Tiểu luận Quá trình hình thành và phát triển của tôn giáo
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Quá trình hình thành và phát triển của tôn giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Quá trình hình thành và phát triển của tôn giáo
A - MỞ ĐẦU : Chúng ta đang sống những năm đầu tiên của một thiên niên kỉ mới : thiên niên kỉ thứ 3. Xã hội loài người đã có những bước tiến vô cùng to lớn trong tất cả mọi mặt : Kinh tế, chính trị, khoa học kĩ thuật và nghệ thuật. Trong một xã hội như vậy có một bộ phận không thể thiếu được, bởi nó chính là một bộ phận cấu thành nên thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở của một xã hội, đó chính là tôn giáo. Tôn giáo một vấn đề tưởng chừng như vô cùng cũ kĩ, nhưng thực chất nú luôn luôn mới mẻ . Cũng bởi vì tôn giáo nằm trong một bộ phận cấu thành nên xã hội này nên cùng với sự thay đổi của loài người mà tôn giáo cũng có những sự biến đổi dù là về nội dung hay chỉ là về hình thức. Tôn giáo - một hiện tượng xã hội phức tạp , chỉ có thể giải thích nó một cách khách quan khoa học dựa trên những quan niệm của nền tảng Triết học duy vật về lich sử ,cũng như nhận thức duy vật khoa học. Tôn giáo là một hình thức phản ánh hư ảo , xuyên tạc đời sống hiện thực và đã ra đời cách đây hàng chục nghìn năm nhưng ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật trên thế giới , tôn giáo dường như vẫn có sự phát triển đa dạng về hình thức và rộng lớn về quy mô . Vì vậy dường như không thể giải quyết vấn đề tôn giáo một cách đơn thuần về mặt nhận thức xã hội. Mặt khác vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội ngày càng thể hiện rõ nét , tôn giáo tham gia vào rất nhiều lĩnh vực của đời sống tinh thần , các tôn giáo lớn thường không chỉ ảnh hưởng sâu sắc trong phạm vi một quốc gia riêng lẻ mà tầm ảnh hưởng còn mang tính quốc tế. Một số học giả phương Tây còn cho rằng trong thế kỉ tới cuộc đấu tranh trong ý thức hệ không còn nữa mà chuyển sang đấu tranh tôn giáo. Trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay, vấn đề tôn giáo hiện nay đã được Đảng và Nhà nước ta xem xét, đánh giá lại trên quan điểm khách quan hơn, không xoá bỏ một cách duy ý chí như trước nữa mà nhìn nhận trên quan điểm phát huy những mặt tích cực, gạt bỏ những mặt tiêu cực trong các tôn giáo. đặc biệt là các chỉ thị về tôn giáo, hay quan điểm của các tôn giáo hiện nay là: sống tốt đời đẹp đạo . Trong bài tiểu luận ngắn của mình tôi chỉ muốn nhìn nhận vấn đề này dưới góc độ triết học, đặc biệt là nhìn nhận tôn giáo trên quan điểm duy vật biện chứng của Mác-Lênin. Vì chỉ là một bài tiểu luận ngắn nên tôi chỉ có thể nói sơ qua về quá trình hình thành và phát triển của tôn giáo nhưng sẽ tập trung vào phân tích bản chất và xu hướng phát triển của nó trong thế kỉ XXI này ( những khoảnh khắc mà chúng ta đang sống ) trong đó lấy lịch sử hình thành và phát triển của tôn giáo làm cái nền để nhìn nhận nó như là một mối liên hệ nhân quả tất yếu. B . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ : I- Lịch sử hình thành tôn giáo : 1.Bản chất ,nguồn gốc của tôn giáo : Bản chất : Dựa trên cơ sở của quan niệm duy vật về lịch sử , cũng như những quan niệm của C.Mác về tôn giáo , Ph. Ăng-ghen đã đưa ra một định nghĩa có tính chất kinh điển từ góc độ triết học về tôn giáo như sau : “Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc con người - của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” . Định nghĩa này không những đã chỉ ra được bản chất của tôn giáo mà còn chỉ ra con đường hình thành ý thức hay niềm tin tôn giáo. Ở định nghĩa trên chúng ta thấy rằng ,Ph. Ănghen đã tiếp tục luận điểm cho rằng con người sáng tạo ra tôn giáo (tất nhiên con người ở đây là con người của hiện thực lịch sử ).Sự sáng tạo ra tôn giáo của con người được thực hiện thông qua con đường nhận thức . Chủ thể tạo ra tôn giáo là con người , đối tượng của sự phản ánh mà con người sáng tạo ra tôn giáo là sức mạnh ở bên ngoài thống trị cuộc sống hàng ngày của con người ,còn phương thức nhận thức để tạo ra tôn giáo là phương thức hư ảo .Với chủ thể , đối tượng và phương thức của nhận thức như trên thì kết quả là con người tạo ra cai siêunhiên thần thánh trong đầu óc của mình thuộc lĩnh vực ý thức ,niềm tin. Địnhnghĩa của PH. Ănghen về tôn giáo tuy là định nghĩa có tính chất bao quátvề hiện tượng tôn giáo ,là định nghĩa rộng những cũng đã chỉ rõ cái đặc trưng , cái bản chất của tôn giáo đó là niềm tin hay thế giới quan hoang đường hư ảo của con người . Sự ra đời hiện tượng tôn giáo với bản chất như trên là tất yếu khách quan ,vì khi con ngưòi bị bất lực trước sức mạnh của thế giới bên ngoài thì con người cần đến tôn giáo nhằm bù đắp cho sự bất lực ấy . Điều đó cũng có nghĩa là bản chất của tôn giáo được thể hiện rõ nhất thông qua chức năng đền bù hư ảo của nó . Nguồn gốc : VI.Lê-nin đã gọi toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện tất yếu làm nảy sinh niềm tin tôn giáo là những nguồn gốc của tôn giáo .Nguồn gốc đó bao gồm : Nguồn gốc xã hội ,nguồn gốc nhận thức ,nguồn gốc tâm lý . Nguồn gốc xã hội của tôn giáo là toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện khach quan của đời sống xã hội tất yếu làm nảy sinh và tái hiện những niềm tin tôn giáo .Trong đó có một số nguyên nhân và điều kiện gắn với mối quan hệ giữa con người với con người .Chúng ta thấy rằng ,sự thống trị của tự nhiên đối với con người không phải được quyết địnhbởi những thuộc tính và quy luật của bản thân giới tự nhiên mà được quyết định bởi tính chất mối quan hệ của con người với tự nhiên ,nghĩa là bởi sự phát triển kém của lực lượng sản xuất xã hội mà trước hết là công cụ lao động .Như vậy không phải bản thân giới tự nhiên sinh ra tôn giáo mà là mối quan hệ đặc thù của con người với tự nhiên ,do trình độ sản xuất quyết định .Trong tất cả các hình thái xã hội trước Cộng sản Chủ Nghĩa ,những mối quan hệ xã hội đã phát triển một cách tự phát . Những quy luật phát triển của xã hội biểu hiện như là những lực lượng mù quáng ,trói buộc con người và ảnh hưởng quyết định đến số phận của họ .Những lực lượng đó trong ý thức con người được thần thánh hoá và mang hình thức của những lực lượng siêu nhiên . Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cũng như mọi ý thức sai lầm chính là sự tuyệt đối hoá ,sự cương điệu mặt chủ thểcủa nhận thức con người(hay hình thức chủ quan của nó),biến nó thành cái không còn nội dung khách quan , không còn cơ sở “thế gian” , nghĩa là thành cái siêu nhiên thần thánh . Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo theo Phoi – o- bách không chỉ bao gồm những tình cảm tiêu cực (sự lệ thuộc sợ hãi ,không thoả mãn , đau khổ ,cô đơn ,..)mà cả những tình cảm tích cực (niềm vui ,sự thoả mãn,tình yêu ,sự kính trọng )không chỉ những tình cảm ,mà cả những điều mong muốn , ước vọng ,nhu cầu khắc phục những tình cảm tình cảm tiêu cực muốn được đền bù hư ảo . 2. Chức năng xã hội của tôn giáo Chủ nghĩa Mác cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội ,nguồn gốc của nó là ở trong những điều kiện tồn tại vật chất của xã hội trong những giai đoạn phát triển xã hội nhất định ,nghĩa là ở các mối quan hệ hạn chế của con người trước những sức mạnh tự nhiên và đối với nhau. Sự bất lực của con người trước những sức mạnh tự nhiên và xã hội đã nảy sinh ra nyhu cầu đềnbù sự hạn chế của các mối quan hệ hiện thực ,quan hệ “trần gian”-thế giới bên kia. Vì thế có thể gọi chứcnăng đềnbù hư ảo là chức năng chủ yếu và đặc thù của tôn giáo . Luận điểm nổi tiếng của C.Mác : “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã làm nổi bật chức năng đền bù hư ảo . Giống như thuốc phiện tôn giáo đã tạo ra cái vẻ bề ngoài của “sự làm nhẹ” tạm thưòi nỗi đau khổ của con người , an ủi cho những mất mát ,những thiếu hụt hiện thực của đời sống con người , đồng thời gây ra những tác động có hại đối với con người khi tạo ra ở họ nhu cầu thường xuyên tách khỏi hiện thực ,tiêm nhiễm cho họ những quan niệm phản khoa học . Trong những điều kiện lịch sử cụ thể ,tôn giáo thậm chí có thể là chỗ dựa tinh thần cho những ước muốn chân chính của quần chúng bị áp bức ,phục vụ cho lợi ích của họ .Ví dụ nó đã từng làm vỏ bọc tư tưởng của các phong trào xã hội tiến bộ .Nhưng ở đây nó vẫn không hề mất chức năng đền bù hư ảo ,vì hạt nhân cơ bản của các tôn giáo -niềm tin vào cái siêu nhiên – luôn luôn gây tác động kìm hãm đối với tính tích cực của quần chúng , chuyển hướng niềm tin và sự nỗ lực của họ vào con đường hư ảo . Chính vì vậy VI.Lê nin đã nhấn mạnh : “Tôn giáo là thuốc phiện đối với nhân dân – câu nói đó của C.Mác là hòn đá tảng của toàn bộ quan điểm của chủ nghĩa Mác trong vấn đề tôn giáo . 3.Thời kì đầu : hình thành và phát triển dưới tư tưởng của chủ nghĩa duy tâm Có thể nói ngay từ khi xuất hiện loài người trên trái đất này thì tôn giáo cũng xuất hiện theo. Như Lênin đã viết : sự sợ hãi đã tạo ra thần linh, con người từ thuở đầu sơ khai vô cùng nhỏ bé và yếu ớt, họ cảm thấy kinh sợ trước sức mạnh của tự nhiên. Trong thế giới quan của họ thiên nhiên được cai quản bởi các vị thần : thần sấm, thần mưa, thần gió... được phác hoạ trong các cuốn Kinh thánh hay các cuốn sách như : Thần thoại Hi lạp, hay các sách kinh của các đạo Hinđu ( đạo của người ấn ).ví dụ như đạo Hinđu là một hệ thống tôn giáo - tín ngưỡng- triết học. Tôn giáo này quan niệm các vị thần cai quản thế giới này như indra( thần sấm ), Surya ( Thần mặt trời ), Varu ( Thần gió ), Agni ( Thần Lửa , Varuna ( thần không trung )... Con người không hề có sự tác động gì đối với thế giới họ đang sống do đó chỉ có cúng tế kêu cầu thì con người mới được Thần linh phù hộ trong mọi công việc. Chính vì vậy mà trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì : sự bất lực của con người trước những sức mạnh tự nhiên là nguyên nhân làm nảy sinh và tái hiện tôn giáo. Tôn giáo khi đó là một phần trong đời sống con người bởi nó đã bao gồm những sức mạnh nằm bên ngoài con người và được phản ánh vào trong thế giới quan của con người. 4.Thời kì đã hình thành xã hội loài người có giai cấp : Cho đến khi con người thoát khỏi thời kì sơ khai, và đã có sự hình thành một xã hội loài người rõ rệt thì con người lại trở nên bất lực trước chính những vấn đề của xã hội đó gây ra cho họ. Họ tin vào những con người có sức mạnh toàn năng có thể che chở cho họ và đem lại cho họ cuộc sống hạnh phúc và họ tôn sung những con ngươi đó một cách tuyệt đối : đó có thể là Chúa Giê-su ( đạo Thiên chúa ), Thánh Allah ( đạo Hồi ) hay Đức Phật Thích ca ( đạo Phật ), khi đó tôn giáo bắt đầu được hình thành một cách rõ rệt . Điều đó ta có thể cho là tất nhiên : yếu thì cần phải được che chở, nhưng xét trên quan điểm duy vật biện chứng thì đó lại là một sai lầm : đó là sự tuyệt đối hoá, sự cường điệu một mặt nào đó của năng lực nhận thức, làm cho nhận thức của con người xa rời thế giới hiên thực dẫn đến sự phản ánh sai lầm, hư ảo thế giới đó. Xét về mặt nhận thức và xét trên cặp phạm trù tất nhiên-ngẫu nhiên ta cũng có thể hiểu một phần nào về sự hình thành tôn giáo : đó là do khi xã hội chưa phát triển con người vẫn còn nghèo đói và nhận thức của con người về tự nhiên... vẫn còn hạn hẹp thì sự ra đời của tôn giáo như một điều tất nhiên bởi mỗi tôn giáo đều có những tư tưởng riêng về giới tự nhiên cũng như con người. Con người là một trong “vạn vật ” nhưng đồng thời chính nó lại là quý giá nhất trong toàn bộ thế giới “vạn vật ” .Con người là một sinh vật có năm bẩm tính tự nhiên. Đó là : nhân ,nghĩa, lễ, trí, tín . “Nhân- là lòng nhân ái,khác với bất nhân ở chỗ không phải là người có tâm ác” . Điều đó có nghĩa là biết thương người ,yêu người . Nghĩa – là chính nghĩa đồng thời còn là nghiã vụ ,tức là thực hiện bổn phận của mình .Lễ - là lễ độ cách cư xử tức là tuân theo đạo để trưởng thành .Trí - là sự hiểu biết ,tức là quan sát và nhận thức sâu , không lầm lẫn , nắm bắt cái huyền vi và tìm tòi tâm lý . Tín - là lòng chân thành , là tính chân thực tức là nhất mực trung thành với một ai hoặc một việc gì đó mà không dao động ,nghiêng ngả. Nếu nói sự ra đời của tôn giáo là một hiện tượng thì bản chất của nó cũng chỉ phản ánh sự yếu ớt của con người trước những vấn đề của tự nhiên và xã hội , bởi hầu hết các tôn giáo đều quan niệm đều coi bản thân con người là thực sự yếu ớt và nhỏ bé và luôn có một sức mạnh siêu nhiên nào đó để họ cầu cứu : Chúa trời, Thánh Alla, Đức Phật...như đã nói ở trên. II - Tôn giáo và những mặt trái của nó: Sai lầm trong nhận thức : Chính do sự sai lầm như đã nói ở trên, mà tôn giáo có ảnh hưởng khá tiêu cực đối với sự phát triển hoàn chỉnh của hình thái kinh tế xã hội. Xét về mặt triết học trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì con người luôn sử dụng nhận thức của mình để cải tạo xã hội ngày càng trở nên tốt đẹp hơn thì trong thế giới quan tôn giáo thì con người lại chẳng có tác dụng gì trong việc cải biến thế giới : đạo Phật quan niệm đời là bể khổ nên chủ trương lánh đời để tự tu thân mong giải thoát khỏi cõi khổ đau để đạt tới cõi Niết bàn là tượng trưng cho sự siêu thoát ,con đường tu thõn nhằm mục đớch vượt ra khỏi dũng tồn tại nhơ bẩn để trở thành giọt nước trong ,khụng vương vấn gỡ đến ngọn súng và dũng đục , đạo thiên Chúa quan niệm Chúa đã tạo nên tất cả và con người phải nghe theo lời Chúa dạy ,tất cả đã được ghi trong Kinh thánh con người của tôn giáo là con người nhỏ bé và họ luôn phải tìm kiếm sức mạnh ở bên ngoài con người họ. Những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của xã hội Trong đề mục này em chỉ muốn nhấn mạnh vào những ảnh hưởng tiêu cực xuất phát từ những nhận thức sai lầm của thế giới quan tôn giáo. a.Những ảnh hưởng do chớnh bản thõn tụn giỏo gõy ra : Như ở trên đã nói thì con người trong thế giới quan tôn giáo là vô cùng nhỏ bé chính vì vậy con người không hề có tác dụng trong việc cải biến xã hội. Nếu chỉ con người chỉ nhận thức thế giới dưới thế giới quan tôn giáo thì chắc chắn cuộc sống của chúng ta sẽ không bao giờ được như ngày nay mà chúng ta sẽ mãi mãi chỉ là những sinh vật nhỏ bé và chịu ảnh hưởng hoàn toàn của các sức mạnh tự nhiên. Ở phương Tây đã có một thời Thiên chúa giáo chi phối hoàn toàn nhận thức của con người. Khi đó những ai đi ngược lại những suy nghĩ của đạo Thiên chúa đều phải nhận lấy những hình phạt nặng nề, như Galile chứng minh được rằng Trái đất quay xung quanh mặt trời nhưng nhà thờ lại quan niệm rằng trái đất là trung tâm và mặt trời phải quay quanh trái đất và kết cục là Galile đã phải lĩnh án hoả thiêu. Chính vì thế giới quan tôn giáo có sự sai lệch như vậy nên sự sai lầm trong nhận thức của những người theo đạo là một điều tất nhiên. Tuy đã bước sang thế kỉ XXI thế kỉ của văn minh, nhưng chỉ mới chỉ trước cái khoảnh khắc mà chúng ta đang sống một thời gian ngắn thôi đã có những quan niệm hết sức sai lầm : tiêu biểu nhất là quan niệm về ngày tận thế (khi con người bước vào thế kỉ mới ) khiến cho rất nhiều người phải chết oan bởi những vụ tự sát tập thể vì một viễn cảnh được cứu rỗi, được đến với Chúa khi bước sang thế giới bên kia. Cũng chính bởi nhận thức sai lệch mà trong một số giáo phái xuất hiện những tư tưởng rất cực đoan : như vụ đầu độc bằng khí độc tại ga tàu điện ngầm của giáo phái Aum mấy năm trước tại Nhật Bản, hoặc những vụ khủng bố của những phần tử Hồi giáo cực đoan như vụ khủng bố 11/9 tại trung tõm thương mại Thế Giới _Mỹ vừa rồi của những phần tử này mà cầm đầu là Bin Laden. b. Những ảnh hưởng xấu do tôn giáo bị lợi dụng bởi các thế lực khác: Cũng chính bởi tôn giáo là một bộ phận cấu thành xã hội nên nó là phương tiện để người ta sử dụng nó cho các mục đích khác. Chúng ta hẳn con nhớ những vụ xây chùa giả rầm rộ ở chùa Hương để nhằm mục đớch bòn rút những đồng tiền thành tâm của các tín đồ. Rồi những trò nhảm nhí như lên đồng, gọi hồn, xem bói, giải hạn ..v...v ..tất cả chỉ là lợi dụng tôn giáo để kiếm tiền bất chính. Ở nước ta tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là quyền của mỗi công dân, nhưng có một số kẻ xấu đã sử dụng chiêu bài tôn giáo để phá hoại nước ta. Như những vụ truyền bá tư tưởng phản động của đao Hồi cực đoan vào các tỉnh miền nam nước ta, hay lợi dụng tôn giáo để cỏc thế lực thự địch xỳi bẩy sự nổi dậy của nhân dân các tỉnh Tây nguyên nhằm các mục tiêu chính trị của những kẻ phản động với sự chuẩn bị ra đời của nhà nước mới. III . Tôn giáo trong thế kỉ XXI : 1.Sự phát triển các loại tôn giáo : Kiểu tôn giáo hiện đại ra đời nhằm làm cho tôn giáo phù hợp với sự phát triển mới của lịch sử xã hội . đặc trưng của kiểu tôn giáo này là nó đã có giáo lý,giáo luật,có hệ thống lễ nghi thờ cúng chặt chẽ , và đặc biệt là có tổ chức - nghĩa là nó đã là một tiểu hệ thống kiến trúc thượng tầng. Tôn giáo dân tộc (hay quốc gia) gắn liền với xã hội có giai cấp đầu tiên(xã hội chiếm hữu nô lệ) điển hình là tôn giáo đa thần của Hy Lạp vị thần đứng đầu trong vạn thần miếu (Pantheon ) là thần Dớt -vị chúa tể tr ên trời , rồi đ ến các vị thần như: thần biển (pô-xê-i-đông),thần Tình yêu và sắc đẹp (A-pho-ro-di-ta),thần Mặt trời (A-po-long)v.vv.. Đặc trưng của tôn giáo dân tộc là tính chất quốc gia , các vị thần được tạo nên do ảo tưởng tôn giáo của nhân dân đều là những vị thần có tính chất quốc gia , quyền lực của các vị thần đó không vượt ra ngoài khu vực . Như C.Mác đã nhận xét “tôn giáo chân chính “của các dân tộc thời cổ là sự thờ cúng mang “ tính quốc gia ” riêng ,”tính nhà nước riêng” . Chính vì có mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn giáo dân tộc với quốc gia dân tộc mà khi nẩy sinh những vấn đề dân tộc thường kéo theo vấn đề tôn giáo. Tôn giáo thế giới thường gắn với những bước ngoạt quan trọng trong lịch sử đụng chạm tới số phận đa số người .Ví dụ : đạo Phật xuất hiện vào thế kỷ thứ VI – V trước công nguyên là hệ tư tưởng của các nhà nước chiếm hữu nô lệ lớn nhằm thay thế đạo Bà la môn là tôn giáo có tính chất thị tộc. Đạo Cơ đốc xuất hiện vào thế kỷ thứ I sau công nguyên , ở cuối thời kỳ khủng hoảng kinh tể chính trị -xã hội của chế độ La Mã đa dân tộc ,mở đầu cho sự ra đời chế độ xã hội mới-chế độ phong kiến . Đạo Hồi xuất hiện vào thế kỷ thứ VII sau công nguyên gắn liền với các bộ lạc A-ra-vin lên chế độ phong kiến . Tôn giáo thế giới thực hiện sự truyền bá đến mọi người (không phân biệt giới , địa vị xã hội , đặc điểm dân tộc hay chủng tộc),coi mọi người bình đẳng thiêng liêng và có chung một nhu cầu được giải thoát khỏi đau khổ.Còn sự hưởng lạc ở thế giới bên kia thì theo sự truyền bá của tôn giáo thế giới ,không phụ thuộc vào địa vị xã hội của mỗi người như đối với các tôn giáo dân tộc ,mà phụ thuộc vào đạo đức của giáo dân . 2.Về sự phát triển tôn giáo ở Việt Nam : Vào nửa đầu những năm 70 của thế kỷ XX , ở Miền Nam Việt Nam người ta thống kê được hơn 30 tôn giáo Việt Nam ,trong đó có 2 tôn giáo có số lượng tín đồ đông ,có hệ thống giáo lý tương đối chặt chẽ,có hệ thống tổ chức,còn tồn tại phát triển cho đến ngày nay , đó là đạo Cao Đài và đạo Hoà Hảo. Đạo Cao Đài hay “Đại đạo Tam kỳ Phổ Độ” là sự thống nhất của 5 ngành đạo :Nhân đạo (đạo Khổng) ,Thần đạo (đạo thần của Trung Hoa ),Thánh đạo (đạo Công giáo ),Tiên đạo (đạo Lão)và Phật đạo (đạo Phật).Thực chất đây là sự vay mượn của các tôn giáo đã có mặt ở Việt Nam để thu hút tín đồ với tư cách là những cư dân phức tạp ở vùng Nam Bộ . “Phổ độ” là cứu vớt (theo cách nói của Phật giáo hay cứu vớt theo cách nói của Công giáo ,Còn “Tam Kỳ” được giải thích là 3 thời kỳ lịch sử gắn với 3 lần cứu vớt chúng sinh của Ngọc Hoàng thượng đế .Vì vậy vị thần cao nhất mà đạo Cao Đài tôn thờ là Ngọc Hoàng thượng đế (danh xưng Cao Đài ). Đạo Hoà Hảo ra đời năm 1939 ở làng Hoà Hảo ,quận Tân Châu ,tỉnh Châu Đốc (An Giang ngày nay ). Đạo Hoà Hảo còn gọi là Phật giáo Hoà Hảo vì sự ra đời của nó xét về mặt tín ngưỡng tôn giáo ,thì nó là sự phát triển nối tiếp của Phật giáo Việt Nam nói chung và của một số phái Phật giáo ở Nam Bộ nói riêng . Đạo Hoà Hảo là sự truyền bá khéo léo kết hợp giữa tư tưởng tôn giáo với tinh thần chống thực dân chống đế quốc ;kết hợp giữa truyền giáo và chữa bệnh ,nên có sự thu hút lớn đối với quần chúng nhân dân . Ngoài 2 đạo nói trên Tôn giáo Việt Nam không thể không kể đến sự phát triển của Phật giáo ,Ki Tô giáo (đạo Thiên Chúa ), đạo tin lành (ở vùng dân tộc thiểu số ), thờ cúng tổ tiên ( phổ biến nhất ) . Sau những thăng trầm của lịch sử ,năm 1981 Phật giáo Việt Nam đã tiến hành đại Hội lần I thành lập một tổ chức thống nhất : Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam với phương trâm hoạt động là : “Đạo Pháp – Dân tộc và Chủ Nghĩa Xã Hội ” . Hiện nay Phật giáo có khoảng 7 triệu tín đồ và hơn 20 nghìn nhà tu hành . Tín đồ phật giao có mặt ở 60/61 tỉnh thành. Vào những năm đầu của năm 1975 đất nước được thống nhất ,năm 1980 Hộ đồng Giám mục Việt Nam được thành lập và đã ra một bức thư chung xác định đường hướng hoật động của Giáo Hội là: “Sống Phúc âm trong lòng dân tộc cùng đồng bào cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” .Hiện nay đạo Thiên Chúa có khoảng 5 triệu tín đồ có mặt ở khắp mọi nơi ,tín đồ đạo giáo có nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ,thực hiện phương châm chống “ Tốt Đời - Đẹp Đạo ”. Thờ cúng tổ tiên : là loại hình tín ngưỡng tiêu biểu . Nếu xem xét thờ cúng Tổ tiên ở góc độ truyền thống thì đó làtruyền thống nhớ ơn những người đã khuất thuộc về huyết tộc của mình . Còn xem xét thờ cúng Tổ tiên ở góc độ tín ngưỡng tôn giáo thì thờ cúng tổ tiên liên quan đến quan niệm về linh hồn ,về thế giới bên kia,về cuộc sống sau khi chết . Ở góc độ này thờ cúng tổ tiên là sự thờ cúng vong linh của những người đã khuất để cầu mong sự che chở , sự giúp đỡ ,sự phù hộ của những người đã khuất đối với những người đương sống. Biểu hiện của thờ cúng Tổ tiên qua ma chay , giỗ tết , trong những công việc trọng đại của gia đình hay của một thành viên trong gia đình . 3.Sự phát triển mang tính hình thức : Ngày nay do sự phát triển của công nghệ thông tin và thế giới truyền thông tôn giáo cũng được coi như một thứ hàng hoá cũng có những chiến lược tiếp thị , những nhà thờ của không gian điện tử (mạng Internet ), những tôn giáo có thể truy cập trên mạng như : Buddha Net (đạo phật ), Islam City ( đạo Hồi ), Thewall.org. Nhiều giáo phái mới ra đời. 4.Sự suy thoái thực sự về nội dung : Như một kết quả tất yếu của một loạt những sai lầm của thế giới quan tôn giáo mà tôn giáo đã đi dần đến chỗ suy thoái. Con người ngày nay nhờ những nhận thức đúng đắn của mình đã xây dựng nên một xã hội phát triển họ không còn bất lực trước các sức mạnh cũng như của xã hội nữa mà họ dần khẳngđịnh khả năng làm chủ của mình,ví dụ như theo điều tra gần đây nhất thì tỉ lệ người dân phương Tây không chọn tôn giáo mình đang theo cho đứa con mình, điều đó chứng tỏ người dân càng ngày càng đánh mất lòng tin ở tôn giáo. Như vậy trong thế kỉ XXI này cùng với sự biến đổi của các vấn đề xã hội khác chúng ta có thể thấy tôn giáo mất dần đi chỗ đứng trong đời sống con người. C - KẾT LUẬN : Hầu hết các tôn giáo vẫn mang rất nhiều giá trị quan trọng thu hút một bộ phận đông đảo quần chúng tham gia . Đây là tình hình chung không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới .Các tôn giáo chỉ còn mang giá trị văn hoá chứ không tham gia vào chính trị . Một số tôn giáo có sự biến đổi liên tục nhanh chóng phù hợp với sự phù hợp về kinh tế xã hội .Tuy nhiên một số tôn giáo ở vùng dân tộc đang bị các thế lực phản động sử dụng , đây là địa bàn khó kiểm soát vì dân trí không cao và các thế lực thù địch có thể tuyên truyền sai lệch các quan điểm của Đảng gây kích thích sự chia rẽ đoàn kết dân tộc , điển hinh là vụ án ở Tây Nguyên đã nói ở trên .Chính vì vậy việc tuyên truyền chính sách mới của Đảng hiện nay rất quan trọng .Các luận điểm chủ yếu của chính sách tôn giáo mới gồm : Mọi tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật Tôn giáo chỉ có ý nghĩa trong sinh hoạt văn hoá tinh thần không còn tham gia vào các hoạt động chính trị Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của mọi người Phát huy mặt tích cực của tôn giáo và hạn chế các mặt tiêu cực có hại cho đời sống xã hội .. Ăng-ghen đã nói mọi sự phát triển không có định hướng đúng đều để lại phía sau một bãi hoang mạc. Tôn giáo là một bộ phận trong xã hội loài người nó có một số mặt tốt như đạo Phật quan niệm ở hiền gặp lành, ác giả ác báo..., Thiên Chúa giáo răn dậy các tín đồ của mình phải sống lương thiện đó là những ưu điểm mà con người cần phát huy. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên thì tôn giáo dường như sẽ mất dần đi chỗ đứng của mình, điều đó là tất nhiên bởi theo qui luật của sự phát triển thì cái cũ sẽ bị thay thế bởi cái mới phát triển hơn. Con người càng ngày càng phát triển và dưới sức mạnh của Khoa học Công nghệ thì con người ngày nay đã có những nhận thức đầy đủ về thế giới và họ có thể cải biến tự nhiên cũng như xã hội bằng khả năng và theo ý muốn của mình. Phụ lục TÀI LIỆU THAM KHẢO : Cao Xuân Huy - Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu.( NXB Văn hoá thông tin 1998 ) Triết học Mác Lênin Thực hành triết học Tạp chí Triết học (tháng 9 năm 96 ) Almanach những nền văn minh thế giới (NXB Văn hoá thôngtin1999 ) Triết học Mác Lê-Nin ( NXB thống kê 1992 ). Chủ nghĩa duy vật lịch sử Lý luận và vận dụng ( NXB sách giáo khoa Mác Lê-Nin )
File đính kèm:
- tieu_luan_qua_trinh_hinh_thanh_va_phat_trien_cua_ton_giao.docx