Tiểu luận Phát triển nông thôn

pdf 29 trang yenvu 21/06/2024 1070
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Phát triển nông thôn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Phát triển nông thôn

Tiểu luận Phát triển nông thôn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HỒ CHÍ MINH 
PHÒNG ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC 
---------- 
Hiệu đính chương III giáo trình : 
 PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN 
Giáo viên hướng dẫn : TS .Trần Đắc Dân 
Nhóm thực hiện: Nhóm 3 
 - Huỳnh Lê Ái Linh 
- Ngô Thị Thanh Hương 
- Lê Thị Dung 
- Nguyễn Thị Như Ngọc 
- Nguyễn Đại Thắng 
Đà Lạt – 2012 
Chương III 
PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG 
DỊCH VỤ XÃ HỘI VÀ MÔI TRƯỜNG NÔNG THÔN 
I. PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG NÔNG THÔN 
1. Vai trò của phát triển cơ sở hạ tầng 
Cơ sở hạ tầng là hệ thống các công trình làm nền tảng cung cấp những yếu tố 
cần thiết cho phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống. Cơ sở hạ tầng 
bao gồm cung cấp nước, tưới tiêu và phòng chống bão lụt, cung cấp năng lượng, 
giao thông, thông tin liên lạc... Kinh tế - xã hội nông thôn không thể phát triển nếu 
các yếu tố cơ sở hạ tầng không được đáp ứng. 
Sản xuất và đời sống phát triển đòi hỏi cơ sở hạ tầng phải được đầu tư ngày 
càng hoàn thiện và đồng bộ. Cơ sở hạ tầng được đầu tư đi trước một bước với tầm 
nhìn mang tính chiến lược để phục vụ lâu dài, phù hợp và có hiệu quả. Một trong 18 
kinh nghiệm được rút ra trong phát triển nhanh và có hiệu quả nền kinh tế - xã hội từ 
các nước được coi là “Bốn con rồng châu Á” đó là ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ 
tầng trong đó giao thông đi trước một bước. 
Cơ sở hạ tầng bao gồm một tổng thể các công trình mang tính hệ thống, đồng 
bộ, phục vụ lâu dài, có tính thẩm mỹ, tính tiên phong định hướng, vốn đầu tư lớn. 
Do đó Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quy hoạch phát triển hệ thống 
cơ sở hạ tầng, thu hút vốn đầu tư, xây dựng chính sách giá cả và luật lệ trong quản lý 
và sử dụng cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng rất lớn và thường 
bao gồm bốn nguồn chính: Ngân sách Nhà nước; viện trợ hoặc vốn vay nước 
ngoài; vốn doanh nghiệp Nhà nước; vốn đầu tư tư nhân. Ðối với các địa phương, 
vốn xây dựng cơ sở hạ tầng còn có thể huy động từ sự đóng góp tài chính và sức lao 
động của dân. 
Ðịa bàn nông thôn trải rộng và phân bố trên phạm vi toàn quốc, các làng xã 
phân bố rải rác dẫn tới việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn thường tốn kém 
và khó khăn, nếu không có cách nhìn đúng nông thôn sẽ ít có cơ hội nhận được sự 
đầu tư và như vậy càng làm cho khu vực nông thôn tụt hậu so với thành thị. 
Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nhằm tạo cơ sở thực hiện 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; từng bước thay đổi cơ cấu 
kinh tế nông thôn, xoá đói giảm nghèo và giảm dần khoảng cách giữa nông thôn và 
thành thị là chủ trương lớn của Ðảng và Nhà nước ta. 
2. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn 
Trước đây hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam rất lạc hậu do nền kinh 
tế 
yếu kém, do hậu quả của chiến tranh và thiên tai. Từ sau ngày đất nước thống nhất, 
nhất 
là từ thời kỳ đổi mới gần 20 năm qua, Ðảng và Chính phủ Việt Nam rất quan tâm đầu 
tư cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn bằng các chương trình, dự án quốc gia về điện, 
giao thông, thuỷ lợi, trường học, bệnh xá... Ðặc biệt Chương trình “135” về đầu tư 
xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn vùng núi, vùng sâu, vùng xa 
đã hỗ trợ cho 
2320 xã nghèo. Kết quả của cuộc tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thuỷ sản 
được tiến hành cuối năm 2001 do Tổng cục Thống kê công bố đã phản ánh những 
tiến bộ về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. 
- Về điện, thời kỳ 1994 - 2001 là thời kỳ điện khí hoá nông thôn thực sự được coi trọng 
và có tiến bộ vượt bậc. Nếu năm 1994 mới có 60% số xã, 50% số thôn và 53% số hộ có 
điện thì đến cuối năm 2003 đã có 93,9% số xã, 86,8% số hộ dùng điện. Năm 2011, cả 
nước đã có thêm 1,6 triệu hộ dân có điện phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh. Tính 
đến đầu năm 2012, 100% số huyện, 98,84% số xã, 97,38% số hộ dân (trong đó, riêng hộ 
dân nông thôn chiếm 96,43%) trên cả nước đã có điện. Việt Nam đang nằm trong nhóm 
đầu của châu Á về điện khí hóa nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo. Các đơn vị 
thành viên của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã bán điện trực tiếp đến hộ dân 
nông thôn tại 7.312 xã (chiếm 81,32% số xã có điện), 12,565 triệu hộ dân nông thôn 
mua điện trực tiếp từ điện lực (chiếm 80,18% số hộ dân nông thôn) sử dụng điện cùng 
một giá như người dân đô thị). 
- Giao thông nông thôn, là một yếu tố được Nhà nước quan tâm và đầu tư, đến cuối năm 
2001 cả nước có 94,5% số xã có đường ô tô đến trung tâm so với năm 1994 con số đó 
mới là 85%. Chất lượng đường tuy còn thấp nhưng đã có nhiều tiến bộ so với trước, đã 
có 16,5% số xã có 50% đường liên thôn được đổ nhựa hoặc bê tông. Trong giai đoạn 
2001-2010, nhờ có các chủ trương lớn của Đảng và việc thực hiện quyết liệt của Chính 
phủ, hiện nay hệ thống giao thông nông thốn đã có bước phát triển căn bản và nhảy vọt, 
làm thay đổi không chỉ về số lượng mà còn nâng cấp về chất lượng con đường về tới tận 
thôn xóm tạo điều kiện thuận lợi phát văn hóa, xã hội và thu hút các lĩnh vực đầu tư về 
khu vực nông thôn, tạo công ăn việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã 
hội.Theo số liệu thống kê, đến 01/7/2011 cả nước đã có 8940 xã, chiếm 98,6% tổng số 
xã cả nước đã có đường ô tô đến trung tâm xã (tăng 2,3% so với năm 2006), trong đó đi 
lại được 4 mùa là 8803 xã, chiếm 97,1% ( tăng 3,5% so với năm 2006); trong đó xã có 
đường ô tô đến trung tâm xã đã được nhựa hóa, bê tông hóa là 7917 xã chiếm 87,3% 
(tăng 17,2% so với năm 2006). Một điều đáng chú ý là không chỉ đường đến trung tâm 
huyện, xã được chú trọng mà đường đến các thôn, bản miền núi cũng được các cấp 
chính quyền hết sức quan tâm đầu tư với số liệu rất ấn tượng đó là có tới 89,5% số thôn, 
bản có đường ô tô đến được. Điều đó góp phần thay đổi cuộc sống của người dân nơi 
vùng cao vốn chịu nhiều thiệt thòi về điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng cũng như văn hóa 
xã hội. So với năm 2005, tổng số chiều dài km đường giao thông nông thôn tăng thêm 
34.811km; trong đó số km đường huyện tăng thêm 1.563km, đường xã tăng 17.414km 
và đường thôn xóm tăng 15.835km từ những nguồn vốn đầu tư cho giao thông nông 
thôn rất đa dạng được huy động từ nhiều nguồn: Ngân sách trung ương, ngân sách địa 
phương (chiếm khoảng 50% phần dành cho cơ sở hạ tầng giao thông của các tỉnh); vốn 
ODA (các chương trình hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng của WB, Chương trình 
giảm nghèo Miền trung của ADB hay Giao thông nông thôn của Ngân hàng thế giới 
WB); vốn huy động của doanh nghiệp, tín dụng và của cộng đồng nhân dân. Theo số 
liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư, các ngồn vốn đầu tư cho giao thông nông thôn trong 10 
Comment [ND1]: 
.vn/news/vn/nhan-dinh-phan-bien-kien-
nghi/loi-ich-tu-dien-khi-hoa-nong-thon.html 
năm qua ước tính khoảng 170.000-180.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước chiếm 
khoảng 70% tổng nguồn vốn được huy động; vốn huy động từ cộng đồng, doanh nghiệp 
chiếm khoảng 10-15% tổng nguồn vốn, kể cả việc huy động từ đóng góp của cộng đồng 
dân cư để đầu tư; ngoài ra các địa phương còn huy động từ các nguồn khác như thu phí 
sử dụng đất, thu sổ số kiến thiết Chỉ tính riêng giai đoạn 2003 đến năm 2010, cả nước 
đã đầu tư 749 dự án đường giao thông đến trung tâm xã trên địa bàn các xã nông thôn, 
miền núi thuộc các vùng: Trung du và miền núi Bắc bộ; đồng bằng sông Hồng; duyên 
hải miền Trung; Tây nguyên; Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu long với tổng mức 
đầu tư các dự án đầu tư đường ô tô đến trung tâm xã cả giai đoạn được các địa phương 
phân bổ vốn TPCP là 32.951 tỷ đồng, các địa phương cũng đã chủ động lồng ghép các 
nguồn vốn khác trên địa bàn để thực hiện.) 
- Hệ thống thông tin liên lạc ở nông thôn, được Nhà nước đầu tư xây dựng 
các điểm bưu điện - vân hoá xã nhằm tăng cường sự tiếp cận và giao lưu cho 
người dân nông thôn với bên ngoài, đã có 83,8% số xã và 704,4 nghìn hộ nông thôn 
có máy điện thoại, 54,8% số xã có điểm bưu điện - văn hoá xã. 
- Cả nước có 5.101 xã chiếm 57% số xã có chợ; ở nhiều vùng chợ gắn liền với 
các trung tâm cụm xã, hoặc các điểm bưu điện - văn hoá xã, giúp cho người dân địa 
phương tăng cường giao lưu trao đổi hàng hoá, nâng cao dân trí, cung cấp thông tin thị 
trường. 
Tuy vậy, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nước ta còn nhiều vấn đề đặt ra 
cần 
được quan tâm khắc phục trong thời gian 
tới: 
- Sự phát triển không đồng đều và chất lượng còn thấp của hệ thống kết cấu hạ 
tầng nông thôn là tồn tại lớn và phổ biến ở các vùng, các địa phương trong cả nước. 
- Chưa có đầu tư ưu tiên cho những vùng sản xuất hàng hoá tập trung, vùng có 
tiềm năng phát triển. 
- Còn sự chênh lệch khá lớn về cơ sở hạ tầng giữa vùng miền núi, vùng nghèo, 
vùng đồng bào dân tộc ít người với bình diện chung cả nước. Tây Bắc còn 50% số 
xã, số hộ chưa có điện; Ðắc Lắc còn 52% thôn bản, 45,4% số hộ chưa có điện..., giao 
thông ở nhiều vùng như Tây Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long còn kém phát triển ở 
những vùng này còn khoảng 80% xã chưa có đường ô tô hay đừơng đến xã còn gặp khó 
khăn... 
- Hệ thống cơ sở hạ tầng khác như trường học, bệnh xá và các cơ sở hạ tầng khác 
ở nông thôn phát triển chưa đều và chất lượng thấp, công tác quản lý, sử dụng, duy tu, 
sửa chữa còn nhiều bất cập, hiệu quả sử dụng hạn chế. 
- Hệ thống thông tin liên lạc tới các thôn xóm, làng bản; hệ thống nhà văn hoá, 
thư viện còn thiếu và yếu, nhiều người dân nông thôn ít được tiếp cận với thông 
tin bên ngoài do đó hạn chế đến hiểu biết về thông tin thị trường, chưa biết phát triển 
sản xuất hàng hoá... 
3. Chính sách và giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn 
Comment [ND2]: 
webdrvn/index.php?q=content/giao-thong-
nong-thon-trong-cong-cuộc-xay-dựng-nong-
thon-mới-va-hiện-dại-hoa-nong-thon-0 
Chiến lược phát triển đến năm 2010 của Chính phủ nhằm tạo ra những cố gắng 
lớn để khắc phục những thiếu sót trên. Chiến lược đề ra nhiệm vụ đến năm 2005, 
100% số xã có đường ô tô đến trung tâm, 100% số xã có điện và điện thoại. Trên 
phạm vi quốc gia chiến lược đặt ra chính sách ưu tiên trong phát triển cơ sở hạ tầng 
nông thôn sau: 
- Nâng cấp cơ sở hạ tầng đường giao thông, thuỷ lợi, nước sạch, điện... ở 
những vùng nông thôn hoặc dịch vụ công nghiệp ở những nơi có công nghiệp chế tạo 
hoặc thủ công nghiệp phát triển. 
- Cung cấp cơ sở hạ tầng công cộng thiết yếu cho những cộng đồng có điều 
kiện đặc biệt khó khăn thông qua Chương trình 135. Trong chương trình này, các 
xã được quyền hoạch định và sở hữu các dự án có quy mô nhỏ, phù hợp với nghị định 
của Chính phủ về Dân chủ cơ sở. 
Những chính sách và giải pháp cụ thể cho phát triển các lĩnh vực cụ thể của hệ 
thống cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm các nội dung sau đây: 
a) Thuỷ lợi 
Việt Nam có nguồn nước dồi dào gồm nước mưa, nước bề mặt, nứơc sông và 
hồ. Nhu cầu sử dụng nước ngày một gia tăng cho sản xuất, cho sinh hoạt của con 
người đã dẫn đến một thách thức lớn hiện nay. Nhiều cơ sở thuỷ lợi và công trình 
cấp, thoát nước, phòng chống lụt bão ở tình trạng xuống cấp do thiên tai, do hậu quả 
chiến tranh, do quản lý yếu kém cần phải đầu tư để khôi phục, nâng cấp. Chất lượng 
nước giảm dần do tiêu dùng vào nông nghiệp, công nghiệp, đời sống tăng lên làm 
cho con người phải cạnh tranh với nguồn nước khan hiếm do nạn phá rừng, thay đổi 
khí hậu toàn cầu... 
Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được thách thức trên đây, với tầm nhìn 
chiến lược quốc gia và sự hỗ trợ của Tổ chức “Hợp tác nước toàn cầu” đã đề ra 
chính sách nhằm sử dụng tốt hơn và hiệu quả hơn nguồn nước sẵn có, quản lý nước 
một cách thống nhất bao gồm: Quản lý tốt nguồn nước và chuyển giao dịch vụ tưới 
tiêu và cấp thoát nước, cung cấp nước sinh hoạt và dịch vụ vệ sinh cho các tổ chức 
tự quản của dân cư nông thôn - những người sử dụng nước. 
Luật về thuỷ lợi đã được Quốc hội thông qua tháng 5 năm 1998 đã xác định 
quyền sở hữu nước thuộc về nhân dân Việt Nam, Chính phủ thay mặt nhân dân quản 
lý nguồn nước. Thủ tướng Chính phủ đã thông qua Chiến lược quốc gia về cung cấp 
và vệ sinh nước cho nông thôn tháng 8 năm 2000, giao trách nhiệm đó cho Bộ 
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Ðã thành lập Cục Thuỷ lợi và các tổ chức quản 
lý lưu vực sông có sự kết hợp chặt chẽ giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 
với Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng và Bộ Tài nguyên Môi trường. 
Ðể nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp nước, thực hiện quan điểm quản lý 
có phân cấp và có sự tham gia của người dân. Khuyến khích các công ty quản lý thủy 
nông cấp tỉnh, huyện chuyển đổi để trở thành doanh nghiệp tự chủ về tài chính. Ðẩy 
mạnh sự tham gia của người dân và các tổ chức sử dụng nước thông qua hình thức 
hợp tác xã sử dụng nước và nhóm sử dụng nước. Nâng cao tính chủ động và tự chịu 
trách nhiệm của các tổ chức này trong việc tham gia xây dựng, quản lý, vận hành, sửa 
chữa và đóng góp, sử dụng thuỷ lợi phí. Tổ chức và hỗ trợ từ phía Nhà nước và các 
tổ chức bên ngoài về đào tạo, tập huấn kỹ thuật, quản lý và vận hành công trình, 
cung cấp dịch vụ để các công trình thuỷ lợi sử dụng lâu dài, có hiệu quả. 
Chiến lược đến năm 2020: “Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông 
thôn, trước hết là hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho toàn bộ diện tích lúa hai vụ, 
mở rộng diện tích rau, màu, cây công nghiệp, cấp thoát nước chủ động cho diện tích 
nuôi trồng thủy sản, làm muối, bảo đảm giao thông thông suốt bốn mùa tới hầu hết các 
xã và cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản... Nâng cao năng lực phòng chống, giảm 
nhẹ thiên tai, hoàn chỉnh hệ thống đê sông, đê biển và rừng phòng hộ ven biển, hệ thống 
cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, cụm dân cư, đáp ứng yêu cầu phòng chống bão, lũ, 
ngăn mặn và chống nước biển dâng: Tạo điều kiện sống an tòan cho nhân dân đồng bằng 
sông Cửu Long, miền trung và các vùng thường xuyên bị bão, lũ, thiên tai; Chủ động 
triển khai một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu...”. 
Để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu của Chính 
phủ và Nghị quyết số 26 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát 
triển nông thôn đã đề ra mục tiêu, các chương trình nghiên cứu và công tác quy hoạch hệ 
thống hạ tầng cơ sở nông nghiệp, nông thôn như: Bảo đảm ổn định, an toàn dân cư cho 
các thành phố, các vùng, miền, đặc biệt là các vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng 
bằng Bắc Bộ, miền Trung, miền núi; Bảo đảm sản xuất nông nghiệp ổn định, giữ vững 
3,8 triệu ha canh tác lúa hai vụ, đáp ứng yêu cầu an ninh lương thực, giữ an toàn hệ 
thống đê điều, các công trình dân sinh, hạ tầng kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu phòng tránh, 
giảm nhẹ thiên tai; Nghiên cứu và quy hoạch tổng thể thủy lợi đồng bằng sông Cửu 
Long trong điều kiện nước biển dâng; Quy hoạch chống lũ cho các hệ thống sông ở khu 
vực... 
Tuy nhiên, để thực hiện các chương trình và giải pháp này cần đầu tư nhiều công sức, 
tiền của và phải có kế hoạch cụ thể cho từng năm, từng thập kỷ sao cho các công trình 
được xây dựng vừa phù hợp với yêu cầu trước mắt, vừa đáp ứng được yêu cầu nâng cấp, 
kiên cố và hiện đại khi mức nước biển ngày một dâng cao. Tập trung cao độ cho việc 
nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật và triển khai sớm các công trình thủy lợi để đối phó và 
thích ứng với biến đổi khí hậu là cơ sở quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội ở khu vực 
nông nghiệp, nông dân và nông thôn một cách ổn định, vững chắc trước những bất lợi 
do biến đổi thời tiết gây ra 
b) Cung cấp nước sạch 
Cung cấp đầy đủ nước sạch cho nhu cầu sử dụng hàng ngày là một yếu tố nâng 
cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn, bảo vệ sức khoẻ, phòng chống dịch 
bệnh. Mặc dù có sự quan tâm lớn của Chính phủ, các tổ chức và cộng đồng dân cư 
các địa phương với 150 dự án cung cấp nước, nhưng hiện mới có khoảng 60% người 
dân nông thôn được dùng nước sạch. 
Mục tiêu đến năm 2015, khoảng 85% dân số nông thôn sẽ được sử dụng nước 
sinh hoạt hợp vệ sinh; 100% các trường mầm non và phổ thông, trạm y tế xã ở nông 
thôn đủ nước sạch. Tổng mức vốn thực hiện chương trình khoảng 27.600 tỷ đồng. 
Trong đó dành gần 20.000 tỷ đồng thực hiện dự án Cấp nước sinh hoạt và môi trường 
nông thôn; gần 6.000 tỷ đồng thực hiện dự án Vệ sinh nông thôn và gần 2.000 tỷ đồng 
thực hiện dự án Nâng cao năng lực, truyền thông và giám sát, đánh giá thực hiện 
Comment [ND3]: Nghị quyết số 26-
NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn 
do Ban Chấp hành Trung ương ban hành ngày 
5/8/2008 
chương trình. Chương trình đặt ra các hạng mục ưu tiên, cụ thể: Với các công trình cấp 
nước tập trung, các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi, vùng bãi 
ngang ven biển và hải đảo, nguồn vồn ngân sách trung ương sẽ hỗ trợ tối đa 90%. Đối 
với xã biên giới sẽ được hỗ trợ ngân sách 60%; đối với xã đồng bằng và 75% đối với 
xã nông thôn khác. Phần phần kinh phí còn lại để thực hiện dự án sẽ lấy từ nguồn vốn 
ngân sách địa phương và huy động từ các nguồn vốn hợp pháp khác. 
Cũng theo chương trình, đối với các công trình cấp nước nhỏ lẻ, ngân sách nhà 
nước hỗ trợ tối đa 70% đối với hộ nghèo và gia đình chính sách; 35% đối với hộ cận 
nghèo. Đối với công trình cấp nước và vệ sinh trường học, trạm y tế, ngân sách nhà 
nước hỗ trợ tối đa 90%. Đối với hoạt động xây dựng các mô hình nhà tiêu và chuồng 
trại chăn nuôi hợp vệ sinh (gồm cả Biogas), quyết định nêu rõ: Ngân sách nhà nước hỗ 
trợ 70% đối với hộ nghèo, gia đình chính sách và 35% đối với hộ cận nghèo, các hộ 
gia đình khác được dùng nguồn vốn vay tín dụng ưu đãi theo quy định. 
Mục tiêu đến năm 2020 
Tất cả dân cư nông thôn sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc gia với 
số lượng tối thiểu 60lít/người-ngày và sử dụng hố xí hợp vệ sinh nhờ huy động cộng 
đồng tham gia mạnh mẽ và áp dụng cách tiếp cận dựa vào nhu cầu. Hầu hết dân cư 
nông thôn thực hành tốt vệ sinh cá nhân và giữ sạch vệ sinh môi trường làng xã nhờ 
các hoạt động Thông tin - Giáo dục - Truyền thông. 
c) Tưới tiêu và phòng chống lũ lụt 
Ðẩy mạnh thâm canh nông nghiệp yêu cầu ngày càng cao công tác thủy lợi phục 
vụ tưới tiêu. Do đặc điểm khí hậu và địa hình, khu vực đồng bằng hàng năm thường 
bị lũ lụt, khu vực trung du và miền núi thường bị hạn hán làm thiệt hại mùa màng và 
của cải. Trang thiết bị và hệ thống quản lý tưới tiêu, phòng chống lũ lụt còn nhiều yếu 
kém, hơn nữa tại một số vùng, nguồn cung cấp nước khan hiếm nhưng lại được sử 
dụng một cách kém hiệu quả. 
Mục tiêu đến năm 2020: 
- Cấp đủ nguồn nước để khai thác được 11 ,4 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó 
có 6,7 triệu ha cây hàng năm (riêng đất lúa 4,1 triệu ha), 3,2 triệu ha cây lâu năm. Đưa 
diện tích gieo trồng cây lương thực chính là lúa lên 7,6 trệu ha và ngô 1,2 triệu ha, 
trong đó tưới chủ động được 85 %. 
- Cấp nước cho nuôi thả thuỷ sản, chủ yếu là nuôi tôm 0,65 triệu ha; nuôi quảng 
canh cải tiến 0,35 triệu ha, bán thâm canh 0,15 triệu ha, thâm canh 0,15 triệu ha. Trong 
đó cấp nước chủ động cho khoảng 80% diện tích nuôi trồng thuỷ sản, phần lớn tập 
trung ở vùng ven biển ở ĐBSCL và ĐBSH. 
- Cấp nước sinh hoạt: nông thôn - 100% dân có nguồn nước sinh hoạt hợp vệ sinh 
với mức ít nhất là 60 l/người/ngày; đô thị : - 1 00% dân được cấp 180 l/ng.ng (đô thị 
loại I), 165 l/ng.ng (đô thị loại II), được cấp 150 l/ng.ng (đô thị loại III, IV, V) 
- Đảm bảo đủ nước cho phát triển công nghiệp với mức cấp từ 50- 100 m3 ha xây 
dựng. 
Mục tiêu 2: Nâng cao mức an toàn phòng chống và thích nghi để giảm thiểu tổn 
thất do thiên tai bão lũ gây ra: 
- Các lưu vực sông lớn ở Bắc bộ và bắc Trung bộ: củng cố và phát triển các giải 
pháp phòng chống lũ để chống lũ chính vụ an toàn với mức bảo đảm: 
Comment [ND4]: 
/s255-582522/gan-28000-ty-dong-cung-cap-
nuoc-sach-cho-nong-dan.htm 
Comment [ND5]: Chiến lược Quốc gia 
cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn ban hành 
kèm theo quyết định số Quyết định số 
104/2000/QĐ-TTg ngày 25-8-2000 của Thủ 
tướng Chính phủ 
HT sông Năm 2010 Năm 2020 Ghi chú 
s. Hồng & Thái Bình p = 0.4 % p = 0.2% tại Hà Nội 
s. Mã p =1% p < l% tại Cầu Tào 
s. Cả p =l% p<l% tại Bến Thuỷ 
s. Hương p =5,9% p<5,9% tại Kim Long 
Các sông khác ở Trung bộ, DH NTB, TN, ĐNB bảo đảm chống lũ chủ động bảo vệ dân 
cư sản xuất vụ hè thu và đông xuân với tần suất từ 5 - 10 %. 
- Hình thành được vùng an toàn lũ ở vùng ngập nông, đảm bảo các điều kiện thích nghi 
và an toàn cho dân sinh, sản xuất ở vùng ngập sâu của ĐBSCL. Đến năm 2010 kiểm soát 
được lũ lớn như lũ năm 1961 trên dòng chính và lũ năm 2000 trong nội đồng. Từ sau 
năm 20 1 0 tiếp tục củng cố các hệ thống bờ bao và các công trình để kiểm soát lũ ở mức 
độ cao hơn. 
- Hệ thống đê biển, đê cửa sông đảm bảo chống được mức nước triều tần suất 5% ứng 
với gió bão cấp 9 (2010) và cấp 10 (2020). 
- Đảm bảo an toàn công trình: hồ chứa, đê kè cống..., ổn định bờ sông, bờ biển. 
Mục tiêu 3: Quản lý tốt các lưu vực sông, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên nước, 
phát triển bên vững, chống Ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước các lưu vực sông chính (2010) 
và tất cả các lưu vực sông quốc gia (2020). Nâng cao được năng lực quản lý nguồn nước 
từ Trung ương đến địa phương. 
Muc tiêu 4: Nâng cao năng lực và trình độ khoa học công nghệ về nghiên cứu 
đánh giá nguồn nước, quy hoạch, thiết kế, xây dựng thuỷ lợi và quản lý tài nguyên 
nước, quản lý khai thác công trình thuỷ lợi đạt mức trung bình (năm 2010) và mức trên 
trung bình của châu á (năm 2020). 
d) Năng lượng 
Mức tiêu thụ năng lượng và sử dụng năng lượng tái tạo là một tiêu chí đánh 
giá trình độ phát triển. Nông thôn Việt Nam chủ yếu sử dụng 70% năng lượng từ 
củi và thân lá thực vật khác, 15 - 20% năng lượng sức kéo súc vật, chỉ có từ 10 - 
15% năng lượng công nghiệp như điện, dầu và than. Ðiều đó cho thấy mức độ sử 
dụng năng lượng của nông thôn Việt Nam còn đang ở trình độ thấp, nguy cơ phá 
rừng làm chất đốt cho sinh hoạt và sản xuất là mối lo ngại cần được quan tâm để khắc 
phục. 
Việc sử dụng năng lượng từ tài nguyên không tái tạo dẫn đến nguy cơ cạn kiệt 
tài nguyên và làm ô nhiễm môi trường, các nước phát triển đang chuyển sang sử dụng 
năng lượng tái tạo được, năng lượng sạch như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, 
điện ngày một nhiều. 
Nếu không đẩy mạnh điện khí hoá nông thôn thì khó đạt được sự tăng trưởng 
nhanh kinh tế nông thôn, chiến lược đến năm 2010 phấn đấu trên 90% số hộ nông 
thôn được dùng điện. Vốn cần thiết cho chương trình này khoảng 40.000 tỉ đồng, 
trong đó đầu tư từ Nhà nước là 80% gồm vốn ngân sách và vốn vay, còn 20% là 
vốn đóng góp của dân. () 
Ðẩy mạnh phong trào sử dụng khí bioga trong nông thôn nhất là những nơi có 
điều kiện phát triển chăn nuôi trâu bò, lợn, gia cầm. 
Mục tiêu đến năm 2020: 
Comment [ND6]: 
/?id_pnewsv=345&lg=vn&start=0 
a) Mục tiêu tổng quát 
Để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - 
xã hội của Đảng, mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia 
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 là: bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, góp 
phần bảo đảm giữ vững an ninh, quốc phòng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ 
của đất nước; cung cấp đầy đủ năng lượng với chất lượng cao cho phát triển kinh tế - 
xã hội; khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong 
nước; đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh trong lĩnh vực năng lượng, hình 
thành và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh lành mạnh; đẩy mạnh phát triển 
nguồn năng lượng mới và tái tạo, năng lượng sinh học, điện hạt nhân để đáp ứng nhu 
cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; phát triển 
nhanh, hiệu quả và bền vững ngành năng lượng đi đôi với bảo vệ môi trường. 
b) Mục tiêu cụ thể 
- Phấn đấu đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã 
hội: trong đó năng lượng sơ cấp năm 2010 khoảng 47,5 - 49,5 triệu TOE (tấn dầu quy 
đổi), đến năm 2020 đạt khoảng 100 - 110 triệu TOE, đến năm 2025 khoảng 110 - 120 
triệu TOE và đến năm 2050 khoảng 310 - 320 triệu TOE. 
- Nâng cao độ chính xác trong việc đánh giá trữ lượng các nguồn năng lượng sơ 
cấp (than, dầu khí, thủy điện và u-ra-ni-um). Mở rộng hợp tác với các nước trong khu 
vực và thế giới trong việc tìm kiếm, thăm dò, khai thác than, dầu khí và các dạng năng 
lượng khác ở nước ngoài bổ sung nguồn năng lượng thiếu hụt trong nước. 
- Phát triển nguồn, lưới điện, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu điện cho phát triển 
kinh tế - xã hội, đến năm 2010 độ tin cậy cung cấp của nguồn điện là 99,7%; lưới điện 
bảo đảm tiêu chuẩn n-1. 
- Phát triển các nhà máy lọc dầu, từng bước đáp ứng đủ nhu cầu về các sản phẩm 
dầu trong nước, đưa tổng công suất các nhà máy lọc dầu lên khoảng 25 đến 30 triệu 
tấn dầu thô vào năm 2020. 
- Bảo đảm mức dự trữ chiến lược xăng dầu quốc gia đạt 45 ngày tiêu thụ bình 
quân vào năm 2010, đạt 60 ngày vào năm 2020 và đạt 90 ngày vào năm 2025. 
- Phấn đấu tăng tỷ lệ các nguồn năng lượng mới và tái tạo lên khoảng 3% tổng 
năng lượng thương mại sơ cấp vào năm 2010; khoảng 5% vào năm 2020, và khoảng 
11% vào năm 2050. 
- Hoàn thành chương trình năng lượng nông thôn, miền núi. Đưa số hộ nông thôn 
sử dụng năng lượng thương mại để đun nấu lên 50% vào năm 2010 và 80% vào năm 
2020. Đến năm 2010 đạt 95% số hộ dân nông thôn có điện, đến năm 2020 hầu hết số 
hộ dân nông thôn có điện. 
- Xây dựng các mục tiêu, tiêu chuẩn dài hạn về môi trường theo hướng thống nhất 
với tiêu chuẩn môi trường khu vực và thế giới, phù hợp với điều kiện kinh tế của đất 
nước. Kiểm soát và giảm nhẹ ô nhiễm môi trường trong các hoạt động năng lượng; đến 
năm 2015 tất cả các công trình năng lượng phải đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường. 
- Chuyển mạnh các ngành điện, than, dầu khí sang hoạt động theo cơ chế thị 
trường cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước. Hình thành thị trường bán lẻ điện cạnh 
tranh giai đoạn sau năm 2022; hình thành thị trường kinh doanh than, dầu khí trong 
giai đoạn từ nay đến năm 2015. 
- Tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết và đồng bộ để đưa tổ máy điện hạt 
nhân đầu tiên vận hành vào năm 2020, sau đó tăng nhanh tỷ trọng điện hạt nhân trong 
cơ cấu năng lượng quốc gia. Đến năm 2050, năng lượng điện hạt nhân chiếm khoảng 
15 - 20% tổng tiêu thụ năng lượng thương mại toàn quốc. 
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng. Phấn đấu từ năm 2010 - 
2015, thực hiện liên kết lưới điện khu vực (bằng cấp điện áp đến 500 kV), từ năm 2015 
- 2020, thực hiện liên kết hệ thống khí thiên nhiên khu vực. 
e) Giao thông 
Phát triển giao thông là một yếu tố cần thiết trong đời sống xã hội và kinh tế 
nông thôn, hệ thống giao thông yếu là một trở ngại lớn đối với phát triển nông thôn 
trong việc tiếp cận thị trường, cung ứng các yếu tố đầu vào, bán sản phẩm của nông 
dân, không thúc đẩy hình thành các doanh nghiệp mới, dịch vụ bưu điện và các dịch 
vụ khác không được dễ dàng chuyển giao. 
Việt Nam là nước có mạng lưới đường nông thôn tương đối rộng khắp nhưng 
phần lớn đường nông thôn không có mặt phủ chịu thời tiết, đường hẹp và xuống cấp 
nghiêm trọng. 70 % cư dân nông thôn sống trong điều kiện không có những con 
đường có mặt phủ chịu mọi thời tiết quanh năm nhất là vùng núi, vùng Đồng bằng 
sông Cửu Long. 
Mục tiêu đến năm 2020: 
Tỷ lệ km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đạt chuẩn theo 
cấp kỹ thuật của Bộ GTVT đối với tất cả các Vùng phải đạt 100%. Tỷ lệ km đường 
trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn tối thiểu là 50% đối với trung du, miền núi 
phía Bắc và đồng bằng sông Cửu Long, còn lại các vùng khác phải đạt từ 70% đến 
100% (đồng bằng sông Hồng và Đông Nam bộ). Tỷ lệ km đường ngõ, xóm sạch và 
không lầy lội vào mùa mưa phải đạt 100%, phấn đấu đến năm 2015 có 35% số xã đạt 
chuẩn (các trục đường xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa) và đến 2020 có 70% số xã 
đạt chuẩn (các trục đường thôn, xóm cơ bản cứng hóa) phục vụ sự nghiệp công nghiệp 
hóa và hiện đại hóa Việt Nam. 
 g) Thông tin 
Thông tin là một yếu tố cần thiết cho sản xuất và đời sống nhất là ở các quốc 
gia trong quá trình đa dạng hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Trong thời đại công nghệ 
thông tin ngày nay cần coi trọng các loại hình thông tin hiện đại. 
Các loại hình thông tin bao gồm: Dịch vụ bưu điện và điện tín; điện thoại; báo 
chí; đài truyền thanh và truyền hình; mạng kết nối internet. Nguồn thông tin phải 
không ngừng cập nhật và kết nối trong, ngoài nước. 
Hệ thống thông tin ở khu vực nông thôn Việt Nam còn thiếu và yếu, dịch vụ 
bưu điện và điện tín mới phục vụ được 75% người dân nông thôn, mới có khoảng 40% 
số xã có hệ thống thông tin đại chúng, số lượng điện thoại, báo chí, đài thu thanh, 
tivi đều ở dưới mức trung bình của các nước đang phát triển. 
Mục tiêu đến 2020: 
Đến năm 2015: 
a) Tỷ lệ đường dây thuê bao cố định 15 - 20 đường/100 dân; tỷ lệ thuê bao điện 
thoại di động 140 máy/100 dân; tỷ lệ thuê bao Internet băng rộng cố định từ 6 - 8 thuê 
Comment [ND7]: Theo quyết định số 
1855/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 
27/12/2007 về việc Phê duyệt Chiến lược phát 
triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến 
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 
Comment [ND8]: 
webdrvn/index.php?q=content/giao-thong-
nong-thon-trong-cong-cuộc-xay-dựng-nong-
thon-mới-va-hiện-dại-hoa-nong-thon-0 
bao/100 dân; tỷ lệ thuê bao băng rộng di động 20 - 25 thuê bao/100 dân; 
b) Tỷ lệ hộ gia đình có điện thoại cố định 40 - 45%; tỷ lệ hộ gia đình có truy cập 
Internet 15 - 20%; tỷ lệ người sử dụng Internet 40 - 45% dân số; 
c) Phủ sóng thông tin di động đến trên 90% dân số trên cả nước; 
d) Trên 90% các xã có điểm cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng được kết nối 
Internet băng rộng; 
đ) Tốc độ tăng trưởng viễn thông đạt khoảng 1,5 - 2 lần tốc độ tăng trưởng của 
GDP. Tổng doanh thu viễn thông đạt từ 10 - 12 tỷ USD, chiếm khoảng 7 - 8% GDP. 
Đến năm 2020: 
a) Tỷ lệ đường dây thuê bao cố định 20 - 25 đường/100 dân; tỷ lệ thuê bao 
Internet băng rộng cố định 15 - 20 thuê bao/100 dân; tỷ lệ thuê bao băng rộng di động 
35 - 40 thuê bao/100 dân; 
b) Tỷ lệ hộ gia đình có điện thoại cố định 40 - 45%; tỷ lệ hộ gia đình có truy cập 
Internet 35 - 40%; tỷ lệ người sử dụng Internet 55 - 60%; 
c) Phủ sóng thông tin di động đến trên 95% dân số cả nước, các tuyến đường giao 
thông, quốc lộ, tỉnh lộ, các điểm trọng yếu kinh tế, quốc phòng, an ninh; 
d) 100% các xã có điểm cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng được kết nối 
Internet băng rộng; 
đ) Tốc độ tăng trưởng viễn thông đạt khoảng 1,2 - 1,5 lần tốc độ tăng trưởng của 
GDP. Tổng doanh thu viễn thông đạt từ 15 - 17 tỷ USD, chiếm khoảng 6 – 7% GDP. 
II. PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ XÃ HỘI NÔNG THÔN 
1. Vai trò của phát triển dịch vụ xã hội nông thôn 
Người dân nông thôn vừa là những người thụ hưởng chính, đồng thời cũng là 
những người hoạt động chủ yếu trong phát triển nông thôn. 
Hiện có gần 75% dân số Việt Nam sống ở vùng nông thôn, mỗi năm dân số 
nông thôn tăng 1,4%. Vấn đề cần quan tâm là làm thế nào để cải thiện cuộc sống 
của người dân nông thôn ngay chính trên quê hương của họ để hạn chế di dân tự do 
vào các đô thị, mà tình trạng này đã gây ra sự nghèo khổ ở một số nước trong khu vực 
Ðông Nam Á. 
Khu vực nông thôn của các nước đang phát triển thường có tình trạng mức thu 
nhập của người dân thấp hơn nhiều so với thành phố. Có khoảng 1,2 tỷ người trên 
thế giới đang sống trong cảnh nghèo túng mà chủ yếu ở các vùng nông thôn bao gồm 
những người không có đất hoặc sống trên các vùng đất xấu, họ thiếu việc làm, thiếu 
sự hưởng thụ các điều kiện dịch vụ xã hội. Phát triển các dịch vụ xã hội nhằm góp 
phần phát triển sản xuất, nâng cao mức thu nhập và điều quan trọng là cải thiện 
điều kiện sống cho người dân nông thôn. 
Phát triển các dịch vụ xã hội nông thôn mà chúng ta quan tâm ở đây là cải thiện 
các điều kiện về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hoá, cung cấp nước sạch và vệ sinh. 
Cùng với việc nâng cao thu nhập, đẩy mạnh dịch vụ sản xuất, việc cải thiện các lĩnh 
vực dịch vụ xã hội là điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống người 
dân nông thôn, giảm dần sự các biệt về mức sống giữa nông thôn và thành thị. 
2. Thực trạng phát triển các lĩnh vực dịch vụ xã hội nông thôn 
Trong 20 năm đổi mới, Ðảng và Chính phủ ta đã quan tâm đầu tư và đạt được 
nhiều tiến bộ trong các lĩnh vực dịch vụ xã hội: 
- Về nhà ở, đã có 70% số hộ nông thôn có nhà ở kiên cố và bán kiên cố, chính sách 
Comment [ND9]: Quyết định số 
32/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ : 
Phê duyệt Quy hoạch phát triển viễn thông 
quốc gia đến năm 2020 
xã hội tập trung hỗ trợ các hộ nghèo và hộ chính sách cải thiện nhà ở trong những năm 
tới. 
- Về giáo dục, Ðảng và Nhà nước ta rất quan tâm phát triển giáo dục, coi giáo 
dục là quốc sách đến nay đã có 99,9% số xã có trường tiểu học, 84,5% số xã có trường 
trung học cơ sở, 85,6% số xã có lớp mẫu giáo. Hệ thống trường học phát triển rộng 
khắp đã tạo điều kiện thuận lợi thu hút trẻ em trong độ tuổi tới trường. Chương trình 
kiên cố hoá trường học đang được triển khai rộng khắp. 
- Trong lĩnh vực y tế, thực hiện chủ trương đưa bác sĩ và cán bộ y tế tăng 
cường cho tuyến xã, hệ thống trạm y tế xã được củng cố và hoàn thiện. Cả nước đã 
có 8.909 xã, chiếm 99% số xã có trạm y tế. 
- Hệ thống cơ sở văn hoá ở nông thôn tiếp tục được hoàn thiện và phát triển. 
Ðến nay cả nước đã có 14% số xã có nhà văn hoá, 7% số xã có thư viện, các địa 
phương khác quan tâm xây dựng và củng cố nhà văn hoá xã góp phần nâng cao đời 
sống tinh thần của dân cư nông thôn. 
Tuy vậy còn nhiều mặt hạn chế trong phát triển các dịch vụ xã hội cần được 
nhìn nhận và khắc phục trong thời gian tới. 
- Về nhà ở thiếu sự quy hoạch phát triển nhà ở dân cư nông thôn, thiếu sự 
tuyên truyền hướng dẫn người dân làm nhà ở phù hợp, tiết kiệm. Vấn đề nhà ở cho 
người nghèo và hộ chính sách triển khai chậm. 
- Hệ thống cơ sở vật chất trường học khu vực nông thôn thường có chất lượng 
thấp, tỷ lệ người mù chữ còn khá cao ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tỷ 
lệ người lao động nông thôn qua đào tạo còn thấp, mới có 14% lao động nông 
nghiệp qua đào tạo ở các trình độ khác nhau. 
- Trạm y tế ở một số xã chất lượng thấp và trang bị không đầy đủ, vẫn còn một 
số 
người mắc bệnh sốt rét và lao. 
- Tỷ lệ số xã có nhà văn hoá và thư viện còn thấp, hệ thống phát thanh, thiết bị 
thể 
thao và nhà văn hoá thiếu và yếu. 
Những tồn tại trên đây cần được khắc phục trên cơ sở huy động nhiều nguồn lực 
tại chỗ, phát huy vai trò và sự tham gia của dân trong các dự án phát triển các lĩnh vực 
dịch vụ xã hội. 
3. Chính sách và giải pháp phát triển dịch vụ xã hội nông thôn 
Ðảng và Nhà nước ta luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của phát triển các dịch 
vụ xã hội trong việc đáp ứng các yêu cầu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, cải 
thiện đời sống vật chất và văn hoá ở cộng đồng nông thôn. Các lĩnh vực dịch vụ này 
ở Việt Nam chủ yếu do các tổ chức Nhà nước cung cấp. 
a) Nhà ở 
Nhà ở là tiện nghi thiết yếu nhất, có tầm quan trọng về an ninh, sức khoẻ và 
phồn thịnh của mỗi gia đình. 
Mục tiêu đến năm 2020: 
* Mục tiêu đến năm 2015: 
- Diện tích nhà ở bình quân toàn quốc đạt khoảng 22 m2 sàn/người, trong đó tại 
đô thị đạt 26 m2/sàn và tại nông thôn đạt 19 m2 sàn/người; phấn đấu đạt chỉ tiêu diện 
tích nhà ở tối thiểu 6 m2 sàn/người; 
- Trong giai đoạn 2011 - 2015, tiếp tục triển khai thực hiện các chương trình phát 
triển nhà ở xã hội tại khu vực đô thị và hỗ trợ các hộ nghèo khu vực nông thôn; phấn 
đấu xây dựng tối thiểu khoảng 10 triệu m2 nhà ở xã hội để giải quyết chỗ ở cho người 
có thu nhập thấp tại khu vực đô thị (chủ yếu là nhà căn hộ chung cư); đáp ứng cho 
khoảng 60% số sinh viên, học sinh các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên 
nghiệp, dạy nghề và 50% công nhân lao động tại các khu công nghiệp có nhu cầu về 
chỗ ở; hoàn thành việc hỗ trợ cho khoảng 400 nghìn hộ gia đình (theo chuẩn nghèo 
mới) tại khu vực nông thôn cải thiện nhà ở; 
- Tỷ lệ nhà ở kiên cố toàn quốc đạt khoảng 62%, trong đó tại đô thị đạt 65%, tại 
nông thôn đạt 60%; giảm tỷ lệ nhà ở đơn sơ xuống dưới 5%; nâng tỷ lệ hộ gia đình có 
công trình phụ hợp vệ sinh lên 70%, trong đó tại đô thị đạt 95% và tại nông thôn đạt 
50%; 
- Tỷ lệ nhà ở chung cư trong các dự án phát triển nhà ở tại đô thị loại đặc biệt (Hà 
Nội và thành phố Hồ Chí Minh) đạt trên 80%, đô thị từ loại I đến loại II đạt trên 50%, 
đô thị loại III đạt trên 30% tổng số đơn vị nhà ở xây dựng mới; tỷ lệ nhà ở cho thuê đạt 
tối thiểu khoảng 20% tổng quỹ nhà ở tại các đô thị loại III trở lên; 
- Phấn đấu hoàn thành việc hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở 
trên cơ sở các cơ chế, chính sách đã ban hành; tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và 
triển khai thực hiện các quy định về hỗ trợ người có công cách mạng cải thiện nhà ở. 
2. Mục tiêu đến năm 2020: 
- Diện tích nhà ở bình quân toàn quốc đạt khoảng 25 m2 sàn/người, trong đó tại 
đô thị đạt 29 m2 sàn/người và tại nông thôn đạt 22 m2 sàn/người; phấn đấu đạt chỉ tiêu 
diện tích nhà ở tối thiểu 8 m2 sàn/người; 
- Trong giai đoạn 2016 - 2020, phấn đấu thực hiện đầu tư xây dựng tối thiểu 
khoảng 12,5 triệu m2 nhà ở xã hội tại khu vực đô thị; đáp ứng cho khoảng 80% số sinh 
viên, học sinh các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và 
khoảng 70% công nhân lao động tại các khu công nghiệp có nhu cầu được giải quyết 
chỗ ở; hỗ trợ cho khoảng 500 nghìn hộ gia đình (theo chuẩn nghèo mới) tại khu vực 
nông thôn cải thiện nhà ở; 
- Tỷ lệ nhà ở kiên cố toàn quốc đạt khoảng 70%, trong đó tại đô thị đạt trên 75%, 
tại nông thôn đạt 65%; xóa hết nhà ở đơn sơ trên phạm vi toàn quốc; nâng tỷ lệ hộ gia 
đình có công trình phụ hợp vệ sinh lên 90%, trong đó tại đô thị đạt xấp xỉ 100% và tại 
nông thôn đạt trên 80%; 
- Tỷ lệ nhà ở chung cư trong các dự án phát triển nhà ở tại các đô thị loại đặc biệt 
(Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) đạt trên 90%, đô thị từ loại I đến loại II đạt trên 
60%, đô thị loại III đạt trên 40% tổng số đơn vị nhà ở xây dựng mới; tỷ lệ nhà ở cho 
thuê đạt tối thiểu khoảng 30% tổng quỹ nhà ở tại các đô thị loại III trở lên. 
Đến năm 2030, phấn đấu đạt chỉ tiêu diện tích nhà ở bình quân toàn quốc khoảng 
30 m2 sàn/người, diện tích nhà ở tối thiểu đạt 12 m2 sàn/người. 
b) Giáo dục 
Giáo dục có tầm quan trọng nâng cao dân trí, góp phần xoá đói giảm nghèo, 
nâng cao điều kiện sức khoẻ, công ăn việc làm, thu nhập và đời sống trong một xã 
hội phát triển không ngừng. 
Quá trình hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn phụ thuộc vào việc 
Comment [ND10]: Quyết định 2127/QĐ-
TTg ngày 30/11/2012 của Thủ tướng chính 
phủ về việc phê duyệt chiến lược phát triển nhà 
ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 
2030 
phát triển kỹ năng của người dân, làm cho họ có thể sử dụng công nghệ để khai thác 
các tiềm năng của địa phương và đáp ứng yêu cầu chất lượng lao động trong nền 
kinh tế thị trường. 
Các giải pháp chính về phát triển giáo dục nông thôn: 
- Xây dựng, sửa chữa và nâng cấp các trường học ở các vùng nông thôn. 
- Trang bị tốt hơn phương tiện phục vụ giảng dạy và thực hành cho các trường. 
- Phát triển các trường nội trú ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. 
- Các phương pháp giáo dục đặc biệt ở một số vùng xa xôi hẻo lánh và dân tộc 
ít người. 
- Hỗ trợ đặc biệt nhằm khuyến khích giáo viên làm việc ở các vùng sâu, vùng xa. 
Mục tiêu đến 2020: 
Với giáo dục mầm non là hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 
em 5 tuổi vào năm 2015. Đến năm 2020, có ít nhất 30% trẻ trong độ tuổi nhà trẻ và 
80% trong độ tuổi mẫu giáo được chăm sóc, giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non; 
tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng trong các cơ sở giáo dục mầm non giảm xuống dưới 
10%.

Đối với giáo dục phổ thông, chất lượng giáo dục toàn diện được nâng cao. Đến 
năm 2020 tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở tiểu học là 99%, trung học cơ sở là 95% và 80% 
thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn trung học phổ thông và tương đương; có 
70% trẻ em khuyết tật được đi học.

Đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại 
học, đến năm 2020, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có đủ khả năng tiếp nhận 30% số 
học sinh tốt nghiệp THCS; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề nghiệp và đại học đạt 
khoảng 70%; tỷ lệ sinh viên tất cả các hệ đào tạo trên một vạn dân vào khoảng 350 - 
400.

Giáo dục thường xuyên cũng được phát triển tạo cơ hội cho mọi người có thể 
học tập suốt đời, bước đầu hình thành xã hội học tập. Đến năm 2020, tỷ lệ người biết 
chữ trong độ tuổi từ 15 trở lên là 98% và tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 đến 
35 là 99% đối với cả nam và nữ. 
 c) Y tế 
Phát triển hệ thống dịch vụ y tế nhằm chăm sóc sức khoẻ và phòng bệnh, trị 
bệnh tại chỗ cho người dân nông thôn, bảo đảm cho mọi người có sức khoẻ tốt cho 
một cuộc sống năng động. 
Chiến lược đến năm 2020: 
- Phấn đấu tăng tuổi thọ trung bình đạt 79 năm đến năm 2015, 80 năm đến năm 
2020 và 81 năm đến năm 2030; 
- Phấn đấu hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 12,28 °/oo năm 2010 xuống 11,5‰ vào 
năm 2015, 11‰ vào năm 2020 và dưới 10‰ vào năm 2030; 
- Giảm tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi từ 12,6 ‰ năm 2010 xuống 10,0‰ vào năm 
2015; dưới 8,0‰ vào năm 2020 và dưới 6‰ vào năm 2030; 
- Giảm tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi từ 14,5‰ năm 2010 xuống 12,0‰ vào năm 
2015, dưới 10,0‰ vào năm 2020 và dưới 8,0‰ vào năm 2030; 
- Khống chế tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư dưới 0,3% vào năm 
2020, giảm dần số người nhiễm mới trong cộng đồng; 
- Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng từ 11,9% năm 2010 xuống 
Comment [ND11]: Quyết định số 
711/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc 
Phê duyệt "Chiến lược phát triển giáo dục 
2011 - 2020" 
10,0% vào năm 2015; dưới 8,0% vào năm 2020 và dưới 7,0% vào năm 2030; 
- Giảm tỷ lệ tử vong mẹ từ 14 bà mẹ /100.000 trẻ đẻ sống năm 2010 xuống dưới 
12 bà mẹ /100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2015, dưới lo bà mẹ /100.000 trẻ đẻ sống vào 
năm 2020 và dưới 8 bà mẹ /100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2030; 
- Phấn đẩu đến năm 2015 tỷ lệ bác sỹ đạt 12,5 bác sĩ /10.000 dân, dược sỹ đại học 
đạt 2 dược sĩ /10.000 dân;" đến năm 2020 đạt 13,5 bác sỹ /10.000. dân, 2,5 dược sỹ 
/10.000 dân; năm 2030 đạt 14 bác sỹ/10.000 dân, 3 dược sỹ/10.000 dân; nhân viên 
điều dưỡng từ 3 - 4 nhân viên/bác sỹ; 
- Phấn đấu tăng tỷ lệ giường bệnh lên 20 giường bệnh/10.000 dân vào năm 2015; 
25 giường bệnh/10.000 dân vào năm 2020 và 30 giường bệnh /10.000 dân vào năm 
2030; 
- Phấn đấu đến năm 2015 bảo đảm 100% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia 
về y tế xã; đến năm 2020 nâng cấp và duy trì đạt chuẩn quốc gia về y tế xã (theo chuẩn 
mới của Bộ y tế). 
d) Văn hoá 
Việt Nam có nền văn hoá dân tộc phát triển mạnh mẽ, một kho tàng khổng lồ 
các truyền thống văn hoá khác nhau của 54 dân tộc. Ðời sống ngày càng cao càng 
đòi hỏi phải phát triển mạnh các hoạt động văn hoá, đó là món ăn tinh thần cho một 
cuộc sống phồn thịnh và lành mạnh. 
Chiến lược phát triển Trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, mục tiêu trọng tâm 
của Chiến lược phát triển văn hoá cần phải đạt tới: 
Một là, hướng mọi hoạt động văn hoá vào việc xây dựng con người Việt Nam 
phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo; 
tuân thủ pháp luật; có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, lối 
sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội, làm cho văn hoá 
trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, thấm sâu vào toàn bộ 
đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người trong 
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; gắn kết mối quan 
hệ giữa văn hoá và xây dựng môi trường văn hoá với vấn đề hình thành nhân cách. 
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị tốt đẹp 
của văn hoá dân tộc, vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hoá 
các dân tộc anh em, vừa kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất trong ða dạng của 
vãn hoá Việt Nam, tập trung xây dựng những giá trị vãn hoá mới, ði ðôi với việc mở 
rộng và chủ ðộng trong giao lýu quốc tế, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa vãn hoá thế 
giới, làm phong phú thêm nền vãn hoá dân tộc, bắt kịp sự phát triển của thời ðại. 
Ba là, giải phóng mạnh mẽ năng lực và tiềm năng sáng tạo của mọi người, phát 
huy cao độ tính sáng tạo của trí thức, văn nghệ sĩ; đào tạo tài năng văn hoá, nghệ thuật; 
tạo cơ chế, chính sách và cơ sở vật chất để có nhiều sản phẩm văn hoá, nghệ thuật chất 
lượng cao xứng tầm với dân tộc và thời đại; nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về lý 
luận và thực tiễn việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà 
bản sắc dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong 
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. 
Bốn là, tạo mọi điều kiện nâng cao mức hưởng thụ và tham gia hoạt động, sáng 
tạo văn hoá của nhân dân; phấn đấu từng bước thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn 
Comment [ND12]: -Quyết định số 
153/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ 
tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng 
thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn 
đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 
hoá, nghệ thuật giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng đồng 
bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. 
Năm là, đi đôi với việc tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hoá các 
hoạt động văn hoá, huy động mọi nguồn lực cho phát triển văn hoá, coi đầu tư cho văn 
hoá là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững, gắn kết giữa nhiệm vụ 
phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, làm cho văn hoá tham gia tích cực vào việc 
thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” của 
đất nước. 
III. PHÁT TRIỂN MÔI TRƯỜNG NÔNG THÔN 
1. Vai trò của môi trường trong phát triển nông thôn 
Cuộc sống của con người phụ thuộc rất nhiều vào năng suất của các tài nguyên 
thiên nhiên bao gồm đất đai, đồi núi, rừng, biển, sông ngòi... Tình trạng của môi 
trường có tầm quan trọng đối với con người hiện tại và các thế hệ mai sau, nếu môi 
trường bị suy thoái sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mùa màng, sức khoẻ, đời sống. 
Dân số thế giới không ngừng tăng lên dẫn đến nhu cầu về lương thực, năng 
lượng, nguyên liệu cũng tăng theo, việc đáp ứng các nhu cầu này đòi hỏi khai thác 
nhiều hơn nữa tài nguyên thiên nhiên hiện có đặc biệt là đất nông nghiệp, rừng, biển, 
nước, khoáng sản... Nếu biết quản lý và khai thác lâu bền các tài nguyên trên thì sẽ 
tránh được những sức ép về sự giảm cấp và khan hiếm tài nguyên. 
Sự nghèo nàn, lạc hậu, tăng dân số là những thách thức lớn nhất cho vấn đề bảo 
vệ 
môi trường. 
Tình trạng quản lý yếu kém dẫn đến sự ô nhiễm môi trường, khan hiếm tài 
nguyên, mất đa dạng sinh học, làm thay đổi khí hậu trái đất, thiên tai, phát triển không 
bền vững. Vấn đề đặt ra cho nhân loại là làm thế nào để quản lý bền vững môi 
trường sống trong quá trình phát triển. 
Có ba trở ngại chính trong quản lý hợp lý môi trường: 
- Không nhận thức được sự khan hiếm tài nguyên và ý thức bảo vệ môi trường sống. 
- Không xác định rõ trách nhiệm trong quản lý tài nguyên. 
- Không đủ kiến thức và nguồn lực để quản lý môi trường. 
Ðể khắc phục những trở ngại đó, từng cá nhân và cộng đồng phải tiếp cận kiến 
thức và đầu tư nguồn lực vào bảo vệ môi trường, phải có những khuyến khích và tăng 
cường trách nhiệm để hoạt động của mỗi người không gây phí tổn cho người khác. 
Nhà nước giữ vai trò chính trong hoạch định chính sách môi trường và định hướng 
hành động, các cộng đồng và cá nhân tham gia quản lý tài nguyên trên cơ sở luật 
pháp và các dịch vụ hỗ trợ của Chính phủ. 
2. Những chính sách và giải pháp phát triển môi trường nông thôn 
a) Quản lý và sử dụng đất lâu bền 
Ðất là tài nguyên thiên nhiên quý giá của nhân loại, đất đai ngày càng trở nên 
khan hiếm do dân số thế giới không ngừng tăng lên nhưng diện tích đất thì không 
thay đổi. Quản lý, sử dụng hợp lý quỹ đất hiện có trở thành trách nhiệm của mỗi 
người. 
Comment [ND13]: Quyết định số 
581/QĐ-TTg ngày 06 tháng 5 năm 2009 của 
Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển 
văn hoá đến năm 2020 
Hàng năm thế giới bị mất từ 6 đến 7 triệu ha đất nông nghiệp do xói mòn, rửa 
trôi, nhiễm phèn hoặc sa mạc hoá. Ðó là hậu quả do con người sử dụng đất không 
đúng, sử dụng quá mức hoặc quản lý đất yếu kém gây nên. 
Ðất nông nghiệp luôn có nguy cơ giảm mạnh do sự phát triển của công nghiệp, 
dịch vụ và quá trình đô thị hoá. 
Rừng có nguy cơ bị tàn phá do yêu cầu sử dụng gỗ, củi ngày càng tăng, do 
nghèo 
đói và thiếu ý thức của con người. 
Tổng diện tích tự nhiên của Việt Nam là gần 32,92 triệu ha. Trong đó có 9,40 
triệu ha đất nông nghiêp; 21,05 triệu ha đất có rừng; 1,61 triệu ha đất chuyên dùng; 
0,45 triệu ha đất ở đô thị và nông thôn; 0,41 triệu ha đất trống và sông suối, núi đá, 
trong số đó một bộ phận lớn đất này trước kia là rừng đã bị tàn phá. 
Ðảng và Chính phủ luôn hướng sự quan tâm vào việc quản lý, sử dụng lâu bền 
và có hiệu quả quỹ đất hiện có bằng các chủ trương và biện pháp sau: 
• Trong phát triển công nghiệp và đô thị giảm tới mức thấp nhất việc xây dựng 
trên 
đất nông nghiệp có chất lượng cao. 
Nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích phi nông nghiệp ngày một tăng trong 
quá trình phát triển, đặt ra một thách thức lớn là sử dụng đất như thế nào. Ở một số 
nước đang phát triển Nam Á, Ðông Nam Á, Nam Mỹ, năm mươi năm qua đã 
chứng kiến cảnh di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành thị do tình trạng nghèo đói ở vùng 
nông thôn. Kết quả là các thành phố đã mở rộng ra các vùng ngoại ô, các khu nhà ổ 
chuột đã mọc lên chiếm nhiều đất mà đáng lý những đất này cần được sử dụng tốt 
hơn để sản xuất lương thực, thực phẩm, trong khi đó đất nông nghiệp ở nông thôn đã 
không được sử dụng hiệu quả vì không được đầu tư. 
Việt Nam đã có một chính sách khác đó là phát triển các vùng nông thôn để 
người dân có cuộc sống tốt hơn tránh việc di dân ra thành phố. Tuy vậy trong quá 
trình công nghiệp hoá 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_phat_trien_nong_thon.pdf