Tiểu luận Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta
A. LỜI MỞ ĐẦU Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm. Tăng thu nhập cho cư dân nông thôn tạo tiền đề đẻ giải quyết hàng loạt vấn đề về chính trị - xã hội của đất nước, đư nông thôn nước ta tiến lên văn minh hiện đại. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định phải “Đặc biệt coi trọng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”.Trong những năm gần đây nhờ có đổi mới nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ.Tuy vậy nông nghiệp hiện nay vẫn đang đướng trước những thách thức to lớn, có nhiều vấn đề về sản xuất và đời sống của nông dân đang nổi lên gay gắt.Do vậy việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện chủ trương này của Đảng và Nhà nước là nhu cầu cấp thiết. Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá là một quá trình lâu dài , cần được tiến hành tuần tự, không nóng vội.Quá trình này được thực hiện không nhằm mục đích tự than mà phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội của nông thôn cũng như của cả nước.Vì vậy nếu ta không nhìn nhận và phân tích một cách sâu sắc quá trình chuyển đổi và phát triền của nền nông nghiệp hiện nay thì sẽ khó có thể tìn ra những giải pháp vi mô cũng như vĩ mô đúng và phát huy được hiệu quả trong quá trình công nghiệp hoá và hiện nền nông nghiệp của đất nước. Xuất phát từ thực tế đó, với vốn kiến thức đã có được cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo.Trong bài viết này em xin đề cập một số vấn đề có liên quan đến “Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta”. Do thời gian và trình độ có hạn nên những vấn đề em nêu ra không tránh khỏi những thiếu sót, em mong được sự giúp đỡ và đóng góp của thầy giáo và các bạn cho đề án được hoàn chỉnh hơn. B. NỘI DUNG I.TÍNH TẤT YẾU VÀ NỘI DUNG TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN. 1_Tính tất yếu tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. 1-1 .Vai trò cuả nông nghiệp. Năm 1961, trong cuốn sách “Vai trò của nông nghiểptong phát triển kinh tế”.Hai nhà kinh tế học Joshnton và Meller giới thiệu năm đóng góp quan trong của nông nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế: - Nông nghiệp cung cấp lương thực và đầu và các nguyên liệu đầu vào cho các ngành khác của nền kinh tế. Độ co dãn của thu nhập đối với cầu về lương thực ở các nước đang phát triển khá cao, tức là khi mức sống tăng lên thì nhu cầu tiêu dung lương thực tăng nhanh.Trong tình hình đó, nếu sản xuất nông nghiệp nội địa không tự đáp ứng được nhu cầu thì các nước đang phát triển phải bỏ ngoại tệ để nhập khẩu lương thực thay vì nhập máy móc, nguyên liệu phát triển công nghiệp. -Lĩnh vực nông nghiệp là nguồn thu ngoại tệ quan trộng ở những quốc gia có lợi thế so sánh sản xuất một số mặt hàng nông sản xuất khẩu. -Lĩnh vực nông nghiệp là thị trường quan trọng cho các ngành khác trong nền kinh tế như sản xuất hàng tiêu dùng. -Lĩnh vực nông nghiệp là nguồn cung cấp lao động cho khu vực công nghiệp. -Lĩnh vực nông nghiệp tạo ra một lượng vốn thặng dư đẻ đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá. 1-2 .Tính tất yếu khách quan phải thực hiện công nghiệp hoá – hiên đại hoá nông nghiệp. Xuất phát từ nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp phổ biến sản xuất nhỏ, lạc hậu và đang ở trình độ thấp, đó là cơ sở vật chất kĩ thuật còn lạc hậu, lao động xã hội đại bộ phận tập trung trong nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp, tự túc và thu nhập của người dân còn thấp, đơì sống mọi mặt của họ còn hết sức khó khăn,trong khi đó đến nay nhiều nước trên thế giới đã có nền nông nghiệp phát triển cao,mọi hoạt động sản xuất đã được cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hóa, hoá học hoá.Nhờ đó năng suất ruộng đất, năng suất lao động của họ rất cao, tạo sự phân công lao động sâu sắc trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mặt khác do yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội đất nước, nhu cầu về nâng cao đời sống con người đó là xã hội càng phát triển đời sống con người càng đượ nâng cao thì nhu cầu của con người về lương thực và thục phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại.Như vậy chỉ có mọtt nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao mới hy vọng đáp ứng được nhu cầu tăng lên thường xuyên đó. Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, trước hết là quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá các quan hệ kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất thương mại, trao đổi thông tin khoa học kĩ thuật, chuyển giao công nghệbuộc chúng ta phảI đẩy nhanh việc thực hiện công nghiệp hoá, hiên đại hoá nông nghiệp để chúng ta có thể tận dụng vốn, khoa học kĩ htuật kinh nghiệm quản lý nước ngoài vào trong hoàn cảnh thực tiễn vận dụng vào quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nước ta nhằm tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rơi vào tình trạng “bãi rác côngnghiệp” của thế giới, dẫn đến cuộc sống đói nghèo,lệ thuộc vào kinh tế nước ngoài Như vậy đứng trước những yêu cầu đổi mới đang diễn ra trước mắt ta cần khẳng định trong bối cảnh chung của thế giới hiện nay,công nghiệp hoá hiện đại hoá là xu hướng phát triển chung của thế giới.Trình độ công nghiệp hóa hiện đại hoá biểu hiện trình độ phát triển của xã hội.Vì vậy công nghiệp hoá hiện đại hoá nói chung và công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nói riêng là con đường đúng dắn mà Đảng ta đã chọn trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của mình, nó là “nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ”, nó là con đường tất yếu để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn,lạc hậu và nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực. 1-3.Tầm quan trọng của công nghiệp hoá hiên đại hoá nông nghiệp và nông thôn. a. Đại hội đảng III của Đảng khẳng định ra sức phát triển nông nghiệp. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu,sản xuất nhỏ, cá thể tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.Chỉ có tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa,xây dựng một nền công nghiệp hiện đại phù hợp với điều kiện và đặc điểm của nước ta, chúng ta mới tạo ra được cái cốt vật chất của chủ nghĩa xã hội, biến lao động thủ công năng suất thấp thành lao động cơ khí, có năng suất cao, tạo ra cơ cấu công-nông nghiệp hiện đại,và mới thúc đẩy đượcnông nghiệp và công nghiệp nhẹ phát triển mạnh mẽ, tạo ra được một lực lượng sản xuất mới, một năng suất lao động xã hội cao, cho phép chúng ta vượt qua những khó khăn ban đầu để đi lên. Nhưng muốn phát triển công nghiệp ,muốn tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa lại phải có những điều kiện tiên quyết như lương thực, thực phẩm, lao động, .. mà những điều kiện đó phụ thuộc vào sự phát triển của nông nghiệp. Lenin nói rằng: “không thể nói rằng, tích luỹ “không phụ thuộc” vào sản xuất vật phẩm tiêu dùng, chỉ bởi một lẽ là muốn mở rộng sản xuất thì cần phải có tư bản khả biến mới, và do đó cần phải có vật phẩm tiêu dùng”. Ở nước ta Hồ Chủ tịch đã nói một cách đơn giản dễ hiểu rằng:”Vì nước ta là một nước nông nghiệp, mọi việc đều phải dựa vào nông nghiệp” cho nên “Các cơ quan nhà nước phải quan tâm hơn nữa đến nông nghiệp, phát huy nhiều hơn nữa tác dụng của ngành mình trong sản xuất nông nghiệp”. b. Cải thiện dần nông dân thành công nhân,nông thôn thành thành thị,mức sống thu nhập người dân tăng nhanh bảo đảm mọi hoạt động sanh hoạt giải lao vui chơi giải trí, mọi thông tin cập nhật đến người dân. Song song với thu nhập tăng lên thì người dân trở nên có ý thức hơn dẫn đến trật tự an toàn xã hội ở nông thôn. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn tạo cho tay nghề lao động thuần thục hơn kỹ năng kỹ xảo khéo léo hơn, năng suất lao động tăng nhanh. 1-4.Thực tiễn từ một số nước tiến hành côngnghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. a. Nhật Bản- nông nghiệp phát triển tạo đà công nghiệp hoá. Như mọi quốc gia Âu Mỹ trước đây, quá trình công nghiệp hoá ở Nhật bắt đầu bằng một thờI gian dài tăng trưởng nhanh sản xuất nông nghiệp. Tăng năng suất nông nghiệp trên nền tảng sản xuất quy mô nhỏ. Trước công cuộc duy tân, như mọi nước châu Á, nền kinh tế Nhật là nền nông nghiệp sản xuất nhỏ tiểu nông phong kiến năng suất thấp, địa tô cao.Nhật luôn bị hạn chế bởi tài nguyên đất đai ngày càng ít và dân số ngày càng đông.diện tích trung bình một hộ nông dân Nhật năm 1878 là 1ha và năm 1962 chỉ còn 0,8 ha.Mặc dù lĩnh vực công nghiệp phát triển nhanh ghê gớm nhưng mức độ thu hút lao động cũng rất hạn chế.Từ năm 1878 đến năm 1912 là thời kỳ công nghiệp Nhật tăng trưởng nhảy vọt nhưng tổng số lao động nông nghiệp chỉ giảm rất ít từ 15,5 xuống 14,5 triệu người ,công nghiệp tăng trưởng gần như chỉ thu hút phần lao động thêm ra do tăng dân số tự nhiên. Tuy nhiên, muốn tạo đà công nghiệp hoá,nhất thiết phải tăng năng suất nông nghiệp, trong hoàn cảnh đất chật người đông, cách duy nhất là thâm canh tăng năng suất.Một chiến lược phát triển khôn khéo và hiệu quả đã được Nhật thực hiện thành công để đạt mục tiêu khó khăn: đưa nông nghiệp đi ngay vào phát triển theo chiều sâu từ giai đoạn tăng trưởng ban đầu. -Khoa học kĩ thuật nông nghiệp được coi là biện pháp hàng đầu ngay từ thế kỷ 19.Nhật chú trọng phát triển các công nghệ thu hút lao động và tiết kiệm đất như kỹ thuật tưới nước, dùng phân bón và lai tạo giống tạo nên năng suất cây trồng cao. - Những chính sách khuyến khích phát triển sản xuất được ban hành tạo ra động lực thúc đẩy nông dân áp dụng khoa học công nghệ,tăng năng suất cây trồng.Thuế được định ra theo phân hạng đất và được giữ cố định trong suốt mấy chục năm. Những chính sách đúng đắn trên đã tập trung được nội lực của nhân dân vào thâm canh tăng năng suất.Trong suốt thời kỳ tăng tốc của sản xuất nông nghiệp tạo đà cho quá trình côngnghiệp hoá,khi ở châu Á chưa bắt đầu cuộc “cách mạng xanh”, năng suất tính thêo đơn vị đất đai ở Nhật đã tăng gần gấp đôi,ví dụ năng suất lúa tăng từ 1,8 tấn/ha năm 1862-1882 lên 4 tấn/ha vào 1956-1960; năng suất tính theo đơn vị lao động tăng hơn gấp đôi; bình quân lương thực đầu ngườI tăng từ 248 kg năm 1874 lên 323 kh năm 1920. b. Đài Loan Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Đài Loan rơi vào khủng hoảng tràm trọng. Thu nhập bình quân xuống dưới 200 USD/người, lạm phát cao, dan số tăng 3,5%/năm; tỷ lệ đất nông nghiệp trên đầu người thấp 0.2 ha/người; tỷ lệ thất nghiệp lên tới 50%. Bắt đầu từ thập kỷ 50, kinh tế Đài Loan đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, liên tục và bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển đổi ổn định từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, đưa Đài Loan thành nền kinh tế công nghiệp mới của châu Á. Giai đoạn 1950-1980, tốc độ tăng trưởng thu nhập đầu người bình quân hàng năm đạt trên 12%. Những yếu tố tạo nên sự thần kỳ của kinh tế Đài Loan là; đầu tư phát triển nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm cơ sở để phát triển công nghiệp, chiến lược công nghiệp hoá hướng ngoại, phát triển công nghiệp đều giữa các vùng:chính quyền hỗ trợ hợp lý. Tốc độ tăng trưởng (%/năm) 1962-1965 1966-1975 1976-1985 1986-1995 GDP 10.1 9.4 8.7 7.9 Công nghiệp 13.3 14 10.5 6.3 Nông nghiệp 6.6 1.7 1.5 1.1 Dịch vụ 10.3 9.3 8.4 10.5 GNP đầu người/năm 194.5 684.5 2214.5 8194 Một số chỉ tiêu kinh tế của Đài Loan Nguồn: Rong-I Wu. 1997 và Basic Agricultural Statistics 1998 Phát triển công nghiệp của Đài Loan không tập trung ở các trung tâm đô thị mà trải đều trên khắp đảo và trong các thị trấn nông thôn . Bên cạnh đó , chính sách của chính quyền cũng hỗ trợ các ngành công nghiệp nông thôn phát triển. Nhờ đó công nghiệp nông thôn của Đài Loan phát triển mạnh mẽ, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng tài trợ cho quá trình công nghiệp hoá,tạo công ăn việc làm, cải thiện thu nhập cho khu vực nông thôn,và giảm khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.Trong thập kỷ 60, công nghiệp nông thôn của Đài Loan đã đóng góp 60% thu nhập cho khu vực nông thôn, tạo công ăn việc làm cho khoảng 20% lao động nông thôn, và đóng góp 60% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cả nước. Những năm 1960, Đài Loan tăng mạnh xuất khẩu nông sản chế biến,chuyển hướng từ sản phẩm sơ chế sang sản xuất đóng hộp, tăng giá trị gia tăng. Đài Loan xuất khẩu mạnh các mặt hàng như đường, đồ hộp (măng tây, nấm,mã thầy, hoa quả), thực phẩm đông lạnh, mì chính. Thập kỷ 60, giá trị kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm đồ hộp tăng từ 10 triệu USD lên 83 triệu USD, thực phẩm đông lạnh chế biến tăng lên 0.4 triệu USD. Giá trị kim ngạch xuất khẩu một số nông sản chế biến của Đài Loan Đơn vị tính: Triệu USD Trước 1960 1961-70 1971-80 Sau 1980 Đường 110,7(79,8) 135.4(29.2) 282.8(5) - Đồ hộp 10 83(12.3) 483(2.4) 200(0.1) Thực phẩm đông lạnh - 0.4(0.05) 347.8(2.2) 2045.7(2.2) Mì chính - - 28.7(0.13) 130.7(0.17) Nguồn: APO.2000 Ghi chú: Trong ngoặc là tỷ lệ % trong tổng kim ngạch xuất khẩu. 2.Nội dung công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta hiện nay. 2-1.Nội dung tổng quát công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. - Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiên cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường. -Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm vàlao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ , công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn. 2-2.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. -Từng bước thực hiện cơ khí hoá, tự động hoá, hoá học hoá, tin học hoá trong các ngành sản xuất nông,lâm,ngư nghiệp và công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản. Đưa điện vào nông nghiệp, nông thôn ở những nơi có điều kiện,ưu tiên phục vụ thuỷ lợi hoá và chế biến nông -lâm - hải sản. -Tiến hành đồng thời với từng bước thực hiện cơ khí hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp từ cơcấu lạc hậu què quặt, phân tán, manh mún sang cơ cấu kinh tế hữu cơ, hợp lý theo hướng sản xuất hàng hoá.Trong cả nước và đặc biệt là hai vùng nông nghiệp lớn nhất của đất nước, phảidựa vào thế mạnh từng vùng để từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế vừa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những năm trước mắt, vừa khai thác tốt tiềm năng để tăng trưởng kinh tế nhanh. Hướng đi trong những năm trước mắt đối với cả nước và từng vùng là: + Tiếp tục phát triển sản xuất lương thực - chủ yếu là lúa nước và đi vào chuyên canh, thâm canh để ngày càng có nhiều sản phẩm hàng hoá lương thực cho xã hội, bảo đảm chương trình an ninh lương thực quốc gia. + Phát triển các ngành chăn nuôi đại gia súc, tiểu gia súc và gia cầm, coi trọng việc cải tạo giống và chế biến để có năng suất, chất lượng sản phẩm tốt, tăng giá trị cho tiêu dùng và xuất khẩu. + Phát triển trồng cây gây rừng để vừa bảo đảm môi trường sinh thái, vừa tăng các loại lâm sản hàng hoá cho xuất khẩu. + Mở rộng quy mô nuôi trồng, đắnh bắt và chế biến thuỷ hải sản. Phát triển thương mại, hoàn thiện các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp dưới nhiều hình thức để phục vụ tốt sản xuất và đời sống ở nông thôn. - Phát triển và hiện đại hoá hệ thống thuỷ lợi, giải quyết tốt về nhu cầu tưới tiêu khoa học cho nông nghiệp. Phát triển và hiện đại hoá hệ thống thuỷ lợi là hướng đi đúng đắn của công nghiệp hoá nông nghiệp hiện nay. - Coi trọng việc đưa tiến bộ khoa học công nghệ, sinh hoá vào nông nghiệp, trước hết là các loại giống mới về cây con phù hợp với khí hậu nước ta nhằm tạo nguồn nguyên liệu lớn có chất lượng cao cho công nghiệp chế biến. Áp dụng rộng rãi công nghệ cà các biện pháp sinh học trong các khâu chính của quá trình sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, dặc biệt là công nghệ sinh học trong giai đoạn sau thu hoạch nhằm nâng cao giá trị nông sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu. - Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông, thông tin liên lạc. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn hiện nay.Cơ sở hạ tầng được phát triển và hiện đại sẽ tạo điều kiện mở rộng sự giao lưu kinh tế, xã hội giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng với nhau; kích thích kinh tế hàng hoá phát triển đồng đều, mở rộng thị trường trong nước và gắn được thị trường trong nước với thị trường thế giới, phục vụ tốt các nhu cầu đòi hỏi phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng ở nước ta. -Ưu tiên đầu tư vốn cho sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, miền núi. Điều hiển nhiên là, để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn thì một trong những vấnđề cơ bản là phải có vốn. Nhu cầu vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta ngày càng lớn. Cần phảI tạo vốn và đầu tư mạnh cả từ nhiều phía: nhà nước, viện trợ và nông dân để có thể thu hút tốI đa những nguồn vốn hiện có và còn tiềm ẩn trong nền kinh tế quốc dân đưa vào phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. - Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật nông nghiệp và trình độ dân trí nói chung trong dân cư nông thôn, đặc biệt là đốixử với lực lượng lao động nông thôn.Trước hết và cấp bách là xoá nạn mù chữ, phấn đấu phổ cập trình độ văn hoá phổ thông cơ sở và phổ thông trung học, đặc biệt là đối với lực lượng lao động chính trong nông nghiệp. Xây dựng các trọng tâm khuyến nông, chuyển giao khoa học - kỹ nghệ nông lâm – ngư nghiệp. Phát triển các trường và trung tâm dạy nghề ở nông thôn, đào tạo đội ngũ lao động trẻ có văn hoá và tay nghề cao năng động trong sản xuất kinh doanh và tiếp thu khoa học kỹ thuật mớI đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.Bồi dưỡng kiến thức quản lý sản xuất kinh doanh tổng hợp cho đội ngũ các bộ ở các hợp tác xã nông-lâm-ngư nghiệp. 2-3.Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. 2-3-1.Khái niệm kết cấu hạ tầng. Kết cấu hạ tầng của một quốc gia là hệ thống cơ sở vật chất-kỹ thuật nền của nước đó, bao gồm: đường xá, hải cảng, cầu cống, sân bay, kho tàng, nhà máy, và hệ thống chuyền dẫn năng lượng, mạng lưới thông tin liên lạc, điện tín, điện báo, các công trình thuỷ lợi, thuỷ nông, hệ thống cấp nước và thoát nước, mạng lưới thị trường, chợ búa, hệ thống trường học, bệnh viện, Viện nghiên cứu khoa học 2-3-2.Những đặc trưng cơ bản của kết cấu hạ tầng. -Tính hệ thống. -Tính kiến trúc. -Tính tiên phong định hướng. -Tính tương hỗ. -Tính xã hội và tính công cộng. -Tính vùng (tính địa lý). 2-3-3.Kết cấu hạ tầng nông thôn. Kết cấu hạ tầng nông thôn là những công trình chủ yếu phục vụ cho phát triển kinh tế xã hộI nông thôn, như giao thông nông thôn, thông tin liên lạc, điện nông thôn, thuỷ lợI phục vụ cho nông nghiệp và hệ thống cung cấp nước sạch cho sinh hoạt ở nông thôn, các cơ sở giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học, mạng lướI chợ búa ở nông thôn. Gần đây ngườI ta đã phân loạI kết cấu hạ tầng theo cơ cấu 2 phần : phần cứng và phần mềm. -Phần cứng của kết cấu hạ tầng nông thôn là hệ thống công trình đường xá nông thôn, mạng lưới điện nông thôn, hệ thống thuỷ lợi, thông tin liên lạc, cơ sở hệ thống cung cấp nước sạch -Phần mềm của kết cấu hạ tầng là hệ thống giáo dục, đào tạo nghề, cơ sở nghiên cứu để tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông thôn và vận hành chúng. Đặc điểm của kết cấu hạ tầng nông thôn trước hết là được rải mỏng trên lãnh thổ rộng lớn, mặt khác chịu tác động rất lớn của thiên nhiên (thời tiết, khí hậu ), nhất là bão lụt, nên thường dễ bị hư hỏng, tàn phá. Do đó hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn được xây dựng rất khó khăn và chi phí cho việc xây dựng, sửa chữa,xây dựng lại rất tốn kém. 2-3-4.Vai trò, ý nghĩa của kết cấu hạ tầng nông thôn. Tình trạng kết cấu hạ tầng nông thôn lạc hậu đã hạn chế rất lớn tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.Trong khi nghiên cứu tình hình kinh tế Việt Nam, các chuyên gia Ngân hàng thế giới nhận xét :”Những trở ngại trong giao thông vận tải (không chỉ là chi phí vận tải) thường là trở ngại chính đôí với sự phát triển khẳ năng chuyên môn hoá sản xuất tại từng khu vực có tiềm năng phát triển nhưng không thể tiêu thụ được sản phẩm hoặc không được cung cấp lương thực một cách ổn định, nhất là vùng núi”. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn hiểu một cách đơn giản là sự thay đổi từng bước kết cấu tổng thể nền kinh tế nông thôn trên cơ sở có hệ thống kết cấu hạ tầng không ngừng phát triển. Hay nói khác đi sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn phụ thuộc rất lớn, rất cơ bản vào kết cấu hạ tầng nông thôn, vào trình độ hiện đại và cơ cấu hợp lý của nó. 2-3-5.Hiện trạng những kết cấu hạ tầng. a.Hệ thống giao thông. -Đường sắt: cả nước có 2630km đương sắt đơn tuyến với 31 cầu đường sắt dùng tạm, có 50% toa chở khách và đường ray đã trên 40 năm. -Đường bộ : theo phân loại của chuyên gia Bộ giao thông vận tải cả nước hiện có 105.000đường bộ, trong đó có 10.805km đường quốc gia. Tính từ đường cấp huyện trở lên có tất cả 51.390km,trong đó đường rải nhựa, bê tông nhựa chiếm 10.875km,chỉ có 55km đường bê tông xi măng, khoảng 8.160km đường rải đá,còn lại 32.300km (60%) là đường đất. Phân loại chất lượng dùng : + Loại xấu và rất xấu chiếm gần 40%. + Loại tốt chỉ chiếm 13.5% Phân theo khu vực : đương bộ phía nam tốt hơn cả, loại tốt và loại khá chiếm trên 70%.Khu vực phía Bắc đường xấu hơn nhiều, chỉ có chưa đầy 39% đường loại tốt và khá, còn lại là đường xấu và rất xấu. Tỷ lệ đường đất ở phía Bắc chiếm 24%. Tính riêng đường huyện cả nước có 25.000km, trong đó đường rải nhựa mới 898km (3.6%), đường đá dăm 3500km(14%), còn lại là đường đất, đường cấp phối. Nhiều tuyến đường ở các tỉnh miền Nam chỉ đi lại được vào mùa khô. Cầu phà trên đường bộ có khoảng 2500 chiếc với tổng chiều dài 77.5km trên toàn lộ 10.800km đường quốc gia.Trên tuyến đường huyện có 2533 cầu với tổng chiều dài 39km trong đó 30% là cầu yếu và cầu tạm,chưa kể đến hàng vạn chiếc cầu khỉ. Đường thuỷ mới chưa được phát triển,hệ thống cảng sông ,cảng biển chưa được hiện đạI hoá. b.Mạng lưới điện và cung cấp năng lượng cho nông nghiệp nông thôn. - Tới 1994 nước ta đã thiết lập được hệ thống điện quốc gia thống nhất có tổng công suất khả dụng 4000 MW, trong đó nhiệt điện than chiếm 15.5%, nhiệt điện dầu 4,7%,tua bin khí 8.8% Hệ thống lưới điện chuyển tải dài 7074km trong đó lưới 220KV dài 1790km, lưới 110KV dài 5257km. Đường dây 500KV dài 1487km - Đến nay, cả nước đã có 49,27% số xã có trạm biến thế.Vùng đồng bằng sông Hồng đạt tỷ lệ cao nhất 96,6%; vùng Tây Nguyên, miền núi Trung du đạt tỷ lệ thấp, chỉ có 16-26% số xã có trạm biến thế.Tổng lượng điện cung cấp cho nông thôn (1000KWh) năm 1990 là 586,5; năm 1991 là 807,4; năm1992 là 957,0 ; năm 1993 là1000 và năm 1994 là 1166. So với lượng điện sản xuất ra chỉ chiếm 8,6-10,8%. c.Về thuỷ lợi. - Do được đầu tư khá nên số lượng công trình thuỷ lợi đưa vào phục vụ sản xuất nông nghiệp hàng năm đều tăng lên, nhất là các công trình thuỷ nông.Tổng số công trình thuỷ nông năm 1992 tăng gấp2 lần năm 1976, công trình đại thuỷ nông tăng khá nhanh. - Tổng số công trình thuỷ nông tăng chủ yếu là công trình thuỷ nông trung sử dụng điện. Nhờ vậy năng lực tưới tiêu hàng năm tăng lên đảm bảo được nước tưới cho cây trồng-nhất là đôí với lúa. d.Kết cấu hạ tầng phục vụ công cộng ở nông thôn. -Cơ sở giáo dục nông thôn phát triển khá nhanh, hầu hết các xã phường đều có trường cấp I, cấp II. Đến nay cả nước có 98% số xã có trường cấp I và 76,29% số xã có trường cấp II.Trên 76% số xã có lớp mẫu giáo.Vùng miền núi do có nhiều khó khăn nên chỉ có 52,5% số xã có lớp mẫu giáo. -Y tế bảo vệ sức khoẻ cũng được các địa phương quan tâm đầu tư xây dựng phát triển. Cả nước có 91,6% số xã có trạm xá. Các vùng miền núi ,Tây Nguyên tuy có khó khăn nhưng đã đạt tỷ lệ trên 80% số xã có tạm y tế.Hầu hết các trạm y tế đã đảm bảo được việc khám chữa bệnh thông thường cho nhân dân, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chương trình kế hoạch hoá gia đình. Trong những năm đổi mới, kinh tế nông thôn đã có bước phát triển khá nhanh, hình thành nhiều tụ điểm, chợ nông thôn,trung tâm văn hoá và giao lưu trao đổi hàng hoá nông sản, bộ mặt của nông thôn có nhiều thay đổi. 2-3-6. Khó khăn chủ yếu về kết cấu hạ tầng nông thôn. - Cấu trúc hạ tầng chậm phát triển so với sản xuất xã hội. Hệ thống cấu trúc hạ tầng của nước ta vốn đã yếu kém lại bị xuống cấp nặng nề.Cả một thời gian dài chúng ta đã quan trọng hoá quá mức các ngành sản xuất mà xem nhẹ các ngành dịch vụ. Cấu trúc hạ tầng 3/4là diện tích núi đồi với hơn 1000 con sông lớn , nhỏ cũng là một trở ngại đángkể cho việc sản xuất xã hội, đặc biệt là hệ thông giao thông liên lạc. -Nặng “phần cứng” nhẹ “phần mềm”.Nhận thức chưa đầy đủ về cấu trúc hạ tầng. Nhiều người cho rằng đó là những cơ sở, mạng lưới, hệ thống công trình xây dựng làm nền tảng cho các hoạt động xã hội mà chưa thấy rằng đó là một tập hợp cả phần cứng và phần mềm. -Sự kết hợp giữa kinh doanh và phục vụ chưa thoả đáng trong lĩnh vực phát triển cấu trúc hạ tầng. -Thiếu cân đối giữa các bộ phận cấu trúc hạ tầng. -Đối với nông thôn : kết cấu hạ tầng yếu kém không những ở vùng núi vùng sâu mà ngay cả ở vùng đồng bằng. -Hiệu quả sử dụng các cơ sở hạ tầng nông thôn rất thấp, gây lãng phí do nhiều nguyên nhân : thiếu quy hoạch, quản lý kém Trong thuỷ lợi cũng có tình trạng tương tự, -Một điều bất hợp lý hiện nay là các cơ sở hạ tầng ở thành phố như đường xá giao thông, điện, thông tin, nước, cơ sở văn hoá giáo dục, y tế, thể thao đều do nhà nước đầu tư xây dựng.Trong đó một số công trình sử dụng phải trả tiền dịch vụ (điện, nước) tại đồng hồ của từng gia đình.Còn ở nông thôn, trong phạm vi từng xã, thôn, bản người đan muốn có những nhu cầu đó đều phải bỏ công sức tiền của mình ra làm và sửa chữa hàng năm đồng thời phải trả tiền dịch vụ với giá cao hơn ở thành phố trong lúc thu nhập của nông dân lại thấp hơn nhiều so với cư dân thành thị. 2-3-7. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn. a. Phương hướng. - Mục tiêu chủ yếu là: tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện mạng lưới giao thông vận tải nông thôn nói chung, đặc biệt là giaothông vận tải miền núi nhằm phục vụ có hiệu quả sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Trong đó cần ưu tiên đối với vũng có sản xuất hàng hoá lớn (lúa đồng bằng sông Cửu Long, cà phê Đắc Lắc, chè Hà Giang, Bắc Thái) - Nhà nước bảo đảm đầu tư hệ thống đường điện 35KV đến các vùng và cung ứng nguyên liệu phụ kiện hướng dẫn kỹ thuật các xã, hợp tác xã trong việc xây dựng mạng lưới điện từ xã đến các thôn và từng hộ gia đình. Thực hiện bán điện tại công tơ của từng hộ sử dụng điện. - Vốn đầu tư và xây dựng thuỷ lợi cần tập trung vào việc sửa chữa, nâng cấp hệ thống thuỷ nông đã có, hoàn thành các công trình dở dang, đặc biệt phải hoàn chỉnh tính đồng bộ của công trìnhbảo đảm hiệu quả sử dụng công trình.Nâng cao công suất tưới tiêu,bảo đảm tưới cho 5,6 triệu ha lúa, 40-50vạn ha rau, màu, cây công nghiệp. Giải quyết nước sạch cho nông thôn, bảo đảm đến năm 1997 cung cấp đử nước sinh hoạt cho đồng bào các vùng núi cao, vùng thấp ngập mặn. - Phát triẻn cơ sở hạ tầng công cộng, bảo đảm các xã đều có trường học cấp I,cấp II, khang trang sạch sẽ, có đủ phòng học cho con em tuổi đến trường. Thực hiện chính sách đãi ngộ thích đáng cho giáo viên nhằm động viên khuyến khích anh chị em giáo viên yên tâm, góp phần làm cho nông thôn văn minh giàu đẹp. b. Giải pháp. - Trước hết là phải có quy hoạch tổng thể chung cho cả nước và các vùng kinh tế về những cơ sở hạ tầng quan trọng: + Hệ thống kết cấu hạ tầng có tính chất trực tiếp sản xuất, phục vụ sản xuất như giao thông , điện , thuỷ lợi , bến cảng , kho bãi, trung tâm buôn bán +Hệ thống kết cấu hạ tầng có tính chất xã hội như trung tâm văn hoá, giáo dục, y tế. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể đó , các địa phương (tỉnh , huyện) xây dựng quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng trên lãnh thổ địa phương mình . Đây là một việc làm hết sức cần thiết nhưng cũng rất khó khăn , phức tạp , đòi hỏi phải có sự chỉ dạo chung của nhà nước, trong đó có vấn đề kinh phí cho công tác quy hoạch. - Đổi mới chính sách đầu tư và tái tạo vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. +Vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thuộc vốn dài hạn, thu hồi vốn lâu, do đó những hệ thống công trình lớn và vừa sẽ do vốn của nhà nước đầu tư là chủ yếu. +Nhà nước thực hiện cho vay trung dài hạn xây dựng kết cấu hạ tầng với lãi suất thấp bằng 1/10 hoặc 1/5 lãi suất vốn vay ngắn hạn hoặc không lãi.Thời hạn vay tuỳ theo từng loại công trình (5,10,15,20 năm). +Thay thế chính sách huy động công lao động nghĩa vụ bằng huy động vốn cổ phần hoặc phát hành tín phiếu để đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở nhằm làm tăng khả năng nguồn vốn và đảm bảo trách nhiệm quản lý vốn, thu hồi vốn và trả vốn cho người đã đóng góp theo cơ chế thị trường. +Để tăng cường cho ngân sách xã trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, Nhà nước có cơ chế chính sách để lại toàn bộ thuỷ lợi phí và 50% số thuế sử dụng đất nông nghiệp cho xã sử dụng. -Về phương thức xây dựng kết cấu hạ tầng: có thể dùng nhiều phương thức khác nhau, trong đó phương thức đấu thầu xây dựng là tiến bộ hơn cả, đảm bảo khách quan, tiết kiệm và hiệu quả, nhanh chóng hoàn thành công trình và đưa vào khai thác sử dụng công trình. 2-4. Phát triển và hiện đại hoá hệ thống thuỷ lợi giải quyết tốt vấn đề tưới tiêu khoa học cho nông nghiệp. Nhận thức về tầm quan trọng của công tác thuỷ lợi đối với sự phát triền của nông nghiệp ,trong những năm qua, nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư khá lớn cho việc xây dựng mới, hoàn thiện và nâng cấp hệ thống các công trình thuỷ lợi. Tính đến 1/10/1996 cả nứơc đã có 20.644 công trình thuỷ lợi lớn nhỏ trong đó có 20.502 công trình thuỷ nông (6727 hồ, đập chứa nước, 5899 cống, 2363 trạm bơm điện, 671 trạm bơm dầu, 4842 công trình phụ thuộc,162 trạm thuỷ điện kết hợp thuỷ nông) các công trình này đã đảm bảo tưới tiêu cho 3 triệu ha diện tích đất canh tác (chiếm 53% tổng số) tiêu trên 2 triệu ha, ngăn mặn 0,7 triệu ha và chống lũ cho 2 triệu ha. So với những năm đầu 90 thì số lượng công trình và lượng tưới tiêu đã tăng lên đáng kể. So với các vùng trong cả nước thì đồng bằng sông Cửu Long là vùng có số lượng công trình và năng lực tưới tiêu thuỷ lợi tăng nhanh nhất. Kể từ sau ngày giải phóng đến nay, nhà nước đã đầu tư trên 1000 tỷ đồng cho các công trình thuỷ lợi, chưa kể hàng trăm tỷ đồng của nông dân làm kênh mương nội đồng. Đến năm 1996, toàn vùng đã có 1185 công trình thuỷ lợi trong đó có 163 trạm bơm điện và hệ thống kênh dẫn nước ngọt sông Tiền, sông Hậu để tưới nước cho các vùng lúa hàng hoá, phục vụ khai hoang tăng vụ, chuyển vụ và thâm canh. Riêng vùng Đồng Tháp Mười, chỉ tính từ năm 1987 đến 1996, vốn đầu tư cho thuỷ lợi của nhà nước và nhân dân đã lên tới 180,68 tỷ đồng đưa nước ngọt vè để tăng diện tích 2 vụ từ 26806 ha năm lên 86400 ha, dùng nước ngọt để ém phèn, đưa giống mới vào, năm 1996 sản xuất được 1,3 triệu tấn lúa và trở thành vùng lúa hàng hoá lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long. Ở Đông Nam Bộ vốn là vùng khô cằn thiếu nước ngọt trước đây, sau 22 năm giải phóng, nhà nước và nhân dân đã xây dựng được 103 công trình thuỷ lợi trong đó có 486 công trình độc lập công xuất tướI 200 ngàn ha, nhiều nhất là Tây Ninh, 175 ngàn ha nhờ hồ Dầu tiếng. Với diện tích mặt hồ 27000 ha chứa 1,6tỷ m³ nước ngọt, cộng với kênh mới Tân Hưng có khả năng cung cấp đủ nước tưới cho 172 ha đất trồng trọt thuộc các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Long An, thành phố Hồ Chí Minh và cung cấp hàng triệu m³ nước ngọt cho công nghiệp chế biến nước ngọt. Các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên bằng việc phát triển thuỷ điện nhỏ, chủ yếu là xây dựng các hồ, đập chứa nước kết hợp với các công trình tự chảy đã giảm bớt đáng kể về khó khăn cho việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp và phục vụ đời sống đồng bào các dân tộc miền núi trong mùa khô. 2-5. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ + Tập trung cải tạo giống cây trồng, vật nuôi, tạo và nhân nhanh các giống có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Hiện nay công nghệ sinh học trên thế giới cho phép tạo được nhiều giống mới theo ý muốn, nước ta cũng đã bước đầu làm chủ được công nghệ gen để tạogiống mới. Phát huy những thành tựu đó tăng cường hơn nữa năng lực nghiên cứu ứng dụng, có thể đưa ra những giống mới có tính cạnh tranh cao +.Đưa nhanh công nghệ mới vào tất cả các khâu: sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm; đặc biệt chú trọng ứng dụng và phát triển công nghệ bảo quản và chế biến. Hiện nay gần một nửa tổng sản phẩm nông nghiệp của nước ta được xuất khẩu, chủ yếu là nguyên liệu thô, nếu được bảo quản tốt, chế biến sâu bằng những công nghệ tiên tiến thì chắc chắn giá trị sẽ tăng lên nhiều lần + Ứng dụng công nghệ sạch trong nuôi trồng và chế biến rau quả, thực phẩm. Cần tăng cường quản lý, có cơ chế, chính sách để hạn chế sử dụng hoá chất, không dùng hoá chất độc hại. Kết hợp khoa học, công nghệ với biện pháp quản lý và nâng cao nhận thức trong nhân dân để cải biến tình hình này; không để ảnh hưởng đến sự phát triển nòi giống. + Xây dựng một số khu công nghiệp công nghệ cao dựa vào công nghệ sinh học, công nghệ thông tin như các cơ cở sản xuất giống mới dựa vào công nghệ gen, các cơ sở trồng trọt, chăn nuôi sử dụng các giống mới cùng với những công nghệ mới tự động điều khiển quá trình sản xuất (theo dõi quá trình sinh trưởng, điều chỉnh chế độ dinh dưỡng, phòng chống bệnh hại, thu hoạch, bảo quản). Bắt tay ngay vào xây dựng thí điểm các khu công nghiệp công nghệ cao ở một số vùng có điều kiện, sau đó nhân nhanh lên, sẽ tạo bước chuyển mạnh mẽ, sự nhảy vọt trong sản xuất nông nghiệp theo hướng kinh tế tri thức + Tạo ngành nghề mới, tạo việc làm ở nông thôn: thông qua chuyển giao tri thức , công nghệ về nông thôn, đào tạo bồi dưỡng nghề, cung cấp thông tin về thị trường, hướng dẫn bà con nông dân phát triển những cây con mới , chế biến các sản phẩm nông nghiệp, và nhất là mở ra các ngành nghề mới (công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp). Vai trò của các tổ chức khuyến nông, các tổ chức tư vấn dịnh vụ, chuyển giao công nghệ rất quan trọng; có hạ tầng công nghệ thông tin tốt thì sẽ phát triển rất nhanh. +Phát triển các làng nghề, kết hợp công nghệ truyền thống với tri thức hiện đại. Hiện nay một số làng nghề đang gặp khó khăn, không phát triển mà còn mai một vì sự cạnh tranh của sản phẩm công nghệ mới, nhưng rất nhiều làng nghề đã biết tiếp thu tri thức mới, công nghệ mới, phát huy những giá trị truyền thống của mình,kết hợp với vận dụng những công nghệ mới thì phát triển rất nhanh chóng Để có thể đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ về nông thôn cần có biện pháp tổ chức, cơ chế chính sách thích hợp: + Tổ chức huy động lực lượng lớn khoa học và công nghệ về nông thôn cùng với bà con nông dân, các doanh nghiệp, các tổ chức khuyến nông, các tổ chức chính trị, xã hội giải quyết các vấn đề khoa học công nghệ:giống,công nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch, phát triển công nghiệp và dịch vụ, sử dụng hợp lý tài nguyên bảo vệ môi trường +Đối với cán bộ khoa học, cơ quan khoa học chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ ở nông thôn: đảm bảo lợi ích thoả đáng, được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, khuyến khích ký kết hợp đồng giữa cơ quan khoa học và các chủ thể trong nông nghiệp, theo nguyên tắc hưởng thụ theo kết quả lao động. + Đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ, hữu cơ giữa khoa học – công nghệ và sản xuất kinh doanh bằng các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn. Các chương trình, dự án này phải có đủ luận cứ khoa học, được thẩm định chặt chẽ, đảm bảo hiệu quả, được các hộ nông dân, các trang trại, các tổ chức kinh tế hợp tác hưởng ứng, tham gia; tổ chức huy động vốn và phối hợp các lực lượng khoa học công nghệ, các doanh nghiệp để thực hiện. Một việc rất đáng lưu ý hiện nay là tổ chức lồng ghép các chương trình kinh tế - xã hội với nhau và với các chương trình khoa học công nghệ trên từng địa bàn ở nông thôn nhằm tập trung, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cho các mục tiêu phát triển ưu tiên từng địa phương, khắc phục tình trạng các chương trình hoạt động riêng rẽ, kết quả hạn chế, lãng phí các nguồn lực, đôi khi còn kìm hãm nhau. Có chính sách khuyến khích: như hỗ trợ kinh phí, trợ giá, ưu đãi tín dụng, miễn giảm thuế cho nông dân, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ. 2-6. Thực hiện chính sách ruộng đất theo hướng thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hoá trên cơ sở đảm bảo an toàn lương thực quốc gia. Thực hiện chính sách ruộng đất theo hướng thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hoá, trên cơ sở sử dụng ruộng đất có hiệu quả. Cho phép tích tụ ruộng đất lành mạnh, nhưng không làm bần cùng hoá một số bộ phận nông dân. Tích tụ ruộng đất phải đi đôi với phát triển ngành nghề, phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, tạo việc làm và thu nhập cao hơn cho dân cư nông thôn. Phát triển kinh tế trang trại với các hình thức sở hữu khác nhau ở những nơi có nhiều ruộng đất, khai phá đất hoang để trồng cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc 2-7. Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật nông nghiệp và trình độ dân trí nói chung trong dân cư ở nông thôn. Cũng như công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nói chung,công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn phải dựa chủ yếu vào khoa học và công nghệ tiên tiến, và nguồn nhân lực có đủ năng lực nắm bắt và vận dụng các tri thức mới. Nghị quyết Trung ưong 2 đã nêu “ra sức đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục”. Phát triển quy mô giáo dục trên cơ sở đảm bảo chất lượng và cơ cấu hợp lý.Phát triển hệ thống dạy nghề, mở rộng hệ thống giáo dục thường xuyên; phát triển các trung tâm học tập cộng đồng ở các làng xã, tạo điều kiện cho mọi người học tập suốt đơì, vừa làm việc vừa học tập. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ cấp xã về kiến thức khoa học công nghệ. Miễn giảm phí đào tạo các bộ nông thôn. Coi trọng chuyển giao tri thức – tri thức về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý, sản xuất kinh doanh cho lực lượng lao động nông thôn. 2-8. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước. Đây là vấn đề bức xúc có ảnh hưởng quyết định trở lại đối với sản xuất và đờI sống của nông dân. Để mở rộng thị trường nông sản cần hình thành một thị trường thống nhất trên cả nước, củng cố hệ thống thương nghiệp nông thôn, phát triển chợ nông thôn, đẩy mạnh thu gom hàng nông sản, hoàn thiện hệ thống giao thông nông thôn đến thôn bản nơi sản xuất hàng hoá. Tạo ra một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực mà ta có ưu thế và sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường, công tác tiếp thị và xúc tiến thương mạI để mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản. Giữ vững và mở rộng thị trường đã tạo lập được đẩy mạnh việc tìm thị trường mới, đa phương và đa dạng hoá quan hệ quốc tế , giảm việc tập trung vào một vài đối tác và việc mua bán qua thị trường trung gian nhằm tăng hiệu quả xuất khẩu và tạo thị trường ổn định, xây dựng và bảo vệ thương hiệu hàng hoá của Việt Nam. II. Thực trạng và giải pháp phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Một số thành tựu đạt được trong thời gian qua. a. Giải quyết được vấn đề lương thực, đủ ăn, có dự trữ và xuất khẩu. Từ một nông thôn nghèo, một quốc gia triền miên thiếu đói, thường xuyên phải nhập khẩu lương thực (năm 1979 nhập 1.994.000 tấn, năm 1980 nhập 2.244.000 tấn ), đến năm 1989đã trở thành quốc gia đủ ăn,có dự trữ và xuất khẩu gạo. Từ đó cho đến nay, sản lượng lương thực liên tục tăng.Sản lượng gạo xuất khẩu ra thị trường thế giới đứng hàng thứ 3 thứ 4 thế giới. -Đủ ăn cho một quốc gia trên 70 triệu dân sau nhiều thập niên thiếu đói, đem lại niềm tin, tạo ra tiền đè cho ổn định chính trị xã hội để tiếp tục đổi mớI và phát triển -Xuất khẩu gạo chưa hiệu quả bằng các nước khác trong khu vực nhưng trong điều kiện thiếu ngoại tệ mạnh đã là giải pháp góp thêm ngoại tệ vào cán cân thanh toán thương mại quốc tế, tạo điều kiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực thế giới. -Gạo được tự do lưu thông đã đảm bảo thoả mãn nhu cầu lương thực cho mỗi vùng, bình ổn giá cả và thị trường trong cả nước, tạo tiền đề để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phân công lại lao động trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh từng vùng nông nghiệp, phù hợp với đặc điểm từng vùng sinh thái. b.Các vùng cây công nghiệp tập trung được xây dựng. Theo các hiệp định với các nước trong khốI SEV cũ, khi chuyển sang cơ chế mớI, các vùng cây công nghiệp đã có bước phát triển đáng kể. Các chính sách như khoán vườn cây, làm vườn liên kết, giao đất làm trang trạI gia đình, doanh nghiệp nhà nước làm dịch vụ đầu vào, đầu ra đã thúc đẩy mở rộng các vùng cây công nghiệp: 150.000 ha cà phê, sản lượng đứng hàng thứ 8 trong số các nước xuất khẩu cà phê trên thế giớI, kim ngạch xuất khẩu đạt 300- 400 triệu USD/năm; 70.000 ha chè; 251.000 ha cao su; 19.400 ha dâu tằm. Việc mở rộng diện tích cây công nghiệp dài ngày đã tăng thêm diện tích đất canh tác, tạo thêm việc làm, xây dựng cơ sở công nghiệp chế biến, hình thành cơ cấu kinh tế mớI: nông nghiệp – công nghiệp - dịch vụ. Điều này có ý nghĩa lớn, nhất là ở các vùng trung du miền núi, vốn là kinh tế tự nhiên nay nhờ có chính sách phù hợp đã được phát triển, trở thành vùng kinh tế hàng hoá. c. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Kinh tế nông thôn nhìn trên tổng thể đã bước đầu chuyển dịch cơ cấu theo định hướng của Nghị quyết Trung ương lần thứ năm (khoá VII). Năm 1990 nông nghiẹp chiếm 73,8% GDP nông thôn, đến năm 1995 giảm xuống còn 64,5%.Hai hoạt động kinh tế ở nông thôn tăng lên rõ nét đó là ngành xây dựng và dịch vụ. - Ngành xây dựng năm 1990 chỉ chiếm 2,6% cơ cấu GDP nông thôn năm 1995 tăng lên 6,7%.Ngành dịch vụ chiếm 10,4% năm 1990 nhưng đến năm 1995 đã chiếm 16,6 % năm trong cơ cấu kinh tế nông thôn. - Công nghiệp chế biến bao gồm các hoạt động tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề sau thờI gian suy giảm, mất thị trường nay đang bắt đầu tìm lại thị trường, đổi mới công nghệ, khôi phục nghề cũ, tìm kiếm nghề mới. Đến nay đã xuất hiện nhiều làng nghề, có nơi chiếm 60-70% tổng thu nhập của làng, đã làm cho tốc độ tăng trưởng công nghiệp nông thôn đạt 7,8% / năm.Nhưng so với tốc độ tăng công nghiệp chung của toàn bộ nền kinh tế thì vẫn còn thấp. - Một điểm đáng lưu ý là, nhờ GDP khu vực nông thôn tăng, nên hoạt động xây dựng có điều kiện phát triển. Xây dựng ở đây không chỉ là nâng cấp nhà ở trong từng nông hộ, mà còn là xây dựng những công trình công cộng có tác dụng đến đời sống kinh tế văn hoá chung của bộ mặt nông thôn. Hoạt động kinh tế này không chỉ tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, mà còn có ý nghĩa tạo ra cốt vật chất mới thúc đẩy phát triển nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hoá. Đây cũng chính là một nội dung mới đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách nhiều vấn đề về cơ cấu kinh tế, về quy hoạch, về khoa học công nghệ, về tài chính, tín dụng - Nhiều hình thức tổ chức nông nghiệp kiểu mới xuất hiện rất đa dạng: Hình thức kinh doanh trang trại trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, trang trại trồng rừng nông lâm kết hợp, trang trại nuôi trồng thuỷ sản, đặc sản, nuôi gà, nuôi lợn, nuôi bò sữa với quy mô sản xuất hàng hoá. Hình thức trang trại không chỉ có bình quân ruộng đất cao, mà ở các vùng đất chật người đông cũng được hình thành.Về mặt quan hệ sản xuất, thay cho mô hình hợp tác xã kiểu cũ, nhiều nhân tố mới về đổi mới hợp tác cũng xuất hiện như hợp tác xã dịch vụ, hợp tác xã cổ phần, liên kết giữa kinh tế hộ với các doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước hình thành kiểu hợp tác kinh tế đa thành phần. - Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo nghĩa rộng thì thuỷ sản là ngành có bước phát triển đáng kể trong thờI kì 1990 – 1995, tăng bình quân 9,4% /năm. Một hiện tượng đáng chú ý là trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cùng với các vùng cây công nghiệp tập trung theo hướng sản xuất hàng hoá, các vùng cây ăn quả đã tăng lên đáng kể. Các vùng cây ăn quả mới hình thành cùng với kinh tế vườn ở Nam Bộ và hoạt động kinh tế VAC trong các hộ nông dân dưới nhiều hình thức vườn nhà, vườn đồi, vườn rừng đã hình thành ngành nghề mới, nhằm tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo, tạo thêm việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nông thôn và phát huy lợi thế các vùng nông nghiệp sinh thái một cách có hiệu quả. Kinh tế VAC ở nước ta trở thành một hiện tượng mới, vừa có hiệu quả kinh tế xã hội, vừa bảo vệ được môi trường, tạo ra nguồn lực sáng tạo mạnh mẽ. - Cơ cấu kinh tế nông thôn bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọngcác hoạt động công nghiệp dịch vụ. Ở những vùng có mối quan hệ liên kết kinh tế thành thị - nông thôn đã được hình thành, thị trường có bước phát triển, nền sản xuất chuyển sang sản xuất hàng hoá thì tốc độ chuyển dịch nhanh hơn. Xét về phương hướng và thể chế, các làng nghề truyền thống đang phát triển thành các cụm công nghiệp nông thôn. Các cụm công nghiệp nông thôn đang hình thành có nhiều nét mới khác với kiểu tổ chức làng nghề truyền thống trước đây, quy mô kinh tế không chỉ đóng khung trong phạm vi hộ, mà phát triển với quy mô tổng hợp, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã cổ phần. Về công nghệ sản xuất, đã chuyển từ công nghệ truyền thống sang công nghệ mới, đầu tư thiết bị tiên tiến hơn, vốn lớn hơn, thu hút được nhiều lao động dư thừa ở nông thôn, mở rộng được thị trường trong nước và ngoài nước. Do đó, kiểu tổ chức này đã không còn là hình thức bán nông, bán công, mà đã dần hình thành hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp tại nông thôn. d. GDP khu vực nông thôn tăng Tốc độ tăng GDP của nền kinh tế đã tăng từ 6,7% năm 1990 lên 9,5% năm 1995. Tốc độ tăng bình quân GDP/người khu vực kinh tế nông thôn từ 2,1% năm 1991 lên 4,1% năm 1995. Do cơ cấu GDP nông thôn vận động theo hướng mở mang các hoạt động ngoài nông nghiệp, thu nhập của một số bộ phận quan trọng hộ nông dân tăng lên và bắt đầu có tích luỹ.Giá trị GDP kinh tế nông thôn năm 1995 là 89.975.045 triệu đồng với tỷ lệ để dành năm 1995 là 10,6% thì năm 1995, khu vực nông thôn đã có được giá trị tích luỹ đáng kể là 9.537.354 triệu đồng đốI vớI nước ta đó là một con số rất có ý nghĩa. Từ thực tiễn nông thôn nước ta sau những năm đổi mới, qua kinh nghiệm thế giới có thể khẳng định rằng, đây là một hiện tượng hợp quy luật. Không những nông thôn không có để dành, mà ngược lại trong cơ chế cũ, Nhà nước lại phải thường xuyên cứu tế cho nông dân. Nay với đường lối đổi mới, cơ chế mới đi vào cuộc sống, nông dân không những có thu nhập, mà còn có để dành, đó là một bước tiến lớn có ý nghĩa cần được quan tâm. GDP nông thôn và tỷ lệ để dành Năm GDP nông thôn (triệu đồng-giá thực tế) Tỷ lệ để dành(%) 1990 21.452.000 5.2 1991 39.693.000 7.1 1992 40.638.957 7.6 1993 59.122.722 9.4 1994 72.189.000 9.6 1995 89.976.000 10.6 Nhìn bảng ta thấy tỷ lệ để dành ở nông thôn đang có xu hướng tăng lên. e. Kinh tế xã hội nông thôn khởi sắc trên nhiều mặt. Tuy đầu tư của nhà nước để xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn chưa nhiều,nhưng vớI phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nông dân đã đóng góp tiền của, sức lao động để xây dựng hệ thống điện, giao thông nông thôn, cơ sở y tế, trường học, nhà ở, làm cho bộ mặt nông thôn đã có tiến bộ mới. Nhờ các điều kiện được xây dựng, đời sống của nhân dân nông thôn bước đầu được cải thiện, tỷ lệ hộ giàu tăng, hộ nghèo đói giảm,nông thôn không còn cảnh đói gạo, thiếu cơm.Nhờ mở rộng phủ sóng truyền thanh, truyền hình, mức hưởng thụ văn hoá tăng đáng kể: năm 1994 có 21,6% số hộ nông dân có máy thu hình; 37,5% số hộ có máy thu thanh, số trẻ em đến tuổi đi học đến trường tăng lên so với trước. 2.Những tồn tại trong quá trình công nghiệp hoá hiên đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta. 2-1 Cơ cấu kinh tế nông thôn vẫn mang tính chất thuần nông. Theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm 2001 do Tổng cục Thống kê công bố tháng 4-2002 khu vực nông thôn có 13,2 triệu hộ, trong đó 79,8% số hộ làm việc trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, chỉ có 17% số hộ làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.Hai tỷ lệ tương ứng của năm 1994 là 81,6% và 8,0%.Như vậy, sau 7 năm cơ cấu ngành nghề của hộ và lao động nông thôn chuyển dịc rất chậm: giảm 0.8% số hộ và lao động khu vực nông nghiệp, bình quân 0.11%/năm. Sự bất hợp lý này còn được thể hiện rõ nét qua các chỉ tiêu khác: cho đến nay 78.6% số hộ nông thôn vẫn lấy nguồn thu nhập chính từ khu vực nông nghiệp, chỉ có 21.4% số hộ có nguồn thu nhập chính từ các hoạt động công nghiệp và dịch vụ.Cơ cấu thu từ sản xuất kinh doanh của hộ chủ yếu vẫn từ nông nghiệp: 75.6% còn công nghiệp chỉ có 13.8% và dịch vụ 10.6%. Rõ ràng, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá cơ cấu nông thôn nước ta về cơ bản vẫn mang nặng tính chất thuần nông, xét trên cả ba chỉ tiêu chủ yếu: cơ cấu lao động, thu nhập và thu từ sản xuất kinh doanh. Cơ cấu hộ nông thôn theo 3 nhóm ngành chủ yếu năm 1994 và năm 2001 Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ 1994 2001 1994 2001 1994 2001 Cả nước 81.65 81 1.61 5.5 4.39 10.6 Vùng Đông Bắc 91.6 88.4 1.37 2.5 1.49 7.3 Vùng Tây Bắc 91.6 93 1.37 2.5 1.49 4.6 Đồng bằng sông Hồng 91.3 78.1 2.01 7.4 1.78 9.6 Bắc Trung Bộ 86.84 82.9 1.6 3.6 2.8 7.8 Nam Trung Bộ 80.61 81.16 1.83 5 5.89 9.8 Tây Nguyên 77.03 91.1 0.81 1.2 4.56 5.9 Đông Nam Bộ 50.4 64.2 4.28 12.6 12.32 20.2 Đồng bằng sông CL 72.44 79.8 1.15 5 6.42 13.5 Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê. 2-2.Cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chuyển dịch chậm và không đồng đều. Trong 6 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghi
File đính kèm:
- tieu_luan_qua_trinh_cong_nghiep_hoa_hien_dai_hoa_nong_nghiep.doc