Tiểu luận Phân tích thành tựu của “Đổi mới” kinh tế ở Việt Nam từ đó lập luận về tính hợp lý (Giá trị) đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay

pdf 26 trang yenvu 22/08/2024 470
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Phân tích thành tựu của “Đổi mới” kinh tế ở Việt Nam từ đó lập luận về tính hợp lý (Giá trị) đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Phân tích thành tựu của “Đổi mới” kinh tế ở Việt Nam từ đó lập luận về tính hợp lý (Giá trị) đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay

Tiểu luận Phân tích thành tựu của “Đổi mới” kinh tế ở Việt Nam từ đó lập luận về tính hợp lý (Giá trị) đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay
 Phân tích thành tựu đổi mới kinh tế ở Việt Nam
Kinh tế chính trị Mác- Lênin (Trường Đại học Thương mại)
lOMoARcPSD|12184112
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Khoa Kinh Tế
---------------
Đề tài thảo luận: Phân tích thành tựu của “Đổi mới” kinh tế ở Việt
Nam từ đó lập luận về tính hợp lý (giá trị) đối với tư tưởng tự do
kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện
nay.
Nhóm 5 
Lớp học phần: 2254 LSHTKT
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Giảng viên hướng dẫn: Hoàng Văn Mạnh 
1
lOMoARcPSD|12184112
- Phân công nhiệm vụ -
ST
T
Họ và tên Nhiệm vụ Nhóm tự xếp
loại
Đánh giá của giảng
viên
1 Nguyễn Đức Hảo Nội dung
2 Bùi Thu Hiền Powerpoint
3 Ngô Thị Thúy Hiền Powerpoint
4 Vũ Thu Hiền Thuyết trình
5 Nguyễn Minh Hiếu Nội dung
6 Nguyễn Nhật Hoa Thuyết trình
7 Dương Văn Hòa Nội dung
8 Đỗ Thị Như Hoàng Word
9 Phùng Thị Hồng Nội dung
10 Trần Duy Hưng Nội dung
2
lOMoARcPSD|12184112
Lời mở đầu
Đất nước ta đang trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, phải xây dựng một nền kinh 
tế phát triển cao, dựa trên những quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất hiện 
đại.
Nền kinh tế của loài người từ trước đến nay đã và đang trải qua rất nhiều hình thái 
kinh tế xã hội. Bao gồm các hình thái: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội 
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Trong tất cả các hình thái kinh tế 
trên, chưa có một hình thái kinh tế nào có một cơ chế quản lý và điều hành kinh tế một
cách phù hợp và hợp lý nhất. Từ việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào nền kinh tế thị 
trường để giải quyết những vấn đề cơ bản của nền kinh tế, cho đến việc chỉ dựa vào tổ 
chức quản lý của Nhà nước, để phát triển kinh tế cho phù hợp. Đặc biệt là đối với nền 
kinh tế Việt Nam hiện nay. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đặc biệt của sự 
phát triển. Đây là bước ngoặt lớn trong quá trình chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao 
cấp sang nền kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh nhiều mặt mặt 
tích cực như: năng suất lao động tăng nhanh, công nghệ sản xuất không ngừng được 
cải tiến, hàng hóa được sản xuất ra nhiều, thu nhập quốc dân từ đó cũng tăng. thì cơ 
chế thị trường đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực. Ngày càng nhiều vấn đề 
cần giải quyết như: lạm phát, khủng hoảng, thất nghiệp, tệ nạn xã hội,
Do đó, nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài : “Phân tích thành tựu của “Đổi mới” kinh tế
ở Việt Nam từ đó lập luận về tính hợp lý (giá trị) đối với tư tưởng tự do kinh tế của 
trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay”.
Tiểu luận gồm có 2 phần: 
Phần 1: Phân tích thành tựu đổi mới kinh tế ở Việt Nam
Phần 2: Tính hợp lý đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển 
trong bối cảnh hiện nay
3
lOMoARcPSD|12184112
Mục Lục
Lời mở đầu....................................................................................................................3
Phần 1: Phân tích thành tựu đổi mới kinh tế ở Việt Nam...............................................5
I. Cơ sở lí thuyết........................................................................................................5
1. Đổi mới................................................................................................................5
2. Đổi mới nền kinh tế Việt Nam..............................................................................5
II. Những thành tựu nổi bật về kinh tế Việt Nam sau đổi mới..............................5
1. Tổng quan về nên kinh tế Việt Nam sau đổi mới...............................................5
2. Kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh theo ngành và theo các giai đoạn.........7
3. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa, gắn sản xuất với thị trường............................................................................12
4. Phát triển kinh tế gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội..................13
5. Hội nhập kinh tế quốc tế.................................................................................15
6. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.........................................17
Phần 2: Tính hợp lý đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển 
trong bối cảnh hiện nay................................................................................................19
I. Khái niệm, sự hình thành tư tưởng tự do kinh tế.............................................19
II. Tư tưởng tự do kinh tế trong các học thuyết kinh tế......................................21
1. Trường phái cổ điển Anh................................................................................21
1.1. Lý thuyết của W.Petty.....................................................................................21
1.2. Lý thuyết của A.Smith....................................................................................21
2. Trường phái cổ điển Pháp (trường phái trọng nông).....................................23
III. Sự phát triển của các học thuyết kinh tế........................................................24
IV. Lập luận về tính hợp lí.....................................................................................24
Tài liệu tham khảo.......................................................................................................25
4
lOMoARcPSD|12184112
Phần 1: Phân tích thành tựu đổi mới kinh tế ở Việt Nam
I. Cơ sở lí thuyết
*Khái niệm
1. Đổi mới
Đổi mới (innovation) là một từ bắt nguồn từ từ “nova” gốc Latin nghĩa là
“mới”. Đổi mới thường được hiểu là sự mở đầu cho một giải pháp nào đó khác với các
giải pháp đã triển khai. Đổi mới cũng được định nghĩa là “việc áp dụng những ý tưởng
mới vào tổ chức”. Một số định nghĩa cụ thể hơn về đổi mới cho rằng đổi mới là một
quá trình biến các ý tưởng thành các sản phẩm mới, dịch vụ mới, sản xuất đại trà và
thương mại hóa các sản phẩm và dịch vụ đó. Vì vậy đổi mới bắt nguồn từ những ý
tưởng mới, những ý tưởng này được phát triển thành các sản phẩm/dịch vụ mới của tổ
chức. Đổi mới không chỉ dừng lại ở việc phát minh ra các ý tưởng, mà các ý tưởng này
cần được đưa vào khai thác. Giáo sư Ed Robert của tổ chức MIT đã định nghĩa “đổi
mới” là phát minh kèm theo khai thác.
2. Đổi mới nền kinh tế Việt Nam
Đổi mới kinh tế là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp
chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa; từng bước đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền
kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong phát triển kinh tế.
II. Những thành tựu nổi bật về kinh tế Việt Nam sau đổi mới
1. Tổng quan về nên kinh tế Việt Nam sau đổi mới
Trải qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam đã thu được
những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình
kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất
nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để
chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững
bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất
nước.
5
lOMoARcPSD|12184112
Giá trị thương mại so GDP của Việt Nam cũng đã tăng trưởng vượt bậc
thông qua các năm.
Ta có thể thấy rằng giá trị thương mại GDP của Việt Nam đều đang có đà
đi lên theo từng năm so với các nước như Trung Quốc, Xinh- ga - po, và các nước
ASEAN khác.
Chứng tỏ rằng trong thời kì đổi mới nền kinh tế Việt đã phát triển tương
đối ổn định không hề gấp khúc.
6
lOMoARcPSD|12184112
2. Kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh theo ngành và theo các giai đoạn
2.1. Theo các ngành trọng điểm
- Ngành công nghiệp:
* Nhận xét chung
Công cuộc đổi mới được Đại hội VI đề ra từ năm 1986, đến nay đã hơn 35 năm.
Trong thời gian này, công nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu, đồng thời cũng còn
nhiều việc phải làm để thực hiện mục tiêu đến năm 2023 cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Theo thời gian, tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp từ năm 1986 đến nay
được chia làm 3 thời kỳ, đó là: 1987-1990, 1991-2007 và từ 2008 đến nay:
7
lOMoARcPSD|12184112
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2013 so với 1986 (lần)
*Ngành công nghiệp phát triển mạnh qua từng thời kì
+ Trong thời kỳ 1987-1990, tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân năm đạt
5,65%, trong đó có năm còn bị giảm (năm 1989 giảm 3,9%) chủ yếu do thời kỳ này
đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội kéo dài ở trong nước, bị hụt hẫng về
vốn đầu tư, về thị trường do Liên Xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu đổ vỡ, do bị
bao vây cấm vận Hơn nữa trong thời gian này, để khắc phục khủng hoảng, Việt Nam
đã đưa ra mục tiêu nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, lương thực là trọng điểm số một.
+ Trong thời kỳ 1991-2007, sau khi đã cơ bản giải quyết được vấn đề nông
nghiệp nói chung và lương thực nói riêng, thì việc chuyển sang làm công nghiệp với ý
nghĩa “phi công bất phú” là phù hợp và có ý nghĩa chiến lược. Trong thời kỳ này, ở
trong nước đã chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp với hai thành phần
kinh tế, hai hình thức sở hữu chủ yếu là quốc doanh, tập thể, sang cơ chế thị trường.
Giá trị sản xuất công nghiệp thời kỳ này tăng tới 14,35%/năm, với tỷ trọng trong GDP
của cả nước ngày một lớn, thì công nghiệp đã trở thành động lực và đầu tàu tăng
trưởng của toàn bộ nền kinh tế.
+ Sản xuất công nghiệp năm 2013 có dấu hiệu phục hồi, nhất là ngành công
nghiệp chế biến chế tạo với tỷ trọng lớn trong toàn ngành công nghiệp đã có sự chuyển
biến rõ nét qua các quý. Về sản phẩm công nghiệp chủ yếu. Năm 2013 so với năm
1986, nhiều sản phẩm công nghiệp cao gấp nhiều lần: Than sạch gấp 6,4 lần, vải lụa
4,2 lần, xi măng 38,4 lần, điện phát ra 21,9 lần Năm 2013 so với 1997, dầu thô gấp
1,7 lần, bia gấp 5 lần, ô tô lắp ráp gấp 15,2 lần, xe máy lắp ráp gấn 47,8 lần Năm
2013 so với 2005, thủy sản chế biến gấp 2,7 lần. Năm 2013 so với 2009, điện thoại di
động gấp 18,9 lần.
+ Trong 12 năm qua (2011-2022), công nghiệp là ngành có tốc độ tăng trưởng
cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với đóng góp xấp xỉ 30% vào GDP và trở
thành ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước, góp phần đưa Việt Nam từ vị trí thứ 50
(năm 2010) lên vị trí thứ 22 (năm 2019) trong các quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới.
- Ngành nông nghiệp
8
lOMoARcPSD|12184112
*Ngành nông nghiệp là ngành phát triển ổn định nhất qua các năm dù chịu
nhiều bất lợi
+ Kể từ sau Đổi mới (1986), ngành nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Nông nghiệp phát triển đã đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, tạo
việc làm và thu nhập cho 70% dân cư, là nhân tố quyết định xóa đói giảm nghèo, góp
phần phát triển kinh tế đất nước. Bất chấp những khó khăn về thị trường, thiên tai và
dịch bệnh, nông nghiệp luôn duy trì tăng trưởng ở mức tương đối khá.
+ Nhờ tăng trưởng nhanh, nông nghiệp Việt Nam không chỉ cung ứng đủ lương
thực, thực phẩm, đảm bảo an ninh lương thực và ổn định kinh tế - xã hội mà còn phục
vụ đắc lực cho xuất khẩu. Nếu như năm 1986, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành chỉ đạt
486 triệu USD, thì sau 35 năm đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã trở thành một trong
những nước xuất khẩu nông - lâm - thủy sản hàng đầu thế giới với tổng kim ngạch
xuất khẩu toàn ngành năm 2020 đạt 41,25 tỷ USD, gấp 85 lần so với năm 1986. Đặc
biệt, có một số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD, như: cà phê, gạo, hạt
điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm gỗ,  Nông sản Việt Nam đã đến trên 196 quốc
gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường khó tính như: Hoa Kỳ, Nhật Bản,
EU, 
+ Sản xuất nông nghiệp đã có sự tăng trưởng khá toàn diện theo hướng sản xuất
hàng hóa, bước đầu đã hình thành một nền sản xuất hàng hóa, nhiều vùng chuyên canh
đã được xác lập, một số hàng nông sản của Việt Nam đã được thị trường thế giới biết
đến và khẳng định vị thế trên thị trường thế giới. Mặc dầu tỷ lệ đóng góp của nông
nghiệp trong cơ cấu GDP có xu hướng giảm đi, nhưng năm 2015 nông nghiệp vẫn còn
đóng góp khoảng 17% tổng của cải làm ra. Đặc biệt, khối lượng và giá trị sản phẩm do
nông nghiệp làm ra không ngừng tăng lên, nhờ đó nông nghiệp đã góp phần quan
trọng vào ổn định và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Ngoài ra, nông nghiệp còn
là khu vực tạo việc làm cho phần lớn lực lượng lao động xã hội. Hơn nữa, nông nghiệp
còn là bệ đỡ cho nền kinh tế trongnhững năm kinh tế đất nước gặp khó khăn do ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, nhờ đó giúp giảm nhẹ các ảnh hưởng tiêu cực
của khủng hoảng kinh tế tới nền kinh tế cả nước.
+ Trước những ảnh hưởng bất lợi tới sản xuất kinh doanh, tốc độ tăng trưởng
sản xuất nông nghiệp tuy thấp hơn nhưng lại ổn định hơn so với các ngành kinh tế
khác. Trong giai đoạn 2007-2015, nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân
3,35%/năm. Năm 2008 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, cả hai ngành
công nghiệp và dịch vụ đều gặp khó khăn nên tốc độ tăng trưởng giảm mạnh, duy chỉ
có nông nghiệp vẫn duy trì tốc độ tăng và tăng cao nhất trong giai đoạn từ 2007 -
2015, nhờ đó giúp hạn chế bớt khó khăn cho nền kinh tế.
9
lOMoARcPSD|12184112
- Ngành dịch vụ:
+ Đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng ngày càng tăng; đã tập trung
phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ
cao như công nghệ thông tin, truyền thông, logistics, hàng không, tài chính, ngân hàng,
du lịch, thương mại điện tử... Mạng lưới thương mại và dịch vụ phát triển mạnh trên
phạm vi cả nước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
+ Ngành du lịch tiếp tục được cơ cấu lại theo hướng nâng cao chất lượng dịch
vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm, nhất là tại các
vùng du lịch trọng điểm. Khách quốc tế năm 2015 đạt khoảng 7,9 triệu lượt, gấp gần
1,6 lần so với năm 2010. Mở rộng miễn thị thực cho người Việt Nam định cư ở nước
ngoài và công dân của nhiều nước để khuyến khích phát triển thương mại, đầu tư và
du lịch.
+ Mạng lưới và cơ cấu đào tạo hợp lý hơn; quy mô, chất lượng và sự công bằng
trong tiếp cận giáo dục được cải thiện. Ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ có
bước tiến bộ, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, thông tin truyền thông, y tế, xây
dựng. Thị trường khoa học công nghệ có bước phát triển, giá trị giao dịch tăng
13,5%/năm. Số lượng sáng chế và các giải pháp hữu ích đăng ký bảo hộ gấp gần 2,2
lần so với giai đoạn 2006 - 2010. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm
2015 tăng 19 bậc so với năm 2010.
+ Nhiều công trình hạ tầng thiết yếu về giao thông, năng lượng, thủy lợi, đô thị,
thông tin truyền thông, y tế, giáo dục... được đưa vào sử dụng, thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội, hội nhập quốc tế, tạo diện mạo mới cho đất nước.
+ Các dịch vụ tài chính ngân hàng tiếp tục phát triển, đa dạng hóa và hiện đại
hóa. Hoạt động xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém
được đẩy mạnh.
+ Quy mô thị trường chứng khoán tăng, mức vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt
khoảng 33% GDP và thị trường trái phiếu đạt khoảng 23% vào cuối năm 2015. 59
nước đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. 
10
lOMoARcPSD|12184112
2.2. Theo từng giai đoạn cụ thể
- Giai đoạn 1986 – 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và
có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới
đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm. Đây được
đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN
trong chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản
cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời
sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực
phát triển mới.
- Giai đoạn 1991 – 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.
Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình
trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu
hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm. Hầu hết các
lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt
chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát
triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
- Giai đoạn 1996 – 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng
của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù
cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 -
1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những
thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP
bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%. Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì
nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng
hơn hai lần.
- Giai đoạn 2001 – 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu,
việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm
2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định .
Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm
trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%. Từ một nước thiếu
ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở
thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế
giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về
cao su; 
- Giai đoạn 2006 – 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm
lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ
nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình
quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn
đạt cao.
11
lOMoARcPSD|12184112
- Giai đoạn 2011-2015: Tăng trưởng kinh tế thể hiện rõ xu thế phục hồi, tính
chung trong cả giai đoạn duy trì ở mức khá, chất lượng được cải thiện Bình quân giai
đoạn 20112015, tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt khoảng 5,91%, mặc dù thấp hơn so
với giai đoạn 2006-2010, nhưng đặt trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức và kinh tế thế giới thường xuyên xuất hiện nhiều nhân tố bất lợi
thì đây vẫn là mức tăng tương đối tốt. Hơn thế nữa, xu hướng phục hồi kinh tế ngày
càng rõ nét kể từ năm 2013, tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Tăng
trưởng năm 2015 đạt 6,68%, vượt mục tiêu đề ra là 6,2% và là mức cao nhất trong cả
giai đoạn 2011-2015.
- Những năm sau đó: Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam
đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới
nổi thành công nhất. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có mức
tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của dịch COVID-19, kinh
tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương 2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5 năm qua
tăng trung bình 5,9 %/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu
vực và trên thế giới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989
mới đạt 6,3 tỷ USD/năm, thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời
sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân
thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm, thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750
USD/năm.
=> Nhận xét chung: Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có
bước phát triển khá, trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là
sản xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp
phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện,
từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững
thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một
số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn
định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình
thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững chắc
hơn.
3. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
gắn sản xuất với thị trường
+ Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm
2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch
theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao,
các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và
liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên
41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
+ Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất 
thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với 
khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất 
12
lOMoARcPSD|12184112
khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao 
trên thế giới.
+ Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu 
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ
nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý; ... có bước phát triển 
theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
4. Phát triển kinh tế gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội
- Khái quát chung 
+ Lĩnh vực lao động:
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình
mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn
việc làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt
khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6
triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua
đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010 
+ Giáo dục:
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình
trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt
chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm
2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ
người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên 90,3%
năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung học
chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu
sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo
học. Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng
châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với
năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000
trường đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều
sinh viên quốc tế trong những năm gần đây.
+ Y tế:
Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người
dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết
bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của
nhân dân Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức
rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế
giới như: ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong
đó có Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin phòng bệnh, mới đây nhất
là vắcxin phòng Covid-19... Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo
hiểm y tế được mở rộng đến khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng
13
lOMoARcPSD|12184112
được nâng lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống
còn khoảng 28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương
ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện,
nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ
trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.
+ Đời sống nhân dân nói chung được cải thiện rõ rệt:
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Nhờ vào nỗ lực và
sự năng động của người dân khi có động lực của kinh tế thị trường, tỷ lệ hộ nghèo đã
giảm nhanh chóng ở khu vực thành thị và đồng bằng sông Hồng và miền Đông Nam
Bộ trong khi tỷ lệ nghèo còn cao ở các vùng núi và đồng bào dân tộc. Theo chuẩn
quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010.
Còn theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính
toán, thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi
lương thực, thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn
khoảng 17% năm 2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch
toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ
(MDGs) của Liên hợp quốc đã đề ra. Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói,
giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt
Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá là nước có
tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.
Thành tựu xóa đói giảm nghèo
14
lOMoARcPSD|12184112
 5. Hội nhập kinh tế quốc tế
*Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao
+ 35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng
trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối
tác chiến lược về kinh tế; tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện
thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công
nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương
mại lớn của Việt Nam.
+ Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song 
phương và đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam tham 
gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần
90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - 
thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc 
Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Do đó, việc tham gia và thực thi các FTA1 sẽ mang lại những 
cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực 
cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm...
+ Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong 
các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 
(ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức 
của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò 
ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam 
đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng 
Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 
2013 - 2017, Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 -
2018.
1 FTA: Hiệp định thương mại tự do
15
lOMoARcPSD|12184112
Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không 
Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. 
Trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng nề do
thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng 
cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng 
định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và 
có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con 
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế
phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Quá trình mở cửa nền kinh tế của Việt Nam
16
lOMoARcPSD|12184112
 6. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, Đảng lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
từng bước đổi mới chính trị. Kết quả là chúng ta đã đổi mới một cách căn bản về cơ sở
hạ tầng, từ nền kinh tế thuần nhất một thành phần sang kinh tế nhiều thành phần với đa
hình thức sở hữu; từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, quan liêu sang cơ chế thị
17
lOMoARcPSD|12184112
trường có sự quản lý của Nhà nước; từ phân phối bình quân, tem phiếu sang phân phối
theo hiệu quả lao động, theo vốn đóng góp và theo phúc lợi xã hội.
+ Về đổi mới thể chế kinh tế, tập trung vào đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng
cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế; thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp
tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế
tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
+ Về đổi mới thể chế chính trị, tập trung vào xây dựng Đảng về đạo đức và
khắc phục một số hạn chế của công tác cán bộ: tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đổi mới bộ máy đảng và hệ thống
chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành.
=> Sự đồng bộ trong đổi mới thể chế kinh tế và thể chế chính trị nhằm tạo ra sự
nhịp nhàng, ăn khớp, làm điều kiện, tiền đề cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Đây là điểm nhận thức mới sâu sắc trong quan niệm của Đại hội XII của Đảng Cộng
sản Việt Nam về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị.
18
lOMoARcPSD|12184112
Phần 2: Tính hợp lý đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái 
KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay.
I. Khái niệm, sự hình thành tư tưởng tự do kinh tế
- Khái niệm: Tự do kinh tế trong kinh tế học là một môi trường xã hội mà trong 
đó người dân được tự do sản xuất, buôn bán và tiêu thụ hàng hóa hay dịch vụ mà
không bị hà hiếp, ép buộc, hoặc giới hạn bởi các người khác, các tổ chức khác, 
hay bởi chính phủ.
- Sự hình thành tư tưởng tự do kinh tế:
 Tư tưởng tự do kinh tế là lý thuyết kinh tế tư sản, coi nền kinh tế tư bản chủ 
nghĩa là hệ thống hoạt động tự động, do các quy luật kinh tế khách quan tự phát 
điều tiết. Tư tưởng cơ bản của nó là tự do kinh doanh, tự do tham gia thị trường, 
chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.
 Tư tưởng tự do kinh doanh được đặt nền móng từ các nhà kinh tế học tư sản 
cổ điển và được bắt đầu từ Wiliam Petty, tiếp tục ở trường phái trọng nông Pháp,
sau đó được Adam.Smith tiếp tục phát triển. Sau này được LoenWalras (Trường 
phái cổ điển mới) tiếp tục trong lý thuyết “Cân bằng tổng quát”. Cơ sở lý luận 
của tư tưởng này là quan điểm: Do giá cả và tiền công linh hoạt nên các doanh 
nghiệp chỉ cung ứng ở mức sản lượng tiềm năng và do đó sự can thiệp của nhà 
nước là có hại. Tư tưởng tự do kinh doanh giữ vị trí thống trị cho đến tận những 
năm 30 của thế kỉ XX.
 Wiliam Petty (1623-1687) là người đầu tiên đề cập đến tư tưởng tự do kinh 
doanh. W. Petty thừa nhận và tôn trọng các quy luật kinh tế, kết quả vạch ra mối 
quan hệ phụ thuộc, nhân quả giữa các sựu vật, hiện tượng. Theo ông, trong 
chính sách kinh tế cũng như y học cần phải tính đến những quá trình tự nhiên, 
không nên dùng hành động cưỡng bức riêng của mình để chống lại những quá 
trình đó.
 Tư tưởng tự do kinh tế được tiếp tục ở trường phái trọng nông Pháp. Chủ 
nghĩa trọng nông Pháp xuất hiện vào giữa thế kỉ XVIII. Trong thời gian này ở 
Pháp, phái trọng thương Pháp gắn chặt với chế độ phong kiến chuyên chế. Vì 
vậy đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất, làm cho đời sống nhân dân ngày 
càng khó khăn, công nghiệp không phát triển, giao thông khó khăn cản trở 
thương mại, nông nghiệp bị suy sụp, ruộng đất bị bỏ hoang, nông dân lìa bỏ 
ruộng đồng đi kiếm sống, nông nghiệp suy tàn dẫn đến nền kinh tế khủng hoảng.
 Từ đó đã nảy sinh ra cuộc cách mạng bắt đầu từ nông nghiệp, đưa công 
nghiệp ra khỏi tình trạng kế tắc, suy sụp, vạch rõ con đường và các hình thức 
phát triển nông nghiệp, giải phóng người nông dân khỏi quan hệ phong kiến. 
Chủ nghĩa trọng nông Pháp đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa trọng thương.
 Những người trọng nông bảo vệ tư tưởng tự do kinh tế, họ cho rằng các quy 
luật khách quan chi phối hoạt động con người. Trường phái này tin tưởng thuyệt 
đối vào quy luật tự nhiên và tính hơn hẳn của nông nghiệp. Đại biểu xuất sắc 
19
lOMoARcPSD|12184112
nhất của trường phái trọng nông là Kênê. Kênê đã xây dựng lý thuyết về “Trật tự
tự nhiên”. Theo Kênê, có hai loại quy luật tự nhiên: Quy luật vật lý tác động 
trong lĩnh vực tự nhiên và quy luật luân lý tác động trong lĩnh vực kinh tế. Quy 
luật kinh tế cũng tác động tất yếu như tác động vật lý.
 Họ kêu gọi nên tuân theo quyền tự nhiên và trật tự tự nhiên, đó là quyền 
chính đáng và tối cao cơ bản. Đối lập với quyền tự nhiên là quyền lập pháp đem 
lại. Chủ nghĩa trọng nông Pháp phủ nhận vai trò của nhà nước, cho rằng chính 
quyền nên để nông dân tự lựa chọn đất đai, cây trồng, phương pháp canh tác, tự 
do cạnh tranh và hoạt động, tự do trao đổi của cải sản xuất được tùy theo lợi ích 
cá nhân họ. Nhà nước nên tránh can thiệp vào các hoạt động của các cá nhân của
dân chúng, vì sự can thiệp này làm sai lệch trật tự tự nhiên, mà trật tự tự nhiên 
bao giờ cũng coi là hoàn hảo.
 Theo họ tự do hoạt động kinh doanh thực sự phải dựa trên cơ sở: “Con người 
phải được quyền sở hữu bản thân mình, sở hữu các bất động sản tức là có quyền 
chiếm đoạt các sản nghiệp, cũng giống như quyền của con chim én đói với tất cả
con ruồi nhỏ đang bay trong không khí”. Họ thừa nhận vai trò tự do của con 
người, coi đó là luật tự nhiên của con người, không thể thiếu được.
 Tuy nhiên, để tự do của người này không xâm phạm vào quyền tự do của 
người khác, cần phải có nhà nước và sự bảo vệ của nó bằng luật pháp. Do đó, tư 
hữu - an sinh - tự do là nền tảng của một trật tự xã hội đầy đủ.
 Tư tưởng tự do kinh tế này được tiếp tục phát triển trong tác phẩm nghiên 
cứu về “Nguyên nhân và bản chất giàu có của các dân tộc”, lý thuyết về “Con 
người kinh tế” và “Bàn tay vô hình” của Adam Smith.
 Học thuyết của Adam Smith nghiên cứu sâu sắc về ủng hộ tư tưởng tự do 
kinh tế, chống lại sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Thuyết “Bàn tay vô 
hình” là học thuyết chủ đạo của Adam Smith về tư tưởng tự do kinh tế. Theo ông
trong kinh doanh, các thực thể kinh tế (Con người kinh tế, doanh nghiệp, ...), 
luôn chịu chi phối bởi “bàn tay vô hình” và chịu tác động bởi lợi ích các nhân. 
Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế; cần thiết phải có sự tự 
do sản xuất, tự do liên doanh, liên kết, tự do mậu dịch. Adam Simth đề cao vai 
trò tác nhân, ủng hộ sự tư hữu tư nhân, ca ngợi cơ chế tự điều tiết của nền kinh 
tế thị trường. Theo ông, lợi ích cá nhân là động lực cho cá nhân và cả xã hội phát
triển. Để bàn tay vô hình hoạt động, cần cho các nhân sở hữu các điều kiện vật 
chất cho sản xuất (người lao động sở hữu bản thân, tức tự do thân thể, nhà kinh 
doanh sở hữu các động sản và bất động sản...), nhà nước không nên can thiệp 
vào kinh tế, mà chỉ như “Người lính canh gác đêm” bảo vệ chế độ tư hữu và giữ 
gìn trật tự an sinh xã hội.
 Tư tưởng tự do kinh tế của A. Smith được Ricardo tiếp tục kế thừa và phát 
triển ra những quy luật kinh tế và tôn trọng tự do kinh tế. Tư tưởng nêu trên 
được đề cập trong tác phẩm “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giàu có 
của các dân tộc”, sau này được LeonWalras tiếp tục trong lý thuyết “cân bằng 
tổng quát”.
20
lOMoARcPSD|12184112
II. Tư tưởng tự do kinh tế trong các học thuyết kinh tế
1. Trường phái cổ điển Anh
1.1. Lý thuyết của W.Petty
 - Công lao to lớn của W.Petty là ở chỗ, ông là người đầu tiên xây dựng học
thuyết về giá trị lao động. W.Petty đã có nhận xét đúng đắn khi vạch rõ vai trò của
lao động trong việc tạo ra giá trị, tức nguồn gốc thật sự của của cải. Chỉ riêng
điều này có thể nói ông là người khai sinh ra lý luận giá trị lao động.
 - Khi nghiên cứu về giá trị lao động, ông dùng thuật ngữ "giá cả" và chia thành
"giá cả chính trị" và "giá cả tự nhiên". Theo ông, giá cả tự nhiên do lượng lao
động hao phí để sản xuất ra hàng hóa quyết định. Như vậy, W.Petty đã hiểu đúng
giá trị - lao động với thuật ngữ "giá cả tự nhiên" và có giá cả chính trị chính là giá
cả thị trường, nó thường thay đổitheo những điều kiện chính trị, do đó khó hiểu rõ
được nó.
 - W.Petty cũng đã thấy được mối quan hệ giữa năng suất lao động với "giá cả tự
nhiên", nó tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Ông đã so sánh khối lượng lao
động hao phí để sản xuất lúa mì. Nếu năng suất lao động sản xuất ra bạc tăng lên
thì giá trị của nó giảm. Ông có đề cập đến lao động giản đơn và lao động phức
tạp, so sánh lao động trong thời gian dài, lấy năng suất lao động trung bình của
nhiều năm để loại trừ tình trạng ngẫu nhiên. Nhưng ông vẫn lẫn lộn chưa phân
biệt được mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và lao động tạo ra giá trị.
 - Tuy nhiên, ông còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương khi cho rằng
chỉ có lao động khai thác bạc (tiền tệ) mới tạo ra giá trị, lao động trong các ngành
khác chỉ tạo nên của cải khi so sánh với lao động tạo ra tiền. Theo ông giá trị của
hàng hóa là sự phản ánh giá trị của tiền, giống như ánh sáng Mặt trăng là sự phản
chiếu ánh sáng Mặt trời vậy. Ông còn cho rằng lao động thương nghiệp có năng
suất cao hơn nông nghiệp và ngành thương nghiệp là ngành kinh tế có lợi nhất.
Đồng thời W.Petty đã đưa ra nguyên lý nỗi tiếng "Lao động là cha và đất là mẹ
của của cải". Mặc dù phát triển này tạo ra sự thừa nhận đầu tiên và sâu sắc về hai
"yếu tố nguyên thủy trong sản xuất", nhưng ít có giá trị phân tích. Chắc chắn nó
không tạo ra thuyết giá trị. Quan trọng hơn là nguyên cứu của W.Petty nhắm vào
việc phát hiện "sự ngang hàng tự nhiên" giữa đất đai và lao động với nhau bằng
việc xác định cần phải có bao nhiêu đất để sản xuất "lương thực cho một người
trong một ngày", xem giá trị của sản lượng như thế ngang bằng với giá trị lao
động trong một ngày. Mục đích trong nỗ lực của W.Petty là phải hình thành một
đơn vị đánh giá qua đó nhằm giảm bớt số lượng giá trị của hai yếu tố, đất đai và
lao động, với số lượng đồng nhất của "sức sản xuất" sau đó dùng những tiêu
chuẩn giá trị tuyệt đối, nỗ lực này cũng chứng tỏ là ngõ cụt phân tích, nhưng tạo
cảm hứng cho Cantillon tiến hành những nghiên cứutheo cùng hướng.
1.2. Lý thuyết của A.Smith
 Adam Smith cho rằng "Bàn tay vô hình" có nghĩa là: Trong nền kinh tế thị 
trường, các cá nhân tham gia muốn tối đa hóa lợi nhuận cho mình. Ai cũng muốn 
thế cho nên vô hình chung đã thúc đẩy sự phát triển và củng cố lợi ích cho cả 
cộng đồng.
21
lOMoARcPSD|12184112
 Ông dùng thuật ngữ này mô tả khả năng của cơ chế thị trường trong việc điều 
chỉnh cung cầu trên thị trường. Và ví sức mạnh của cơ chế thị trường như bàn tay 
vô hình định hướng người bán và người mua, phân bố nguồn lực kinh tế đạt được 
hiệu quả xã hội lớn nhất mà không cần sự can thiệp của Chính phủ.
 Ví dụ: 
+ Ông chỉ ra rằng nếu để cánh lái buôn tự cạnh tranh với nhau, thị trường sẽ vận 
hành một cách suôn sẻ như thể có một bàn tay vô hình dẫn dắt. Nếu có người bán 
hàng rẻ hơn bạn, khách sẽ tự động mua của họ, do đó bạn sẽ phải hạ giá hoặc bán 
thứ khác tốt hơn.
+ Trong quy luật cung cầu của thị trường là vấn đề kiểm soát giá của các loại 
hàng hóa. Khi giá cả không được tự do định đoạt bởi quy luật cung cầu hoặc bị 
ngăn cản ở mức “arm’s length” (thuận mua vừa bán) thì mặc nhiên sẽ hình thành 
nên một thị trường ngầm mà người ta quen gọi là thị trường “chợ đen”, vượt hoàn
toàn ra khỏi ý chí của bất cứ cơ quan có thẩm quyền nào.
 Học thuyết “bàn tay vô hình” nghiên cứu cơ chế hoạt động của thị trường cạnh
tranh và nó cũng phản ánh quan điểm chung của các nhà kinh tế học cổ điển A. 
Smith, một chế độ kinh tế bình thường phải dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi 
hàng hóa và một nền kinh tế hàng hóa bình thường phải dựa trên cơ sở tự do cạnh
tranh. Ngược lại thì chỉ là sản phẩm của ngẫu nhiên, độc đoán và ngu dốt của con 
người.
 Bàn tay vô hình thực chất chính là sự hoạt động khách quan của các quy luật 
kinh tế, chi phối hoạt động của các chủ thể kinh tế.
 Các điều kiện cần thiết để cho các quy luật hoạt động là:
 - Sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hòa và trao đổi hàng hóa
 - Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế: tự do sản xuất, tự
do liên doanh, liên kết, tự do mậu dịch.
 Rõ ràng, quy luật tự nhiên mạnh hơn suy nghĩ chủ quan của Nhà nước. Từ 
đây ta có thể thấy xu hướng ca ngợi “bàn tay vô hình” của Adam Smith, ông luôn 
kêu gọi Chính phủ không can thiệp quá sâu vào thị trường. Tuy nhiên, vì vô tư 
nên bàn tay vô hình cũng dễ bị lợi dụng. Người ta đã tạo ra những trạng thái giả 
tạo, bằng những hiện tượng thiếu hụt hàng hóa tại một thời điểm, một địa phương
nào đó, làm cho giá cả gia tăng đề trục lợi hoặc dùng những biện pháp hành chính
ngăn cản những dòng hàng hóa vận hành theo quy luật cung cầu, làm cho giá cả 
biến động, thị trường bị méo dạng, hay đặt ra chính sách đối xử bất bình đẳng đối 
với mặt hàng, nguồn gốc xuất xử, đối tượng tham gia..ư vậy bàn tay vô hình sẽ bị 
lừa, sẽ vận hành một cách khập khễnh, từ đó một yêu cầu vô cùng chính đáng đặt 
ra là Nhà nước phải tham gia vào thị trường với mục tiêu là: gỡ bỏ rào cản, loại 
bỏ những yếu tố làm biến dạng thị trường, hướng dẫn sản xuất. Thuyết của Smith 
chống lại tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương (yêu cầu có sự can thiệp của nhà 
nước vào kinh tế), thuyết này đòi hỏi việc tự do kinh doanh và cạnh tranh, có sự 
thích hợp với chủ nghĩa tư bản trong một thời kì dài.
22
lOMoARcPSD|12184112
1.3. Lý thuyết của D.Ricardo
- Mặc dù không có lý thuyết riêng và nổi bật về cơ chế thị trường hay vai trò của 
Nhà nước nhưng nhìn chung ông ủng hộ quan điểm của A.Smith về cơ chế thị 
trường tự do. Đồng tình với A.Smith, ông cũng cho rằng nhà nước chỉ cần thực 
hiện các vai trò bảo vệ sở hữu tư bản, bảo đảm các yếu tố bên ngoài mà không 
can thiệp vào các hoạt động kinh tế của tư nhân. Ông ví nhà nước chỉ là người 
“trông vườn”. Quan điểm của ông về cơ chế thị trương và nhà nước được thể 
hiện rõ nhất trong lí thuyết tiền tệ. Từ quan niệm thuyết số lượng tiền, ông mở 
rộng cơ chế tự do trong trao đổi quốc tế.
- Theo ông nếu một nước lúc đầu nhiều tiền sẽ làm cho giá cả hàng hóa tăng. 
Điều đó kích thích nhập khẩu. Khi nhập khẩu tăng lượng tiền trong nước giảm 
nên sẽ hạn chế nhập khẩu. Ngược lại, nếu lúc đầu lượng tiền ít, giá cả hàng hóa 
giảm nên kích thihcs xuất khẩu. Khi xuất khẩu tăng, lượng tiền trong nước tăng 
do đó giá cả hàng hóa tăng và sẽ giảm xuất khẩu. Như vậy cơ chế thị trường tự 
do sẽ tự động điều tiết xuất nhập khẩu mà không cần có sự vào cuộc của nhà 
nước.
2. Trường phái cổ điển Pháp (trường phái trọng nông)
- Chủ nghĩa trọng nông phê phán gay gắt những tư tưởng kinh tế phiến diện của 
trường phái trọng thương, cho rằng không phải “phi thương bất phú”, với lý do: 
hoạt động thương nghiệp chỉ hoạt động phục vụ tiêu dùng chứ không làm tăng 
thêm giá trị, nghĩa là không đem lại giàu có cho xã hội. Vì vậy trường phái trong 
nông cho rằng phi nông nghiệp mới là bất hủ, vì chính ngành nông nghiệp trực 
tiếp sản xuất ra lương thực, thực phẩm- của cải vật chính yếu- nguồn gốc của sự 
giàu có.
- Phần quan trọng của học thuyết này là tư tưởng rằng nhà nước không nên can 
thiệp vào quá trình kinh tế. Nhà nước chỉ đặt ra các điều luật cần thiết phù hợp 
với “quy luật tự nhiên” và sau đó các chức năng của nhà nước sẽ phai mờ dần.
- Chủ nghĩa trọng nông là tư tưởng kinh tế đầu tiên đề ra quy luật “sự giảm dần 
sản phẩm đất đai” theo đó sự tăng thêm lao động vào đất sẽ dẫn đến một giới hạn
mà sau đó sự giảm dần năng suất lao động. Đó là cơ sở quy luật năng suất biên 
giảm dần, phổ biến trong các học thuyết kinh tế hiện đại.
- Trường phái trọng nông đã nêu ra những ý tưởng về việc phát triển ngành kinh 
tế nông nghiệp phải có sự quan tâm của nhà nước để họ yên tâm làm ăn trên đồng
ruộng và có tích lũy đầu tư cho phát triển nông nghiệp, đồng thời cũng nêu vấn 
đề thay đổi hoạt cá thể riêng lẻ trong làm ăn nông nghiệp bằng việc tập trung đất 
đai để xây dựng thành các đồn điền, đưa nông nghiệp đi vào làm ăn lớn để 
chuyển từ nông nghiệp tiểu nông mang tính chất phong kiến sang nền nông 
nghiệp theo kiểu tư bản chủ nghĩa để có năng suất lao dộng nông nghiệp ngày 
càng cao, lương thực thực phẩm ngày càng sản xuất ra được nhiều hơn, đem lại 
sự giàu có cho đất nước. Qua đó ta có thể thấy chủ nghĩa trọng nông chống lại tất
cả những đặc quyền về thuế, đem lại sự giàu có cho đất nước.
23
lOMoARcPSD|12184112
III. Sự phát triển của các học thuyết kinh tế
- Trường phái kinh tế học cổ điển Anh là một trong những xu hướng tư tưởng 
kinh tế tiến bộ, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát triển các luận thuyết 
kinh tế. Nhiều quan điểm chủ đạo của trường phái này vẫn còn lưu giữ ý nghĩa 
đến tận ngày nay.
- Người đề xướng ra tư tưởng tự do kinh tế bắt đầu là các nhà kinh tế tư sản cổ 
điển, bắt đầu là Wiliam Petty thừa nhận và tôn trọng các quy luật kinh tế, kết quả 
được đưa ra hệ phụ thuộc nhân quả giữa các hiện tượng.
- Trong cuốn “Trong cuộc sống và trong kinh tế” Petty viết: phải tính đều những 
quá trình tự nhiên, không nên dùng hành động để cưỡng bức lại quá trình đó, 
thừa nhận quá trình tự do cá nhân và đổi tự do cạnh tranh.
- Tư tưởng tự do kinh tế được tiếp tục tăng trong tác phẩm nghiên cứu về 
“nguyên nhân và bản chất giàu có của các dân tộc” của Adam.Simth. lý thuyết về
con người kinh tế và bàn tay vô hình của Adam.Smith đã chứng tỏ các quy luật 
kết quả tự điều tiết nền kinh tế mà không cần có sự can thiệp của nhà nước.
- Thuyết của Adam Smith chống lại tư tưởng chủ nghĩa trọng thương (yêu cầu có 
sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế) là mầm mống cho đòi hỏi được tự do kinh
doanh, có sự thích hợp với chủ nghĩa tư bản trong một thời kì dài. Ông cho rằng 
chính sách kinh tế phù hợp với trật tự tự nhiên là do cạnh tranh.
- David Ricardo tiếp tục lí luận của Adam.Smith phát hiện ra những quy luật kinh
tế và tự do kinh tế. Ông đã kế thừa và phát triển lý thuyết của A.Smith như 
K.Marx nhận xét “so với A.Smith thì Ricardo đã đi xa hơn nhiều”.
 IV. Lập luận về tính hợp lí
- Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa có cơ bản và toàn 
diện, nhưng là bước mở đầu có ý vô cùng quan trọng.
- Bước lên từ nền kinh tế phong kiến lạc hậu, trì trệ, lại phải trải qua hai cuộc 
chiến tranh giữ nước khóc liệt, nền kinh tế nước ta vốn lạc hậu lại càng thêm 
kiệt quệ bởi chiến tranh. Vào thời bình, bắt đầu từ cơ sở kinh tế lạc hậu, trì trệ 
đó, nước ta xây dựng nền kinh tế hóa tập trung. Cũng nhờ nên kinh tế thị trường
mà CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế thị trường, quản lý xã hội và 
nâng cao năng suất lao động.
- Khi nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của học thuyết kinh tế chính trị tư
sản cổ điển, ta thấy được rằng nên có được sự tự do kinh tế để có thể đề cao vai 
trò của thị trường, chống lại sự can thiệp của Nhà nước. 
24
lOMoARcPSD|12184112
- Những niềm tin cơ bản đã tạo nên các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế tự do 
(trước hết và quan trọng nhất) bao gồm: cạnh tranh kinh tế tạo thành một "trật 
tự tự nhiên" thống trị thế giới. 
- Bởi vì sự điều chỉnh tự nhiên này là loại qui định tốt nhất, các nhà kinh tế theo 
chủ nghĩa tự do kinh tế cho rằng không cần phải phức tạp hóa các vấn đề kinh 
doanh và công nghiệp do sự can thiệp của chính phủ. 
Tài liệu tham khảo
1. Website: h ttps://baochinhphu.vn/cong-nghiep-sau-gan-30-nam-doi-moi- 
102168544.htm
2. Website: 
tuc/Nhung-noi-bat-cua-nganh-nong-nghiep-Viet-Nam-qua-35-nam-doi-
moi.aspx
3. Website: 
dang/-/2018/21694/nhung-thanh-tuu-co-ban-ve-phat-trien-kinh-te---xa-hoi-cua-
viet-nam-tu-khi-doi-moi-den-nay.aspx
4. Website: 
tai-chinh?dDocName=MOFUCM098068
5. Website: 
va-doi-moi-chinh-tri-phan-1.html
6. Website: 
nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-mot-so-van-de-
ly-luan-va-thuc-tien.html
25
lOMoARcPSD|12184112

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_phan_tich_thanh_tuu_cua_doi_moi_kinh_te_o_viet_nam.pdf