Tiểu luận Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Liên hệ thực tế sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam qua các thời kỳ
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Liên hệ thực tế sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam qua các thời kỳ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Liên hệ thực tế sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam qua các thời kỳ
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Nguồn lực con người luôn có vai trò quan trọng với sự phát triển của mỗi quốc gia. Đặc biệt là trong bối cảnh thế kỉ XXI, khi thế giới đang dần chuyển sang nên kinh tế tri thức, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, nguồn lực con người ngày càng thể hiện vai trò quyết định của nó. Phát triển nguồn lực con người là xu hướng phát triển của thế giới, đó cũng là con đường phát triển tất yếu của Việt Nam để tiến tới hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa”. Thực tế đã chứng tỏ rằng nếu không có nguồn nhân lực chất lượng thì nền kinh tế của Việt Nam chưa thể thoát khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu. Thực tế đã chứng tỏ răng nêu không có nguồn nhân lực chất lượng thì nền kinh tế của Việt Nam chưa thể thoát khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu. Với những yêu cầu cấp thiết đó, trong công cuộc hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần phải xem xét, đánh giá nguồn nhân lực hiện tại ở Việt Nam đang bộc lộ những ưu điểm gì, tồn tại những hạn chế nào để xây dựng chính sách phát triển bền vững, nâng cao chất lượng lao động, phát huy sức mạnh của nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho mục tiêu công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Và tư tưởng Mác - Lênin là cơ sở, là nền tảng để xây dựng nên những chính sách, tầm nhìn chiến về nguồn lực con người ở Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của con người với sự phát triển của quốc gia em đã chọn đề tài tiểu luận: “Quan điểm của triết học về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta”. NỘI DUNG I. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người 1.1. Khái niệm con người Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Con người là một thực thể “song trùng” tự nhiên và xã hội, là sự kết hợp cái tự nhiên (sinh học) và cái xã hội. Hai yếu tố này gắn kết với nhau, đan quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội và cũng không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên. - Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai góc độ sau đây: Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài. Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng là “thân thể vô cơ của con người”. Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người và giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. - Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các góc độ sau đây: Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó. Mác đã nhiều lần so sánh con người với những loài động vật có bản năng gần giống với con người. Và ông đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người mới làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con người biến đổi tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật, con người biết lao động và tạo ra công cụ sản xuất... Trong đó, nhân tố đầu tiên và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người, Đó là một trong những phát hiện mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhờ đó mà có thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ. Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn tại của nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà có sự biến đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy mà không thể là “con người” với đầy đủ ý nghĩa của nó. Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nếu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội của nó thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn. 1.2. Bản chất con người Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tạo ra một bước ngoặt trong việc nhận thức bản chất con người. Các ông đã xuất phát từ con người thực tiễn, con người hiện thực, con người cải tạo thế giới thông qua hoạt động vật chất của mình. Đó là một động vật có tính xã hội với tất cả những nội dung văn hóa – lịch sử của nó. Như vậy, các ông không xem xét bản chất con người một cách cô lập và phiến diện mà đặt nó trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội. Con người sống dựa vào tự nhiên như hết thảy mọi sinh vật khác, nhưng con người sở dĩ trở thành “người” chính là ở chỗ không chỉ sống dựa vào tự nhiên, Ph.Ăngghen là người đầu tiên đã chỉ ra được bước chuyển biến từ vượn thành người là nhờ có lao động. Quá trình con người cải tạo tự nhiên cũng là quá trình con người trở thành con người. Ph.Ăngghen nói “lao động sáng tạo ra con người là theo ý nghĩa ấy”. Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người: “ Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Khác với quan niệm duy vật siêu hình, quan niệm duy vật biện chứng về con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện bản tính xã hội của nó. Hơn nữa, chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của con người với tư cách “người”, phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Như vậy, có thể định nghĩa con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó, chính là “tổng hòa của các quan hệ xã hội”, bởi xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích và lý giải sự hình thành và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử. Xét từ giác độ nhân chủng học, tức phương diện bản tính tự nhiên, “người da đen” vẫn chỉ là người da đen, nhưng chỉ trong quan hệ kinh tế - chính trị của xã hội chiếm hữu nô lệ anh ta mới có thể bị biến thành “người nô lệ”, còn trong quan hệ kinh tế - chính trị xã hội chủ nghĩa, anh ta là “người tự do”, làm chủ và sáng tạo lịch sử. Như thế, không có một bản chất nô lệ cố hữu và bất biến của người da đen hay da trắng, nó là sản phẩm tất yếu của những quan hệ kinh tế, chính trị - xã hội trong những điều kiện lịch sử xác định, khi những quan hệ này thay đổi thì do đó cũng có sự thay đổi bản chất của con người. Cũng do vậy, sự giải phóng bản chất con người cần phải là hướng vào sự giải phóng những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nó, thông qua đó có thể phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Cần phải từ quan niệm như vậy mới có thể lý giải đúng đắn về khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Sự hạn chế về năng lực sáng tạo lịch sử của những con người tiểu nông không thể lý giải từ bản tính tự nhiên của họ mà trái lại cần phải được lý giải từ giác độ tính hạn chế về trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội tiểu nông. Như thế, con người, xét từ giác độ bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối quan hệ giữa con người – chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định bởi chính lịch sử đó. Từ đó có thể thấy hạn chế cơ bản của quan niệm duy vật siêu hình về bản chất của con người chính là ở chỗ chỉ nhận thấy tính quyết định của hoàn cảnh lịch sử đối với con người mà không nhận thấy mối quan hệ sáng tạo của con người trong quá trình cải tạo hoàn cảnh và do đó cũng chính là cải tạo bản thân nó. C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”. Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó. Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất con người song không có nghĩa là chủ nghĩ Mác – Lênin coi nhẹ mặt tự nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Bởi vì theo C.Mác “giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên”. Con người và con vật đều có những nhu cầu như ăn uống, tính dục, nhưng C.Mác đã từng vạch ra tính chất khác nhau của những nhu cầu ấy: con người hoạt động theo bản năng,con người hành động theo ý thức. Và chính mặt xã hội của con người đã làm cho mặt sinh vật trong con người phát triển ở trình độ cao hơn những động vật khác. Con người sống, hoạt động không phải chỉ theo bản năng di truyền sẵn có như các động vật thông thường mà chủ yếu theo sự phát triển của văn hóa, của tiến bộ lịch sử - xã hội. Khác con vật, con người ngoài chương trình di truyền, còn có chương trình kế thừa về mặt xã hội. Bằng con đường giáo dục, chương trình này truyền lại kinh nghiệm của những thế hệ trước cho các thế hệ sau. Những đặc điểm di truyền của từng người vừa bảo đảm những thuộc tính sinh học, vừa bảo đảm để con người tiếp thu chương trình xã hội. Xuất phát từ những lập luận trên, kết luận tất yếu rút ra là: con người với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với tự nhiên. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh học và mặt xã hội trong con người tạo thành bản chất con người II. Vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 2.1. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu “Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh”... Sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng mức độ tác động và vai trò của chúng đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa không giống nhau, trong đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó. Để xem xét vai trò của nguồn lực con người, cần đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác và ở mức độ chi phối của nó đến sự thành bại của công cuộc đổi mới đất nước, vai trò quyết định của con người được biểu hiện ở những điểm sau: Trước hết, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, khí hậu có vai trò rất lớn trong sự phát triển của một quốc gia. Song những yếu tố đó ở dưới dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể bất động. Chúng chỉ trở thành nhân tố “khởi động”, và phát huy tác dụng khi kết hợp với nguồn lực con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết lợi dụng các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các nguồn lực khác là những đối tượng chịu sự cải tạo, khai thác của con người và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu lợi ích của con người nếu con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế, trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất. Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận. Tính vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới, phát triển không ngừng về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận. Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hóa, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và đang trở thành hiện thực. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi là tri thức). Ở những nước này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỉ trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới ½ tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng con người có thể tạo ra những máy móc “bắt chước” hay mô phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người sáng tạo ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ của mình. Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nguồn lực con người là yếu tố quyết định cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công hay thất bại nó chỉ được trả lời khi yếu tố con người được đáp ứng. Việc định hướng đi vào sự phát triển con người đòi hỏi phải nghiên cứu nhiều. Nghiên cứu con người để phát triển con người, phát triển con người để đáp ứng các sự phát triển khác. Sự phát triển con người quyết định sự phát triển của mọi mặt. Sự thách thức đối với sự phát triển con người đó là quá trình công nghiệp hóa, do đó con người cần phải được chăm lo, đào tạo về trí lực và thể lực. 2.2. Thực trạng và giải pháp trong việc xây dựng nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay Về những kết quả đạt được, những năm qua, kinh tế - xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, năng suất lao động ngày càng phát triển, năng suất lao động ngày càng cao, đã tạo điều kiện cải thiện đáng kể đời sống nhân dân. Việt Nam đã quan tâm tới giáo dục đào tạo, đã đưa tỉ lệ số người biết chữ từ 5% trước đây, tới nay đã hơn 90% dân số biết chữ. Trình độ dân trí đã có tiến bộ nhiều so với trước đây. Nhiều tỉnh đã thực hiện xóa nạn mù chữ, phổ cập tiểu học hay trung học phổ thông cơ sở. Giáo dục miền núi, vùng sâu, vùng xa được quan tâm ngày một tốt hơn. Đảng và nhà nước ta đã khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, tạo ra điều kiện thuận lợi để “cả nước trở thành một xã hội học tập”. Trong quá trình giảng dạy, học tập, đã tìm mọi biện pháp để thực hiện “phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, để nâng cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề”. Mấy chục năm qua chúng ta đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo, hơn mười nghìn người có trình độ trên đại học, hơn một triệu người có trình độ đại học đang công tác trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; họ đã có những đóng góp to lớn trong kháng chiến giải phóng dân tộc, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngày nay đang tích cực đóng góp cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do trình độ học vấn được nâng lên, quan hệ xã hội, giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, cho nên, tính tích cực xã hội, tính tự chủ, sự năng động sáng tạo của con người Việt Nam ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên, hạn chế trong việc phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam, trước hết chúng ta quá đề cao mặt xã hội, nặng động viên tinh thần; nhẹ mặt tự nhiên, không quan tâm đúng mức tới nhu cầu vật chất, chưa thực sự chú ý tới lợi ích cá nhân người lao động; có lúc, có nơi đã đồng hot lợi ích cá nhân với chủ nghĩa cá nhân, nên không phát huy mạnh mẽ được tính tích cực xã hội của người lao động, vai trò của cá nhân bị lu mờ, tài năng cá nhân không được khuyến khích. Hai là, tình trạng quan liêu trong bộ máy nhà nước, một bộ phận cán bộ tham nhũng cửa quyền đang làm giảm nhiệt tình, hăng say lao động, tác động không nhỏ tới niềm tin và sự tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu trau dồi đạo đức của các thế hệ trẻ ngày nay. Nhiều người muốn ở lại thành phố, bỏ nghề gây lãng phí cho xã hội và gia đình. Cơ cấu đào tạo giữa các ngành, giữa các bậc học chưa hợp lý, do vậy dẫn tới tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ như hiện nay, đặc biệt là cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Nhìn chung, việc đào tạo và sử dụng cán bộ ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập. Tình trạng thiếu việc làm trong một bộ phận lao động trẻ đang tạo ra sức ép lớn cho xã hội. Ba là, sự kết hợp các nguồn lực ở nước ta còn nhiều hạn chế. Khí hậu Việt Nam có nhiều thuận lợi cho việc trồng các loại cây nông, công nghiệp vùng nhiệt đới, nhưng hiệu quả khai thác đất đai ở nước ta còn thấp, trong khi đó sức lao động ở Việt Nam còn dôi dư khá nhiều. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, một bộ phận người lao động thất nghiệp ở thành phố đang gây ra sự lãng phí lớn về nguồn lực con người ở nước ta hiện nay. Bốn là, năng lực lao động của người lao động Việt Nam còn hạn chế. Số người lao động qua đào tạo còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Những người lao động được đào tạo còn có sự tách rời giữa lý luận và thực tiễn. Người lao động còn mang nặng tư duy ý thức tác phong của người sản xuất nhỏ, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, v. v. Nhiều người đã được đào tạo nhưng lại không làm đúng ngành nghề. Nếu chúng ta không có một nỗ lực phi thường bằng hành động thực tế trong việc xây dựng và sử dụng nguồn lực con người thì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa khó có thể thực hiện được thành công; và đó cũng là lý do vì sao nhiều nhà khoa học kêu gọi phải tiến hành một cuộc cách mạng về con người mà thực chất là cách mạng về chất lượng lao động. Để tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng con người cần có hàng loạt những giải pháp thích hợp nhằm phát triển tốt yếu tố của con người trong sự nghiệp đổi mới của đất nước. Cần tập trung và chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo phát huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hợp tác cạnh tranh trong kinh tế thị trường mở cửa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của con người Việt Nam phải thể hiện thành sức mạnh của đội ngũ nhân lực, trong đó có bộ phận nhân tài trên nền dân trí với cốt lõi là nhân cách nhân phẩm đậm đà bản sắc dân tộc. Nói đến nguồn lực con người là nói đến sức mạnh trí tuệ tay nghề. Phương hướng chủ yếu của đổi mới giáo dục – đào tạo là phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển đất nước. Các trường chuyên nghiệp và đại học tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến, như báo cáo chính trị đại hội VIII đã chỉ ra là phải mau chóng làm cho khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học cả về cơ bản và ứng dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa với diện đại trà, đồng thời đặc biệt chú ý có chính sách phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng người tài. Mau chóng tăng cường đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, từ các nghệ nhân làm các nghề truyền thống đến các chuyên gia công nghệ cao. Giáo dục và đào tạo kết hợp chặt chẽ với khoa học kỹ thuật công nghệ mới có thể phát huy tối đa tiềm năng nguồn lực con người. Tuy nhiên một yếu tố cần được quan tâm, đó là cần coi trọng việc hoàn thiện đạo đức nhân cách của mỗi người lao động. Muốn có nguồn lực con người đáp ứng được công cuộc đổi mới, giáo dục nhà trường cùng với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải làm tốt việc phát động một cao trào học tập trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm đào tạo nên những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức. Đó là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đạ hóa, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vậy mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người. KẾT LUẬN Như vậy, quan điểm triết học của Mác – Lênin về con người và phát huy nguồn lực con người là phong phú, sâu sắc và đúng đắn. Toàn bộ nội dung của triết học Mác – Lênin không nhằm mục đích nào khác ngoài việc giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc mà suy cho cùng là giải phóng con người, tạo phương hướng để con người tự giải phóng, hướng tới tự do. Thực sự đã trở thành công cụ hữu hiệu hay nói khác đi đó là nên tảng mà dựa vào đó các dân tộc và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới tự giải phóng mình. Nắm bắt và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng vào thực tiễn ngày nay, cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại đã dần dần đi đến khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát triển. Trong sự phát triển con người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tuệ và đi liền với nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người. Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta phải coi nhân tố con người là nhân tố quyết định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn nhân lực có đủ trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn thấm đượm sâu bản sắc dân tộc, nhằm thực hiện sự chuyển mình từ một xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các cuộc đại thắng của đất nước đã đi vào lịch sử suy cho cùng cũng là thắng lợi của chính con người Việt Nam. Bài học đó vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Với chiến lược giáo dục đào tạo đúng đắn và khoa học của Đảng và Nhà nước, với trí tuệ và phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2009 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Hồng Đức, Hà Nội – 2008 3. Phạm Minh Hạc, Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1996 4. Web:
File đính kèm:
- tieu_luan_quan_diem_cua_chu_nghia_mac_lenin_ve_su_menh_lich.docx