Tiểu luận Phát triển nông thôn
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Phát triển nông thôn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Phát triển nông thôn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HỒ CHÍ MINH PHÒNG ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC ---------- Hiệu đính chương III giáo trình : PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Giáo viên hướng dẫn : TS .Trần Đắc Dân Nhóm thực hiện: Nhóm 3 - Huỳnh Lê Ái Linh - Ngô Thị Thanh Hương - Lê Thị Dung - Nguyễn Thị Như Ngọc - Nguyễn Đại Thắng Đà Lạt – 2012 Chương III PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG DỊCH VỤ XÃ HỘI VÀ MÔI TRƯỜNG NÔNG THÔN I. PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG NÔNG THÔN 1. Vai trò của phát triển cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng là hệ thống các công trình làm nền tảng cung cấp những yếu tố cần thiết cho phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống. Cơ sở hạ tầng bao gồm cung cấp nước, tưới tiêu và phòng chống bão lụt, cung cấp năng lượng, giao thông, thông tin liên lạc... Kinh tế - xã hội nông thôn không thể phát triển nếu các yếu tố cơ sở hạ tầng không được đáp ứng. Sản xuất và đời sống phát triển đòi hỏi cơ sở hạ tầng phải được đầu tư ngày càng hoàn thiện và đồng bộ. Cơ sở hạ tầng được đầu tư đi trước một bước với tầm nhìn mang tính chiến lược để phục vụ lâu dài, phù hợp và có hiệu quả. Một trong 18 kinh nghiệm được rút ra trong phát triển nhanh và có hiệu quả nền kinh tế - xã hội từ các nước được coi là “Bốn con rồng châu Á” đó là ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong đó giao thông đi trước một bước. Cơ sở hạ tầng bao gồm một tổng thể các công trình mang tính hệ thống, đồng bộ, phục vụ lâu dài, có tính thẩm mỹ, tính tiên phong định hướng, vốn đầu tư lớn. Do đó Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quy hoạch phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, thu hút vốn đầu tư, xây dựng chính sách giá cả và luật lệ trong quản lý và sử dụng cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng rất lớn và thường bao gồm bốn nguồn chính: Ngân sách Nhà nước; viện trợ hoặc vốn vay nước ngoài; vốn doanh nghiệp Nhà nước; vốn đầu tư tư nhân. Ðối với các địa phương, vốn xây dựng cơ sở hạ tầng còn có thể huy động từ sự đóng góp tài chính và sức lao động của dân. Ðịa bàn nông thôn trải rộng và phân bố trên phạm vi toàn quốc, các làng xã phân bố rải rác dẫn tới việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn thường tốn kém và khó khăn, nếu không có cách nhìn đúng nông thôn sẽ ít có cơ hội nhận được sự đầu tư và như vậy càng làm cho khu vực nông thôn tụt hậu so với thành thị. Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nhằm tạo cơ sở thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, xoá đói giảm nghèo và giảm dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị là chủ trương lớn của Ðảng và Nhà nước ta. 2. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn Trước đây hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam rất lạc hậu do nền kinh tế yếu kém, do hậu quả của chiến tranh và thiên tai. Từ sau ngày đất nước thống nhất, nhất là từ thời kỳ đổi mới gần 20 năm qua, Ðảng và Chính phủ Việt Nam rất quan tâm đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn bằng các chương trình, dự án quốc gia về điện, giao thông, thuỷ lợi, trường học, bệnh xá... Ðặc biệt Chương trình “135” về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã hỗ trợ cho 2320 xã nghèo. Kết quả của cuộc tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thuỷ sản được tiến hành cuối năm 2001 do Tổng cục Thống kê công bố đã phản ánh những tiến bộ về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. - Về điện, thời kỳ 1994 - 2001 là thời kỳ điện khí hoá nông thôn thực sự được coi trọng và có tiến bộ vượt bậc. Nếu năm 1994 mới có 60% số xã, 50% số thôn và 53% số hộ có điện thì đến cuối năm 2003 đã có 93,9% số xã, 86,8% số hộ dùng điện. Năm 2011, cả nước đã có thêm 1,6 triệu hộ dân có điện phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh. Tính đến đầu năm 2012, 100% số huyện, 98,84% số xã, 97,38% số hộ dân (trong đó, riêng hộ dân nông thôn chiếm 96,43%) trên cả nước đã có điện. Việt Nam đang nằm trong nhóm đầu của châu Á về điện khí hóa nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo. Các đơn vị thành viên của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã bán điện trực tiếp đến hộ dân nông thôn tại 7.312 xã (chiếm 81,32% số xã có điện), 12,565 triệu hộ dân nông thôn mua điện trực tiếp từ điện lực (chiếm 80,18% số hộ dân nông thôn) sử dụng điện cùng một giá như người dân đô thị). - Giao thông nông thôn, là một yếu tố được Nhà nước quan tâm và đầu tư, đến cuối năm 2001 cả nước có 94,5% số xã có đường ô tô đến trung tâm so với năm 1994 con số đó mới là 85%. Chất lượng đường tuy còn thấp nhưng đã có nhiều tiến bộ so với trước, đã có 16,5% số xã có 50% đường liên thôn được đổ nhựa hoặc bê tông. Trong giai đoạn 2001-2010, nhờ có các chủ trương lớn của Đảng và việc thực hiện quyết liệt của Chính phủ, hiện nay hệ thống giao thông nông thốn đã có bước phát triển căn bản và nhảy vọt, làm thay đổi không chỉ về số lượng mà còn nâng cấp về chất lượng con đường về tới tận thôn xóm tạo điều kiện thuận lợi phát văn hóa, xã hội và thu hút các lĩnh vực đầu tư về khu vực nông thôn, tạo công ăn việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội.Theo số liệu thống kê, đến 01/7/2011 cả nước đã có 8940 xã, chiếm 98,6% tổng số xã cả nước đã có đường ô tô đến trung tâm xã (tăng 2,3% so với năm 2006), trong đó đi lại được 4 mùa là 8803 xã, chiếm 97,1% ( tăng 3,5% so với năm 2006); trong đó xã có đường ô tô đến trung tâm xã đã được nhựa hóa, bê tông hóa là 7917 xã chiếm 87,3% (tăng 17,2% so với năm 2006). Một điều đáng chú ý là không chỉ đường đến trung tâm huyện, xã được chú trọng mà đường đến các thôn, bản miền núi cũng được các cấp chính quyền hết sức quan tâm đầu tư với số liệu rất ấn tượng đó là có tới 89,5% số thôn, bản có đường ô tô đến được. Điều đó góp phần thay đổi cuộc sống của người dân nơi vùng cao vốn chịu nhiều thiệt thòi về điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng cũng như văn hóa xã hội. So với năm 2005, tổng số chiều dài km đường giao thông nông thôn tăng thêm 34.811km; trong đó số km đường huyện tăng thêm 1.563km, đường xã tăng 17.414km và đường thôn xóm tăng 15.835km từ những nguồn vốn đầu tư cho giao thông nông thôn rất đa dạng được huy động từ nhiều nguồn: Ngân sách trung ương, ngân sách địa phương (chiếm khoảng 50% phần dành cho cơ sở hạ tầng giao thông của các tỉnh); vốn ODA (các chương trình hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng của WB, Chương trình giảm nghèo Miền trung của ADB hay Giao thông nông thôn của Ngân hàng thế giới WB); vốn huy động của doanh nghiệp, tín dụng và của cộng đồng nhân dân. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư, các ngồn vốn đầu tư cho giao thông nông thôn trong 10 Comment [ND1]: .vn/news/vn/nhan-dinh-phan-bien-kien- nghi/loi-ich-tu-dien-khi-hoa-nong-thon.html năm qua ước tính khoảng 170.000-180.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước chiếm khoảng 70% tổng nguồn vốn được huy động; vốn huy động từ cộng đồng, doanh nghiệp chiếm khoảng 10-15% tổng nguồn vốn, kể cả việc huy động từ đóng góp của cộng đồng dân cư để đầu tư; ngoài ra các địa phương còn huy động từ các nguồn khác như thu phí sử dụng đất, thu sổ số kiến thiết Chỉ tính riêng giai đoạn 2003 đến năm 2010, cả nước đã đầu tư 749 dự án đường giao thông đến trung tâm xã trên địa bàn các xã nông thôn, miền núi thuộc các vùng: Trung du và miền núi Bắc bộ; đồng bằng sông Hồng; duyên hải miền Trung; Tây nguyên; Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu long với tổng mức đầu tư các dự án đầu tư đường ô tô đến trung tâm xã cả giai đoạn được các địa phương phân bổ vốn TPCP là 32.951 tỷ đồng, các địa phương cũng đã chủ động lồng ghép các nguồn vốn khác trên địa bàn để thực hiện.) - Hệ thống thông tin liên lạc ở nông thôn, được Nhà nước đầu tư xây dựng các điểm bưu điện - vân hoá xã nhằm tăng cường sự tiếp cận và giao lưu cho người dân nông thôn với bên ngoài, đã có 83,8% số xã và 704,4 nghìn hộ nông thôn có máy điện thoại, 54,8% số xã có điểm bưu điện - văn hoá xã. - Cả nước có 5.101 xã chiếm 57% số xã có chợ; ở nhiều vùng chợ gắn liền với các trung tâm cụm xã, hoặc các điểm bưu điện - văn hoá xã, giúp cho người dân địa phương tăng cường giao lưu trao đổi hàng hoá, nâng cao dân trí, cung cấp thông tin thị trường. Tuy vậy, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nước ta còn nhiều vấn đề đặt ra cần được quan tâm khắc phục trong thời gian tới: - Sự phát triển không đồng đều và chất lượng còn thấp của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn là tồn tại lớn và phổ biến ở các vùng, các địa phương trong cả nước. - Chưa có đầu tư ưu tiên cho những vùng sản xuất hàng hoá tập trung, vùng có tiềm năng phát triển. - Còn sự chênh lệch khá lớn về cơ sở hạ tầng giữa vùng miền núi, vùng nghèo, vùng đồng bào dân tộc ít người với bình diện chung cả nước. Tây Bắc còn 50% số xã, số hộ chưa có điện; Ðắc Lắc còn 52% thôn bản, 45,4% số hộ chưa có điện..., giao thông ở nhiều vùng như Tây Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long còn kém phát triển ở những vùng này còn khoảng 80% xã chưa có đường ô tô hay đừơng đến xã còn gặp khó khăn... - Hệ thống cơ sở hạ tầng khác như trường học, bệnh xá và các cơ sở hạ tầng khác ở nông thôn phát triển chưa đều và chất lượng thấp, công tác quản lý, sử dụng, duy tu, sửa chữa còn nhiều bất cập, hiệu quả sử dụng hạn chế. - Hệ thống thông tin liên lạc tới các thôn xóm, làng bản; hệ thống nhà văn hoá, thư viện còn thiếu và yếu, nhiều người dân nông thôn ít được tiếp cận với thông tin bên ngoài do đó hạn chế đến hiểu biết về thông tin thị trường, chưa biết phát triển sản xuất hàng hoá... 3. Chính sách và giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn Comment [ND2]: webdrvn/index.php?q=content/giao-thong- nong-thon-trong-cong-cuộc-xay-dựng-nong- thon-mới-va-hiện-dại-hoa-nong-thon-0 Chiến lược phát triển đến năm 2010 của Chính phủ nhằm tạo ra những cố gắng lớn để khắc phục những thiếu sót trên. Chiến lược đề ra nhiệm vụ đến năm 2005, 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm, 100% số xã có điện và điện thoại. Trên phạm vi quốc gia chiến lược đặt ra chính sách ưu tiên trong phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn sau: - Nâng cấp cơ sở hạ tầng đường giao thông, thuỷ lợi, nước sạch, điện... ở những vùng nông thôn hoặc dịch vụ công nghiệp ở những nơi có công nghiệp chế tạo hoặc thủ công nghiệp phát triển. - Cung cấp cơ sở hạ tầng công cộng thiết yếu cho những cộng đồng có điều kiện đặc biệt khó khăn thông qua Chương trình 135. Trong chương trình này, các xã được quyền hoạch định và sở hữu các dự án có quy mô nhỏ, phù hợp với nghị định của Chính phủ về Dân chủ cơ sở. Những chính sách và giải pháp cụ thể cho phát triển các lĩnh vực cụ thể của hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm các nội dung sau đây: a) Thuỷ lợi Việt Nam có nguồn nước dồi dào gồm nước mưa, nước bề mặt, nứơc sông và hồ. Nhu cầu sử dụng nước ngày một gia tăng cho sản xuất, cho sinh hoạt của con người đã dẫn đến một thách thức lớn hiện nay. Nhiều cơ sở thuỷ lợi và công trình cấp, thoát nước, phòng chống lụt bão ở tình trạng xuống cấp do thiên tai, do hậu quả chiến tranh, do quản lý yếu kém cần phải đầu tư để khôi phục, nâng cấp. Chất lượng nước giảm dần do tiêu dùng vào nông nghiệp, công nghiệp, đời sống tăng lên làm cho con người phải cạnh tranh với nguồn nước khan hiếm do nạn phá rừng, thay đổi khí hậu toàn cầu... Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được thách thức trên đây, với tầm nhìn chiến lược quốc gia và sự hỗ trợ của Tổ chức “Hợp tác nước toàn cầu” đã đề ra chính sách nhằm sử dụng tốt hơn và hiệu quả hơn nguồn nước sẵn có, quản lý nước một cách thống nhất bao gồm: Quản lý tốt nguồn nước và chuyển giao dịch vụ tưới tiêu và cấp thoát nước, cung cấp nước sinh hoạt và dịch vụ vệ sinh cho các tổ chức tự quản của dân cư nông thôn - những người sử dụng nước. Luật về thuỷ lợi đã được Quốc hội thông qua tháng 5 năm 1998 đã xác định quyền sở hữu nước thuộc về nhân dân Việt Nam, Chính phủ thay mặt nhân dân quản lý nguồn nước. Thủ tướng Chính phủ đã thông qua Chiến lược quốc gia về cung cấp và vệ sinh nước cho nông thôn tháng 8 năm 2000, giao trách nhiệm đó cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Ðã thành lập Cục Thuỷ lợi và các tổ chức quản lý lưu vực sông có sự kết hợp chặt chẽ giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng và Bộ Tài nguyên Môi trường. Ðể nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp nước, thực hiện quan điểm quản lý có phân cấp và có sự tham gia của người dân. Khuyến khích các công ty quản lý thủy nông cấp tỉnh, huyện chuyển đổi để trở thành doanh nghiệp tự chủ về tài chính. Ðẩy mạnh sự tham gia của người dân và các tổ chức sử dụng nước thông qua hình thức hợp tác xã sử dụng nước và nhóm sử dụng nước. Nâng cao tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức này trong việc tham gia xây dựng, quản lý, vận hành, sửa chữa và đóng góp, sử dụng thuỷ lợi phí. Tổ chức và hỗ trợ từ phía Nhà nước và các tổ chức bên ngoài về đào tạo, tập huấn kỹ thuật, quản lý và vận hành công trình, cung cấp dịch vụ để các công trình thuỷ lợi sử dụng lâu dài, có hiệu quả. Chiến lược đến năm 2020: “Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn, trước hết là hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho toàn bộ diện tích lúa hai vụ, mở rộng diện tích rau, màu, cây công nghiệp, cấp thoát nước chủ động cho diện tích nuôi trồng thủy sản, làm muối, bảo đảm giao thông thông suốt bốn mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản... Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, hoàn chỉnh hệ thống đê sông, đê biển và rừng phòng hộ ven biển, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, cụm dân cư, đáp ứng yêu cầu phòng chống bão, lũ, ngăn mặn và chống nước biển dâng: Tạo điều kiện sống an tòan cho nhân dân đồng bằng sông Cửu Long, miền trung và các vùng thường xuyên bị bão, lũ, thiên tai; Chủ động triển khai một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu...”. Để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu của Chính phủ và Nghị quyết số 26 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đề ra mục tiêu, các chương trình nghiên cứu và công tác quy hoạch hệ thống hạ tầng cơ sở nông nghiệp, nông thôn như: Bảo đảm ổn định, an toàn dân cư cho các thành phố, các vùng, miền, đặc biệt là các vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng Bắc Bộ, miền Trung, miền núi; Bảo đảm sản xuất nông nghiệp ổn định, giữ vững 3,8 triệu ha canh tác lúa hai vụ, đáp ứng yêu cầu an ninh lương thực, giữ an toàn hệ thống đê điều, các công trình dân sinh, hạ tầng kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai; Nghiên cứu và quy hoạch tổng thể thủy lợi đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện nước biển dâng; Quy hoạch chống lũ cho các hệ thống sông ở khu vực... Tuy nhiên, để thực hiện các chương trình và giải pháp này cần đầu tư nhiều công sức, tiền của và phải có kế hoạch cụ thể cho từng năm, từng thập kỷ sao cho các công trình được xây dựng vừa phù hợp với yêu cầu trước mắt, vừa đáp ứng được yêu cầu nâng cấp, kiên cố và hiện đại khi mức nước biển ngày một dâng cao. Tập trung cao độ cho việc nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật và triển khai sớm các công trình thủy lợi để đối phó và thích ứng với biến đổi khí hậu là cơ sở quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội ở khu vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn một cách ổn định, vững chắc trước những bất lợi do biến đổi thời tiết gây ra b) Cung cấp nước sạch Cung cấp đầy đủ nước sạch cho nhu cầu sử dụng hàng ngày là một yếu tố nâng cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn, bảo vệ sức khoẻ, phòng chống dịch bệnh. Mặc dù có sự quan tâm lớn của Chính phủ, các tổ chức và cộng đồng dân cư các địa phương với 150 dự án cung cấp nước, nhưng hiện mới có khoảng 60% người dân nông thôn được dùng nước sạch. Mục tiêu đến năm 2015, khoảng 85% dân số nông thôn sẽ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 100% các trường mầm non và phổ thông, trạm y tế xã ở nông thôn đủ nước sạch. Tổng mức vốn thực hiện chương trình khoảng 27.600 tỷ đồng. Trong đó dành gần 20.000 tỷ đồng thực hiện dự án Cấp nước sinh hoạt và môi trường nông thôn; gần 6.000 tỷ đồng thực hiện dự án Vệ sinh nông thôn và gần 2.000 tỷ đồng thực hiện dự án Nâng cao năng lực, truyền thông và giám sát, đánh giá thực hiện Comment [ND3]: Nghị quyết số 26- NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn do Ban Chấp hành Trung ương ban hành ngày 5/8/2008 chương trình. Chương trình đặt ra các hạng mục ưu tiên, cụ thể: Với các công trình cấp nước tập trung, các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, nguồn vồn ngân sách trung ương sẽ hỗ trợ tối đa 90%. Đối với xã biên giới sẽ được hỗ trợ ngân sách 60%; đối với xã đồng bằng và 75% đối với xã nông thôn khác. Phần phần kinh phí còn lại để thực hiện dự án sẽ lấy từ nguồn vốn ngân sách địa phương và huy động từ các nguồn vốn hợp pháp khác. Cũng theo chương trình, đối với các công trình cấp nước nhỏ lẻ, ngân sách nhà nước hỗ trợ tối đa 70% đối với hộ nghèo và gia đình chính sách; 35% đối với hộ cận nghèo. Đối với công trình cấp nước và vệ sinh trường học, trạm y tế, ngân sách nhà nước hỗ trợ tối đa 90%. Đối với hoạt động xây dựng các mô hình nhà tiêu và chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh (gồm cả Biogas), quyết định nêu rõ: Ngân sách nhà nước hỗ trợ 70% đối với hộ nghèo, gia đình chính sách và 35% đối với hộ cận nghèo, các hộ gia đình khác được dùng nguồn vốn vay tín dụng ưu đãi theo quy định. Mục tiêu đến năm 2020 Tất cả dân cư nông thôn sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc gia với số lượng tối thiểu 60lít/người-ngày và sử dụng hố xí hợp vệ sinh nhờ huy động cộng đồng tham gia mạnh mẽ và áp dụng cách tiếp cận dựa vào nhu cầu. Hầu hết dân cư nông thôn thực hành tốt vệ sinh cá nhân và giữ sạch vệ sinh môi trường làng xã nhờ các hoạt động Thông tin - Giáo dục - Truyền thông. c) Tưới tiêu và phòng chống lũ lụt Ðẩy mạnh thâm canh nông nghiệp yêu cầu ngày càng cao công tác thủy lợi phục vụ tưới tiêu. Do đặc điểm khí hậu và địa hình, khu vực đồng bằng hàng năm thường bị lũ lụt, khu vực trung du và miền núi thường bị hạn hán làm thiệt hại mùa màng và của cải. Trang thiết bị và hệ thống quản lý tưới tiêu, phòng chống lũ lụt còn nhiều yếu kém, hơn nữa tại một số vùng, nguồn cung cấp nước khan hiếm nhưng lại được sử dụng một cách kém hiệu quả. Mục tiêu đến năm 2020: - Cấp đủ nguồn nước để khai thác được 11 ,4 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó có 6,7 triệu ha cây hàng năm (riêng đất lúa 4,1 triệu ha), 3,2 triệu ha cây lâu năm. Đưa diện tích gieo trồng cây lương thực chính là lúa lên 7,6 trệu ha và ngô 1,2 triệu ha, trong đó tưới chủ động được 85 %. - Cấp nước cho nuôi thả thuỷ sản, chủ yếu là nuôi tôm 0,65 triệu ha; nuôi quảng canh cải tiến 0,35 triệu ha, bán thâm canh 0,15 triệu ha, thâm canh 0,15 triệu ha. Trong đó cấp nước chủ động cho khoảng 80% diện tích nuôi trồng thuỷ sản, phần lớn tập trung ở vùng ven biển ở ĐBSCL và ĐBSH. - Cấp nước sinh hoạt: nông thôn - 100% dân có nguồn nước sinh hoạt hợp vệ sinh với mức ít nhất là 60 l/người/ngày; đô thị : - 1 00% dân được cấp 180 l/ng.ng (đô thị loại I), 165 l/ng.ng (đô thị loại II), được cấp 150 l/ng.ng (đô thị loại III, IV, V) - Đảm bảo đủ nước cho phát triển công nghiệp với mức cấp từ 50- 100 m3 ha xây dựng. Mục tiêu 2: Nâng cao mức an toàn phòng chống và thích nghi để giảm thiểu tổn thất do thiên tai bão lũ gây ra: - Các lưu vực sông lớn ở Bắc bộ và bắc Trung bộ: củng cố và phát triển các giải pháp phòng chống lũ để chống lũ chính vụ an toàn với mức bảo đảm: Comment [ND4]: /s255-582522/gan-28000-ty-dong-cung-cap- nuoc-sach-cho-nong-dan.htm Comment [ND5]: Chiến lược Quốc gia cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn ban hành kèm theo quyết định số Quyết định số 104/2000/QĐ-TTg ngày 25-8-2000 của Thủ tướng Chính phủ HT sông Năm 2010 Năm 2020 Ghi chú s. Hồng & Thái Bình p = 0.4 % p = 0.2% tại Hà Nội s. Mã p =1% p < l% tại Cầu Tào s. Cả p =l% p<l% tại Bến Thuỷ s. Hương p =5,9% p<5,9% tại Kim Long Các sông khác ở Trung bộ, DH NTB, TN, ĐNB bảo đảm chống lũ chủ động bảo vệ dân cư sản xuất vụ hè thu và đông xuân với tần suất từ 5 - 10 %. - Hình thành được vùng an toàn lũ ở vùng ngập nông, đảm bảo các điều kiện thích nghi và an toàn cho dân sinh, sản xuất ở vùng ngập sâu của ĐBSCL. Đến năm 2010 kiểm soát được lũ lớn như lũ năm 1961 trên dòng chính và lũ năm 2000 trong nội đồng. Từ sau năm 20 1 0 tiếp tục củng cố các hệ thống bờ bao và các công trình để kiểm soát lũ ở mức độ cao hơn. - Hệ thống đê biển, đê cửa sông đảm bảo chống được mức nước triều tần suất 5% ứng với gió bão cấp 9 (2010) và cấp 10 (2020). - Đảm bảo an toàn công trình: hồ chứa, đê kè cống..., ổn định bờ sông, bờ biển. Mục tiêu 3: Quản lý tốt các lưu vực sông, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên nước, phát triển bên vững, chống Ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước các lưu vực sông chính (2010) và tất cả các lưu vực sông quốc gia (2020). Nâng cao được năng lực quản lý nguồn nước từ Trung ương đến địa phương. Muc tiêu 4: Nâng cao năng lực và trình độ khoa học công nghệ về nghiên cứu đánh giá nguồn nước, quy hoạch, thiết kế, xây dựng thuỷ lợi và quản lý tài nguyên nước, quản lý khai thác công trình thuỷ lợi đạt mức trung bình (năm 2010) và mức trên trung bình của châu á (năm 2020). d) Năng lượng Mức tiêu thụ năng lượng và sử dụng năng lượng tái tạo là một tiêu chí đánh giá trình độ phát triển. Nông thôn Việt Nam chủ yếu sử dụng 70% năng lượng từ củi và thân lá thực vật khác, 15 - 20% năng lượng sức kéo súc vật, chỉ có từ 10 - 15% năng lượng công nghiệp như điện, dầu và than. Ðiều đó cho thấy mức độ sử dụng năng lượng của nông thôn Việt Nam còn đang ở trình độ thấp, nguy cơ phá rừng làm chất đốt cho sinh hoạt và sản xuất là mối lo ngại cần được quan tâm để khắc phục. Việc sử dụng năng lượng từ tài nguyên không tái tạo dẫn đến nguy cơ cạn kiệt tài nguyên và làm ô nhiễm môi trường, các nước phát triển đang chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo được, năng lượng sạch như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, điện ngày một nhiều. Nếu không đẩy mạnh điện khí hoá nông thôn thì khó đạt được sự tăng trưởng nhanh kinh tế nông thôn, chiến lược đến năm 2010 phấn đấu trên 90% số hộ nông thôn được dùng điện. Vốn cần thiết cho chương trình này khoảng 40.000 tỉ đồng, trong đó đầu tư từ Nhà nước là 80% gồm vốn ngân sách và vốn vay, còn 20% là vốn đóng góp của dân. () Ðẩy mạnh phong trào sử dụng khí bioga trong nông thôn nhất là những nơi có điều kiện phát triển chăn nuôi trâu bò, lợn, gia cầm. Mục tiêu đến năm 2020: Comment [ND6]: /?id_pnewsv=345&lg=vn&start=0 a) Mục tiêu tổng quát Để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 là: bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, góp phần bảo đảm giữ vững an ninh, quốc phòng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ của đất nước; cung cấp đầy đủ năng lượng với chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội; khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước; đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh trong lĩnh vực năng lượng, hình thành và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh lành mạnh; đẩy mạnh phát triển nguồn năng lượng mới và tái tạo, năng lượng sinh học, điện hạt nhân để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững ngành năng lượng đi đôi với bảo vệ môi trường. b) Mục tiêu cụ thể - Phấn đấu đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội: trong đó năng lượng sơ cấp năm 2010 khoảng 47,5 - 49,5 triệu TOE (tấn dầu quy đổi), đến năm 2020 đạt khoảng 100 - 110 triệu TOE, đến năm 2025 khoảng 110 - 120 triệu TOE và đến năm 2050 khoảng 310 - 320 triệu TOE. - Nâng cao độ chính xác trong việc đánh giá trữ lượng các nguồn năng lượng sơ cấp (than, dầu khí, thủy điện và u-ra-ni-um). Mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới trong việc tìm kiếm, thăm dò, khai thác than, dầu khí và các dạng năng lượng khác ở nước ngoài bổ sung nguồn năng lượng thiếu hụt trong nước. - Phát triển nguồn, lưới điện, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội, đến năm 2010 độ tin cậy cung cấp của nguồn điện là 99,7%; lưới điện bảo đảm tiêu chuẩn n-1. - Phát triển các nhà máy lọc dầu, từng bước đáp ứng đủ nhu cầu về các sản phẩm dầu trong nước, đưa tổng công suất các nhà máy lọc dầu lên khoảng 25 đến 30 triệu tấn dầu thô vào năm 2020. - Bảo đảm mức dự trữ chiến lược xăng dầu quốc gia đạt 45 ngày tiêu thụ bình quân vào năm 2010, đạt 60 ngày vào năm 2020 và đạt 90 ngày vào năm 2025. - Phấn đấu tăng tỷ lệ các nguồn năng lượng mới và tái tạo lên khoảng 3% tổng năng lượng thương mại sơ cấp vào năm 2010; khoảng 5% vào năm 2020, và khoảng 11% vào năm 2050. - Hoàn thành chương trình năng lượng nông thôn, miền núi. Đưa số hộ nông thôn sử dụng năng lượng thương mại để đun nấu lên 50% vào năm 2010 và 80% vào năm 2020. Đến năm 2010 đạt 95% số hộ dân nông thôn có điện, đến năm 2020 hầu hết số hộ dân nông thôn có điện. - Xây dựng các mục tiêu, tiêu chuẩn dài hạn về môi trường theo hướng thống nhất với tiêu chuẩn môi trường khu vực và thế giới, phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước. Kiểm soát và giảm nhẹ ô nhiễm môi trường trong các hoạt động năng lượng; đến năm 2015 tất cả các công trình năng lượng phải đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường. - Chuyển mạnh các ngành điện, than, dầu khí sang hoạt động theo cơ chế thị trường cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước. Hình thành thị trường bán lẻ điện cạnh tranh giai đoạn sau năm 2022; hình thành thị trường kinh doanh than, dầu khí trong giai đoạn từ nay đến năm 2015. - Tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết và đồng bộ để đưa tổ máy điện hạt nhân đầu tiên vận hành vào năm 2020, sau đó tăng nhanh tỷ trọng điện hạt nhân trong cơ cấu năng lượng quốc gia. Đến năm 2050, năng lượng điện hạt nhân chiếm khoảng 15 - 20% tổng tiêu thụ năng lượng thương mại toàn quốc. - Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng. Phấn đấu từ năm 2010 - 2015, thực hiện liên kết lưới điện khu vực (bằng cấp điện áp đến 500 kV), từ năm 2015 - 2020, thực hiện liên kết hệ thống khí thiên nhiên khu vực. e) Giao thông Phát triển giao thông là một yếu tố cần thiết trong đời sống xã hội và kinh tế nông thôn, hệ thống giao thông yếu là một trở ngại lớn đối với phát triển nông thôn trong việc tiếp cận thị trường, cung ứng các yếu tố đầu vào, bán sản phẩm của nông dân, không thúc đẩy hình thành các doanh nghiệp mới, dịch vụ bưu điện và các dịch vụ khác không được dễ dàng chuyển giao. Việt Nam là nước có mạng lưới đường nông thôn tương đối rộng khắp nhưng phần lớn đường nông thôn không có mặt phủ chịu thời tiết, đường hẹp và xuống cấp nghiêm trọng. 70 % cư dân nông thôn sống trong điều kiện không có những con đường có mặt phủ chịu mọi thời tiết quanh năm nhất là vùng núi, vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Mục tiêu đến năm 2020: Tỷ lệ km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ GTVT đối với tất cả các Vùng phải đạt 100%. Tỷ lệ km đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn tối thiểu là 50% đối với trung du, miền núi phía Bắc và đồng bằng sông Cửu Long, còn lại các vùng khác phải đạt từ 70% đến 100% (đồng bằng sông Hồng và Đông Nam bộ). Tỷ lệ km đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa phải đạt 100%, phấn đấu đến năm 2015 có 35% số xã đạt chuẩn (các trục đường xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa) và đến 2020 có 70% số xã đạt chuẩn (các trục đường thôn, xóm cơ bản cứng hóa) phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa Việt Nam. g) Thông tin Thông tin là một yếu tố cần thiết cho sản xuất và đời sống nhất là ở các quốc gia trong quá trình đa dạng hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Trong thời đại công nghệ thông tin ngày nay cần coi trọng các loại hình thông tin hiện đại. Các loại hình thông tin bao gồm: Dịch vụ bưu điện và điện tín; điện thoại; báo chí; đài truyền thanh và truyền hình; mạng kết nối internet. Nguồn thông tin phải không ngừng cập nhật và kết nối trong, ngoài nước. Hệ thống thông tin ở khu vực nông thôn Việt Nam còn thiếu và yếu, dịch vụ bưu điện và điện tín mới phục vụ được 75% người dân nông thôn, mới có khoảng 40% số xã có hệ thống thông tin đại chúng, số lượng điện thoại, báo chí, đài thu thanh, tivi đều ở dưới mức trung bình của các nước đang phát triển. Mục tiêu đến 2020: Đến năm 2015: a) Tỷ lệ đường dây thuê bao cố định 15 - 20 đường/100 dân; tỷ lệ thuê bao điện thoại di động 140 máy/100 dân; tỷ lệ thuê bao Internet băng rộng cố định từ 6 - 8 thuê Comment [ND7]: Theo quyết định số 1855/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/12/2007 về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 Comment [ND8]: webdrvn/index.php?q=content/giao-thong- nong-thon-trong-cong-cuộc-xay-dựng-nong- thon-mới-va-hiện-dại-hoa-nong-thon-0 bao/100 dân; tỷ lệ thuê bao băng rộng di động 20 - 25 thuê bao/100 dân; b) Tỷ lệ hộ gia đình có điện thoại cố định 40 - 45%; tỷ lệ hộ gia đình có truy cập Internet 15 - 20%; tỷ lệ người sử dụng Internet 40 - 45% dân số; c) Phủ sóng thông tin di động đến trên 90% dân số trên cả nước; d) Trên 90% các xã có điểm cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng được kết nối Internet băng rộng; đ) Tốc độ tăng trưởng viễn thông đạt khoảng 1,5 - 2 lần tốc độ tăng trưởng của GDP. Tổng doanh thu viễn thông đạt từ 10 - 12 tỷ USD, chiếm khoảng 7 - 8% GDP. Đến năm 2020: a) Tỷ lệ đường dây thuê bao cố định 20 - 25 đường/100 dân; tỷ lệ thuê bao Internet băng rộng cố định 15 - 20 thuê bao/100 dân; tỷ lệ thuê bao băng rộng di động 35 - 40 thuê bao/100 dân; b) Tỷ lệ hộ gia đình có điện thoại cố định 40 - 45%; tỷ lệ hộ gia đình có truy cập Internet 35 - 40%; tỷ lệ người sử dụng Internet 55 - 60%; c) Phủ sóng thông tin di động đến trên 95% dân số cả nước, các tuyến đường giao thông, quốc lộ, tỉnh lộ, các điểm trọng yếu kinh tế, quốc phòng, an ninh; d) 100% các xã có điểm cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng được kết nối Internet băng rộng; đ) Tốc độ tăng trưởng viễn thông đạt khoảng 1,2 - 1,5 lần tốc độ tăng trưởng của GDP. Tổng doanh thu viễn thông đạt từ 15 - 17 tỷ USD, chiếm khoảng 6 – 7% GDP. II. PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ XÃ HỘI NÔNG THÔN 1. Vai trò của phát triển dịch vụ xã hội nông thôn Người dân nông thôn vừa là những người thụ hưởng chính, đồng thời cũng là những người hoạt động chủ yếu trong phát triển nông thôn. Hiện có gần 75% dân số Việt Nam sống ở vùng nông thôn, mỗi năm dân số nông thôn tăng 1,4%. Vấn đề cần quan tâm là làm thế nào để cải thiện cuộc sống của người dân nông thôn ngay chính trên quê hương của họ để hạn chế di dân tự do vào các đô thị, mà tình trạng này đã gây ra sự nghèo khổ ở một số nước trong khu vực Ðông Nam Á. Khu vực nông thôn của các nước đang phát triển thường có tình trạng mức thu nhập của người dân thấp hơn nhiều so với thành phố. Có khoảng 1,2 tỷ người trên thế giới đang sống trong cảnh nghèo túng mà chủ yếu ở các vùng nông thôn bao gồm những người không có đất hoặc sống trên các vùng đất xấu, họ thiếu việc làm, thiếu sự hưởng thụ các điều kiện dịch vụ xã hội. Phát triển các dịch vụ xã hội nhằm góp phần phát triển sản xuất, nâng cao mức thu nhập và điều quan trọng là cải thiện điều kiện sống cho người dân nông thôn. Phát triển các dịch vụ xã hội nông thôn mà chúng ta quan tâm ở đây là cải thiện các điều kiện về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hoá, cung cấp nước sạch và vệ sinh. Cùng với việc nâng cao thu nhập, đẩy mạnh dịch vụ sản xuất, việc cải thiện các lĩnh vực dịch vụ xã hội là điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn, giảm dần sự các biệt về mức sống giữa nông thôn và thành thị. 2. Thực trạng phát triển các lĩnh vực dịch vụ xã hội nông thôn Trong 20 năm đổi mới, Ðảng và Chính phủ ta đã quan tâm đầu tư và đạt được nhiều tiến bộ trong các lĩnh vực dịch vụ xã hội: - Về nhà ở, đã có 70% số hộ nông thôn có nhà ở kiên cố và bán kiên cố, chính sách Comment [ND9]: Quyết định số 32/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ : Phê duyệt Quy hoạch phát triển viễn thông quốc gia đến năm 2020 xã hội tập trung hỗ trợ các hộ nghèo và hộ chính sách cải thiện nhà ở trong những năm tới. - Về giáo dục, Ðảng và Nhà nước ta rất quan tâm phát triển giáo dục, coi giáo dục là quốc sách đến nay đã có 99,9% số xã có trường tiểu học, 84,5% số xã có trường trung học cơ sở, 85,6% số xã có lớp mẫu giáo. Hệ thống trường học phát triển rộng khắp đã tạo điều kiện thuận lợi thu hút trẻ em trong độ tuổi tới trường. Chương trình kiên cố hoá trường học đang được triển khai rộng khắp. - Trong lĩnh vực y tế, thực hiện chủ trương đưa bác sĩ và cán bộ y tế tăng cường cho tuyến xã, hệ thống trạm y tế xã được củng cố và hoàn thiện. Cả nước đã có 8.909 xã, chiếm 99% số xã có trạm y tế. - Hệ thống cơ sở văn hoá ở nông thôn tiếp tục được hoàn thiện và phát triển. Ðến nay cả nước đã có 14% số xã có nhà văn hoá, 7% số xã có thư viện, các địa phương khác quan tâm xây dựng và củng cố nhà văn hoá xã góp phần nâng cao đời sống tinh thần của dân cư nông thôn. Tuy vậy còn nhiều mặt hạn chế trong phát triển các dịch vụ xã hội cần được nhìn nhận và khắc phục trong thời gian tới. - Về nhà ở thiếu sự quy hoạch phát triển nhà ở dân cư nông thôn, thiếu sự tuyên truyền hướng dẫn người dân làm nhà ở phù hợp, tiết kiệm. Vấn đề nhà ở cho người nghèo và hộ chính sách triển khai chậm. - Hệ thống cơ sở vật chất trường học khu vực nông thôn thường có chất lượng thấp, tỷ lệ người mù chữ còn khá cao ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tỷ lệ người lao động nông thôn qua đào tạo còn thấp, mới có 14% lao động nông nghiệp qua đào tạo ở các trình độ khác nhau. - Trạm y tế ở một số xã chất lượng thấp và trang bị không đầy đủ, vẫn còn một số người mắc bệnh sốt rét và lao. - Tỷ lệ số xã có nhà văn hoá và thư viện còn thấp, hệ thống phát thanh, thiết bị thể thao và nhà văn hoá thiếu và yếu. Những tồn tại trên đây cần được khắc phục trên cơ sở huy động nhiều nguồn lực tại chỗ, phát huy vai trò và sự tham gia của dân trong các dự án phát triển các lĩnh vực dịch vụ xã hội. 3. Chính sách và giải pháp phát triển dịch vụ xã hội nông thôn Ðảng và Nhà nước ta luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của phát triển các dịch vụ xã hội trong việc đáp ứng các yêu cầu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất và văn hoá ở cộng đồng nông thôn. Các lĩnh vực dịch vụ này ở Việt Nam chủ yếu do các tổ chức Nhà nước cung cấp. a) Nhà ở Nhà ở là tiện nghi thiết yếu nhất, có tầm quan trọng về an ninh, sức khoẻ và phồn thịnh của mỗi gia đình. Mục tiêu đến năm 2020: * Mục tiêu đến năm 2015: - Diện tích nhà ở bình quân toàn quốc đạt khoảng 22 m2 sàn/người, trong đó tại đô thị đạt 26 m2/sàn và tại nông thôn đạt 19 m2 sàn/người; phấn đấu đạt chỉ tiêu diện tích nhà ở tối thiểu 6 m2 sàn/người; - Trong giai đoạn 2011 - 2015, tiếp tục triển khai thực hiện các chương trình phát triển nhà ở xã hội tại khu vực đô thị và hỗ trợ các hộ nghèo khu vực nông thôn; phấn đấu xây dựng tối thiểu khoảng 10 triệu m2 nhà ở xã hội để giải quyết chỗ ở cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị (chủ yếu là nhà căn hộ chung cư); đáp ứng cho khoảng 60% số sinh viên, học sinh các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và 50% công nhân lao động tại các khu công nghiệp có nhu cầu về chỗ ở; hoàn thành việc hỗ trợ cho khoảng 400 nghìn hộ gia đình (theo chuẩn nghèo mới) tại khu vực nông thôn cải thiện nhà ở; - Tỷ lệ nhà ở kiên cố toàn quốc đạt khoảng 62%, trong đó tại đô thị đạt 65%, tại nông thôn đạt 60%; giảm tỷ lệ nhà ở đơn sơ xuống dưới 5%; nâng tỷ lệ hộ gia đình có công trình phụ hợp vệ sinh lên 70%, trong đó tại đô thị đạt 95% và tại nông thôn đạt 50%; - Tỷ lệ nhà ở chung cư trong các dự án phát triển nhà ở tại đô thị loại đặc biệt (Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) đạt trên 80%, đô thị từ loại I đến loại II đạt trên 50%, đô thị loại III đạt trên 30% tổng số đơn vị nhà ở xây dựng mới; tỷ lệ nhà ở cho thuê đạt tối thiểu khoảng 20% tổng quỹ nhà ở tại các đô thị loại III trở lên; - Phấn đấu hoàn thành việc hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở trên cơ sở các cơ chế, chính sách đã ban hành; tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và triển khai thực hiện các quy định về hỗ trợ người có công cách mạng cải thiện nhà ở. 2. Mục tiêu đến năm 2020: - Diện tích nhà ở bình quân toàn quốc đạt khoảng 25 m2 sàn/người, trong đó tại đô thị đạt 29 m2 sàn/người và tại nông thôn đạt 22 m2 sàn/người; phấn đấu đạt chỉ tiêu diện tích nhà ở tối thiểu 8 m2 sàn/người; - Trong giai đoạn 2016 - 2020, phấn đấu thực hiện đầu tư xây dựng tối thiểu khoảng 12,5 triệu m2 nhà ở xã hội tại khu vực đô thị; đáp ứng cho khoảng 80% số sinh viên, học sinh các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và khoảng 70% công nhân lao động tại các khu công nghiệp có nhu cầu được giải quyết chỗ ở; hỗ trợ cho khoảng 500 nghìn hộ gia đình (theo chuẩn nghèo mới) tại khu vực nông thôn cải thiện nhà ở; - Tỷ lệ nhà ở kiên cố toàn quốc đạt khoảng 70%, trong đó tại đô thị đạt trên 75%, tại nông thôn đạt 65%; xóa hết nhà ở đơn sơ trên phạm vi toàn quốc; nâng tỷ lệ hộ gia đình có công trình phụ hợp vệ sinh lên 90%, trong đó tại đô thị đạt xấp xỉ 100% và tại nông thôn đạt trên 80%; - Tỷ lệ nhà ở chung cư trong các dự án phát triển nhà ở tại các đô thị loại đặc biệt (Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) đạt trên 90%, đô thị từ loại I đến loại II đạt trên 60%, đô thị loại III đạt trên 40% tổng số đơn vị nhà ở xây dựng mới; tỷ lệ nhà ở cho thuê đạt tối thiểu khoảng 30% tổng quỹ nhà ở tại các đô thị loại III trở lên. Đến năm 2030, phấn đấu đạt chỉ tiêu diện tích nhà ở bình quân toàn quốc khoảng 30 m2 sàn/người, diện tích nhà ở tối thiểu đạt 12 m2 sàn/người. b) Giáo dục Giáo dục có tầm quan trọng nâng cao dân trí, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao điều kiện sức khoẻ, công ăn việc làm, thu nhập và đời sống trong một xã hội phát triển không ngừng. Quá trình hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn phụ thuộc vào việc Comment [ND10]: Quyết định 2127/QĐ- TTg ngày 30/11/2012 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 phát triển kỹ năng của người dân, làm cho họ có thể sử dụng công nghệ để khai thác các tiềm năng của địa phương và đáp ứng yêu cầu chất lượng lao động trong nền kinh tế thị trường. Các giải pháp chính về phát triển giáo dục nông thôn: - Xây dựng, sửa chữa và nâng cấp các trường học ở các vùng nông thôn. - Trang bị tốt hơn phương tiện phục vụ giảng dạy và thực hành cho các trường. - Phát triển các trường nội trú ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. - Các phương pháp giáo dục đặc biệt ở một số vùng xa xôi hẻo lánh và dân tộc ít người. - Hỗ trợ đặc biệt nhằm khuyến khích giáo viên làm việc ở các vùng sâu, vùng xa. Mục tiêu đến 2020: Với giáo dục mầm non là hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2015. Đến năm 2020, có ít nhất 30% trẻ trong độ tuổi nhà trẻ và 80% trong độ tuổi mẫu giáo được chăm sóc, giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng trong các cơ sở giáo dục mầm non giảm xuống dưới 10%. Đối với giáo dục phổ thông, chất lượng giáo dục toàn diện được nâng cao. Đến năm 2020 tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở tiểu học là 99%, trung học cơ sở là 95% và 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn trung học phổ thông và tương đương; có 70% trẻ em khuyết tật được đi học. Đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, đến năm 2020, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có đủ khả năng tiếp nhận 30% số học sinh tốt nghiệp THCS; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề nghiệp và đại học đạt khoảng 70%; tỷ lệ sinh viên tất cả các hệ đào tạo trên một vạn dân vào khoảng 350 - 400. Giáo dục thường xuyên cũng được phát triển tạo cơ hội cho mọi người có thể học tập suốt đời, bước đầu hình thành xã hội học tập. Đến năm 2020, tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 trở lên là 98% và tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 đến 35 là 99% đối với cả nam và nữ. c) Y tế Phát triển hệ thống dịch vụ y tế nhằm chăm sóc sức khoẻ và phòng bệnh, trị bệnh tại chỗ cho người dân nông thôn, bảo đảm cho mọi người có sức khoẻ tốt cho một cuộc sống năng động. Chiến lược đến năm 2020: - Phấn đấu tăng tuổi thọ trung bình đạt 79 năm đến năm 2015, 80 năm đến năm 2020 và 81 năm đến năm 2030; - Phấn đấu hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 12,28 °/oo năm 2010 xuống 11,5‰ vào năm 2015, 11‰ vào năm 2020 và dưới 10‰ vào năm 2030; - Giảm tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi từ 12,6 ‰ năm 2010 xuống 10,0‰ vào năm 2015; dưới 8,0‰ vào năm 2020 và dưới 6‰ vào năm 2030; - Giảm tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi từ 14,5‰ năm 2010 xuống 12,0‰ vào năm 2015, dưới 10,0‰ vào năm 2020 và dưới 8,0‰ vào năm 2030; - Khống chế tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư dưới 0,3% vào năm 2020, giảm dần số người nhiễm mới trong cộng đồng; - Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng từ 11,9% năm 2010 xuống Comment [ND11]: Quyết định số 711/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt "Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020" 10,0% vào năm 2015; dưới 8,0% vào năm 2020 và dưới 7,0% vào năm 2030; - Giảm tỷ lệ tử vong mẹ từ 14 bà mẹ /100.000 trẻ đẻ sống năm 2010 xuống dưới 12 bà mẹ /100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2015, dưới lo bà mẹ /100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2020 và dưới 8 bà mẹ /100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2030; - Phấn đẩu đến năm 2015 tỷ lệ bác sỹ đạt 12,5 bác sĩ /10.000 dân, dược sỹ đại học đạt 2 dược sĩ /10.000 dân;" đến năm 2020 đạt 13,5 bác sỹ /10.000. dân, 2,5 dược sỹ /10.000 dân; năm 2030 đạt 14 bác sỹ/10.000 dân, 3 dược sỹ/10.000 dân; nhân viên điều dưỡng từ 3 - 4 nhân viên/bác sỹ; - Phấn đấu tăng tỷ lệ giường bệnh lên 20 giường bệnh/10.000 dân vào năm 2015; 25 giường bệnh/10.000 dân vào năm 2020 và 30 giường bệnh /10.000 dân vào năm 2030; - Phấn đấu đến năm 2015 bảo đảm 100% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế xã; đến năm 2020 nâng cấp và duy trì đạt chuẩn quốc gia về y tế xã (theo chuẩn mới của Bộ y tế). d) Văn hoá Việt Nam có nền văn hoá dân tộc phát triển mạnh mẽ, một kho tàng khổng lồ các truyền thống văn hoá khác nhau của 54 dân tộc. Ðời sống ngày càng cao càng đòi hỏi phải phát triển mạnh các hoạt động văn hoá, đó là món ăn tinh thần cho một cuộc sống phồn thịnh và lành mạnh. Chiến lược phát triển Trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, mục tiêu trọng tâm của Chiến lược phát triển văn hoá cần phải đạt tới: Một là, hướng mọi hoạt động văn hoá vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo; tuân thủ pháp luật; có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội, làm cho văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; gắn kết mối quan hệ giữa văn hoá và xây dựng môi trường văn hoá với vấn đề hình thành nhân cách. Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hoá dân tộc, vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hoá các dân tộc anh em, vừa kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất trong ða dạng của vãn hoá Việt Nam, tập trung xây dựng những giá trị vãn hoá mới, ði ðôi với việc mở rộng và chủ ðộng trong giao lýu quốc tế, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa vãn hoá thế giới, làm phong phú thêm nền vãn hoá dân tộc, bắt kịp sự phát triển của thời ðại. Ba là, giải phóng mạnh mẽ năng lực và tiềm năng sáng tạo của mọi người, phát huy cao độ tính sáng tạo của trí thức, văn nghệ sĩ; đào tạo tài năng văn hoá, nghệ thuật; tạo cơ chế, chính sách và cơ sở vật chất để có nhiều sản phẩm văn hoá, nghệ thuật chất lượng cao xứng tầm với dân tộc và thời đại; nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về lý luận và thực tiễn việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Bốn là, tạo mọi điều kiện nâng cao mức hưởng thụ và tham gia hoạt động, sáng tạo văn hoá của nhân dân; phấn đấu từng bước thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn Comment [ND12]: -Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 hoá, nghệ thuật giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Năm là, đi đôi với việc tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá, huy động mọi nguồn lực cho phát triển văn hoá, coi đầu tư cho văn hoá là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, làm cho văn hoá tham gia tích cực vào việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” của đất nước. III. PHÁT TRIỂN MÔI TRƯỜNG NÔNG THÔN 1. Vai trò của môi trường trong phát triển nông thôn Cuộc sống của con người phụ thuộc rất nhiều vào năng suất của các tài nguyên thiên nhiên bao gồm đất đai, đồi núi, rừng, biển, sông ngòi... Tình trạng của môi trường có tầm quan trọng đối với con người hiện tại và các thế hệ mai sau, nếu môi trường bị suy thoái sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mùa màng, sức khoẻ, đời sống. Dân số thế giới không ngừng tăng lên dẫn đến nhu cầu về lương thực, năng lượng, nguyên liệu cũng tăng theo, việc đáp ứng các nhu cầu này đòi hỏi khai thác nhiều hơn nữa tài nguyên thiên nhiên hiện có đặc biệt là đất nông nghiệp, rừng, biển, nước, khoáng sản... Nếu biết quản lý và khai thác lâu bền các tài nguyên trên thì sẽ tránh được những sức ép về sự giảm cấp và khan hiếm tài nguyên. Sự nghèo nàn, lạc hậu, tăng dân số là những thách thức lớn nhất cho vấn đề bảo vệ môi trường. Tình trạng quản lý yếu kém dẫn đến sự ô nhiễm môi trường, khan hiếm tài nguyên, mất đa dạng sinh học, làm thay đổi khí hậu trái đất, thiên tai, phát triển không bền vững. Vấn đề đặt ra cho nhân loại là làm thế nào để quản lý bền vững môi trường sống trong quá trình phát triển. Có ba trở ngại chính trong quản lý hợp lý môi trường: - Không nhận thức được sự khan hiếm tài nguyên và ý thức bảo vệ môi trường sống. - Không xác định rõ trách nhiệm trong quản lý tài nguyên. - Không đủ kiến thức và nguồn lực để quản lý môi trường. Ðể khắc phục những trở ngại đó, từng cá nhân và cộng đồng phải tiếp cận kiến thức và đầu tư nguồn lực vào bảo vệ môi trường, phải có những khuyến khích và tăng cường trách nhiệm để hoạt động của mỗi người không gây phí tổn cho người khác. Nhà nước giữ vai trò chính trong hoạch định chính sách môi trường và định hướng hành động, các cộng đồng và cá nhân tham gia quản lý tài nguyên trên cơ sở luật pháp và các dịch vụ hỗ trợ của Chính phủ. 2. Những chính sách và giải pháp phát triển môi trường nông thôn a) Quản lý và sử dụng đất lâu bền Ðất là tài nguyên thiên nhiên quý giá của nhân loại, đất đai ngày càng trở nên khan hiếm do dân số thế giới không ngừng tăng lên nhưng diện tích đất thì không thay đổi. Quản lý, sử dụng hợp lý quỹ đất hiện có trở thành trách nhiệm của mỗi người. Comment [ND13]: Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06 tháng 5 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2020 Hàng năm thế giới bị mất từ 6 đến 7 triệu ha đất nông nghiệp do xói mòn, rửa trôi, nhiễm phèn hoặc sa mạc hoá. Ðó là hậu quả do con người sử dụng đất không đúng, sử dụng quá mức hoặc quản lý đất yếu kém gây nên. Ðất nông nghiệp luôn có nguy cơ giảm mạnh do sự phát triển của công nghiệp, dịch vụ và quá trình đô thị hoá. Rừng có nguy cơ bị tàn phá do yêu cầu sử dụng gỗ, củi ngày càng tăng, do nghèo đói và thiếu ý thức của con người. Tổng diện tích tự nhiên của Việt Nam là gần 32,92 triệu ha. Trong đó có 9,40 triệu ha đất nông nghiêp; 21,05 triệu ha đất có rừng; 1,61 triệu ha đất chuyên dùng; 0,45 triệu ha đất ở đô thị và nông thôn; 0,41 triệu ha đất trống và sông suối, núi đá, trong số đó một bộ phận lớn đất này trước kia là rừng đã bị tàn phá. Ðảng và Chính phủ luôn hướng sự quan tâm vào việc quản lý, sử dụng lâu bền và có hiệu quả quỹ đất hiện có bằng các chủ trương và biện pháp sau: • Trong phát triển công nghiệp và đô thị giảm tới mức thấp nhất việc xây dựng trên đất nông nghiệp có chất lượng cao. Nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích phi nông nghiệp ngày một tăng trong quá trình phát triển, đặt ra một thách thức lớn là sử dụng đất như thế nào. Ở một số nước đang phát triển Nam Á, Ðông Nam Á, Nam Mỹ, năm mươi năm qua đã chứng kiến cảnh di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành thị do tình trạng nghèo đói ở vùng nông thôn. Kết quả là các thành phố đã mở rộng ra các vùng ngoại ô, các khu nhà ổ chuột đã mọc lên chiếm nhiều đất mà đáng lý những đất này cần được sử dụng tốt hơn để sản xuất lương thực, thực phẩm, trong khi đó đất nông nghiệp ở nông thôn đã không được sử dụng hiệu quả vì không được đầu tư. Việt Nam đã có một chính sách khác đó là phát triển các vùng nông thôn để người dân có cuộc sống tốt hơn tránh việc di dân ra thành phố. Tuy vậy trong quá trình công nghiệp hoá
File đính kèm:
- tieu_luan_phat_trien_nong_thon.pdf