tế... mà ở đó, tất cả điều thể hiện quyền lực chính trị của người này đối với người khác và ngược lại. Các giá trị này gắn liền với những chuẩn tắc cơ chế và thể lệ tổ chức và hoạt động chính trị, những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cùng với mối quan hệ xác định đã được các cơ quan quyền lực qui định mà không thể làm khác được. Biểu hiện tập trung nhất tính quyền lực của văn hóa chính trị là ở luật pháp của Nhà nước
	Thứ ba, văn hóa chính trị mang tính lịch sử сụ thể [6, tr.214]
	Văn hóa chính trị được qui định bởi những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Hai nhân tố này có nội dung, tinh chất và phương thức qui định khác nhau trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, điều đó qui định tính lịch sử của văn hóa chính trị. Tính cụ thể của văn hóa chính trị dựa trên cơ sở lý tưởng chính trị, lập trường và hành vi..., cũng như trên cơ sở yếu tố tâm lý xã hội. Tính lịch sử của văn hóa chính trị thể hiện ở trong các điều kiện lịch sử khác nhau. Mặt khác, các giá trị văn hóa chính trị không phải là cái gì bất biến mà luôn có sự vận động và phát triển.
	Thứ ba, văn hóa chính trị mang tính kế thừa [6, tr.214].
	Hệ tư tưởng là nhân tố cốt lõi nhất của văn hóa chính trị. Nhưng trong mỗi hình thái kinh tế nhất định, kết cấu giai cấp rất phức tạp và không thuần nhất. Do đó, trong mỗi nền chính trị, văn hóa chính trị không thuần nhất. Văn hóa của các giai cấp có hệ tư tưởng độc lập chi phối văn hóa của giai cấp khác tạo nên bức tranh đa dạng của văn hóa chính trị. Bên cạnh văn hóa chính trị của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước, còn có văn hóa chính trị của các giai cấp và các giai tầng khác nhau trong xã hội.
	Thứ tư, văn hóa chính trị là sự tổng hòa tất cả các hình thái văn hóa cơ bản của xã hội [6, tr.214].
	Văn hóa chính trị như là sự thâu thái toàn bộ các hình thái văn hóa khác vào trong nó và biến những giá trị ấy thành những giá trị mang tính độc đáo riêng của mình. Giá trị của văn hóa chính trị luôn bao chứa trong mình nó không chỉ là cái chính trị mà còn cả cải đạo đức, cái khoa học, cái thẩm mỹ. Một giá trị văn hóa chưa mang hẳn tính chính trị nhưng bất kỳ một giá trị văn hóa chính trị nào cũng không thể mang giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, tri thức khoa học ở mức độ cần thiết. Chính vì vậy, văn hóa chính trị luôn tồn tại và phát triển như một chỉnh thể quyền lực chính trị ngày càng tiệm cận giải phóng tối cao và phát huy một cách tự nhiên bản chất tốt đẹp của con người.
	Thứ năm, văn hóa chính trị rất phức tạp trong việc xác định chân giá trị [6, tr.214]
	Xuất phát từ nguyện vọng cho nhu cầu và lợi ích khác nhau, giá trị văn hóa của nhiều sự kiện chính trị lớn trong lịch sử của nhân loại, không chỉ người đương thời nhìn nhận hết sức trái ngược nhau mà còn cả những người của thời đại sau cũng có sự đánh giá rất khác nhau. Khó có một sự tương thích về quan điểm giữa những người có lập trường và lý tưởng xã hội khác nhau đối với khía cạnh văn hóa của vấn đề chính trị. Không những thế mà ý thức hệ giai cấp còn xâm nhập vào, nhiều khi đến mức còn chi phối trong việc xác nhận các giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, thậm chí tri thức khoa học.
	1.2. Cơ sở hình thành và phát triển văn hóa chính trị ở Việt Nam
	Thứ nhất, công cuộc xây dựng đất nước, sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, với quê hương xứ sở và lịch sử đấu tranh chống thiên tai.
	Đây là cơ sở chung của tình yêu đất nước đối với nhân dân của mọi quốc gia - dân tộc; đồng thời cũng là cơ sở chung của văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại.
	Việt Nam với vị trí địa lý và đặc điểm về địa hình, khí hậu, tài nguyên, sinh thái, là một thiên nhiên nhiệt đới gió mùa phong phú, đa dạng, chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với con người. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, con người vừa thích nghi, vừa khai phá tài nguyên và mặt thuận lợi của thiên nhiên để mở mang đồng ruộng, xóm làng, phát triển kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước kết hợp với các nghề thủ công, chăn nuôi, đánh bắt, buôn bán... Mặt khác, con người cũng phải liên kết lại trong cuộc đấu tranh khắc phục những trở ngại của thiên nhiên, chống thiên tai... Từ rất sớm, nhân dân ta đã biết đắp đê sông, đê biển để chống lũ lụt, bão tố; đào kênh, khơi mương, làm thủy lợi để chống hạn hán, tưới tiêu cho đồng ruộng. Công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, xã hội trong những đặc điểm của thiên nhiên Việt Nam đã sớm tạo nên sự gắn bó cộng đồng, sự gắn bó với quê hương, xứ sở. Đó chính là cơ sở của tình yêu đất nước, của tình cảm và là cơ sở hình thành, phát triển của văn hóa chính trị Việt Nam.
	Thứ hai, lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
	Tính đặc thù và đặc biệt của chống ngoại xâm trong lịch sử Việt Nam biểu thị tập trung ở chỗ: Hiếm có dân tộc nào trên thế giới phải chống ngoại xâm nhiều lần như Việt Nam. Kể từ kháng chiến chống Tần thế kỷ III TCN đến kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và các thế lực ngoại xâm khác trong hơn 23 thế kỷ, tính ra thời gian kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống đô hộ ngoại bang với những cuộc khởi nghĩa và những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, đã lên đến trên 12 thế kỷ. Điều đáng lưu ý ở đây là độ dài thời gian, tần số xuất hiện, độ chênh lệch, cường độ, số lượng các cuộc kháng chiến và khởi nghĩa, chiến tranh giải phóng quá lớn so với các nước khác trên thế giới.
	Do đó, con đường sống còn và chiến thắng của dân tộc Việt Nam là phải biết huy động sức mạnh của toàn dân, của cả đất nước, sức mạnh vật chất và tinh thần của toàn thể dân tộc. Lịch sử chống ngoại xâm với những đặc điểm trên đã tác động sâu sắc đến toàn bộ tiến trình lịch sử và sự phát triển của tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc, ý chí quật cường bất khuất, niềm tự tôn dân tộc, văn hóa chính trị của dân tộc Việt Nam.
	Thứ ba, sự tiến triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử Việt Nam.
	Sự phát triển xã hội luôn luôn diễn ra trong sự tiến triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong quy luật vận động chung của xã hội loài người, sự tiến triển của các hình thái kinh tế - xã hội của mỗi nước mang những nét đặc thù có ảnh hưởng đến sự phát triển văn hoá, ý thức, trong đó có văn hóa chính trị.
	Trong thời cổ đại, Việt Nam không trải qua thời kỳ phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ. Quan hệ nô tỳ, tức chế độ nô lệ gia trưởng có phát triển trong mức độ nào đó, nhưng không bao giờ trở thành quan hệ chi phối, thống trị của xã hội và nô tỳ chưa bao giờ giữ vai trò lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội.
	Chế độ phong kiến Việt Nam cũng mang đặc điểm của chế độ phong kiến phương Đông và khác với chế độ phong kiến phương Tây. Trong thời kỳ phong kiến, ở Việt Nam không có thời kỳ tồn tại của chế độ lãnh địa với quan hệ lãnh chúa - nông nô, không trải qua thời kỳ phân quyền cát cứ lâu dài. Đặc điểm này cũng ảnh hưởng đến sự cố kết cộng đồng và sự phát triển của tinh thần, ý thức dân tộc và văn hóa chính trị Việt Nam.
	Thứ tư, sự thống nhất trong tính đa dạng của nền văn hoá dân tộc.
	Những kết quả nghiên cứu khảo cổ học gần đây cho phép xác nhận trong thời cổ đại, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay hình thành ba trung tâm văn hoá - văn minh dẫn đến sự ra đời của ba nhà nước sơ khai: văn hoá Đông Sơn với nước Văn Lang - Âu Lạc ở miền Bắc, văn hoá Sa Huỳnh với vương quốc Champa cổ, văn hoá óc Eo với vương quốc Phù Nam. Trải qua nhiều biến thiên lịch sử, ba dòng văn hoá và lịch sử đó hòa nhập vào dòng chảy chung của Việt Nam, lấy dòng văn hoá Đông Sơn với nước Văn Lang - Âu Lạc làm dòng chủ lưu.
	Việt Nam là một nước gồm nhiều thành phần tộc người mà ta quen gọi chung là nhiều dân tộc, là một quốc gia đa tộc người với 54 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó dân tộc Kinh (Việt) chiếm 87% dân số. Các dân tộc thiểu số phần lớn sống ở vùng trung du và miền núi, cũng sống xen kẽ với nhau. Mỗi dân tộc có vốn văn hoá riêng, tạo nên những vùng địa - tộc người rất phong phú, đa dạng. Nhưng do sự gắn bó lâu đời trong một quốc gia thống nhất, do yêu cầu chống thiên tai, chống ngoại xâm và do sự giao lưu, hội nhập văn hoá, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam vẫn có mẫu số chung của một nền văn hoá thống nhất trong tính đa dạng, một ý thức chung về vận mạng cộng đồng.
	Việt Nam bao gồm nhiều vùng địa lý với những đặc điểm khác nhau về địa hình, khí hậu, môi trường, sinh thái. Những điều kiện tự nhiên đó kết hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tạo nên những vùng địa - văn hoá khác nhau cũng góp phần tăng thêm tính đa dạng của văn hoá Việt Nam. Với vị trí đầu mối giao thông tự nhiên của Đông Nam Á, Việt Nam vừa nối liền với đại lục vừa nhìn ra đại dương và hải đảo, một khu vực giao tiếp của nhiều nền văn minh trên thế giới. Văn hoá Việt Nam qua giao lưu và tiếp biến, đã tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hoá bên ngoài làm phong phú văn hoá dân tộc, nhưng vẫn giữ bản sắc văn hoá của mình. Đó là tính thích nghi, hội nhập, tiếp biến và bản lĩnh của văn hoá Việt Nam.
	Tinh thần yêu nước, ý thức về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là một bộ phận tạo thành của văn hoá Việt Nam, vừa kết tinh những giá trị tiêu biểu, vừa chi phối sự phát triển của nền văn hoá dân tộc nói chung và văn hóa chính trị Việt Nam nói riêng.
	Thứ năm, quá trình thống nhất quốc gia và hình thành sớm của dân tộc Việt Nam.
	Nhà nước Việt Nam ra đời không chỉ trên cơ sở phân hóa xã hội, phân hóa giai cấp, mà chủ yếu còn do yêu cầu của lịch sử , đó là phải có một tổ chức đứng ra để tập hợp lực lượng, để chỉ huy dân tộc xây dựng và quản lý các công trình đê điều, thủy lợi và yêu cầu tự vệ chống ngoại xâm. Quá trình hình thành, phát triển của nhà nước gắn liền với quá trình thống nhất quốc gia.
	Việc sử dụng quyền lực nhà nước ở thời kỳ dựng nước cũng không phải chủ yếu là để thống trị giai cấp, mà chủ yếu là để cố kết dân tộc, tập hợp lực lượng, chỉ huy dân tộc đánh giặc ngoại xâm và chống thiên tai xây dựng đất nước. Đây là những nét độc đáo mang đậm tính nhân văn sâu sắc của lịch sử chính trị Việt Nam. Nó hình thành quy luật cơ bản của chính trị Việt Nam, của văn hóa chính trị Việt Nam - Đoàn kết mang đậm tính nhân văn.
	Quá trình thống nhất quốc gia và thống nhất dân tộc sớm tác động sâu sắc đến sự phát triển của tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc, tạo nên tinh thần đoàn kết dân tộc và sự cố kết cộng đồng mang tính dân tộc, chưng cất nên đặc trưng của văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa chính trị Việt Nam nói riêng.
	1.3. Những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa chính trị Việt Nam
	Nền văn hóa chính trị Việt Nam là một nền văn hóa gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước và giữ nước lâu dài đã tạo lập nên được nhiều truyền thống quý báu, đến hôm nay vẫn đang tiếp tục phát huy truyền thống mới. Những giá trị tiêu biểu của truyền thống văn hóa chính trị Việt Nam bao gồm:
	Thứ nhất, nền văn hóa chính trị Việt Nam đề cao tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, chủ nghĩa yêu nước là kết tinh những giá trị tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt Nam. Khắc phục thiên tai và chống giặc ngoại xâm là hai đặc điểm truyền thống và sức mạnh sáng tạo của dân tộc Việt Nam được kết tinh. Tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm lớn nhất, bao trùm nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam. Giáo sư Trần Văn Giàu viết: “Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua lịch sử Việt Nam biểu lộ rõ ràng, đầy đủ, tập trung hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước thành một triết lý xã hội nhân sinh của con người Việt Nam và nếu dùng từ “đạo” với nguyên ý nghĩa của nó là “đường” là hướng đi thì chủ nghĩa yêu nước đích thực là đạo của Việt Nam”. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thể hiện qua một số nội dung cơ bản sau: “Yêu thương sứ sở làng xóm, gắn bó với kết cấu cộng đồng có lịch sử và văn hóa chung. Ý thức và lòng tự hào dân tộc; ý thức sâu sắc về độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, hướng về dân và lấy dân làm gốc [6, tr.214].
	Thứ hai, chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cốt lõi trong văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt động của mình. Chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn vì con người mang những giá trị nhân văn, luôn hướng tới hoạt động của con người đi đến chân, thiện, mỹ; chính vì thế mà đây là một bộ phận trong nền văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay. Từ khi Đảng ta được thành lập cho đến nay giá trị nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lê nin trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những mục tiêu đem lại hạnh phúc cho con người.
	Thứ ba, những chuẩn mực mang giá trị nhân văn trong hoạt động chính trị thực tiễn của Việt Nam. Văn hóa chính trị Việt Nam luôn kế thừa và phát triển những chuẩn mực mang giá trị nhân văn, truyền thống tốt đẹp kể từ khi dựng nước đến nay, đó là: Lấy nhân nghĩa để cứu nước, cứu dân; truyền thống tư tưởng thân dân, khoan dân, yêu dân, dựa vào dân là điều kiện sống còn của Nhà nước; giàu tình khoan dung, đề cao trong việc trọng hiền tài trị nước; độc lập dân tộc, non sông đổi mới một thế giới hòa bình; những giá trị hiện nay phù hợp nhân loại và một xu thế tất yếu của các dân tộc tiến bộ trên thế giới. Hiện nay, đất nước ta đã hòa bình, thống nhất, tiến hành hiện đại hóa đất nước, mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều do dân và vì dân, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu, bên cạnh đó có những chính sách cụ thể giúp hộ nghèo vươn lên và thoát nghèo. Đó là những giá trị nhân văn mà Đảng ta đã kế thừa và phát huy trong giai đoạn hiện nay [6, tr.214].
	Thứ tư, tiếp thu phê phán, chọn lọc những giá trị chân chính của nhân loại để bảo tồn và phát triển văn hóa chính trị Việt Nam [6, tr.214].
	Hiện nay đất nước ta đã hòa bình thống nhất, tiến hành hiện đại hoá đất nước, mọi đượng lối, chủ trương của Đảng điều do dân và vì dân, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu, bên cạnh đó có những chính sách cụ thể nhằm giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo. Đó là những giá trị nhân văn mà Đảng ta đã kế thừa và phát huy trong giai đoạn hiện nay.
	2. THỰC TRẠNG VIỆC NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ VÀ QUẦN CHÚNG TẠI BÌNH DƯƠNG
	2.1. Thực trạng hiện nay
	 Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai, phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và một phần thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh và một phần tỉnh Đồng Nai. Theo Nghị quyết số 136/NQ-CP ngày 29/12/2013 của Chính phủ, tỉnh Bình Dương có diện tích tự nhiên là 2.694,43 km2 (chiếm khoảng 0,83% diện​ tích cả nước, khoảng 12% diện tích miền Đông Nam Bộ); dân số 1.995.817 người, mật độ dân số là 741 người/ km2 (Niên giám thống kê 2016 do Cục Thống kê Bình Dương phát hành); 09 đơn vị hành chính cấp huyện (gồm: thành phố Thủ Dầu Một, thị xã Dĩ An, thị xã Thuận An, thị xã Bến Cát, thị xã Tân Uyên và các huyện Bàu Bàng, Bắc Tân Uyên, Dầu Tiếng, Phú Giáo) và 91 đơn vị hành chính cấp xã (48 xã, 41 phường, 02 thị trấn). Bình Dương luôn là vùng đất của hội tụ. Thế và lực của Bình Dương hôm nay là kết quả phấn đấu kiên cường, năng động, sáng tạo không ngơi nghỉ của bao lớp cư dân qua các thời kỳ lịch sử. Đó là hành trang, là vốn liếng quan trọng để Bình Dương cất cánh trong thời kỳ mới – thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu sớm trở thành đô thị văn minh, giàu đẹp [3].
	Tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiền phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp” [5]. Vì vậy, nâng cao văn hóa chính trị cho cán bộ, đảng viên có ý nghĩa quan trọng, góp phần củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa
	Văn hóa chính trị của cán bộ, đảng viên là những giá trị chân, thiện, mỹ, phản ánh bản chất giai cấp công nhân, bản sắc văn hóa dân tộc được biểu hiện thông qua nhận thức, tri thức, tình cảm, niềm tin, bản lĩnh, thái độ ứng xử, năng lực thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên. Văn hóa chính trị của cán bộ, đảng viên được xác lập trên cơ sở lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, cách thức ứng xử chính trị của người cán bộ đối với quyền lực được giao, khả năng thu phục, tập hợp, tổ chức mọi người vào công việc chung, tùy thuộc vào kinh nghiệm trong hoạt động chính trị thực tiễn của họ.
Trải qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Có được những thành tựu đó, một phần là do Đảng ta đã quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, trong đó có nâng cao văn hóa chính trị. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII khẳng định: “Đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện; trình độ năng lực được nâng lên, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín” [4].
Văn hóa chính trị của cán bộ, đảng viên là những giá trị chân, thiện, mỹ, phản ánh bản chất giai cấp công nhân, bản sắc văn hóa dân tộc được biểu hiện thông qua nhận thức, tri thức, tình cảm, niềm tin, bản lĩnh, thái độ ứng xử, năng lực thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên. Văn hóa chính trị của cán bộ, đảng viên được xác lập trên cơ sở lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, cách thức ứng xử chính trị của người cán bộ đối với quyền lực được giao, khả năng thu phục, tập hợp, tổ chức mọi người vào công việc chung, tùy thuộc vào kinh nghiệm trong hoạt động chính trị thực tiễn của họ.
Trải qua 36 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Có được những thành tựu đó, một phần là do Đảng ta đã quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, trong đó có nâng cao văn hóa chính trị. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII khẳng định: “Đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện; trình độ năng lực được nâng lên, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín”.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, văn hóa chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ giữ vị trí chủ chốt tại các cơ quan, đơn vị còn một số hạn chế. Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị thiếu vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đặc biệt, tình trạng lợi dụng, lạm dụng quyền lực chính trị được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó dẫn đến hiện tượng chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) đã nêu rõ những yếu kém của cán bộ, đảng viên: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử theo pháp luật
	Theo báo cáo thống kê, hơn 87.000 Đảng đảng viên bị thi hành kỷ luật trong nhiệm kỳ khóa XII, tăng 18% so với nhiệm kỳ XI. Trong đó, chỉ riêng cán bộ diện Trung ương quản lý bị kỷ luật đã tăng gấp 10 lần so với nhiệm kỳ trước, gồm 113 đảng viên là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương, cả đương nhiệm và đã nghỉ, hơn 30 sỹ quan cấp Tướng trong lực lượng vũ trang. Nhưng con số ấy vẫn chưa dừng lại. Các tổ chức Đảng và đảng viên sai phạm từ nhiệm kỳ này tiếp tục bị đưa ra "ánh sáng" kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, liên quan đến các bộ, ngành, địa phương trong đó có Bình Dương [7].
	2.2. Nhận xét, đánh giá
	2.2.1. Những kết quả đạt được
	Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng với mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa: Xây dựng nhà nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh dựa trên sức mạnh của văn hóa truyền thống của văn minh nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã kết tinh được một cách nhuần nhuyễn tính hoa văn hóa thế giới, lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin với nền văn hóa truyền thống của dân tộc và sự nghiệp cách mạng của nước ta từ những năm 30 đến nay và sau này - đó là sức mạnh văn hóa chính trị Việt Nam.
	Trong nhiều năm qua, văn hóa chính trị ở nước ta nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng đã xác lập được những giá trị căn bản làm nền tảng, là tiền đề văn hóa và là động lực mạnh mẽ của công cuộc đổi mới. Dân tộc Việt Nam không sùng tinh, rất nhạy cảm về chính trị và nhiệt tình tham gia vào công việc nhà nước. Trong thực tiễn những ưu điểm trong việc hình thành giáo dục nâng cao văn hoá - chính trị cho nhân dân được thể hiện qua một số kết quả cụ thể trong phạm vi cả nước, cũng như địa phương, như bản chất của Ban chấp hành Trung ương Đảng và với nhà nước được khẳng định, trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân khá hơn trước. Những thành tựu văn hóa chính trị có thể kể như: đã có bước tiến quan trọng trong phát triển duy luận, có bước tiến quan trọng trên con đường hiện thực hóa quyền lực chính trị của nhân dân, đã có một đội ngũ cán bộ có trình độ văn hóa chính trị ngày một cao.
	2.2.2. Những tồn tại, hạn chế 
	Mặc dù vậy, văn hóa chính trị nước ta nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng đang đứng trước những vấn đề bức xúc cần phải giải quyết, những khó khăn trong công tác giáo dục, đào tạo, việc nâng cao dân trí. Những tồn tại, hạn chế bao gồm:
	Thứ nhất, sự bất cập về tri thức chính trị: nhiều vấn đề thực tiên bức xúc chưa được lý giải về lý luận và chưa kịp thời đúc rút tổ chức còn cồng kềnh, kém hiệu lực ... Một bộ phận cán bộ nhân dân còn hạn chế trong tranh luận chính trị, những sinh hoạt chính trị đóng góp kinh nghiệm. Hệ thống chính sách pháp luật còn chồng chéo, chưa hoàn chỉnh, hoạt động pháp chế còn nhiều hạn chế (tùy tiện trong hành pháp, sai sót trong tư pháp...), thể chế chính trị chưa hoàn thiện, định chế của hệ thống chính trị chưa cụ thể, thiết chế chính trị đóng góp xây dựng Đảng, xây dựng chủ trương đường lối của Đảng, của nhà nước với khẩu hiệu “Dân biết, dân dân làm, dân kiểm tra”. Một bộ phận cán bộ, nhân dân còn xem nhẹ định hướng chính trị trong các hoạt động kinh tế, bên cạnh đó là văn hóa – chính trị vẫn còn chưa có sự bình đẳng trong chính trị.
	Hai là, nguy cơ xói mòn các giá trị văn hóa truyền thống: một giá trị có nguy cơ mai một dần, các giá trị mới được xác lập chưa mang tính xã hội phổ biến. Mặt trái của tính tự trị và tính cộng đồng làng xã dẫn đến hàng loạt các căn bệnh tâm lý của xã hội vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng đến quá trình phát triển của đất nước hiện nay như: bệnh làm ăn theo kiểu sản xuất nhỏ, bệnh gia đình chủ nghĩa, bệnh xuề xòa đại khái, bệnh “phép vua thua lệ làng”, tác phong làm việc chậm chạp. Một số cán bộ có phong thái làm việc theo kiểu “quan cách mạng”, không ít tệ nạn và hành vi phản văn hóa làm nảy sinh ở đội ngũ cán bộ cấp cao và lan ra trong xã hội.
	3. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
	3.1. Nâng cao trình độ văn hóa, trình độ học vấn nói chung cho nhân dân bởi lẽ trình độ học vấn, trình độ văn hóa chính là cơ sở của văn hóa chính trị
	Nhận thức có vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động thực tiễn, trên cơ sở nhận thức đúng mới có hành động đúng. Chính trị là một lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, đòi hỏi con người khi tham gia vào đời sống chính trị, hoạt động chính trị phải có những tri thức và sự hiểu biết toàn diện, đúng đắn và sâu sắc về nó. V.I.Lênin quan niệm: “Một người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị” [2]. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động như hiện nay, việc bồi dưỡng nâng cao trình độ tri thức toàn diện càng đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở những tri thức và sự hiểu biết về chính trị, cán bộ, đảng viên mới có thể giác ngộ về lập trường, quan điểm giai cấp đúng đắn, qua đó xác định đúng mục tiêu, thái độ và động cơ chính trị, phát huy tính tự giác, quyết tâm, sáng tạo cả trong hoạt động thực tiễn cũng như ở hành vi chính trị. Về điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được. Tư tưởng đó là lập trường, quan điểm và lý tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên được biểu hiện ở lòng trung thành với sự lựa chọn chính trị của Đảng, ở hành động thực tế trong hoạt động chính trị mang lại lợi ích cho Tổ quốc, nhân dân. Cho nên việc học tập, nâng cao trình độ tri thức cho cán bộ, đảng viên được Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII đặc biệt chú trọng: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa học tập lý luận với rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị; khắc phục tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”(6).
	Tri thức chính trị của cán bộ, đảng viên có vai trò định hướng cho mọi hoạt động trên tất cả các lĩnh vực. Trang bị tri thức chính trị cần tập trung vào nâng cao hiểu biết về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tri thức về chính trị, tri thức về lãnh đạo, quản lý... Đó là những giá trị cốt lõi của văn hóa chính trị để cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ giá trị trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Xây dựng văn hóa chính trị cho cán bộ, đảng viên trước hết và trên hết là xây dựng hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng của Đảng, là cái gốc văn hóa chính trị của Đảng cầm quyền. Một mặt, nâng cao tri thức chính trị giúp cho cán bộ, đảng viên nắm được cốt lõi văn hóa chính trị, là cơ sở cho việc hình thành văn hóa trong hoạt động chính trị và đời sống chính trị. Mặt khác, việc hoạch định chủ trương, tổ chức triển khai nghị quyết, hoạt động lãnh đạo, quản lý phụ thuộc vào trình độ nhận thức của từng cán bộ, đảng viên. Nói đến tri thức chính trị của cán bộ, đảng viên là nói tới trình độ hiểu biết, năng lực thực chất, không phải chỉ đơn thuần xét theo bằng cấp.
	3.2. Đổi mới và nâng cao giáo dục lý luận chính trị để góp phần hình thành thế giới quan khoa học và niềm tin trong nhân dân
	Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng giáo dục lý luận chính trị. Bởi, theo Người, nếu chỉ học văn hoá, kỹ thuật, chuyên môn mà không có lý luận thì như “người nhắm mắt mà đi”, giáo dục lý luận là nền tảng, trên cơ sở đó nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn. Học tập lý luận không phải là để thuộc làu sách Mác - Lênin, không phải học một cách giáo điều mà là học cái tinh thần xử trí đối với mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình. Lý luận chính trị là bộ phận quan trọng của lý luận, phản ánh những tính quy luật chính trị, các quan hệ chính trị - xã hội, đời sống kinh tế - chính trị - xã hội. Nếu chính trị là lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, đảng phái, dân tộc, quốc gia về mặt nhà nước thì lý luận chính trị là công cụ đắc lực cho việc cầm quyền của một giai cấp, nó thể hiện lợi ích và thái độ của giai cấp đối với quyền lực của nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến giáo
dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, coi đây là yếu tố tiên quyết cho sự thành công của cách mạng.
	Yêu cầu trong giáo dục chính trị phải chú ý những nội dung sau: coi trọng tính cách mạng và khoa học chủ nghĩa Mác – Lê nin, giáo dục phải phù hợp với từng tình hình cụ thể, giáo dục trên cơ sở sáng tạo, khắc phục giáo điều trong thực tiễn, khuyến khích tìm tòi một số định hướng đúng, trong quá trình học tập lý luận chính trị, học tập Nghị quyết thì cần phải khuyến khích tìm tòi chủ trương trong tranh luận, phải đầu tư các mặt giáo dục lý luận chính trị: tài liệu, giáo viên, báo cáo viên, tài liệu học tập, giảng dạy ở trường lớp.
	3.3. Sử dụng tối đa phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền trong đông đảo quần chúng nhân dân những nhận thức mới mẻ về chủ nghĩa xã hội, những triển vọng và thành tựu đổi mới của đất nước
	Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trong thời gian gần đây đã đưa nhân loại bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cụm từ “Cách mạng công nghiệp 4.0” được nhắc đến rộng khắp không chỉ trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, trong các bài báo, tạp chí mà còn trong rất nhiều các hội nghị, hội thảo và cả trên mạng xã hội... Theo các nhà khoa học, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra những khả năng hoàn toàn mới, có tác động sâu sắc đối với các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế của thế giới, đến mọi quốc gia, chính phủ, doanh nghiệp và người dân khắp toàn cầu, cũng n hư làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc và sản xuất[1]. Đảng, Nhà nước, Chính phủ không chỉ chịu sự tác động, áp lực, thách thức mạnh mẽ từ các cuộc cách mạng công nghiệp mà còn phải xác định đầy đủ hơn về vai trò, trách nhiệm đối với con người và xã hội trong bối cảnh mới có tính chất toàn cầu.
	Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó nhấn mạnh việc đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Bộ Chính trị yêu cầu cần nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về sự cấp thiết phải chủ động tham gia tích cực và có hiệu quả cuộc cách mạng công nghệ 4.0, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm.
	3.4. Tăng cường hình thức giao tiếp văn hóa tinh thần theo yêu cầu dân chủ hóa và mở rộng hoạt động đối ngoại trao đổi kỹ năng và phương pháp văn hóa tranh luận
	Mỗi người phải tự mình ra sức thực hành văn hóa chính trị ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi nhiệm vụ, điều kiện, hoàn cảnh, không gian và thời gian; phải tự mình điều chỉnh thái độ, tình cảm, hành vi ứng xử thấu tình, đạt lý, tôn trọng nhân dân, pháp luật của Nhà nước; không ngừng nâng cao giá trị nhân cách, tự nêu gương về văn hóa trong cơ quan, đơn vị, khu dân cư, trong nhân dân. Nội dung này, được Đảng ta khẳng định trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII: “Thực hiện tốt các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Nêu gương trở thành một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, kết hợp với phát huy vai trò giám sát của báo chí và nhân dân đối với việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên” [5].
	3.5. Mở rộng hình thức và phương pháp tập hợp quần chúng theo các đoàn thể, các hội, hiệp hội
	Ngay sau khi hòa bình lập lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 102/SL-L004 ngày 20-5-1957 ban hành Luật quy định quyền lập hội. Chính phủ có Nghị định số 258/TTg ngày 20/6/1957 quy định chi tiết thi hành Sắc lệnh này. Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, Chính phủ đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định, hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của đoàn thể, các hội, hiệp hội. Trong các nghị quyết, Điều lệ Đảng, quy định, chỉ thị, thông báo... của Đảng qua các kỳ đại hội Đảng đã định hướng rõ về vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị và các tổ chức xã hội khác. Các văn bản của Đảng ta thể hiện nổi bật một số quan điểm lớn: đoàn thể, các hội, hiệp hội có vai trò to lớn, có vị trí quan trọng trong xã hội và trong quá trình đổi mới, trong xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa; tổ chức của đoàn thể, các hội, hiệp hội phải có mục đích rõ ràng, phải theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật; nhân dân có quyền tự do lập hội, tham gia hoạt động hội, hoạt động của hội phải trong khuôn khổ pháp luật và chịu sự quản lý của Nhà nước. Đảng lãnh đạo, vận động tạo điều kiện thuận lợi để các đoàn thể, các hội, hiệp hội hoạt động là một nội dung quan trọng trong công tác dân vận của Đảng.
	Đảng ta là một đảng cầm quyền nên việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các hội quần chúng là một yêu cầu khách quan, cần thiết. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở những chủ trương, chính sách định hướng về chính trị đối với tổ chức và hoạt động của các hội quần chúng nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân; là việc thành lập các tổ chức đảng làm hạt nhân chính trị lãnh đạo các hội quần chúng; là công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục hội viên trong các hội quần chúng thực hiện tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là sự nêu gương của đội ngũ đảng viên trong các hội và giới thiệu những cán bộ, đảng viên của Đảng tham gia các vị trí chủ chốt trong các hội. Trọng tâm hiện nay là tiếp tục đổi mới, kiện toàn, thống nhất các mô hình tổ chức đảng ở các hội quần chúng theo hướng: làm rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các đảng đoàn trong các hội ở Trung ương; của các đảng bộ, chi bộ cơ sở cơ quan Trung ương hội; của tổ chức đảng trong các hội quần chúng ở địa phương. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, đặc biệt là cấp ủy cấp trên trực tiếp đối với tổ chức đảng trong các hội quần chúng.
	3.6. Đặc biệt coi trọng nghiên cứu khai thác di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa chính trị thông qua cách viết, lời nói và cách ứng xử của Hồ Chí Minh
	Nhìn lại tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa chính trị có thể thấy, tinh thần trọng dân, vì dân, đạo đức cách mạng của người cán bộ cũng liên tục được đề cập đến rất sâu sắc. Trong đó, tư tưởng của Bác luôn nhấn mạnh quan điểm “vì dân phục vụ”. Phong cách Hồ Chí Minh là “Trọng dân, thương yêu dân, gần gũi dân”. Đảng viên của Đảng và cán bộ, nhân viên của Nhà nước là công bộc trung thành của dân, làm việc theo tinh thần chí công vô tư.
	Trong đó, “dân” như là một phạm trù trong văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, có sắc thái riêng - sắc thái Hồ Chí Minh - vượt trội nhiều quan điểm khác về dân. Đó là văn hóa chính trị “dân quyền”, “dân sinh”, “dân trí”, “dân chủ”. Người cán bộ phải “minh đức, thân dân”, tức chính tâm và phục vụ Nhân dân. Thực hành được bốn chữ “chí công vô tư” với ý nghĩa là cốt lõi của đạo đức cách mạng thì đầu óc mới trong sáng, tỉnh táo để làm những việc ích nước, lợi dân; khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít và những tính tốt như cần, kiệm, liêm, chính, nhân, nghĩa, trí, dũng ngày càng thêm. Chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân. Bác cũng nói nhiều lần, một cán bộ đảng viên, đặc biệt cán bộ đảng viên có chức, có quyền phải luôn luôn tu thân chính tâm, tâm phải trong trẻo, tâm phải đứng đắn, tâm phải luôn nghĩ về nước về dân, phải đặt lợi ích của Tổ quốc của Nhân dân lên trên hết, phải tu thân hàng ngày từ việc nhỏ, việc lớn, suốt đời cứ như vậy.
	Những phân tích trên để đi tới quan điểm “chính trị có văn hóa”, tức là một thứ chính trị chính thống, chuyên nghiệp và thân thiện. Chính trị ở đây là lòng dân - vấn đề quan trọng bậc nhất hiện nay. Hạt nhân của văn hóa chính trị chính là dựa vào dân, thể hiện sự thân thiện giữa những người cán bộ với dân. Đây là một trong những bài học quan trọng nhất, thậm chí là bài học lớn nhất trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn rất thời sự trong hiện tại. Xây dựng Đảng không chỉ là công việc của Đảng, mà như Bác đã nói, là phải dựa vào dân để xây dựng Đảng. Phải mở rộng cánh cửa, lấy ý kiến Nhân dân, để dân góp ý cho mình. Bây giờ cũng vậy, phải có kênh nào đó lấy ý kiến Nhân dân, không phải ý kiến đại cử tri. Ngay cả việc “nhốt” quyền lực thì cái “lồng quần chúng” mới thật sự vững chắc.
PHẦN III: KẾT LUẬN
	Một trong những chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ là xây dựng một nền văn hóa, trong đó có chính trị, xứng tầm làm nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Nhưng cho đến nay nhận thức về văn hóa ở từng cấp, từng ngành vẫn còn nhiều hạn chế. Lịch sử của Việt Nam không thua kém bạn bè năm châu, chúng ta còn tự hào về bề dày truyền thống văn hóa. Chính vì vậy, Việt Nam có thể tự tin xây dựng một nền văn hóa chính trị phù hợp. Bằng chứng là trong đợt dịch Covid-19, ngay khi Thủ tướng ra lời hiệu triệu: Chống dịch như chống giặc, toàn thể Nhân dân Việt Nam đã đồng lòng, đoàn kết chống dịch. Nếu chúng ta biết khai thác hữu hiệu, hiệu quả tinh thần đoàn kết đó thì chúng ta sẽ có một nền văn hóa chính trị xứng tầm. Điều thứ 2 trong việc xây dựng nền văn hóa chính trị là phải có chiến lược quan trọng cho sự phát triển của đất nước, phải làm sao có nhiều người tài tham gia vào bộ máy cầm quyền.
	Như vậy, trên cơ sở thực trạng văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ trương đúng đắn của Đảng có thể thấy được vai trò hết sức quan trọng của văn hóa chính trị trong yêu cầu đổi mới, là cơ sở khách quan, khoa học để có thể khẳng định giáo dục văn hóa chính trị là nhiệm vụ hết sức quan trọng, cấp bách, đồng thời đòi hỏi mọi nỗ lực phấn đấu thực hiện bằng phương hướng và biện pháp thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất,với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ,văn minh” đi lên chủ nghĩa xã hội.
PHẦN IV: DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
	1. Nguyễn Đỗ Hồng Anh (2020), “Sử dụng hiệu quả các phương tiện truyền thông xã hội để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0”, truy cập tại trang https://tapchitaichinh.vn/ ngày truy cập 04/01/2021.
	2. Nguyễn Hữu Đổng (2016), “Văn hóa chính trị”, truy cập tại trang  ngày truy cập 04/01/2021.
	3. Đảng Bộ tỉnh Bình Dương (2014), “Tổng quát Bình Dương”, truy cập tại trang https://www.tinhuybinhduong.vn/ ngày truy cập 01/04/2021.
	4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – sự thật.
	5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia – sự thật. 
	6. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2020), Giáo trình chính trị học dùng cho hệ đào tạo từ xa cao cấp lý luận chính trị, Nxb. Lý luận chính trị.
	7. Khuất Trọng Nam (2020), “Nâng cao văn hóa chính trị cho cán bộ, đảng viên góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”, Tạp chí lý luận chính trị, (số 12).
	8. Marcel Prelot và Georges Lescuyer, Lịch sử các tư tưởng chính trị, Nxb Dalloz (xuất bản lần thứ 5, 1975) - Bản dịch của Viện Khoa học Chính trị, tr.67.
.

File đính kèm:

  • docxtieu_luan_phan_tich_nhung_dac_trung_co_ban_cua_van_hoa_chinh.docx