Tiểu luận Phân tích việc nhà nước cho đầu tư vào lĩnh vực Y tế - Giáo dục ngoài công lập
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Phân tích việc nhà nước cho đầu tư vào lĩnh vực Y tế - Giáo dục ngoài công lập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Phân tích việc nhà nước cho đầu tư vào lĩnh vực Y tế - Giáo dục ngoài công lập
LỜI MỞ ĐẦU & Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy con người là vốn quý nhất. Bên cạnh nguồn tài nguyên thiên nhiên, tiềm lực kinh tế thì chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển nhanh và bền vững của toàn cầu cũng như của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, công tác dân số luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, coi đó là bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của quốc gia, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội. Mục tiêu nâng cao chất lượng dân số vì vậy được coi là “chính sách cơ bản của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước”1. Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất, văn hóa và mọi nền văn minh của các quốc gia và đã khẳng định: “con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta” Văn kiện Hội nghị lần thứ tư BCH Trung Đảng khóa VII. Tr.5. . Đảng đã chỉ rõ: “Chỉ có thể tăng trưởng nguồn lực con người khi quá trình hiện đại hóa các ngành giáo dục, văn hóa văn nghệ, bảo vệ sức khỏe, dân số - kế hoạch hóa gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc” Chiến lược-Kế hoạch- Chương trình đầu tư phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam đến năm 2010. NXB Thống kê. . Là 1 một của công tác dân số - công tác giáo dục và y tế của cả nước còn có nhiều vấn đề cần phải chú ý. Khi xã hội phát triển, đồng nghĩa với nhu cầu của người dân của nước đó cũng sẽ cao hơn. Họ có nhu cầu học tập và nhu cầu được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cao hơn, chính vì thế đã làm tăng sự quá tải trong hệ thống giáo dục – y tế công lập. Khi mà hệ thống này của nước ta ngày càng thiếu cả về cơ sở vật chất và đội ngũ phục vụ. Điều này nếu không được giải quyết một cách thỏa đáng sẽ gây ra nhiều vấn đề bất cập trong xã hội, từ đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển chung cho cả nước theo định hướng của XHCN. Nhận thấy được điều đó, Nhà nước XHCN Việt Nam đã không ngừng khuyến khích việc mở rộng các cơ sơ ngoài công lập cho các ngành nghề nói chung, cũng như cho lĩnh vực giáo dục và y tế nói riêng, nhằm thỏa mãn nhu cầu bức thiết của xã hội. MỤC LỤC CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN trang LỢI ÍCH KINH TẾ Xà HỘI. 4 Lợi ích kinh tế xã hội 4 2.Mục tiêu và tác dụng của nghiên cứu kinh tế - xã hội và môi trường 4 SỰ KHÁC NHAU GIỮA NGHIÊN CỨU TÀI CHÍNH VÀ NGHIÊN CỨU KINH TẾ Xà HỘI5 1.Về mặt quan điểm...5 2.Về mặt tính toán.5 III. CÁC CHỈ TIÊU XÁC ĐỊNH ẢNH HƯỞNG CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN...6 Vấn đề tạo công ăn việc làm của dự án.6 Tác động điều thiết thu nhập.7 Khả năng cạnh tranh quốc tế.7 ẢNH HƯỞNG CỦA DỰ ÁN ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG SINH THÁI.8 Ảnh hưởng tích cực ...8 Ảnh hưởng tiêu cực8 CƠ SỞ NGOÀI CÔNG LẬP – CÁC HÌNH THỨC CƠ SỞ NGOÀI CÔNG LẬP8 Chương II: KHẢO SÁT TÌNH HÌNH GIÁO DỤC VÀ Y TẾ TẠI VIỆT NAM 1. Tổng quan về nền kinh tế VN qua các chỉ số phát triển .........10 2. Thực trạng giáo dục Việt Nam..11 3. Thực trạng y tế tại Việt Nam.........15 4. Sự cần thiết của việc đầu tư vào các lĩnh vực giáo dục- y tế ngoài công lập.16 5. Hạn chế của đầu tư vào hệ thống giáo dục và y tế ngoài công lập.17 KẾT LUẬN...23 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN I. LỢI ÍCH KINH TẾ Xà HỘI 1. Lợi ích kinh tế xã hội: Lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường là một phạm trù kinh tế tương đối.Một mặt nó phản ánh lợi ích trên phạm vi toàn xã hội,toàn bộ nền kinh tế quốc dân,mặc khác nó phản ánh lợi ích từng mặt kinh tế,xã hội và môi trường,đồng thời có mối quan hệ thống nhất và mâu thuẫn giữa ba mặt đó trong từng thời gian nhất định Chủ đầu tư bỏ vốn để thực hiện dự án đầu tư,mục tiêu chủ yếu là thu được nhiều lợi nhuận.Khả năng sinh lời của dự án là thước đo chủ yếu để thu hút các nhà đầu tư,mức sinh lợi càng cao thì độ hấp dẫn càng lớn.Tuy nhiên không phải lúc nào dự án đầu tư cũng có khả năng sinh lời lớn và mức an toàn tài chính cao đều có lợi ích kinh,xã hội và môi trường cao.Phân tích kinh tế xã hội và môi trường của dự án đầu tư là phải xem xét những lợi ích xã hội được thụ hưởng là gì?Đó chính là sự đáp ứng của đối với mục tiêu chung của xã hội và nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư,xã hội cũng phải đóng góp hoặc bỏ ra chi phí.Như vậy lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường là phần chênh lệch giữa lợi ích được dự án đầu tư tạo ra so với cái giá mà xã hội phải trả.Phần chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả kinh tế - xã hội ngày càng cao.Các lợi ích - xã hội và môi trường có thể là lợi ích định lượng được như mức gia tăng sản phẩm,mức tăng thu nhập quốc dân,sử dụng lao động,tăng thu ngân sáchcũng có thể không định lượng được như sự phù hơp của dự án đầu tư với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội,những lĩnh vực ưu tiênChính vì vậy việc tính toán và đo lường các chỉ tiêu kinh tế-xã hội và môi trường phải có phương pháp luận đúng đắn với những thông số được lựa chọn hợp lý,đảm bảo độ tin cậy cao,tránh sai sót có thể xảy ra. 2. Mục tiêu và tác dụng của nghiên cứu kinh tế - xã hội và môi trường: * Mục tiêu: Thông qua xác định những lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường do dự án đầu tư mang lại mà xác định cụ thể vị trí của dự án đầu tư trong kế hoạch kinh tế quốc dân,tính phù hợp của dự án với mục tiêu. Đảm bảo độ tin cậy của dự án đầu tư thông qua việc sử dụng đúng đắn cơ sở lý thuyết và sự đóng góp thiết thực của dự án vào lợi ích chung của toàn xã hội. Góp phần đảm bảo công bằng xã hội,bảo vệ môi trường khi thực hiện dự án đầu tư. * Tác dụng: Đối với nhà đầu tư:Phần phân tích kinh tế - xã hội là căn cứ chủ yếu để nhà đầu tư thuyết phục các cơ quan có thẩm quyền chấp thuận dự án và thuyết phục các ngân hang cho vay. Đối với Nhà nước:Là căn cứ chủ yếu để quyết định có cấp giấy phép đầu tư hay không. Đối với các Ngân hàng,các cơ quan viện trợ song phương,đa phương:Là căn cứ chủ yếu để họ quyết định có tài trợ vốn hay không.Các ngân hang quốc tế rất nghiêm ngặt trong vấn đề này.Nếu không chứng minh được các lợi ích kinh tế - xã hội thì họ không tài trợ. II. SỰ KHÁC NHAU GIỮA NGHIÊN CỨU TÀI CHÍNH VÀ NGHIÊN CỨU KINH TẾ Xà HỘI 1. Về mặt quan điểm: Nghiên cứu tài chính chỉ mới xét trên tầng vi mô,còn nghiên cứu kinh tế xã hội xét trên tầng vĩ mô. Nghiên cứu tái chính mới xét trên góc độ của nhà đầu tư,còn nghiên cứu kinh tế xã hội phải xuất phát từ quyền lợi của toàn xã hội. Mục đích của nhà đầu tư là tối đa lợi nhuận,thể hiện trong nghiên cứu tài chính,còn mục tiêu chủ yếu của xã hội là tối đa phúc lợi sẽ phải được thể hiện trong nghiên cứu kinh tế - xã hội. 2. Về mặt tính toán: a) Thuế: Các loại thuế mà dự án có nghĩa vụ phải nộp cho nhà nước là một khoản chi phí đối với nhà đầu tư thì nó lại là một khoản thu nhập đối với ngân sách quốc gia,đối với nền kinh tế quốc dân.Việc miễn giảm thuế ưu đãi,khuyến khích nhà đầu tư lại là một sự hy sinh của xã hội,một khoản chi phí mà xã hội phải gánh chịu.Mặt khác thuế chiếm một phần trong giá.Người tiêu thụ phải trả các khoản thuế chứa đựng trong giá của hàng hóa.Chính phủ là người thu các khoản thuế này để tái đầu tư hoặc chi dung vào các việc chung.Vì vậy,xét trên phạm vi toàn thể cộng đồng thì hai khoản này triệt tiêu nhau,nó không tạo ra hoặc mất đi một giá trị nào cả. Tuy nhiên khi tính toán thu nhập thuần trong nghiên cứu tài chính đã trừ đi các khoản thuế,như là các khoản chi bây giờ trong nghiên cứu kinh tế - xã hội phải cộng lại các khoản thuế này để xác định giá trị gia tăng cho xã hội mà dự án mang lại. b) Lương: Lương và tiền công trả cho người lao động là một khoản chi của nhà đầu tư nhưng lại là một lợi ích mà dự án mang lại cho xã hội.Trong nghiên cứu tài chính coi lương và tiền công là chi phí thi nay trong nghiên cứu kinh tế- xã hội coi lương là thu nhập. Trên thực tế tiền lương,tiền công trả cho người lao động chưa phải là thước đo chính xác giá trị sức lao động mà người lao động bỏ ra.Nói cách khác tiền lương,tiền công tính trong nghiên cứu tài chính là đồng tiền chi thực,nhưng trên bình diện xã hội thì nó không phản ánh được giá trị lao động đóng góp cho dự án.Vì vậy ở nhiều nước trong nghiên cứu kinh tế- xã hội thường sử dụng khái niệm”lương mờ”.Tại một số nước tiên tiến,sử dụng lý thuyết cận biên để xác định tiền lương.Có những nước dung phương pháp điều chỉnh đơn giản như sau: + Đối với người có lao động chuyên môn:Để nguyên như trong phân tích tài chính. + Đối với lao động không có chuyên môn:Chỉ tính 50% Ở nước ta hiện nay chưa có quy định về vấn đề này,tạm thời để tham khảo cách tính của các nước.Trong nghiên cứu tài chính đã xem tiền lương,tiền công là một khoản chi,thì trong nghiên cứu kinh tế - xã hội phải là khoản thu. c) Các khoản nợ: Việc trả nợ vay(nợ gốc) là các hoạt động thuộc nghiệp vụ tín dụng,là sư chuyển giao quyền sử dụng vốn từ người này sang người khác mà không làm tăng hoặc giảm thu nhập quốc dân.Trong nghiên cứu tài chính đã trừ đi các khoản trả nợ thì nay trong nghiên cứu kinh tế-xã hội phải cộng vào,khi tính các giá trị gia tăng. d) Trợ giá,bù giá: Là hoạt động bảo trợ của nhà nước đối với một số loại sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.Đây là một loại chi phí kinh tế mà cả xã hội phải gánh chịu đối với việc thực hiện dự án.Như vậy trong tính toán kinh tế xã hội phải trừ đi các khoản nợ,bù giá nếu có. e) Giá cả:- Trong nghiên cứu tài chính giá cả được lấy theo giá thị trường,ảnh hưởng đến các khoản thực thu,thực chi của xí nghiệp và nhà đầu tư.Tại những nước có chính sách bảo hộ mậu dịch,thuế ưu đãi,lãi suất trợ cấpthì giá thị trường ngày càng bóp méo,khác biệt với giá trị đích thực của hàng hóa.Vì vậy lợi nhuận tính trong nghiên cứu tài chính không phản ánh đúng đắn mức lời,lỗ của cả đất nước.Khi nghiên cứu kinh tế xã hội cần phải loại bỏ những méo mó nói trên của giá cả,phải sử dụng giá phản ánh được giá trị thực của hàng hóa.Giá này không tồn tại được trong thế giới thực nên được goi là”giá mờ”. Việc nghiên cứu tiền lương nói trên cũng thuộc phạm vi “giá mờ”,vì tiền kương cũng chính là giá cả của sức lao động.Việc xác định “giá mờ”hiện nay rất khó khăn.Nhà nước ta chưa có quy định gì về mặt này,cần phải có công trình nghiên cứu chuyên đề kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn mới giải quyết được.Vì vậy hiện nay về phương diện giá cả nhất là giá cả các tài nguyên được sử dụng trong dự án trong tính toán có thể tham khảo các tính toán của các nước. III. CÁC CHỈ TIÊU XÁC ĐỊNH ẢNH HƯỞNG CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN 1. Vấn đề tạo công ăn việc làm của dự án: Để đánh giá hiệu quả về tạo công ăn việc làm của dự án, chúng ta cần sử dụng hai nhóm chỉ tiêu hiệu quả sau đây: Nhóm 1: Nhóm hiệu quả tuyệt đối bao gồm các chỉ tiêu: Tổng số lao động lành nghề cần thiết cho dự án. Tổng số lao động không lành nghề cần thiết cho dự án Tổng số lao động (lành nghề và không lành nghề) cần thiết cho dự án. Tổng số lao động lành nghề cần thiết của dự án liên quan tăng lên (hoặc giảm đi) do dự án mới ra đời. Tổng số lao động không lành nghề cần thiết của dự án liên quan tăng lên (hoặc giảm đi) do dự án mới ra đời. Tổng số lao động (lành nghề và không lành nghề) cần thiết cho các dự án liên quan tăng lên (hoặc giảm đi) do dự án mới ra đời. Tổng số lao động lành nghề tăng lên nói chung. Tổng số lao động (lành nghề và không lành nghề) tăng lên nói chung. Nhóm 2: Nhóm hiệu quả tương đối bao gồm các chỉ tiêu phản ánh số việc làm được tạo ra trên một đơn vị vốn đầu tư bao gồm: Suất việc làm trực tiếp cho lao động lành nghề trên một đơn vị vốn đầu tư. Suất việc làm trực tiếp cho lao động không lành nghề trên một đơn vị vốn đầu tư. Suất việc làm trực tiếp cho lao động lành nghề hoặc không lành nghề trên một đơn vị vốn đầu tư. Suất việc làm gián tiếp cho lao động lành nghề hoặc không lành nghề trên một đơn vị vốn đầu tư. Suất việc làm cho toàn bộ lao động lành nghề và không lành nghề trên một đơn vị vốn đầu tư. 2. Tác động điều thiết thu nhập: Một dự án đầu tư ra đời đóng góp cho nền kinh tế quốc dân bằng giá trị gia tăng của mình và giá trị gia tăng của các dự án có liên quan. Phần giá trị gia tăng đó sẽ được phân bố cho các nhóm đối tượng khác nhau như những người làm công ăn lương, những người hưởng lợi nhuận, Nhà nước, các quỹ dự trữ và phát triển của doanh nghiệp hoặc sẽ được phân phối theo các vùng khác nhau. Chính việc phân phối này sẽ tạo nên những ảnh hưởng của dự án đối với các mối quan hệ về thu nhập trong xã hội và từ đó sẽ có những tác động đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Hai dự án tạo ra hàng năm cùng một lượng giá trị gia tăng như nhau nhưng sẽ tạo ra những ảnh hưởng khác nhau nếu như việc phân phối giá trị gia tăng đó có khác nhau. Như vậy, cơ cấu phân phối giá trị gia tăng của dự án là yếu tố quyết định đến sự tác động điều tiết thu nhập. Cơ cấu này được thể hiện qua 2 loại chỉ tiêu: Chỉ tiêu tuyệt đối: Được xác định phần giá trị giá trị gia tăng phân phối hàng năm cho các nhóm đối tượng khác nhau. Chỉ tiêu tương đối: Được xác định bằng tỷ trọng giá trị gia tăng phân phối hàng năm cho từng nhóm đối tượng trên tổng giá trị gia tăng thực hàng năm. 3. Khả năng cạnh tranh quốc tế Để đánh giá khả năng cạnh tranh quốc tế cần đề cập đến khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của sản phẩm, lợi ích ngoại tệ thu được của dự án, chi phí ngoại tệ của dự án và chi phí để sản xuất cho xuất khẩu. Chỉ tiêu xác định khả năng cạnh trạnh quốc tế của dự án là tỷ lệ cạnh tranh quốc tế IC. Nó bằng giá trị hiện tại lãi ngoại tệ (PVFE) chia cho giá trị hiện tại của chi phí cho việc xuất khẩu (PWC). IV. ẢNH HƯỞNG CỦA DỰ ÁN ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG SINH THÁI 1. Ảnh hưởng tích cực có thể kế đến: Tạo thêm nguồn nước sạch cho người và sinh vật. Tạo thêm cây xanh làm trong sạch không khí và dịu mát. Cải thiện điều kiện vệ sinh, y tế. Làm đẹp thêm cảnh quan, tôn tạo vẻ đẹp của thiên nhiên. 2. Ảnh hưởng tiêu cực: Làm thay đổi điều kiện sinh thái, mất cân bằng sinh thái, làm khô cạn các nguồn nước tiêu diệt các sinh vật Gây ô nhiễm môi trường. Đây là trường hợp hay gặp nhất, đặc biệt đối với các dự án công nghiệp: làm bẩn, nhiễm độc không khí, các nguồn nước, nhất là mặt đất, đất đai, gây ồn ào cho các khu dân cư. Mức độ ô nhiễm môi trường được đánh giá bằng các thiết bị do riêng cho từng loại. Các chỉ tiêu quy định cho phép về độ ô nhiễm đã được Nhà nước ban hành. Những dự án nào vi phạm các quy định này sẽ bị loại bỏ. Trong khi lập dự án cần phải xem xét đến mức độ ảnh hưởng xấu đến môi trường; nguyên nhân, đề xuất các giải pháp khắc phục và chi phí cần thiết cho việc bảo vệ môi trường. V. CƠ SỞ NGOÀI CÔNG LẬP – CÁC HÌNH THỨC CƠ SỞ NGOÀI CÔNG LẬP Nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao trong sự phát triển về vật chất và tinh thần của nhân dân, cùng với việc củng cố các tổ chức công lập, Nhà nước khuyến khích phát triển rộng rãi các cơ sở ngoài công lập phù hợp với quy hoạch của Nhà nước trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, hoạt động không theo mục đích thương mại hoá (dưới đây gọi là cơ sở ngoài công lập). Nhà nước và xã hội coi trọng và đối xử bình đẳng đối với các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở ngoài công lập như các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở công lập. Các cơ sở ngoài công lập cũng có một phần trách nhiệm thu nhận và cung cấp dịch vụ cho các đối tượng chính sách xã hội như các cơ sở công lập. Nhà nước khuyến khích các tổ chức và cá nhân huy động các nguồn lực trong nhân dân và trong các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế để phát triển các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao theo đúng quy định của pháp luật. Theo nghị định Về chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập- Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Căn cứ Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18 tháng 04 năm 2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao; Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Cơ sở ngoài công lập là cơ sở do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân, nhóm cá nhân hoặc cộng đồng dân cư thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tự bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước và hoạt động theo quy định của pháp luật. Cơ sở ngoài công lập được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, khoa học - công nghệ, môi trường, xã hội, dân số, gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em. Cơ sở ngoài công lập được thành lập theo quy định của pháp luật có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng. Cùng với việc củng cố các cơ sở công lập, Nhà nước khuyến khích phát triển các cơ sở ngoài công lập, đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vốn và huy động các nguồn lực trong nhân dân, của các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế để thành lập, xây dựng và phát triển các cơ sở ngoài công lập phù hợp với định hướng phát triển của nhà nước. Các hình thức ngoài công lập: Bán công: Là cơ sở được thành lập trên cơ sở liên kết giữa tổ chức Nhà nước với các tổ chức không phải tổ chức Nhà nước, thuộc mọi thành phần kinh tế hoặc các cá nhân theo các phương thức: thành lập mới, chuyển toàn bộ hoặc một phần từ đơn vị công lập để cùng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, quản lý, điều hành mọi hoạt động theo quy định cuả pháp luật. Dân lập: Là cơ sở do tổ chức đứng ra thành lập, được đầu tư bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước (vốn của tổ chức, tập thể, cá nhân) và quản lý điều hành mọi hoạt động theo quy định của pháp luật. Không lấy vốn, tài sản, kinh phí của Nhà nước để đầu tư cho các cơ sở dân lập. Tư nhân: Là cơ sở do cá nhân, hộ gia đình thành lập và quản lý điều hành mọi hoạt động theo quy định của pháp luật. Chương II: KHẢO SÁT TÌNH HÌNH GIÁO DỤC VÀ Y TẾ TẠI VIỆT NAM 1. Tổng quan về nền kinh tế VN qua các chỉ số phát triển Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân trên đầu người của VN giai đoạn 1990-2008 Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê VN, WB và IMF Gần 20 năm phát triển (1990-2008) tốc độ tăng trưởng kinh tế của VN liên tục giữ ở mức cao, tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 1990-2008 là 7,56%/năm. Tốc độ tăng kinh tế cao, trong khi tốc độ tăng dân số được kìm hãm, đã dẫn đến mức thu nhập GDP bình quân trên đầu người mỗi năm một tăng. Nếu năm 1990, GDP trên đầu người của VN chỉ khoảng trên 100 USD, thì đến năm 2007, GDP/người đã đạt 835 USD, tăng trên 8 lần. Năm 2008, GDP trên đầu người ước tính đạt khoảng 1.047 USD/người. Với mức thu nhập này, VN lần đầu tiên thoát ra khỏi nhóm nước nghèo (nhóm nước có thu nhập thấp nhất). Theo cách phân loại của Ngân hàng Thế giới, phân nhóm các nước theo mức thu nhập gồm: Nhóm 1: Nhóm những nước có thu nhập thấp nhất, với thu nhập quốc nội (GDP) bình quân đầu người dưới 935 USD; Nhóm 2: Nhóm các nước có thu nhập trung bình dưới, với GDP bình quân đầu người trong khoảng từ 936 đến 3.705 USD; Nhóm 3: Nhóm những nước có thu nhập trung bình trên, với GDP bình quân đầu người trong khoảng từ 3.705 đến 11.455 USD; và Nhóm 4: Nhóm những nước thu nhập cao, có GDP bình quân đầu người trên 11.455 USD. Như vậy, năm 2008 đánh dấu mốc phát triển của nền kinh tế VN chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp nhất sang nhóm nước có thu nhập trung bình dưới. 2. Thực trạng giáo dục Việt Nam Tình hình chung: Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới đã và đang góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng dân số nước ta về trí tuệ và chất lượng nguồn nhân lực, tạo điều kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Năm học 2007-2008, cả nước có gần 23 triệu học sinh, sinh viên, tăng 1,03% so với năm học 2000-2001; trong đó số học sinh học nghề tăng 2,14 lần; số học sinh trung cấp chuyên nghiệp tăng 2,41 lần; số sinh viên cao đẳng, đại học tăng 1,83 lần, nâng tỷ lệ sinh viên cao đẳng, đại học trên một vạn dân tăng 1,6 lần, số học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng 2,48 lần. Mạng lưới trường lớp được phát triển rộng khắp trong toàn quốc. Về cơ bản đã xóa được "xã trắng" về giáo dục mầm non; trường tiểu học đã có ở tất cả các xã, trường trung học cơ sở có ở xã hoặc cụm liên xã, trường trung học phổ thông có ở tất cả các huyện. Các cơ sở đào tạo nghề, cao đẳng và đại học được thành lập ở hầu hết các địa bàn dân cư lớn, các vùng, các địa phương, đặc biệt ở vùng chậm phát triển như Tây Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi đã có trường nội trú và bán trú cho con em các dân tộc thiểu số. Hiện nay, cả nước có trên 9.000 trung tâm học tập cộng đồng, gần 700 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh và huyện, 1.300 trung tâm tin học, nhiều trường đại học triển khai các chương trình đào tạo từ xa. Ngoài ra, có nhiều cơ sở đào tạo ngoại ngữ và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ có yếu tố nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có tiến bộ đáng kể. Nội dung dạy học và kiến thức của học sinh phổ thông đã toàn diện hơn. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh, sinh viên được nâng cao. Số đông sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng có hoài bão lập thân, lập nghiệp, có tinh thần tự lập và đại bộ phận đã có việc làm. Chất lượng đào tạo của một số ngành đào tạo khoa học và công nghệ đã được nâng cao một bước. Các trường phổ thông chất lượng cao được hình thành ở nhiều địa phương. Nhiều trường đại học đã tổ chức dạy học theo các chương trình tiên tiến quốc tế. Đến tháng 12/2008 đã có 23 chương trình đào tạo tiên tiến quốc tế được thực hiện ở 17 trường đại học giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh. Đã tăng cường sự gắn kết giữa hoạt động khoa học công nghệ với hoạt động đào tạo sau đại học, tập trung vào các lĩnh vực: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, khoa học nông-lâm-ngư và khoa học giáo dục. Để đáp ứng tốt hơn yêu cầu cung cấp nhân lực cho các lĩnh vực kinh tế-xã hội, nâng cao hiệu quả đào tạo, trong 2 năm gần đây ngành giáo dục đào tạo đã tích cực đẩy mạnh việc thực hiện đào tạo gắn với nhu cầu xã hội. Đồng thời với sự đổi mới chương trình, sách giáo khoa và tài liệu dạy học theo Nghị quyết 40/2000/QH của Quốc hội, phương pháp giáo dục ở các nhà trường đã bước đầu được đổi mới theo tinh thần phát huy tính năng động, chủ động và tích cực của người học, đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy và học. Chuẩn nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên ở các cấp học và trình độ đào tạo đã và đang được xây dựng làm cơ sở cho việc đánh giá và bồi dưỡng giáo viên theo chuẩn. Thành tựu đáng nổi bật là: Tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã được công nhận chuẩn quốc gia về xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở. Đến 12/2008 đã có 42/63 tỉnh, thành phố (67%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; 47/63 tỉnh (74,6%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ của cả nước là 94%; số năm học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên là 9,6 năm. Sự khác biệt về trình độ học vấn giữa nam và nữ ngày càng được thu hẹp. Về cơ bản nước ta đã đạt được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục cơ bản. Công tác xã hội hoá giáo dục ngày càng được đẩy mạnh. Các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực vào việc huy động trẻ đến trường, giám sát, đánh giá và hiến kế cho giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất trường học, đầu tư mở trường, đóng góp kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng liên tục từ 15,5% năm 2001 lên 20% năm 2007. Trong năm 2007, khoảng 25% tổng chi phí của xã hội cho học tập là đóng góp của người dân. Bên cạnh đó, cũng đã huy động được sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội và đầu tư nước ngoài. Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có tiến bộ rõ rệt. Đến năm học 2007-2008 có 278 trường dân tộc nội trú của trung ương, tỉnh, huyện và cụm xã, với khoảng 86.000 học sinh. Các trường, lớp chuyên biệt đã thu hút hơn 250.000 trẻ khuyết tật đi học. Những thành tựu của giáo dục và đào tạo đã khẳng định đóng góp quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Đồng thời cũng thể hiện được việc quan tâm của nhà nước cũng như nói lên được nhu cầu học tập của người dân này càng cao. Đòi hỏi nhà nước phải có một sự quan tâm mực thiết. Thực trạng giáo dục ngoài công lập tại Việt Nam: Hiện nay nhu cầu học tập trong xã hội đã được nhân rộng và thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau như : Thứ nhất là nhu cầu của từng người học: sau những năm đổi mới, nền kinh tế nước ta thực sự đang chuyển nhanh sang nền kinh tế mới. Nền kinh tế mới này với những cơ chế thị trường đã có ảnh hưởng và tác dụng to lớn tới người học. Người học trong xã hội hôm nay ở nước ta có nhu cầu học không chỉ để thành người, để làm việc, mà còn để tăng thu nhập, để làm giầu, để biết theo sở thích, để chung sống với nhau, để làm rạng rỡ cho gia đình, thôn xóm, họ tộc, làng nước...Trong xã hội đang xuất hiện ngày một đa dạng các ngành nghề, việc làm với tiền công và thu nhập rất khác nhau. Phần lớn những công việc, ngành nghề có thu nhập cao đều đòi hỏi cao về phẩm chất, đạo đức, tác phong công nghiệp và trình độ học vấn của người lao động. Trên thực tế, người lao động qua đào tạo có nhiều cơ may hơn trong tìm kiếm việc làm, trong nâng cao chất lượng, tăng năng suất và hiệu quả lao động, nhờ vậy thu nhập từ đó cũng tăng theo. Do vậy nhu cầu của người học là đa dạng, nhiều tầng bậc, mầu sắc và muôn hình muôn vẻ đang đòi hỏi giáo dục cung ứng diễn ra trong một xã hội học tập mà từng thành viên trong xã hội được học tập suốt đời. Mặt khác với chính sách dân số ở nước ta hiện nay, mỗi gia đình chỉ có từ một đến hai con; Với truyền thống của dân tộc ta chăm lo cho con cái được học hành, do vậy mọi gia đình Việt Nam đều có xu hướng đầu tư vào học tập cho con cháu và coi sự thành đạt của con cháu với những thang bậc cao trong học tập là tài sản vô giá mà mình có thể để lại được. Nhiều gia đình ở nước ta hôm nay quan niệm đầu tư cho con cái học tập là đầu tư tốt nhất cho sự phát triển cá nhân và là đầu tư hiệu quả nhất. Thứ hai là nhu cầu của doanh nghiệp: với nền kinh tế mở, nền kinh tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp ngày hôm nay đang cần một nguồn nhân lực lớn cả về đội ngũ cán bộ quản lý và những người lao động chuyên môn trực tiếp. Đội ngũ này cần có cơ cấu đa dạng về ngành nghề, thang bậc trình độ, lý thuyết, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo, nhanh nhạy, sáng tạo có thể làm việc được ngay khi được nhận vào doanh nghiệp. Tuy nhiên hầu như tất cả mọi doanh nghiệp hầu như không chịu bỏ vốn trực tiếp cho giáo dục đào tạo dài hạn ( nếu có thì với lượng vốn rất nhỏ cho dăm ba người), vì thông qua thị trường lao động họ cũng không khó lắm có thể tìm được người lao động. Trong những trường hợp cụ thể, các doanh nghiệp thường chỉ chi vốn cho các chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn đang rất cần cho cán bộ, nhân viên của họ để đảm bảo hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp. Thứ ba là nhu cầu của Nhà nước: để đảm bảo phát triển toàn diện và bền vững cho đất nước, Nhà nước định ra chiến lược phát triển nguồn nhân lực tổng thể cho toàn xã hội, trong đó tập trung vào những mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội lâu dài, những lĩnh vực kinh tế mũi nhọn và những trung tâm kinh tế-xã hội trọng điểm và đặc biệt những khu vực kinh tế-xã hội mà các doanh nghiệp khác ngoài Nhà nước ít làm, hoặc không chịu làm và không được làm. Giáo dục là động lực của phát triển con người, phát triển xã hội. Trong đó tài và đức là hai yếu tố cơ bản của động lực, giáo dục là nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi người. Ngày nay con người đòi hỏi giáo dục ngày càng cao thì giáo dục phải đáp ứng được mọi yêu cầu đó. Giáo dục là lợi ích chung của xã hội, lợi ích chung của cộng đồng. Vì vậy giáo dục cũng được coi là “hàng hoá công cộng” và mọi người bất cứ là ai đều có điều kiện tiếp nhận nó một cách dễ dàng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cung giáo dục là sự đáp ứng nhu cầu của xã hội và nhu cầu, nguyện vọng muốn học của người học. Chính nhu cầu này là yếu tố quyết định cho sự tồn vong và phát triển của các cơ sở giáo dục và người làm giáo dục. Cung giáo dục chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau: Nguồn kiến thức: bao gồm đội ngũ giáo viên, nội dung chương trình, tài liệu nghiên cứu, sách vở, thiết bị dạy và học... Sự đa dạng của loại hình trường, lớp và phương thức đào tạo: trường công lập, ngoài công lập, các tổ chức giáo dục khác với các phương thức dạy và học linh hoạt, mềm dẻo chính quy, không chính quy, cận chính quy và phi chính quy luôn phù hợp với yêu cầu của người học, phù hợp với yêu cầu của xã hội. Quyền tự chủ và tính trách nhiệm của các cơ sở giáo dục. Nhà nước cần tăng quyền tự chủ và tính chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục để các cơ sở này có thể năng động, sáng tạo trong hoạt động giáo dục trong khuôn khổ luật pháp của Nhà nước, tạo khả năng đáp ứng cao được nhu cầu đòi hỏi về giáo dục của xã hội, của thị trường lao động cũng như của từng người học. Có thể nói ngoài cơ sở giáo dục thì không ai hiểu được hơn quy luật cung-cầu giáo dục và đưa ra được những quyết định đúng về mở trường, lớp, ngành, nghề...Nhu cầu của người học càng nhiều, của cộng đồng càng lớn, của xã hội càng cao thì càng có nhiều cơ sở giáo dục cung ứng. Trách nhiệm của Nhà nước. Chủ trương, đường lối và chính sách đầu tư giáo dục của Nhà nước quyết định mức độ cung ứng giáo dục. Nhà nước trong bất cứ hoàn cảnh nào, bao giờ và mãi mãi vẫn gĩư vai trò chủ đạo trong cung ứng giáo dục. Nhà nước giám sát chặt chẽ và đưa ra những điều kiện và chuẩn mực giáo dục nghiêm ngặt buộc những cơ sở tham gia cung ứng giáo dục phải thực hiện. Với trách nhiệm và quyền lực của mình, Nhà nước Việt Nam luôn hướng tới đảm bảo tốt cơ hội học tập cho tới từng người, nâng cao chuẩn mực giáo dục và tăng đầu tư cho giáo dục theo hướng đa dạng hoá nguồn lực. Cơ chế cạnh tranh trong giáo dục. Cơ chế cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục là yếu tố buộc các cơ sở giáo dục phải nâng cao chất lượng giáo dục. của cơ sở mình. Tình trạng trì trệ trong giáo dục ở các cơ sở giáo dục, đặc biệt trong các trường công lập trong việc đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của người học, của thị trường lao động buộc các cơ sở giáo dục ngày càng phải hướng tới người tiêu dùng, hướng tới xây dựng phát triển trường có được thương hiệu độc lập. Nhà trường cũng trở thành một trong những cơ sở chủ động tham gia khai thác mạnh mẽ thị trường dich vụ giáo dục. Hiện nay nhiều nhà đầu tư nước ngoài đang nhận định và coi thị trường giáo dục Việt Nam, đặc biệt thị trường giáo dục đại học đang là một thị trường giầu tiềm năng “thị trường béo bở” để khai thác vì hệ thống giáo dục đại học Việt Nam trước mắt và trong những năm sắp tới không đủ năng lực cung ứng cả về số lượng lẫn chất lượng trước yêu cầu đòi hỏi to lớn của người học và của thị trường lao động. Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống giáo dục được phát triển đa dạng về loại hình gồm cả công lập, ngoài công lập và không chỉ phục vụ cho từng thành viên trong xã hội, cho thành phần kinh tế Nhà nước mà còn đáp ứng cho nhiều thành phần kinh tế khác nhau ( tập thể, tư nhân, liên doanh, các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư từ nước ngoài... ). Bên cạnh việc củng cố các trường công lập giữ vai trò chủ đạo, lấy đó làm nòng cốt, nhà nước cần mở ra nhiều hình thức giáo dục, phát triển các loại hình trường ngoài công lập, tạo cơ hội cho mọi người nâng cao trình độ, tiếp cận được những kiến thức mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật để vận dụng trong công việc và vào đời sống hàng ngày; sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để phát triển giáo dục từ xa... Hoàn thiện các cơ chế quản lý đánh giá kết quả, chất lượng kọc tập. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các loại trường, lớp bán công, dân lập, tư thục tại thành phố, thị xã, thị trấn và những vùng có kinh tế thuận lợi. Trường ngoài công lập được hưởng các chính sách khuyến khích về cơ sở vật chất, đất đai, về thuế, phí, lệ phí, tín dụng, bảo hiểm; khen thưởng và phong tặng danh hiệu theo quy dính của Chính phủ. Trường ngoài công lập bình đẳng với trường công lập về nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường, của giáo viên, giảng viên, nhân viên và học sinh, sinh viên trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục - đào tạo và các quy định liên quan đến tuyển sinh, dạy và học, thi, kiểm tra công nhận tốt nghiệp, cấp vãn bằng, chứng chỉ. Qua đó nhà nước cũng đưa ra các loại hình trường ngoài cộng lập bao gồm: Bán công: là trường do Nhà nước thành lập trên cơ sở tổ chức nhà nước phối hợp với các tổ chức không phải tổ chức nhà nước, thuộc mọi thành phần kinh tế hoặc với các cá nhân cùng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất theo một trong hai phương thức sau: Thành lập mới; Chuyển toàn bộ hoặc một phần cơ sở vật chất từ trường công lập sang bán công. Dân lập: là trường do tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, tổ chức kinh tế xin phép thành lập, tự đầu tư bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước và huy động các nhà giáo, nhà khoa học, nhà đầu tư cùng đóng góp công sức, kinh phí và cơ sở vật chất để xây dựng trường Tư thục :là trường do cá nhân hay một nhóm cá nhân xin phép thành lập và tự đầu tư. Theo thống kê thì cả nước trong năm 2003 tính đến nay, nước ta trên 82.000 cơ sở ngoài công lập, trong đó các cơ sở bán công chiếm khoảng 10%, dân lập 23% và 67% là của tư nhân. Đặc biệt trong năm 2008, cả nước đã có 40 trường ĐH và 24 trường CĐ ngoài công lập (NCL) với tổng số sinh viên khoảng 190.000, chiếm khoảng 12% số SV của cả nước, đóng góp phần không nhỏ trong đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và hoà nhập quốc tế. Các trường ngoài công lập khi được nhà nước cho phép thành lập đã giúp giải tỏa được nhu cầu học tập của người dân. 3. Thực trạng y tế tại Việt Nam Bộ Y tế tổ chức Hội nghị "Tổng kết công tác năm 2007 và triển khai kế hoạch 2008 của ngành y tế", hiện cả nước có trên 13.400 cơ sở y tế công lập với 151.671 giường bệnh đạt công suất sử dụng 110%. Cả nước có khoảng 30.000 cơ sở y tế tư nhân với 66 bệnh viện tư và hơn 300 phòng khám đa khoa. Tuy nhiên, ngành y tế phải đối mặt với nhiều thách thức lớn: bùng phát nhiều dịch bệnh, thiếu cán bộ vùng sâu vùng xa. Tỷ lệ chi từ ngân sách cho hoạt động của y tế tại VN khoảng 30%. Trong khi đóá, WHO khuyến cáo tối thiểu phải đạt 50% mới đảm bảo công bằng trong chăm sóc sức khỏe. Ngành y tế tập trung rà soát, hoàn thiện mạng lưới y tế, chỉ đạo thực hiện mạnh mẽ xã hội hóa y tế, nhưng Nhà nước vẫn đầu tư chủ yếu về điều kiện vật chất, con người, đặc biệt tại tuyến xã, huyện, tỉnh cũng như y tế chuyên sâu. Khuyến khích các thành phần kinh tế liên doanh liên kết với cơ sở y tế công mở rộng các cơ sở phục vụ người có nhu cầu điều trị theo yêu cầu. Phần lớn các cơ sở khám chữa bệnh bán công chỉ là đơn vị trực thuộc bệnh viện công, có quy mô nhỏ. Mô hình này phát triển chậm do thủ tục và điều kiện thành lập khá phức tạp, đòi hỏi nhiều đơn vị chức năng tham gia giải quyết. Việc phát triển bệnh viện liên doanh với nước ngoài cũng gặp khó khăn do chưa có quy chế quản lý chung giữa Việt Nam và đối tác để điều hành cơ sở liên doanh. Giá dịch vụ không phù hợp với thu nhập của người dân, dẫn đến kinh doanh thua lỗ. Các bệnh viện công hiện vẫn giữ vai trò chủ đạo trong công tác khám chữa bệnh, mỗi năm tiếp nhận 100 lượt người điều trị ngoại trú và 5 triệu lượt người điều trị nội trú. Tuy nhiên, trong khi nhu cầu khám chữa bệnh và chi phí chẩn đoán, điều trị đang tăng nhanh thì ngân sách dành cho các bệnh viện công rất hạn hẹp. Hậu quả là nhiều cơ sở lâm vào tình trạng quá tải, chất lượng khám chữa bệnh thấp. Sự phát triển nhanh chóng hệ thống y tế ngoài công lập đã góp phần giảm tải đáng kể cho các cơ sở y tế công lập. Theo điều tra y tế Quốc gia, các cơ sở y tế tư đóng vai trò to lớn trong điều trị ngoại trú, chiếm 60,2% số lượt khám chữa bệnh ngoại trú... Đó là những thành công bước đầu rất đáng khích lệ trong công cuộc đẩy mạnh xã hội hóa y tế nước nhà. 4. Sự cần thiết của việc đầu tư vào các lĩnh vực giáo dục- y tế ngoài công lập Theo nghị quyết của chính phủ số 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997, nhà nước muốn xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, điều này có nghĩa là: Nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hoá và sự phát triển về thể chất và tinh thần của nhân dân. Xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá. Mở rộng các cơ hội cho các tầng lớp nhân dân tham gia chủ động và bình đẳng vào các hoạt động trên. Mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn là chính sách lâu dài, là phương châm thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, không phải là biện pháp tạm thời, chỉ có ý nghĩa tình thế trước mắt do Nhà nước thiếu kinh phí cho các hoạt động này. Khi nhân dân ta có mức thu nhập cao, ngân sách nhà nước dồi dào vẫn phải thực hiện xã hội hoá, bởi vì giáo dục, y tế, văn hoá là sự nghiệp lâu dài của nhân dân, sẽ phát triển không ngừng với nguồn lực to lớn của toàn dân. Nhà nước thường xuyên tìm thêm các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách chi cho các hoạt động này, đồng thời quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó. Là giải pháp quan trọng để thực hiện chính sách công bằng xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước. Công bằng xã hội không chỉ biểu hiện về mặt hưởng thụ, tức là người dân được xã hội và nhà nước chăm lo, mà còn biểu hiện cả về mặt người dân đóng góp, cống hiến cho xã hội theo khả năng thực tế của từng người, từng địa phương. Thực hiện công bằng trong chính sách xã hội phải vận dụng các nguyên tắc điều chỉnh và ưu tiên; nhất thiết phải ưu tiên đối với người có công, phải trợ giúp người nghèo, vùng nghèo; người có công, có cống hiến nhiều hơn, được xã hội và Nhà nước chăm lo nhiều hơn. Công bằng xã hội trong việc huy động các nguồn lực của nhân dân vào các hoạt động văn hoá, xã hội không phải là huy động bình quân, mà là vận dụng cách huy động và mức huy động tuỳ theo các lớp người có điều kiện thực tế khác nhau, có mức thu nhập khác nhau. Những người thuộc diện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước được miễn, giảm phần đóng góp. Công bằng xã hội còn được thực hiện thông qua việc phát huy truyền thống "lá lành đùm lá rách", người giàu giúp người nghèo, vùng giàu giúp vùng nghèo. Phát triển nhiều loại quỹ do nhân dân đóng góp tự nguyện làm việc nghĩa, như quỹ khuyến học, quỹ từ thiện... Nhà nước ban hành quy chế thành lập và quản lý các quỹ này theo hướng phát huy khả năng tự quản và giám sát của những người đóng góp, thực hiện chế độ công khai hoá thu, chi. Thực hiện xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá với quan niệm đúng đắn về công bằng xã hội chính là thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa theo đường lối của Đảng. 5. Hạn chế của đầu tư vào hệ thống giáo dục và y tế ngoài công lập Giáo dục: Cụm từ “xã hội hoá giáo dục” dùng để chỉ chung việc huy động những nguồn lực đầu tư cho phát triển giáo dục không đến từ nguồn ngân sách nhà nước. Và cũng chính vì vậy, dù còn nhiều ý kiến chưa đồng tình với khái niệm kinh doanh trong giáo dục, nhưng nhiều thuật ngữ mang “hơi hướng” kinh tế như thị trường giáo dục, dịch vụ giáo dục, sản phẩm giáo dục, xuất khẩu giáo dục ngày càng phổ biến. Các bất cập này thể hiện qua xung đột về quan điểm điều hành và quản lý chi thu tài chính giữa hội đồng quản trị và ban giám hiệu, thậm chí giữa các thành viên hội đồng quản trị với nhau. Việc thành lập lúc đầu và hoạt động tiếp theo của một trường ĐH, CĐ NCL cần phải mang tính chất dài hơi theo từng chiến lược trung hạn và dài hạn. So với một doanh nghiệp làm ăn lỗ lã phải phá sản thì việc đóng cửa một trường ĐH, CĐ có tác động xấu và rộng lớn hơn nhiều, vì sản phẩm của nhà trường là con người. Như vậy việc thành lập và hoạt động của một trường ĐH NCL cần các nhà đầu tư có tiềm năng và những nhà quản lý giáo dục có kinh nghiệm. Quá trình hoạt động của nhà trường phải công khai và minh bạch trong tài chính. Đây là điều mà các trường ĐH phải học tập ở các doanh nghiệp. Hàng năm các doanh nghiệp đều có báo cáo thường niên, trong đó phần chi thu tài chính được trình bày rất rõ để thấy được tính đúng đắn và hiệu quả việc sử dụng tài chính của đơn vị, từ đó cũng hạn chế được sai phạm, tiêu cực, dù là vô tình hay cố ý. Hiện vài trường ĐH-CĐ NCL vẫn phải đi thuê địa điểm chứ không thực hiện nổi cam kết của nhà đầu tư về xây dựng cơ sở vật chất như trong đề án thành lập trường. Mức phí học tập tại các trường ngoài công lập thường cao rất nhiều so với các trường công lập, với các khoản thu còn nhập nhằng. Chính vì thế giải quyết được các vấn đề trên, sẽ giảm bớt được những lo lắng cho một sự bùng nổ “ảo” của thị trường giáo dục khi doanh nghiệp và tư nhân “ồ ạt” tham gia đầu tư thành lập trường như hiện nay; mà ngược lại, chúng ta hy vọng sẽ huy động được nguồn lực xã hội để đạt được mục tiêu 600 trường (225 trường ĐH và 375 trường CĐ) vào năm 2020 với 4,5 triệu SV. Với mô hình ngoài công lập Đại học quốc tế RMIT VN là đại học 100% vốn nước ngoài đầu tiên tại VN, và hiện cũng là đại học nước ngoài duy nhất hoạt động hoàn toàn độc lập tại Việt Nam. Đại học Công Nghệ Hoàng Gia Melbourne (RMIT) đạt danh tiếng như một đại học chuẩn mực của Melbourne vì luôn đảm bảo một nền giáo dục đào tạo hướng nghiệp và thực tiễn từ năm 1887. Trường là một trong những đại học lớn nhất Úc, có 8 cơ sở tại Melbourne, khu vực tiểu bang Victoria và Việt Nam với 58.000 sinh viên và 35.000 nhân viên. RMIT còn là thành viên của Mạng Công Nghệ Úc, một liên hiệp gồm năm trường đại học công nghệ hàng đầu và trường cũng được biết đến qua các kết quả nghiên cứu và các dịch vụ tư vấn trong lĩnh lực kinh doanh. Trường đã thiết kế một môi trường văn hóa mang tính giáo dục độc đáo kết tinh từ cộng đồng sinh viên, đội ngũ giảng viên, nhân viên và các doanh nghiệp khách hàng vốn tinh thông về nhân lực và công nghệ đến từ khắp các quốc gia trên thế giới. Sinh viên tốt nghiệp từ RMIT được đánh giá cao bởi những người Úc bản xứ lẫn các ông chủ nước ngoài và luôn đảm nhận trọng trách trong hầu hết các lĩnh vực quốc tế. Năm 1998, Đại học RMIT, Úc được chính phủ Việt Nam mời hợp tác để xây dựng trường đại học tại Việt Nam. Năm 2000, RMIT Việt Nam được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép giảng dạy các chương trình đại học, sau đại học, đào tạo và nghiên cứu tại Việt Nam. Dự án thành lập Trường Đại học Quốc tế RMIT Việt Nam, với tổng vốn đầu tư 44,1 triệu USD RMIT Việt Nam bắt đầu tuyển sinh tại Tp. Hồ Chí Minh vào năm 2001 và tại Hà Nội vào năm 2004. Trường khánh thành và đưa vào sử dụng một cơ sở đào tạo mới và hiện đại tại Tp. Hồ Chí Minh vào năm 2005. Tổng số sinh viên ở cả hai cơ sở hiện đã lên đến hơn 5,000 (tính đến tháng 3/2009). Tất cả văn bằng do Đại học RMIT, Úc cấp cho phép sinh viên Việt Nam và quốc tế lĩnh hội một nền giáo dục chuẩn quốc tế ngay tại Việt Nam. Tất cả hoạt động giảng dạy và học tập đều sử dụng tiếng Anh. Hoạt động giảng dạy và đào tạo của RMIT Việt Nam đảm bảo sinh viên ra trường được trang bị đầy đủ chuyên môn và kỹ năng để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng tại Việt Nam và trong khu vực. Sinh viên RMIT Việt Nam được đào tạo theo chuẩn quốc tế, thông thạo tiếng Anh và có khả năng làm việc hiệu quả trong môi trường thương mại toàn cầu.Tổng cộng hơn 5.000 sinh viên tại hai cơ sở Nam Sài Gòn và Hà Nội (2008) .Đã có hơn 1.000 sinh viên tốt nghiệp tại hai cơ sở Nam Sài Gòn và Hà Nội Tất cả các ngành đào tạo tại RMIT Việt Nam đều được Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam công nhận. Văn bằng do Đại học RMIT Úc cấp. Điều này có nghĩa là lần đầu tiên sinh viên Việt Nam có thể lĩnh hội một nền giáo dục đẳng cấp quốc tế mà không phải ra nước ngoài. Bên cạnh những lợi ích nhiều mặt khi gia đình gửi con em mình tham gia chương trình du học tại chỗ, chi phí cho chương trình quốc tế tại Việt Nam đạt lợi ích kinh tế hơn bao giờ hết. Chất lượng giáo dục đào tạo tại RMIT Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế như tại Úc, tuy nhiên học phí cho các khóa học ở RMIT Việt Nam thấp hơn nhiều so với chi phí cho các khóa học tương tự tại Úc. Cụ thể học phí chương trình Cử nhân Thương mại được giảng dạy tại Việt Nam khoảng 17.000 đô la Mỹ trong khi đó tại Úc học phí của một chương trình lên tới 42.000 đô la Mỹ. Ngoài ra, sinh viên theo học tại RMIT Việt Nam còn tiết kiệm những khoản chi lớn phát sinh khi đi du học như chi phí sinh hoạt cao, vé máy bay, phí visa và bảo hiểm y tế bắt buộc. Chúng ta hãy làm một phép tính nhỏ tại đây, hiện nay RMIT Việt Nam có 5000 sinh viên. Nếu như cả 5000 sinh viên này cùng học ngành thương mại thì chi phí khi học tại Việt Nam sẽ là: 5000 x 17.000 = 85.000.000 (đô la Mỹ) Trong khi đó,nếu để 5000 sinh viên này theo học tại Úc thì chi phí với cùng ngành học là: 5000 x 42.000 = 210.000.000 (đô la Mỹ) Phần chênh lệch mức học phí tại Việt Nam và Úc là: 210.000.000 – 85.000.000 = 125.000.000 (đô la Mỹ) Điều này có thể thấy được, khi sinh viên học tại RMIT Việt Nam sẽ tiết kiệm được 125.000.000 đô la Mỹ, hạn chế được dòng tiền “chảy ra” nước ngoài rất nhiều. Tại RMIT Việt Nam, sinh viên được tạo điều kiện phát triển toàn diện nhất thông qua chương trình giáo dục thực tiễn, trang thiết bị hiện đại, các hoạt động thể thao và hoạt động sinh viên đa dạng. RMIT Việt Nam cũng tạo cơ hội quý báu cho sinh viên gặp gỡ trực tiếp với giới doanh nghiệp thông qua các cuộc hội đàm, thảo luận và nhất là chương trình thực tập thực tiễn. RMIT Việt Nam đi tiên phong trong việc xây dựng một môi trường giảng dạy sáng tạo và đổi mới, cam kết mang đến cho sinh viên nền giáo dục đào tạo chất lượng quốc tế. Trường tự hào đóng góp vào sự phát triển chung của Việt Nam bằng cách đào tạo nên những tân khoa với trình độ, kỹ năng, và bản lĩnh cần thiết để trở thành những nhà lãnh đạo quản lý giỏi trong tương lai. Tại cơ sở Nam Sài Gòn, RMIT Việt Nam tọa lạc trên một khu vực rộng 12,4 hecta. Toà nhà chính dài hơn 100m với bốn tầng có sức chứa lên tới 3000 sinh viên. Trong khu giảng đường, có hơn 35 khu vực học tập bao gồm phòng học, phòng tự học kết nối công nghệ mạng không dây, phòng lab, phòng dự án, phòng hội thảo, nhà hát với 166 chỗ ngồi, trung tâm y tế, café và thư viện. Cả toà nhà được trang bị 400 máy vi tính giúp sinh viên dễ dàng truy cập hệ thống dữ liệu điện tử nội bộ phục vụ nhu cầu học tập và vui chơi giải trí trong sinh viên. Bên cạnh đó, Trường khuyến khích nhân viên, và sinh viên sử dụng phương tiện giao thông công cộng nhằm hỗ trợ cho việc quản lý giao thông của thành phố Hồ Chí Minh, giảm ô nhiễm môi trường và tiết kiệm nhiên liệu, bãi đỗ xe của trường được xây dựng trên một diện tích khiêm tốn và không dành cho xe ôtô, ngoại trừ xe của trường, taxi chạy theo hợp đồng dành cho nhân viên và sinh viên của trường và xe của khách liên hệ công tác tại trường. Với môi trường học tập được xây dựng dựa trên tiêu chuẩn quốc tế, RMIT Việt Nam hiện nay thu hút nguồn giáo viên đào tạo có chất lượng cao nhằm đảm bảo được hiệu quả đầu ra của Trường được ổn định và có chất lượng tốt. Bên cạnh đó, với cơ sở vật chất hiện tại của Trường đã tạo nên cảnh quan năng động và hiện đại cho diện mạo giáo dục tại Thành phố Hồ chí minh nói riêng và của cả nước nói chung. Đồng thời cũng giúp nâng cao được trình độ sống và dân trí cho người dân trẻ với phong cách sống và học tập hiện đại, tiếp cận với những thay đổi mới từng ngày của thế giới. Có thể nói RMIT đã thiết lập một môi trường văn hóa giáo dục độc đáo từ một cộng đồng toàn cầu bao gồm sinh viên, giảng viên, nhân viên và doanh nghiệp kết hợp am hiểu về cả nhân lực và công nghệ - đào tạo sinh viên đại học tập trung theo tiêu chuẩn quốc tế, góp phần thực hiện mục tiêu xã hội hoá giáo dục, huy động các nguồn lực xã hội cho chương trình đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao của thành phố và cả nước và hướng tới hình thành một thế hệ sinh viên năng động và tự tin trong cuộc sống lẫn trong công việc. Việc thành lập trường RMIT cũng tạo được sự thay đổi trong cách giáo dục hiện tại ở Việt Nam, bởi lẽ đào tạo tại RMIT thiên nhiều về tiếp cận thực tế, thể hiện bản thân mình. Đây là một mô hình kiểu mẫu mà hệ thống giáo dục công lập cần phải hướng tới. Y tế : những năm gần đây, Chính phủ đã khuyến khích phát triển hệ thống y tế ngoài công lập, nhưng hầu hết các bệnh viện tư nhân đều có quy mô nhỏ, trung bình 20-60 giường bệnh. Dịch vụ y tế chủ yếu ở đây là điều trị bệnh mạn tính ít tai biến; một số cơ sở có cấp cứu về ngoại khoa hoặc sản khoa nhưng cũng chỉ tiếp nhận những trường hợp đơn giản. Phần lớn các cơ sở khám chữa bệnh bán công chỉ là đơn vị trực thuộc bệnh viện công, có quy mô nhỏ. Mô hình này phát triển chậm do thủ tục và điều kiện thành lập khá phức tạp, đòi hỏi nhiều đơn vị chức năng tham gia giải quyết. Việc phát triển bệnh viện liên doanh với nước ngoài cũng gặp khó khăn do chưa có quy chế quản lý chung giữa Việt Nam và đối tác để điều hành cơ sở liên doanh. Giá dịch vụ không phù hợp với thu nhập của người dân, dẫn đến kinh doanh thua lỗ. Rào cản lớn nhất chính là quan niệm phân biệt giữa y tế công lập với y tế tư nhân, quan niệm này không chỉ xuất hiện trong suy nghĩ của người bệnh mà vẫn đang tồn tại ngay trong chính bản thân những người làm công tác quản lý y tế. Mặt khác, dù được khuyến khích phát triển nhưng lâu nay thuế thu nhập doanh nghiệp của BV tư là 28%, mức thuế này là quá cao. Ngay đến việc tiếp nhận viện trợ nước ngoài cũng rất khó khăn vì hiện nay Nhà nước chưa có văn bản cụ thể nào hướng dẫn việc này. Mặc dù đã phát triển đáng kể và góp phần to lớn chăm
File đính kèm:
- tieu_luan_phan_tich_viec_nha_nuoc_cho_dau_tu_vao_linh_vuc_y.doc