Tiểu luận Phân tích thành tựu của “Đổi mới” kinh tế ở Việt Nam từ đó lập luận về tính hợp lý (Giá trị) đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Phân tích thành tựu của “Đổi mới” kinh tế ở Việt Nam từ đó lập luận về tính hợp lý (Giá trị) đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Phân tích thành tựu của “Đổi mới” kinh tế ở Việt Nam từ đó lập luận về tính hợp lý (Giá trị) đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay
Phân tích thành tựu đổi mới kinh tế ở Việt Nam Kinh tế chính trị Mác- Lênin (Trường Đại học Thương mại) lOMoARcPSD|12184112 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI Khoa Kinh Tế --------------- Đề tài thảo luận: Phân tích thành tựu của “Đổi mới” kinh tế ở Việt Nam từ đó lập luận về tính hợp lý (giá trị) đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay. Nhóm 5 Lớp học phần: 2254 LSHTKT Chuyên ngành: Quản lý kinh tế Giảng viên hướng dẫn: Hoàng Văn Mạnh 1 lOMoARcPSD|12184112 - Phân công nhiệm vụ - ST T Họ và tên Nhiệm vụ Nhóm tự xếp loại Đánh giá của giảng viên 1 Nguyễn Đức Hảo Nội dung 2 Bùi Thu Hiền Powerpoint 3 Ngô Thị Thúy Hiền Powerpoint 4 Vũ Thu Hiền Thuyết trình 5 Nguyễn Minh Hiếu Nội dung 6 Nguyễn Nhật Hoa Thuyết trình 7 Dương Văn Hòa Nội dung 8 Đỗ Thị Như Hoàng Word 9 Phùng Thị Hồng Nội dung 10 Trần Duy Hưng Nội dung 2 lOMoARcPSD|12184112 Lời mở đầu Đất nước ta đang trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, phải xây dựng một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên những quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất hiện đại. Nền kinh tế của loài người từ trước đến nay đã và đang trải qua rất nhiều hình thái kinh tế xã hội. Bao gồm các hình thái: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Trong tất cả các hình thái kinh tế trên, chưa có một hình thái kinh tế nào có một cơ chế quản lý và điều hành kinh tế một cách phù hợp và hợp lý nhất. Từ việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào nền kinh tế thị trường để giải quyết những vấn đề cơ bản của nền kinh tế, cho đến việc chỉ dựa vào tổ chức quản lý của Nhà nước, để phát triển kinh tế cho phù hợp. Đặc biệt là đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đặc biệt của sự phát triển. Đây là bước ngoặt lớn trong quá trình chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh nhiều mặt mặt tích cực như: năng suất lao động tăng nhanh, công nghệ sản xuất không ngừng được cải tiến, hàng hóa được sản xuất ra nhiều, thu nhập quốc dân từ đó cũng tăng. thì cơ chế thị trường đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực. Ngày càng nhiều vấn đề cần giải quyết như: lạm phát, khủng hoảng, thất nghiệp, tệ nạn xã hội, Do đó, nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài : “Phân tích thành tựu của “Đổi mới” kinh tế ở Việt Nam từ đó lập luận về tính hợp lý (giá trị) đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay”. Tiểu luận gồm có 2 phần: Phần 1: Phân tích thành tựu đổi mới kinh tế ở Việt Nam Phần 2: Tính hợp lý đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay 3 lOMoARcPSD|12184112 Mục Lục Lời mở đầu....................................................................................................................3 Phần 1: Phân tích thành tựu đổi mới kinh tế ở Việt Nam...............................................5 I. Cơ sở lí thuyết........................................................................................................5 1. Đổi mới................................................................................................................5 2. Đổi mới nền kinh tế Việt Nam..............................................................................5 II. Những thành tựu nổi bật về kinh tế Việt Nam sau đổi mới..............................5 1. Tổng quan về nên kinh tế Việt Nam sau đổi mới...............................................5 2. Kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh theo ngành và theo các giai đoạn.........7 3. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường............................................................................12 4. Phát triển kinh tế gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội..................13 5. Hội nhập kinh tế quốc tế.................................................................................15 6. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.........................................17 Phần 2: Tính hợp lý đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay................................................................................................19 I. Khái niệm, sự hình thành tư tưởng tự do kinh tế.............................................19 II. Tư tưởng tự do kinh tế trong các học thuyết kinh tế......................................21 1. Trường phái cổ điển Anh................................................................................21 1.1. Lý thuyết của W.Petty.....................................................................................21 1.2. Lý thuyết của A.Smith....................................................................................21 2. Trường phái cổ điển Pháp (trường phái trọng nông).....................................23 III. Sự phát triển của các học thuyết kinh tế........................................................24 IV. Lập luận về tính hợp lí.....................................................................................24 Tài liệu tham khảo.......................................................................................................25 4 lOMoARcPSD|12184112 Phần 1: Phân tích thành tựu đổi mới kinh tế ở Việt Nam I. Cơ sở lí thuyết *Khái niệm 1. Đổi mới Đổi mới (innovation) là một từ bắt nguồn từ từ “nova” gốc Latin nghĩa là “mới”. Đổi mới thường được hiểu là sự mở đầu cho một giải pháp nào đó khác với các giải pháp đã triển khai. Đổi mới cũng được định nghĩa là “việc áp dụng những ý tưởng mới vào tổ chức”. Một số định nghĩa cụ thể hơn về đổi mới cho rằng đổi mới là một quá trình biến các ý tưởng thành các sản phẩm mới, dịch vụ mới, sản xuất đại trà và thương mại hóa các sản phẩm và dịch vụ đó. Vì vậy đổi mới bắt nguồn từ những ý tưởng mới, những ý tưởng này được phát triển thành các sản phẩm/dịch vụ mới của tổ chức. Đổi mới không chỉ dừng lại ở việc phát minh ra các ý tưởng, mà các ý tưởng này cần được đưa vào khai thác. Giáo sư Ed Robert của tổ chức MIT đã định nghĩa “đổi mới” là phát minh kèm theo khai thác. 2. Đổi mới nền kinh tế Việt Nam Đổi mới kinh tế là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa; từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong phát triển kinh tế. II. Những thành tựu nổi bật về kinh tế Việt Nam sau đổi mới 1. Tổng quan về nên kinh tế Việt Nam sau đổi mới Trải qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước. 5 lOMoARcPSD|12184112 Giá trị thương mại so GDP của Việt Nam cũng đã tăng trưởng vượt bậc thông qua các năm. Ta có thể thấy rằng giá trị thương mại GDP của Việt Nam đều đang có đà đi lên theo từng năm so với các nước như Trung Quốc, Xinh- ga - po, và các nước ASEAN khác. Chứng tỏ rằng trong thời kì đổi mới nền kinh tế Việt đã phát triển tương đối ổn định không hề gấp khúc. 6 lOMoARcPSD|12184112 2. Kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh theo ngành và theo các giai đoạn 2.1. Theo các ngành trọng điểm - Ngành công nghiệp: * Nhận xét chung Công cuộc đổi mới được Đại hội VI đề ra từ năm 1986, đến nay đã hơn 35 năm. Trong thời gian này, công nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu, đồng thời cũng còn nhiều việc phải làm để thực hiện mục tiêu đến năm 2023 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Theo thời gian, tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp từ năm 1986 đến nay được chia làm 3 thời kỳ, đó là: 1987-1990, 1991-2007 và từ 2008 đến nay: 7 lOMoARcPSD|12184112 Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2013 so với 1986 (lần) *Ngành công nghiệp phát triển mạnh qua từng thời kì + Trong thời kỳ 1987-1990, tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân năm đạt 5,65%, trong đó có năm còn bị giảm (năm 1989 giảm 3,9%) chủ yếu do thời kỳ này đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội kéo dài ở trong nước, bị hụt hẫng về vốn đầu tư, về thị trường do Liên Xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu đổ vỡ, do bị bao vây cấm vận Hơn nữa trong thời gian này, để khắc phục khủng hoảng, Việt Nam đã đưa ra mục tiêu nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, lương thực là trọng điểm số một. + Trong thời kỳ 1991-2007, sau khi đã cơ bản giải quyết được vấn đề nông nghiệp nói chung và lương thực nói riêng, thì việc chuyển sang làm công nghiệp với ý nghĩa “phi công bất phú” là phù hợp và có ý nghĩa chiến lược. Trong thời kỳ này, ở trong nước đã chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp với hai thành phần kinh tế, hai hình thức sở hữu chủ yếu là quốc doanh, tập thể, sang cơ chế thị trường. Giá trị sản xuất công nghiệp thời kỳ này tăng tới 14,35%/năm, với tỷ trọng trong GDP của cả nước ngày một lớn, thì công nghiệp đã trở thành động lực và đầu tàu tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. + Sản xuất công nghiệp năm 2013 có dấu hiệu phục hồi, nhất là ngành công nghiệp chế biến chế tạo với tỷ trọng lớn trong toàn ngành công nghiệp đã có sự chuyển biến rõ nét qua các quý. Về sản phẩm công nghiệp chủ yếu. Năm 2013 so với năm 1986, nhiều sản phẩm công nghiệp cao gấp nhiều lần: Than sạch gấp 6,4 lần, vải lụa 4,2 lần, xi măng 38,4 lần, điện phát ra 21,9 lần Năm 2013 so với 1997, dầu thô gấp 1,7 lần, bia gấp 5 lần, ô tô lắp ráp gấp 15,2 lần, xe máy lắp ráp gấn 47,8 lần Năm 2013 so với 2005, thủy sản chế biến gấp 2,7 lần. Năm 2013 so với 2009, điện thoại di động gấp 18,9 lần. + Trong 12 năm qua (2011-2022), công nghiệp là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với đóng góp xấp xỉ 30% vào GDP và trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước, góp phần đưa Việt Nam từ vị trí thứ 50 (năm 2010) lên vị trí thứ 22 (năm 2019) trong các quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới. - Ngành nông nghiệp 8 lOMoARcPSD|12184112 *Ngành nông nghiệp là ngành phát triển ổn định nhất qua các năm dù chịu nhiều bất lợi + Kể từ sau Đổi mới (1986), ngành nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nông nghiệp phát triển đã đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, tạo việc làm và thu nhập cho 70% dân cư, là nhân tố quyết định xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Bất chấp những khó khăn về thị trường, thiên tai và dịch bệnh, nông nghiệp luôn duy trì tăng trưởng ở mức tương đối khá. + Nhờ tăng trưởng nhanh, nông nghiệp Việt Nam không chỉ cung ứng đủ lương thực, thực phẩm, đảm bảo an ninh lương thực và ổn định kinh tế - xã hội mà còn phục vụ đắc lực cho xuất khẩu. Nếu như năm 1986, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành chỉ đạt 486 triệu USD, thì sau 35 năm đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông - lâm - thủy sản hàng đầu thế giới với tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành năm 2020 đạt 41,25 tỷ USD, gấp 85 lần so với năm 1986. Đặc biệt, có một số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD, như: cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm gỗ, Nông sản Việt Nam đã đến trên 196 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường khó tính như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, + Sản xuất nông nghiệp đã có sự tăng trưởng khá toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa, bước đầu đã hình thành một nền sản xuất hàng hóa, nhiều vùng chuyên canh đã được xác lập, một số hàng nông sản của Việt Nam đã được thị trường thế giới biết đến và khẳng định vị thế trên thị trường thế giới. Mặc dầu tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong cơ cấu GDP có xu hướng giảm đi, nhưng năm 2015 nông nghiệp vẫn còn đóng góp khoảng 17% tổng của cải làm ra. Đặc biệt, khối lượng và giá trị sản phẩm do nông nghiệp làm ra không ngừng tăng lên, nhờ đó nông nghiệp đã góp phần quan trọng vào ổn định và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Ngoài ra, nông nghiệp còn là khu vực tạo việc làm cho phần lớn lực lượng lao động xã hội. Hơn nữa, nông nghiệp còn là bệ đỡ cho nền kinh tế trongnhững năm kinh tế đất nước gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, nhờ đó giúp giảm nhẹ các ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế tới nền kinh tế cả nước. + Trước những ảnh hưởng bất lợi tới sản xuất kinh doanh, tốc độ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp tuy thấp hơn nhưng lại ổn định hơn so với các ngành kinh tế khác. Trong giai đoạn 2007-2015, nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân 3,35%/năm. Năm 2008 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, cả hai ngành công nghiệp và dịch vụ đều gặp khó khăn nên tốc độ tăng trưởng giảm mạnh, duy chỉ có nông nghiệp vẫn duy trì tốc độ tăng và tăng cao nhất trong giai đoạn từ 2007 - 2015, nhờ đó giúp hạn chế bớt khó khăn cho nền kinh tế. 9 lOMoARcPSD|12184112 - Ngành dịch vụ: + Đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng ngày càng tăng; đã tập trung phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao như công nghệ thông tin, truyền thông, logistics, hàng không, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương mại điện tử... Mạng lưới thương mại và dịch vụ phát triển mạnh trên phạm vi cả nước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. + Ngành du lịch tiếp tục được cơ cấu lại theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm, nhất là tại các vùng du lịch trọng điểm. Khách quốc tế năm 2015 đạt khoảng 7,9 triệu lượt, gấp gần 1,6 lần so với năm 2010. Mở rộng miễn thị thực cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và công dân của nhiều nước để khuyến khích phát triển thương mại, đầu tư và du lịch. + Mạng lưới và cơ cấu đào tạo hợp lý hơn; quy mô, chất lượng và sự công bằng trong tiếp cận giáo dục được cải thiện. Ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ có bước tiến bộ, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, thông tin truyền thông, y tế, xây dựng. Thị trường khoa học công nghệ có bước phát triển, giá trị giao dịch tăng 13,5%/năm. Số lượng sáng chế và các giải pháp hữu ích đăng ký bảo hộ gấp gần 2,2 lần so với giai đoạn 2006 - 2010. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2015 tăng 19 bậc so với năm 2010. + Nhiều công trình hạ tầng thiết yếu về giao thông, năng lượng, thủy lợi, đô thị, thông tin truyền thông, y tế, giáo dục... được đưa vào sử dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, tạo diện mạo mới cho đất nước. + Các dịch vụ tài chính ngân hàng tiếp tục phát triển, đa dạng hóa và hiện đại hóa. Hoạt động xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém được đẩy mạnh. + Quy mô thị trường chứng khoán tăng, mức vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt khoảng 33% GDP và thị trường trái phiếu đạt khoảng 23% vào cuối năm 2015. 59 nước đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. 10 lOMoARcPSD|12184112 2.2. Theo từng giai đoạn cụ thể - Giai đoạn 1986 – 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm. Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới. - Giai đoạn 1991 – 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. - Giai đoạn 1996 – 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%. Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần. - Giai đoạn 2001 – 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định . Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su; - Giai đoạn 2006 – 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt cao. 11 lOMoARcPSD|12184112 - Giai đoạn 2011-2015: Tăng trưởng kinh tế thể hiện rõ xu thế phục hồi, tính chung trong cả giai đoạn duy trì ở mức khá, chất lượng được cải thiện Bình quân giai đoạn 20112015, tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt khoảng 5,91%, mặc dù thấp hơn so với giai đoạn 2006-2010, nhưng đặt trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và kinh tế thế giới thường xuyên xuất hiện nhiều nhân tố bất lợi thì đây vẫn là mức tăng tương đối tốt. Hơn thế nữa, xu hướng phục hồi kinh tế ngày càng rõ nét kể từ năm 2013, tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Tăng trưởng năm 2015 đạt 6,68%, vượt mục tiêu đề ra là 6,2% và là mức cao nhất trong cả giai đoạn 2011-2015. - Những năm sau đó: Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương 2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5 năm qua tăng trung bình 5,9 %/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm, thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm, thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm. => Nhận xét chung: Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá, trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững chắc hơn. 3. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường + Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005. + Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất 12 lOMoARcPSD|12184112 khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới. + Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý; ... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. 4. Phát triển kinh tế gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội - Khái quát chung + Lĩnh vực lao động: Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010 + Giáo dục: Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên 90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo học. Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong những năm gần đây. + Y tế: Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin phòng Covid-19... Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng 13 lOMoARcPSD|12184112 được nâng lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng 28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay. + Đời sống nhân dân nói chung được cải thiện rõ rệt: Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Nhờ vào nỗ lực và sự năng động của người dân khi có động lực của kinh tế thị trường, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm nhanh chóng ở khu vực thành thị và đồng bằng sông Hồng và miền Đông Nam Bộ trong khi tỷ lệ nghèo còn cao ở các vùng núi và đồng bào dân tộc. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương thực, thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm 2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc đã đề ra. Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á. Thành tựu xóa đói giảm nghèo 14 lOMoARcPSD|12184112 5. Hội nhập kinh tế quốc tế *Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao + 35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế; tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. + Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song phương và đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam tham gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Do đó, việc tham gia và thực thi các FTA1 sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm... + Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018. 1 FTA: Hiệp định thương mại tự do 15 lOMoARcPSD|12184112 Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. Trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Quá trình mở cửa nền kinh tế của Việt Nam 16 lOMoARcPSD|12184112 6. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị Thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, Đảng lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị. Kết quả là chúng ta đã đổi mới một cách căn bản về cơ sở hạ tầng, từ nền kinh tế thuần nhất một thành phần sang kinh tế nhiều thành phần với đa hình thức sở hữu; từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, quan liêu sang cơ chế thị 17 lOMoARcPSD|12184112 trường có sự quản lý của Nhà nước; từ phân phối bình quân, tem phiếu sang phân phối theo hiệu quả lao động, theo vốn đóng góp và theo phúc lợi xã hội. + Về đổi mới thể chế kinh tế, tập trung vào đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế; thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. + Về đổi mới thể chế chính trị, tập trung vào xây dựng Đảng về đạo đức và khắc phục một số hạn chế của công tác cán bộ: tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đổi mới bộ máy đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. => Sự đồng bộ trong đổi mới thể chế kinh tế và thể chế chính trị nhằm tạo ra sự nhịp nhàng, ăn khớp, làm điều kiện, tiền đề cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Đây là điểm nhận thức mới sâu sắc trong quan niệm của Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị. 18 lOMoARcPSD|12184112 Phần 2: Tính hợp lý đối với tư tưởng tự do kinh tế của trường phái KTCT TS Cổ điển trong bối cảnh hiện nay. I. Khái niệm, sự hình thành tư tưởng tự do kinh tế - Khái niệm: Tự do kinh tế trong kinh tế học là một môi trường xã hội mà trong đó người dân được tự do sản xuất, buôn bán và tiêu thụ hàng hóa hay dịch vụ mà không bị hà hiếp, ép buộc, hoặc giới hạn bởi các người khác, các tổ chức khác, hay bởi chính phủ. - Sự hình thành tư tưởng tự do kinh tế: Tư tưởng tự do kinh tế là lý thuyết kinh tế tư sản, coi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là hệ thống hoạt động tự động, do các quy luật kinh tế khách quan tự phát điều tiết. Tư tưởng cơ bản của nó là tự do kinh doanh, tự do tham gia thị trường, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Tư tưởng tự do kinh doanh được đặt nền móng từ các nhà kinh tế học tư sản cổ điển và được bắt đầu từ Wiliam Petty, tiếp tục ở trường phái trọng nông Pháp, sau đó được Adam.Smith tiếp tục phát triển. Sau này được LoenWalras (Trường phái cổ điển mới) tiếp tục trong lý thuyết “Cân bằng tổng quát”. Cơ sở lý luận của tư tưởng này là quan điểm: Do giá cả và tiền công linh hoạt nên các doanh nghiệp chỉ cung ứng ở mức sản lượng tiềm năng và do đó sự can thiệp của nhà nước là có hại. Tư tưởng tự do kinh doanh giữ vị trí thống trị cho đến tận những năm 30 của thế kỉ XX. Wiliam Petty (1623-1687) là người đầu tiên đề cập đến tư tưởng tự do kinh doanh. W. Petty thừa nhận và tôn trọng các quy luật kinh tế, kết quả vạch ra mối quan hệ phụ thuộc, nhân quả giữa các sựu vật, hiện tượng. Theo ông, trong chính sách kinh tế cũng như y học cần phải tính đến những quá trình tự nhiên, không nên dùng hành động cưỡng bức riêng của mình để chống lại những quá trình đó. Tư tưởng tự do kinh tế được tiếp tục ở trường phái trọng nông Pháp. Chủ nghĩa trọng nông Pháp xuất hiện vào giữa thế kỉ XVIII. Trong thời gian này ở Pháp, phái trọng thương Pháp gắn chặt với chế độ phong kiến chuyên chế. Vì vậy đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất, làm cho đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, công nghiệp không phát triển, giao thông khó khăn cản trở thương mại, nông nghiệp bị suy sụp, ruộng đất bị bỏ hoang, nông dân lìa bỏ ruộng đồng đi kiếm sống, nông nghiệp suy tàn dẫn đến nền kinh tế khủng hoảng. Từ đó đã nảy sinh ra cuộc cách mạng bắt đầu từ nông nghiệp, đưa công nghiệp ra khỏi tình trạng kế tắc, suy sụp, vạch rõ con đường và các hình thức phát triển nông nghiệp, giải phóng người nông dân khỏi quan hệ phong kiến. Chủ nghĩa trọng nông Pháp đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa trọng thương. Những người trọng nông bảo vệ tư tưởng tự do kinh tế, họ cho rằng các quy luật khách quan chi phối hoạt động con người. Trường phái này tin tưởng thuyệt đối vào quy luật tự nhiên và tính hơn hẳn của nông nghiệp. Đại biểu xuất sắc 19 lOMoARcPSD|12184112 nhất của trường phái trọng nông là Kênê. Kênê đã xây dựng lý thuyết về “Trật tự tự nhiên”. Theo Kênê, có hai loại quy luật tự nhiên: Quy luật vật lý tác động trong lĩnh vực tự nhiên và quy luật luân lý tác động trong lĩnh vực kinh tế. Quy luật kinh tế cũng tác động tất yếu như tác động vật lý. Họ kêu gọi nên tuân theo quyền tự nhiên và trật tự tự nhiên, đó là quyền chính đáng và tối cao cơ bản. Đối lập với quyền tự nhiên là quyền lập pháp đem lại. Chủ nghĩa trọng nông Pháp phủ nhận vai trò của nhà nước, cho rằng chính quyền nên để nông dân tự lựa chọn đất đai, cây trồng, phương pháp canh tác, tự do cạnh tranh và hoạt động, tự do trao đổi của cải sản xuất được tùy theo lợi ích cá nhân họ. Nhà nước nên tránh can thiệp vào các hoạt động của các cá nhân của dân chúng, vì sự can thiệp này làm sai lệch trật tự tự nhiên, mà trật tự tự nhiên bao giờ cũng coi là hoàn hảo. Theo họ tự do hoạt động kinh doanh thực sự phải dựa trên cơ sở: “Con người phải được quyền sở hữu bản thân mình, sở hữu các bất động sản tức là có quyền chiếm đoạt các sản nghiệp, cũng giống như quyền của con chim én đói với tất cả con ruồi nhỏ đang bay trong không khí”. Họ thừa nhận vai trò tự do của con người, coi đó là luật tự nhiên của con người, không thể thiếu được. Tuy nhiên, để tự do của người này không xâm phạm vào quyền tự do của người khác, cần phải có nhà nước và sự bảo vệ của nó bằng luật pháp. Do đó, tư hữu - an sinh - tự do là nền tảng của một trật tự xã hội đầy đủ. Tư tưởng tự do kinh tế này được tiếp tục phát triển trong tác phẩm nghiên cứu về “Nguyên nhân và bản chất giàu có của các dân tộc”, lý thuyết về “Con người kinh tế” và “Bàn tay vô hình” của Adam Smith. Học thuyết của Adam Smith nghiên cứu sâu sắc về ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chống lại sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Thuyết “Bàn tay vô hình” là học thuyết chủ đạo của Adam Smith về tư tưởng tự do kinh tế. Theo ông trong kinh doanh, các thực thể kinh tế (Con người kinh tế, doanh nghiệp, ...), luôn chịu chi phối bởi “bàn tay vô hình” và chịu tác động bởi lợi ích các nhân. Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế; cần thiết phải có sự tự do sản xuất, tự do liên doanh, liên kết, tự do mậu dịch. Adam Simth đề cao vai trò tác nhân, ủng hộ sự tư hữu tư nhân, ca ngợi cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường. Theo ông, lợi ích cá nhân là động lực cho cá nhân và cả xã hội phát triển. Để bàn tay vô hình hoạt động, cần cho các nhân sở hữu các điều kiện vật chất cho sản xuất (người lao động sở hữu bản thân, tức tự do thân thể, nhà kinh doanh sở hữu các động sản và bất động sản...), nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, mà chỉ như “Người lính canh gác đêm” bảo vệ chế độ tư hữu và giữ gìn trật tự an sinh xã hội. Tư tưởng tự do kinh tế của A. Smith được Ricardo tiếp tục kế thừa và phát triển ra những quy luật kinh tế và tôn trọng tự do kinh tế. Tư tưởng nêu trên được đề cập trong tác phẩm “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giàu có của các dân tộc”, sau này được LeonWalras tiếp tục trong lý thuyết “cân bằng tổng quát”. 20 lOMoARcPSD|12184112 II. Tư tưởng tự do kinh tế trong các học thuyết kinh tế 1. Trường phái cổ điển Anh 1.1. Lý thuyết của W.Petty - Công lao to lớn của W.Petty là ở chỗ, ông là người đầu tiên xây dựng học thuyết về giá trị lao động. W.Petty đã có nhận xét đúng đắn khi vạch rõ vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị, tức nguồn gốc thật sự của của cải. Chỉ riêng điều này có thể nói ông là người khai sinh ra lý luận giá trị lao động. - Khi nghiên cứu về giá trị lao động, ông dùng thuật ngữ "giá cả" và chia thành "giá cả chính trị" và "giá cả tự nhiên". Theo ông, giá cả tự nhiên do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa quyết định. Như vậy, W.Petty đã hiểu đúng giá trị - lao động với thuật ngữ "giá cả tự nhiên" và có giá cả chính trị chính là giá cả thị trường, nó thường thay đổitheo những điều kiện chính trị, do đó khó hiểu rõ được nó. - W.Petty cũng đã thấy được mối quan hệ giữa năng suất lao động với "giá cả tự nhiên", nó tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Ông đã so sánh khối lượng lao động hao phí để sản xuất lúa mì. Nếu năng suất lao động sản xuất ra bạc tăng lên thì giá trị của nó giảm. Ông có đề cập đến lao động giản đơn và lao động phức tạp, so sánh lao động trong thời gian dài, lấy năng suất lao động trung bình của nhiều năm để loại trừ tình trạng ngẫu nhiên. Nhưng ông vẫn lẫn lộn chưa phân biệt được mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và lao động tạo ra giá trị. - Tuy nhiên, ông còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương khi cho rằng chỉ có lao động khai thác bạc (tiền tệ) mới tạo ra giá trị, lao động trong các ngành khác chỉ tạo nên của cải khi so sánh với lao động tạo ra tiền. Theo ông giá trị của hàng hóa là sự phản ánh giá trị của tiền, giống như ánh sáng Mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng Mặt trời vậy. Ông còn cho rằng lao động thương nghiệp có năng suất cao hơn nông nghiệp và ngành thương nghiệp là ngành kinh tế có lợi nhất. Đồng thời W.Petty đã đưa ra nguyên lý nỗi tiếng "Lao động là cha và đất là mẹ của của cải". Mặc dù phát triển này tạo ra sự thừa nhận đầu tiên và sâu sắc về hai "yếu tố nguyên thủy trong sản xuất", nhưng ít có giá trị phân tích. Chắc chắn nó không tạo ra thuyết giá trị. Quan trọng hơn là nguyên cứu của W.Petty nhắm vào việc phát hiện "sự ngang hàng tự nhiên" giữa đất đai và lao động với nhau bằng việc xác định cần phải có bao nhiêu đất để sản xuất "lương thực cho một người trong một ngày", xem giá trị của sản lượng như thế ngang bằng với giá trị lao động trong một ngày. Mục đích trong nỗ lực của W.Petty là phải hình thành một đơn vị đánh giá qua đó nhằm giảm bớt số lượng giá trị của hai yếu tố, đất đai và lao động, với số lượng đồng nhất của "sức sản xuất" sau đó dùng những tiêu chuẩn giá trị tuyệt đối, nỗ lực này cũng chứng tỏ là ngõ cụt phân tích, nhưng tạo cảm hứng cho Cantillon tiến hành những nghiên cứutheo cùng hướng. 1.2. Lý thuyết của A.Smith Adam Smith cho rằng "Bàn tay vô hình" có nghĩa là: Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân tham gia muốn tối đa hóa lợi nhuận cho mình. Ai cũng muốn thế cho nên vô hình chung đã thúc đẩy sự phát triển và củng cố lợi ích cho cả cộng đồng. 21 lOMoARcPSD|12184112 Ông dùng thuật ngữ này mô tả khả năng của cơ chế thị trường trong việc điều chỉnh cung cầu trên thị trường. Và ví sức mạnh của cơ chế thị trường như bàn tay vô hình định hướng người bán và người mua, phân bố nguồn lực kinh tế đạt được hiệu quả xã hội lớn nhất mà không cần sự can thiệp của Chính phủ. Ví dụ: + Ông chỉ ra rằng nếu để cánh lái buôn tự cạnh tranh với nhau, thị trường sẽ vận hành một cách suôn sẻ như thể có một bàn tay vô hình dẫn dắt. Nếu có người bán hàng rẻ hơn bạn, khách sẽ tự động mua của họ, do đó bạn sẽ phải hạ giá hoặc bán thứ khác tốt hơn. + Trong quy luật cung cầu của thị trường là vấn đề kiểm soát giá của các loại hàng hóa. Khi giá cả không được tự do định đoạt bởi quy luật cung cầu hoặc bị ngăn cản ở mức “arm’s length” (thuận mua vừa bán) thì mặc nhiên sẽ hình thành nên một thị trường ngầm mà người ta quen gọi là thị trường “chợ đen”, vượt hoàn toàn ra khỏi ý chí của bất cứ cơ quan có thẩm quyền nào. Học thuyết “bàn tay vô hình” nghiên cứu cơ chế hoạt động của thị trường cạnh tranh và nó cũng phản ánh quan điểm chung của các nhà kinh tế học cổ điển A. Smith, một chế độ kinh tế bình thường phải dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi hàng hóa và một nền kinh tế hàng hóa bình thường phải dựa trên cơ sở tự do cạnh tranh. Ngược lại thì chỉ là sản phẩm của ngẫu nhiên, độc đoán và ngu dốt của con người. Bàn tay vô hình thực chất chính là sự hoạt động khách quan của các quy luật kinh tế, chi phối hoạt động của các chủ thể kinh tế. Các điều kiện cần thiết để cho các quy luật hoạt động là: - Sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hòa và trao đổi hàng hóa - Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế: tự do sản xuất, tự do liên doanh, liên kết, tự do mậu dịch. Rõ ràng, quy luật tự nhiên mạnh hơn suy nghĩ chủ quan của Nhà nước. Từ đây ta có thể thấy xu hướng ca ngợi “bàn tay vô hình” của Adam Smith, ông luôn kêu gọi Chính phủ không can thiệp quá sâu vào thị trường. Tuy nhiên, vì vô tư nên bàn tay vô hình cũng dễ bị lợi dụng. Người ta đã tạo ra những trạng thái giả tạo, bằng những hiện tượng thiếu hụt hàng hóa tại một thời điểm, một địa phương nào đó, làm cho giá cả gia tăng đề trục lợi hoặc dùng những biện pháp hành chính ngăn cản những dòng hàng hóa vận hành theo quy luật cung cầu, làm cho giá cả biến động, thị trường bị méo dạng, hay đặt ra chính sách đối xử bất bình đẳng đối với mặt hàng, nguồn gốc xuất xử, đối tượng tham gia..ư vậy bàn tay vô hình sẽ bị lừa, sẽ vận hành một cách khập khễnh, từ đó một yêu cầu vô cùng chính đáng đặt ra là Nhà nước phải tham gia vào thị trường với mục tiêu là: gỡ bỏ rào cản, loại bỏ những yếu tố làm biến dạng thị trường, hướng dẫn sản xuất. Thuyết của Smith chống lại tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương (yêu cầu có sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế), thuyết này đòi hỏi việc tự do kinh doanh và cạnh tranh, có sự thích hợp với chủ nghĩa tư bản trong một thời kì dài. 22 lOMoARcPSD|12184112 1.3. Lý thuyết của D.Ricardo - Mặc dù không có lý thuyết riêng và nổi bật về cơ chế thị trường hay vai trò của Nhà nước nhưng nhìn chung ông ủng hộ quan điểm của A.Smith về cơ chế thị trường tự do. Đồng tình với A.Smith, ông cũng cho rằng nhà nước chỉ cần thực hiện các vai trò bảo vệ sở hữu tư bản, bảo đảm các yếu tố bên ngoài mà không can thiệp vào các hoạt động kinh tế của tư nhân. Ông ví nhà nước chỉ là người “trông vườn”. Quan điểm của ông về cơ chế thị trương và nhà nước được thể hiện rõ nhất trong lí thuyết tiền tệ. Từ quan niệm thuyết số lượng tiền, ông mở rộng cơ chế tự do trong trao đổi quốc tế. - Theo ông nếu một nước lúc đầu nhiều tiền sẽ làm cho giá cả hàng hóa tăng. Điều đó kích thích nhập khẩu. Khi nhập khẩu tăng lượng tiền trong nước giảm nên sẽ hạn chế nhập khẩu. Ngược lại, nếu lúc đầu lượng tiền ít, giá cả hàng hóa giảm nên kích thihcs xuất khẩu. Khi xuất khẩu tăng, lượng tiền trong nước tăng do đó giá cả hàng hóa tăng và sẽ giảm xuất khẩu. Như vậy cơ chế thị trường tự do sẽ tự động điều tiết xuất nhập khẩu mà không cần có sự vào cuộc của nhà nước. 2. Trường phái cổ điển Pháp (trường phái trọng nông) - Chủ nghĩa trọng nông phê phán gay gắt những tư tưởng kinh tế phiến diện của trường phái trọng thương, cho rằng không phải “phi thương bất phú”, với lý do: hoạt động thương nghiệp chỉ hoạt động phục vụ tiêu dùng chứ không làm tăng thêm giá trị, nghĩa là không đem lại giàu có cho xã hội. Vì vậy trường phái trong nông cho rằng phi nông nghiệp mới là bất hủ, vì chính ngành nông nghiệp trực tiếp sản xuất ra lương thực, thực phẩm- của cải vật chính yếu- nguồn gốc của sự giàu có. - Phần quan trọng của học thuyết này là tư tưởng rằng nhà nước không nên can thiệp vào quá trình kinh tế. Nhà nước chỉ đặt ra các điều luật cần thiết phù hợp với “quy luật tự nhiên” và sau đó các chức năng của nhà nước sẽ phai mờ dần. - Chủ nghĩa trọng nông là tư tưởng kinh tế đầu tiên đề ra quy luật “sự giảm dần sản phẩm đất đai” theo đó sự tăng thêm lao động vào đất sẽ dẫn đến một giới hạn mà sau đó sự giảm dần năng suất lao động. Đó là cơ sở quy luật năng suất biên giảm dần, phổ biến trong các học thuyết kinh tế hiện đại. - Trường phái trọng nông đã nêu ra những ý tưởng về việc phát triển ngành kinh tế nông nghiệp phải có sự quan tâm của nhà nước để họ yên tâm làm ăn trên đồng ruộng và có tích lũy đầu tư cho phát triển nông nghiệp, đồng thời cũng nêu vấn đề thay đổi hoạt cá thể riêng lẻ trong làm ăn nông nghiệp bằng việc tập trung đất đai để xây dựng thành các đồn điền, đưa nông nghiệp đi vào làm ăn lớn để chuyển từ nông nghiệp tiểu nông mang tính chất phong kiến sang nền nông nghiệp theo kiểu tư bản chủ nghĩa để có năng suất lao dộng nông nghiệp ngày càng cao, lương thực thực phẩm ngày càng sản xuất ra được nhiều hơn, đem lại sự giàu có cho đất nước. Qua đó ta có thể thấy chủ nghĩa trọng nông chống lại tất cả những đặc quyền về thuế, đem lại sự giàu có cho đất nước. 23 lOMoARcPSD|12184112 III. Sự phát triển của các học thuyết kinh tế - Trường phái kinh tế học cổ điển Anh là một trong những xu hướng tư tưởng kinh tế tiến bộ, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát triển các luận thuyết kinh tế. Nhiều quan điểm chủ đạo của trường phái này vẫn còn lưu giữ ý nghĩa đến tận ngày nay. - Người đề xướng ra tư tưởng tự do kinh tế bắt đầu là các nhà kinh tế tư sản cổ điển, bắt đầu là Wiliam Petty thừa nhận và tôn trọng các quy luật kinh tế, kết quả được đưa ra hệ phụ thuộc nhân quả giữa các hiện tượng. - Trong cuốn “Trong cuộc sống và trong kinh tế” Petty viết: phải tính đều những quá trình tự nhiên, không nên dùng hành động để cưỡng bức lại quá trình đó, thừa nhận quá trình tự do cá nhân và đổi tự do cạnh tranh. - Tư tưởng tự do kinh tế được tiếp tục tăng trong tác phẩm nghiên cứu về “nguyên nhân và bản chất giàu có của các dân tộc” của Adam.Simth. lý thuyết về con người kinh tế và bàn tay vô hình của Adam.Smith đã chứng tỏ các quy luật kết quả tự điều tiết nền kinh tế mà không cần có sự can thiệp của nhà nước. - Thuyết của Adam Smith chống lại tư tưởng chủ nghĩa trọng thương (yêu cầu có sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế) là mầm mống cho đòi hỏi được tự do kinh doanh, có sự thích hợp với chủ nghĩa tư bản trong một thời kì dài. Ông cho rằng chính sách kinh tế phù hợp với trật tự tự nhiên là do cạnh tranh. - David Ricardo tiếp tục lí luận của Adam.Smith phát hiện ra những quy luật kinh tế và tự do kinh tế. Ông đã kế thừa và phát triển lý thuyết của A.Smith như K.Marx nhận xét “so với A.Smith thì Ricardo đã đi xa hơn nhiều”. IV. Lập luận về tính hợp lí - Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa có cơ bản và toàn diện, nhưng là bước mở đầu có ý vô cùng quan trọng. - Bước lên từ nền kinh tế phong kiến lạc hậu, trì trệ, lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nước khóc liệt, nền kinh tế nước ta vốn lạc hậu lại càng thêm kiệt quệ bởi chiến tranh. Vào thời bình, bắt đầu từ cơ sở kinh tế lạc hậu, trì trệ đó, nước ta xây dựng nền kinh tế hóa tập trung. Cũng nhờ nên kinh tế thị trường mà CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế thị trường, quản lý xã hội và nâng cao năng suất lao động. - Khi nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển, ta thấy được rằng nên có được sự tự do kinh tế để có thể đề cao vai trò của thị trường, chống lại sự can thiệp của Nhà nước. 24 lOMoARcPSD|12184112 - Những niềm tin cơ bản đã tạo nên các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế tự do (trước hết và quan trọng nhất) bao gồm: cạnh tranh kinh tế tạo thành một "trật tự tự nhiên" thống trị thế giới. - Bởi vì sự điều chỉnh tự nhiên này là loại qui định tốt nhất, các nhà kinh tế theo chủ nghĩa tự do kinh tế cho rằng không cần phải phức tạp hóa các vấn đề kinh doanh và công nghiệp do sự can thiệp của chính phủ. Tài liệu tham khảo 1. Website: h ttps://baochinhphu.vn/cong-nghiep-sau-gan-30-nam-doi-moi- 102168544.htm 2. Website: tuc/Nhung-noi-bat-cua-nganh-nong-nghiep-Viet-Nam-qua-35-nam-doi- moi.aspx 3. Website: dang/-/2018/21694/nhung-thanh-tuu-co-ban-ve-phat-trien-kinh-te---xa-hoi-cua- viet-nam-tu-khi-doi-moi-den-nay.aspx 4. Website: tai-chinh?dDocName=MOFUCM098068 5. Website: va-doi-moi-chinh-tri-phan-1.html 6. Website: nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-mot-so-van-de- ly-luan-va-thuc-tien.html 25 lOMoARcPSD|12184112
File đính kèm:
- tieu_luan_phan_tich_thanh_tuu_cua_doi_moi_kinh_te_o_viet_nam.pdf