Tiểu luận Phân tích quan niệm an sinh xã hội và phát triển bền vững, vai trò của an sinh xã hội với phát triển bền vững
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Phân tích quan niệm an sinh xã hội và phát triển bền vững, vai trò của an sinh xã hội với phát triển bền vững", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Phân tích quan niệm an sinh xã hội và phát triển bền vững, vai trò của an sinh xã hội với phát triển bền vững
MỤC LỤC PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU Cuộc sống ngày càng phát triển, ngày càng tiến bộ, con người ngày càng có cuộc sống đầy đủ, phong phú hơn, song quy luật “sinh lão bệnh tử” không chừa một ai, cuộc sống luôn luôn tồn tại những khó khăn, rủi ro khó lường từ các hoạt động của con người, từ thiên nhiên, dịch bệnh, các quá trình phát triển kinh tế- xẫ hội Điều đó tác động xấu đến chất lượng cuộc sống của con người, để tồn tại và phát triển con người đã có nhiều biện pháp để khắc phụ khó khăn. An sinh xã hội (ASXH) ra đời đã ngăn chặn và hạn chế bớt những khó khăn, rủi ro trên. Bảo đảm an sinh xã hội là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo, điều hành đất nước. Trong hệ thống an sinh xã hội, BHXH, BHYT là trụ cột chính, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng, một công cụ đắc lực của Nhà nước nhằm mục đích chăm lo, bảo vệ và phát triển con người, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội. Nói cách khác, an sinh xã hội là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển bền vững, đồng thời là vấn đề mang tính cấp bách cho sự ổn định chính trị của mỗi quốc gia, khu vực. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, BHXH, BHYT ngày càng giữ vai trò đắc lực trong việc góp phần bảo đảm công bằng xã hội và phát triển xã hội một cách bền vững. Thực tế cho thấy, vai trò của BHXH, BHYT càng ngày càng chiếm giữ một vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận người dân và doanh nghiệp chưa nhận thức được tầm quan trọng của BHXH, BHYT hoặc hiểu chưa sâu sắc về chính sách, dẫn đến tình trạng ý thức tham gia chưa đầy đủ và thiếu tính chủ động. Với vai trò đặc biệt quan trọng đó, trong những năm qua, BHXH, BHYT, BH thất nghiệp luôn là nguồn đề tài phong phú, đa dạng để báo chí khai thác và sáng tạo nhiều tác phẩm sinh động, từng bước nâng cao nhận thức, hiểu biết, chia sẻ và tạo sự đồng thuận của xã hội đối với các chính sách lớn về BHXH, BHYT nói chung, góp phần củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào hệ thống chính sách an sinh xã hội. Dù thế giới đã có vô vàn các hình thức truyền tải thông tin, liên kết xã hội thông minh, song sự nổi trội về trách nhiệm xã hội, đạo đức nghề nghiệp và ý thức chính trị của đội ngũ nhà báo, phóng viên, biên tập viên vẫn tạo cho báo chí vị thế vững chắc, bởi đó là niềm tin, là sự gửi gắm trách nhiệm của cả cộng đồng. Sức mạnh của sự thật, khiến báo chí có uy lực và cũng đòi hỏi trách nhiệm luôn gắn bó, đồng hành và phục vụ mọi mục tiêu phát triển của đất nước nói chung và vì con người nói riêng, trong đó có lĩnh vực an sinh xã hội.Vì thế chọn đề tài “Phân tích quan niệm an sinh xã hội và phát triển bền vững, vai trò của an sinh xã hội với phát triển bền vững” làm đề tài tiểu luận PHẦN 2: NỘI DUNG I. Lý luận chung về an sinh xã hội và phát triển bền vững 1.1. Quan niệm an sinh xã hội Khái niệm an sinh xã hội là khái niệm được ra đời ở các nước công nghiệp phát triển từ cuối thế kỷ XIX và hiện nay đã phát triển rộng khắp trên toàn thế giới. An sinh xã hội là khái niệm có nội dung rộng và ngày càng được hoàn thiện về phạm vi, đối tượng và chức năng. Theo một số tổ chức của thế giới thì an sinh xã hội được hiểu như sau: Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “An sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, củ sốc về kinh tế và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động hoặc tử vong. Cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình nạn nhân trẻ em” An sinh xã hội là hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước và các lực lượng xã hội thực hiện nhằm bảo đảm cho mọi người dân ít nhất có được mức tối thiểu về thu nhập, có cơ hội tiếp cận ở mức tối thiểu về các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin,... 1.2. Bản chất và tính tất yếu của chính sách an sinh xã hội Chính sách an sinh xã hội là hệ thống các chính sách do nhà nước ban hành để thực hiện các mục tiêu an sinh xã hội theo khái niệm an sinh xã hội ở trên, có thể thấy: - an sinh xã hội trước hết đó là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình. - Sự bảo vệ này được thực hiện thông qua các biện pháp công cộng. - Mục đích của sự bảo vệ này nhằm giúp đỡ các thành viên của xã hội trước những biến cố, những “rủi ro xã hội” dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập .... và đời sống cho các công dân trong xã hội với phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Có thể thấy rõ bản chất của an sinh xã hội từ những khía cạnh sau: * an sinh xã hội là biểu hiện rõ rệt của quyền con người đã được Liên hợp quốc thừa nhận. Để thấy rõ bản chất của an sinh xã hội, cần hiểu rõ mục tiêu của nó. Mục tiêu của an sinh xã hội là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ cho tất cả mọi thành viên của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do nhiều nguyên nhân khác nhau, như ốm đau, thương tật, già cả ... gọi chung là những biến cố và những “rủi ro xã hội”. Để tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp, an sinh xã hội dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm và thực hiện ca biện pháp khác nhau. An sinh xã hội, như đã nêu, có nội dung rất rộng lớn, nhưng tập trung vào ba vấn đề chủ yếu: - Thứ nhất, là trụ cột cơ bản, cần thiết cho sự bảo đảm, đó là sự bảo hiểm xã hội. Có thể nói bảo hiểm xã hội là xương sống của hệ thống an sinh xã hội. Chỉ khi có một hệ thống bảo hiểm xã hội hoạt động có hiệu quả thì mới có thể có một nền an sinh xã hội vững mạnh. - Thứ hai, là sự cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động và các thành viên gia đình họ, nhằm bảo đảm cho họ tái tạo được sức lao động, duy trì và phát triển nền sản xuất xã hội, đồng thời phát triển mọi mặt cuộc sống của con người, kể cả phát triển bản thân con người. - Thứ ba, là các loại trợ giúp xã hội (cung cấp tiền, hiện vật ...) cho những người có rất ít hoặc không có tài sản (người nghèo khó), những người cần sự giúp đỡ đặc biệt cho các gánh nặng gia đình, an sinh xã hội cũng khuyến khích, thậm chí bao quát cả những loại trợ giúp như miễn giảm thuế, trợ cấp về ăn, ở, dịch vụ đi lại. 1.3. Quan niệm phát triển bền vững Phát triển bền vững đầu tiên theo quan điểm nghiên cứu của triết học có nhiều góc độ khác nhau. V.I.Lê-Nin đánh giá cao thành quả phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác, và coi đó chính là “học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng” V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t.23, tr. 53. . C.Mác cho rằng, vấn đề cốt lõi, có ý nghĩa chi phối của sự phát triển, đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Hình thái kinh tế - xã hội mới ra đời tạo ra khả năng giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất lên một nấc thang mới so với hình thái kinh tế - xã hội cũ, đồng thời xây dựng và ngày càng hoàn thiện các quan hệ sản xuất mới phù hợp. Ðó cũng là quá trình con người được giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, phát triển toàn diện. Ðó là quá trình “sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 628. . Phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập, là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật. Ðó là quá trình cái cũ, cái lạc hậu sẽ được thay thế bằng cái mới, cái tiến bộ thông qua con đường phủ định biện chứng, tạo ra khuynh hướng phát triển tất yếu ngày một tiến bộ và hoàn thiện hơn. Cái cũ, cái lạc hậu này không chỉ nằm ở phương diện vật chất - kinh tế, tức lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cũ, để cuối cùng phải xóa bỏ xiềng xích để tạo ra sự phát triển xã hội, mà còn nằm ở phương diện chính trị, tức là giai cấp bóc lột, mà giai cấp vô sản có khả năng và sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội trong cuộc cách mạng chính trị, tạo ra sự phát triển về chất. Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học” https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1t_tri%E1%BB%83n_b%E1%BB%81n_v%E1%BB%AFng . Theo báo cáo Brundtland: Phát triển bền vững là sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của hiện tại mà không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo và tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động và thực vật. Nhưng ở một mức độ nào đó, nó cũng hàm chứa sự bình đẳng giữa những nước giầu và nước nghèo, và giữa các thế hệ. Thậm chí nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần thiết để áp dụng khái niệm phát triển bền vững. Khái niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường, là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội. Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Rio de Janeiro đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là: “sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”. Tapchinganhang.gov.vn 1.4. Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh, an toàn và chất lượng. Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế, trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người. Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí như: Chỉ số phát triển con người (HDI - Human Development Index), hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không quá cao và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn. Công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số HDI là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh. Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới,... đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chất lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế. 1.5. Vai trò của an sinh xã hội với phát triển bền vững Theo quan điểm của Đảng về an sinh xã hội liên quan đếnphát trển bền vững với nội dung sau: Thứ nhất, xây dựng các chính sách xã hội bảo đảm tính bền vững và phát triển phù hợp, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội phát triển. Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội... xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp” Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021 tr.147-148 . Như vậy, Đảng ta luôn coi chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, động lực để phát triển nhanh và bền vững trong các giai đoạn phát triển của đất nước. Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân và bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Thứ hai, hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp và chính sách đối với người có công Thời gian qua, nhất là từ khi thực hiện Chỉ thị số 14-CT/TW ngày 19/7/2017 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng, chính sách đối với người có công đã được các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền tích cực triển khai thực hiện, đạt nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống pháp luật, chính sách về người có công với cách mạng từng bước được hoàn thiện; đối tượng chính sách được mở rộng; việc xây dựng, nâng cấp, tu bổ mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, công trình ghi công liệt sĩ được quan tâm đầu tư; công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ được triển khai tích cực. Phong trào “Toàn dân chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng”, ủng hộ quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” ngày càng phát triển sâu rộng, được xã hội đồng tình, hưởng ứng; đời sống của gia đình người có công với cách mạng không ngừng được cải thiện; nhiều thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ đã có ý chí vươn lên, tiếp tục có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Thứ ba, cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế Trước yêu cầu phát triển và trên cơ sở kế thừa các quan điểm về cải cách tiền lương của Đảng từ Đại hội VI đến nay, Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định: “Cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả” Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr149. . Theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, việc cải cách chính sách tiền lương phải bảo đảm tính tổng thể, hệ thống, đồng bộ, kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục có hiệu quả những hạn chế, bất cập của chính sách tiền lương hiện hành; tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng lương; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; có lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và nguồn lực của đất nước. Thứ tư, chú trọng nâng cao phúc lợi, an sinh xã hội; tiếp tục bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân; đổi mới chính sách lao động, việc làm. II. Thực trạng và giải pháp trong việc xây dựng an sinh xã hội với phát triển bền vững ở nước ta hiện nay 2.1. Thực trạng việc xây dựng an sinh xã hội ở Việt Nam hiên nay Trong gần 30 năm qua, cùng với những thành tựu đổi mới kinh tế, phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường, tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia, Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn, đầu tư nguồn lực và đổi mới cơ chế, chính sách để thực hiện an sinh xã hội, chăm lo cải thiện không ngừng cuộc sống của người dân. Các chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam ở tầm quốc gia đã thu được những kết quả rất tốt đẹp, đã được dư luận quốc tế thừa nhận và đánh giá cao, nhất là xóa đói giảm nghèo cho nông dân, đặc biệt ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Về việc giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện các chính sách an sinh xã hội cho các cộng đồng dân cư, Việt Nam là một trong những quốc gia đã hoàn thành sớm các Mục tiêu thiên niên kỷ, nhận được những đánh giá tích cực của cộng đồng quốc tế. Dù còn có những hạn chế và bất cập so với yêu cầu phát triển nhanh và bền vững nhưng kết quả, thành tích mà Việt Nam đạt được về phát triển giáo dục, chăm lo sức khỏe cộng đồng, thực hiện bảo hiểm y tế cho người dân, khám chữa bệnh cho người nghèo, chăm sóc các bà mẹ và trẻ em, cũng như những nỗ lực giải quyết việc làm, cải thiện mức sống và điều kiện sống cho dân cư, cứu trợ xã hội và thực hiện phúc lợi xã hội, quan tâm tới các đối tượng yếu thế là những minh chứng về những tiến bộ đáng kể thực hiện an sinh xã hội. Tuy nhiên, để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách xã hội và an sinh xã hội hiện nay trong thập kỷ tới, Việt Nam cũng đứng trước rất nhiều khó khăn, trở ngại và thách thức trong điều kiện khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu tác động vào, cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước suy giảm, lạm phát và thất nghiệp gia tăng, đời sống, mức sống người dân giảm sút. Ðiều hiển nhiên là muốn giải quyết an sinh xã hội cần không ít nguồn lực vật chất, kinh tế, tài chính, trước hết từ ngân sách nhà nước. Ðiều kiện đó ở Việt Nam hiện nay không dễ đáp ứng kịp thời, nhanh chóng bởi kinh tế giảm phát, nợ công, nợ xấu đang ở giới hạn đáng lo ngại. Những nỗ lực đột phá vào những điểm nghẽn của phát triển chưa tạo được kết quả cần thiết Ba điểm nghẽn của phát triển: thể chế, hạ tầng kỹ thuật công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực . Việt Nam đang phải đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc kinh tế, khắc phục những gia tăng của phân hóa giàu - nghèo cũng như đang phải đối mặt với vấn nạn tham nhũng, lãng phí, gây tổn hại và thất thoát lớn nguồn vốn xã hội mà lẽ ra có thể dùng những nguồn lực đó để đầu tư cho an sinh xã hội. Hội nghị Trung ương lần thứ năm, khóa XI, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tới an sinh xã hội. Nghị quyết đã nêu ra những hạn chế yếu kém trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách xã hội và an sinh xã hội mà nổi bật là: - Tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo còn cao. Mức trợ cấp ưu đãi người có công còn thấp. - Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao và giảm chậm. Vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn thấp. Ðời sống của một bộ phận người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn rất khó khăn, chưa bảo đảm được mức tối thiểu dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là về nhà ở và sử dụng nước sạch. - Chênh lệch các chỉ số về an sinh xã hội giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình của cả nước còn lớn. Ðể khắc phục những hạn chế, yếu kém nêu trên, Nghị quyết Trung ương 5, khóa XI đã xác định những quan điểm rất cơ bản, có tác dụng và ý nghĩa chỉ đạo thực hiện lâu dài, trong đó an sinh xã hội được nhấn mạnh: “bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Ðảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”. “Chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của đất nước, ưu tiên người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số”. Ðặc biệt là, Nghị quyết Trung ương 5, khóa XI đã nhấn mạnh “Hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, bảo đảm bền vững, công bằng”. “Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội, đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia, đồng thời, tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực và kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội” Ðảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 108 Những quan điểm chỉ đạo nêu trên, Nhà nước sẽ thể chế hóa thành luật và chính sách để thực hiện trong cuộc sống, tập trung vào các nhiệm vụ: việc làm, thu nhập, giảm nghèo, phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp chung dưới 3% (thành thị dưới 4%), bảo đảm thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo tăng trên 3,5 lần so với 2010, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 1,5 - 2%/năm. Hoàn thiện chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội, khuyến khích nông dân, lao động trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Quy định bắt buộc người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, đến năm 2020 sẽ có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội, 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Bảo đảm đến 2020 sẽ có khoảng 2,5 triệu người được hưởng trợ giúp xã hội, trong đó trên 30% là người cao tuổi. Bảo đảm giáo dục tối thiểu, y tế tối thiểu, nhà ở tối thiểu, hướng trực tiếp vào người nghèo, hộ nghèo. Phấn đấu đến năm 2020, 100% dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó 70% sử dụng nước sạch đạt chuẩn quốc gia. Cùng với những lĩnh vực đó, Nhà nước tăng cường thông tin truyền thông đến người dân nghèo, vùng nghèo, vùng khó khăn. Ðến năm 2015, bảo đảm 100% số xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo được phủ sóng phát thanh truyền hình, 100% số xã đặc biệt khó khăn có đài truyền thanh xã để đáp ứng nhu cầu văn hóa thông tin của người dân Ðảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 113 - 115. . Ðáng lưu ý là, để tăng cường trách nhiệm và đánh giá mức độ tiến triển của việc thực hiện an sinh xã hội vì cuộc sống của người dân và cộng đồng, Nghị quyết của Ðảng đã nhấn mạnh, hằng năm phải có Báo cáo quốc gia về an sinh xã hội trước Quốc hội. Ðó là những chuyển biến tích cực về nhận thức và nỗ lực đầy trách nhiệm của Ðảng và nhân dân trong việc thực hiện an sinh xã hội, nhằm phục vụ tốt hơn cuộc sống của nhân dân, tạo động lực phát triển xã hội. Trong cuộc chiến tranh giải phóng chống Mỹ xâm lược, Việt Nam đã phải chịu dựng 15 triệu tấn bom, gấp 4 lần số lượng bom đạn đã sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Mỗi người Việt Nam phải hứng chịu số bom đạn gấp 10 lần trọng lượng cơ thể của họ, chưa kể 70 triệu lít chất độc hóa học da cam, đi-ô-xin chết người. Dải đất miền Trung dày đặc bom mìn gây thương vong cho con người hằng ngày, dù chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm nay. 2.2. Các giải pháp an sinh xã hội vứi phát triển bền vững ở nước ta Cùng với những đầu tư về nguồn lực cho an sinh xã hội, chú trọng kết hợp nỗ lực của Nhà nước với xã hội và người dân, tìm kiếm và tận dụng các khả năng hỗ trợ của quốc tế để có thêm nhiều điều kiện thực hiện an sinh xã hội, cần phải đặc biệt đẩy mạnh cải cách thể chế, chính sách cũng như cơ chế quản lý, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực rất quan trọng này. Có mấy điểm nhấn quan trọng cần thực hiện thường xuyên, chú trọng phát hiện và điều chỉnh kịp thời, linh hoạt trước những biến đổi và phát triển an sinh xã hội nhìn từ nhu cầu của dân và khả năng thực tế cung ứng của Nhà nước và xã hội. - Bổ sung, sửa đổi luật cũ, ban hành luật mới về những lĩnh vực an sinh xã hội cho phù hợp, như luật lao động và việc làm, bảo hiểm thất nghiệp, chính sách tiền lương, trợ cấp xã hội, ưu đãi xã hội. - Ðẩy mạnh thực hành tiết kiệm, coi đó là quốc sách, kiểm soát và xử lý lãng phí, thu hồi triệt để cho công quỹ những khoản tiền rất lớn từ tham nhũng để đầu tư và trang trải cho nhu cầu an sinh xã hội. Phải có những chế tài đặc biệt nghiêm ngặt để thực hiện. - Ðề cao minh bạch và trách nhiệm giải trình vừa để ngăn chặn tham nhũng, lãng phí, vừa để kiểm soát được hiệu quả đầu tư cho an sinh xã hội và người nghèo. - Quan tâm thường xuyên và thực hiện đầu tư ưu tiên cho an sinh xã hội đối với trẻ em, phụ nữ và người già, nhất là ở nông thôn và vùng đặc biệt khó khăn. tục cải cách thể chể kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng GDP trên 6,5%/năm để có thêm nguồn lực chi cho an sinh xã hội. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền, cán bộ và người dân hiểu rõ những định hướng về phát triển xã hội trong tình hình mới, coi đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, lâu dài. Phối hợp tốt hơn với cơ quan Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể xã hội trong hoạt động truyên truyền, giáo dục và giám sát, đánh giá. Tiếp tục rà soát các chính sách xã hội hiện hành để hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung theo hướng tinh gọn, tích hợp chính sách, thu gọn đầu mối quản lý; mở rộng quyền tham gia và thụ hưởng cho người dân đối với chính sách trợ giúp xã hội; Tiếp tục phát triển thị trường lao động, phát triển việc làm bền vững; kết nối cung cầu lao động; phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu việc làm; tăng cường đối thoại lao động, bảo đảm tiêu chuẩn lao động; tăng cường đào tạo và phát triển kỹ năng cho người lao động, hoàn thiện chương trình đào tạo nghề cho nông dân nông thôn; triển khai chương trình việc làm công tạo thu nhập tạm thời ở mức tối thiểu cho lao động nghèo, người bị thất nghiệp. Cải cách chính sách trợ giúp xã hội. Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội; có lộ trình tiếp tục giảm độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, mở rộng chính sách trợ giúp xã hội đối với toàn bộ người nghèo, người cận nghèo, người dân tộc thiểu số; tiếp tục tăng mức hưởng trợ cấp thường xuyên, tách bách nhiệm vụ quản lý nhà nước với dịch vụ xã hội, dịch vụ chi trả; tích hợp chi trả một lần cho nhiều chính sách khác nhau đối với cùng nhóm đối tượng. Nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột xuất; Tiếp tục tuyên truyền vận động và tổ chức tốt các phong trào tương thân, tương ái; mở rộng sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng, bảo đảm người dân bị thiệt hại khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời. Thực hiện có hiệu quả việc đổi mới chính sách giảm nghèo, từ tiếp cận đơn chiều (dựa vào thu nhập) sang đa chiều (dựa vào các yếu tố khác ngoài thu nhập); tập trung nguồn lực trước hết vào thực hiện ở những nơi khó khăn nhất, nghèo nhất để giảm nghèo bền vững. Tiếp tục mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, tăng cường chế tài xử phạt không tuân thủ, hỗ trợ người lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội); thực hiện cải cách bảo hiểm xã hội để bảo đảm bền vững quĩ và hỗ trợ người nghèo tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp. PHẦN 3: KẾT LUẬN Xuất phát từ mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh, từ đặc điểm nền kinh tế, chế độ chính trị, xã hội, hệ thống an sinh xã hội ở nước ta có những điểm chung với nền an sinh xã hội thế giới, mặt khác có những điểm đặc trưng riêng. Trong giai đoạn tới, mỗi hợp phần trong hệ thống an sinh xã hội cần mở rộng độ bao phủ của mình để nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, cải thiện điều kiện cuộc sống, từng bước mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi thành viên trong xã hội. Hướng tới một nền an sinh xã hội với đầy đủ ý nghĩa thì cần có tổng hợp nhiều biện pháp, đặc biệt cần phát huy vai trò to lớn của ngành Công tác xã hội trong việc xây dựng hệ thống an sinh xã hội ở nước ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t.23, tr. 53. 2. C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 628. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021 tr.147-148, 149 4. Ðảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 108, 113 - 115. 5. Web: https://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/an-sinh-xa-hoi-muc-tieu-dong-luc-de-phat-trien-nhanh-va-ben-vung-134348
File đính kèm:
- tieu_luan_phan_tich_quan_niem_an_sinh_xa_hoi_va_phat_trien_b.docx