Tiểu luận Quan hệ chính trị Việt Nam và Trung Quốc 1986-1999 - Từ đối đầu đến khuôn khổ 16 chữ

pdf 20 trang yenvu 25/08/2024 220
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Quan hệ chính trị Việt Nam và Trung Quốc 1986-1999 - Từ đối đầu đến khuôn khổ 16 chữ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Quan hệ chính trị Việt Nam và Trung Quốc 1986-1999 - Từ đối đầu đến khuôn khổ 16 chữ

Tiểu luận Quan hệ chính trị Việt Nam và Trung Quốc 1986-1999 - Từ đối đầu đến khuôn khổ 16 chữ
1 
BỘ NGOẠI GIAO 
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO 
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO VIỆT NAM 
TIỂU LUẬN 
QUAN HỆ CHIÍNH TRỊ VIỆT NAM TRUNG QUỐC 1986 – 1999: 
TỪ ĐỐI ĐẦU ĐẾN KHUÔN KHỔ 16 CHỮ 
Sinh viên : Lê Thị Hải Ninh 
Lớp : H33 
HÀ NỘI-2009 
2 
MỤC LỤC 
CHƯƠNG I: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VÀ TRUNG 
QUỐC TỪ 1986 ĐẾN 1999 4 
I. Khái quát quan hệ Việt Nam Trung Quốc trước năm 1986... 4 
II. Chính sách đối ngoại của Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn 1986-1999 
1. Bối cảnh chung 6 
1.1. Tình hình thế giới và khu vực từ năm 1986 đến năm 1999 6 
1.2. Tình hình Trung Quốc và Việt Nam 7 
a. Trung Quốc .... 7 
b. Việt Nam 8 
2. Chính sách đối ngoại cuả Việt Nam và Trung Quốc từ 1986 đến 
1999.. 8 
2.1. Việt Nam.. 8 
a. Giai đoạn 1986-1991.... 8 
b. Giai đoạn 1991-1999.... 10 
2.2. Trung Quốc 11 
a. Giai đoạn 1986-1991 11 
b. Giai đoạn 1991-1999 12 
CHƯƠNG II: QUAN HỆ VIỆT NAM TRUNG QUỐC TỪ ĐỐI ĐẦU ĐẾN 
KHUÔN KHỔ 16 CHỮ 13 
3 
I. Quan hệ Việt Trung 1986-1991: từ đối đầu đến bình thường hoá.. 13 
II. Việt-Trung 1991-1999: xác lập khuôn khổ quan hệ đối tác. 14 
KẾT LUẬN 17 
Chú thích: .. 18 
TÀI LIỆU THAM KHẢO..... 19 
4 
CHƯƠNG I 
 CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC TỪ 1986 
ĐẾN 1999 
I. Khái quát quan hệ Việt Nam Trung Quốc trước năm 1986 
 Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ do thực hiện chính 
sách ngoại giao mềm dẻo với Trung Quốc nên mặc dù Trung Quốc có đặt 
điều kiện và gây sức ép với chúng ta nhưng chúng ta vẫn giữ được quan hệ 
hoà hảo và nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của Trung Quốc. Chủ tịch Hồ Chí 
Minh đã khẳng định: “ hai dân tộc Việt-Hoa có mối quan hệ anh em trải mấy 
nghìn năm lịch sử. Từ đây quan hệ hai ấy sẽ càng mật thiết để phát triển tự 
do và hạnh phúc của hai dân tộc ta, và để bảo vệ dân chủ thế giới và hoà 
bình lâu dài”(1). Trung Quốc là nước đầu tiên công nhận Việt Nam Dân chủ 
Cộng Hoà, mở con đường liên lạc của Việt Nam với Liên Xô và các nước xã 
hội chủ nghĩa khác, với thế giới nói chung tạo cho Việt Nam một hậu 
phương rộng lớn; ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam về vật chất, chính trị tinh thần, 
khai thông con đường quá cảnh Trung Quốc cho hang viện trợ của các nước 
tới Việt Nam. Năm 1950 chủ tịch Mao Trạch Đông đã khẳng định: “tỉnh 
Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của Việt Nam”(2). Trung Quốc đã cử 
nhiều đoàn cố vấn sang giúp Việt Nam trong các hoạt động quân sự, kinh tế. 
Trung Quốc còn giúp Việt Nam đào tạo cán bộ cho một số ngành. Khi chúng 
ta mở chiến dịch biên giới Thu Đông năm 1950 Trung Quốc đã cung cấp 
viện trợ quan trọng và có hiệu quả cho chiến dịch. Đó là sự ủng hộ tiêu biểu 
về sự ủng hộ quan trọng của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam trong 
cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp. Kháng chiến chống Pháp thành công 
Trung Quốc tiếp tục là nguồn ủng hộ quan trọng cho công cuộc xây dựng 
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. 
Bước sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc vẫn tiếp tục 
giúp chúng ta trên các mặt: viện trợ không hoàn lại, cho vay không tính lãi 
5 
với nhiều chương trình quân sự kinh tế thương mại, đào tạo cán bộ... Viện 
trợ của Trung Quốc chiếm khoảng trên 50% tổng số viện trợ cho Việt Nam 
trong kháng chiến chống Mỹ.(3) 
 Sau khi kháng chiến chống Mỹ giành thắng lợi thì Việt Nam bắt đầu 
vướng vào vấn đề Campuchia, từ đây quan hệ đối ngoại của ta gặp nhiều khó 
khăn, quan hệ của ta với Trung Quốc bắt đầu xấu đi. Đến năm 1978 thì xung 
đột biên giới Tây Nam Việt Nam đã phát triển thành chiến tranh lớn. Và việc 
ta đưa quân đội vào lãnh thổ Campuchia theo lời kêu gọi của Mặt trận đoàn 
kết cứu nước của Campuchia để đánh trả hành động xâm lược của tập đoàn 
Pônpôt, giúp đỡ nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng đã không được sự 
đồng tình của cộng đồng quốc tế. Vấn đề Campuchia đã đưa đất nước ta vào 
thế cô lập, bị bao vây cấm vận. 
Vấn đề Campuchia đã làm cho quan hệ hai nước vốn đang nảy sinh vấn 
đề, ngày càng phát triển theo chiều hướng xấu đi. Cuối cùng năm 1976 đã nổ 
ra cuộc xung đột biên giới Việt- Trung tại khu vực Cao Bằng Lạng Sơn. Hai 
bên đã đàm phán nhưng không đạt được kết quả nào. Từ đây quan hệ hai 
nước ngày càng phát triển theo hướng không thuận lợi. Trong khi đó chúng 
ta lại đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Liên Xô. Trong bối cảnh Xô-Trung mâu 
thuẫn bất đồng thì việc Việt Nam ngày càng đứng về phía Liên Xô đã có tác 
động tiêu cực đến thái độ của Trung Quốc hay quan hệ Việt Trung. Trung 
Quốc lien tục có thái độ thiếu thiện chí với Việt Nam như vấn đề người Hoa 
ở Việt Nam, tiếp đến là cắt viện trợ cho Việt NamCác cuộc xung đột diễn 
ra liên tiếp trên biên giới Việt-Trung. Thời gian này do chúng ta chưa nhận 
thức rõ về ý đồ của Trung Quốc nên đã có những hành động còn chưa suy 
tính đến vấn đề nhân tố Trung Quốc làm cho Trung Quốc càng có thái độ 
cứng rắn hơn với Việt Nam. Chúng ta đã có những phản gay gắt, có những 
hành động công khai chống Trung Quốc coi Trung Quốc là kẻ thù nguy 
hiểm trực tiếp đưa cả vào trong Hiến Pháp. Trong khi đó coi Liên Xô là hòn 
đá tảng . 
6 
Quan hệ Việt Nam Trung Quốc trước năm 1986 do nhận thức chưa rõ về 
ý đồ và nhân tố Trung Quốc đã dẫn đến quan hệ giữa hai nước ngày càng 
xấu đi (thù địch). 
II. Chính sách đối ngoại của Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn 1986-1999 
1. Bối cảnh chung 
1.1 Tình hình thế giới và khu vực từ năm 1986 đến năm 1999 
Sau chiến tranh lạnh môi trường quốc tế và khu vực đã có nhiều biến 
đổi: trật tự hai cực sụp đổ cục diện nhất siêu đa cường ra đời trong đó Mỹ là 
siêu cường duy nhất. Các nước lớn và các trung tâm quyền lực khác đặc biệt 
là Trung Quốc, Ấn Độ, vươn lên rất nhanh thách thức vị trí số một của Mĩ. 
Hoà bình hợp tác và phát triển trở thành xu thế chủ đạo trên thế giới; nguy 
cơ chiến tranh thế giới tiếp tục bị đẩy lùi. Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá 
gắn liền với tự do hoá thương mại tiếp tục gia tăng mạnh mẽ cùng với sự 
phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã đem lại cả cơ 
hội lẫn thách thức cho tất cả các quốc gia. Vì thế các nước đều có mong 
muốn gìn giữ hoà bình, ổn định mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều hình 
thức phong phú để phát triển kinh tế, nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia. 
Xu thế dân chủ hoá đời sống quốc tế ngày càng phát triển mạnh dẫn đến sự 
xuất hiện của nhiều chủ thể và hình thức hợp tác trong quan hệ quốc tế. 
Ngoài những mặt thuận lợi trên thế giới vẫn còn tiềm ẩn nhiều bất trắc khó 
lường như chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc tôn giáo, biên giới lãnh 
thổkhiến các quốc gia dân tộc phải cảnh giác những nguy cơ như bất ổn 
định, can thiệp từ bên ngoài dưới các hình thức khác nhau.(4) Những đặc 
điểm trên là cơ sở quan trọng để các chủ thể quan hệ quốc tế thi hành chính 
sách đối ngoại độc lập đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ. 
Khu vực Châu Á Thái Bình Dương nói riêng cũng không nằm ngoài xu 
thế phát triển chung đó, tuy nhiên nó còn mang đặc trưng của sự phát triển 
kinh tế năng động và có những đột phá sau chiến tranh lạnh với sự ra đời của 
7 
các nước công nghiệp mới ( NICs), tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân khu 
vực cao. Ở Đông Nam Á sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức ASEAN (1995), 
quan hệ giữa các nước Đông Dương và các nước thành viên phát triển theo 
xu hướng thuận lợi. 
1.2 Tình hình Trung Quốc và Việt Nam 
a. Trung Quốc 
Trung Quốc đẩy mạnh cải cách mở cửa bắt đầu từ sau Hội nghị TW 3 
khoá XI thực hiện bốn hiện đại hoá: nông nghiệp, công nghiệp, khoa học kĩ 
thuật và quốc phòng. Cải cách đã làm cho bộ mặt xã hội Trung Quốc có 
những thay đổi đáng kể. Đến tháng 3/1989 Trung Quốc đã có quan hệ 
thương mại với hơn 170 quốc gia và khu vực, kim ngạch thương mại đạt 
102.9 tỷ USD vào năm 1988, mỗi năm nền kinh tế tăng trưởng ở mức 10% 
Tuy vậy sự kiện Thiên An Môn xảy ra vào ngày 4/6/1989, Trung Quốc 
bị các nước phương tây cô lập cả về kinh tế và ngoại giao. Trước tình hình 
đó Trung Quốc chuyển sang coi trọng hơn mối quan hệ với các nước thuộc 
thế giới thứ 3 nhằm hạn chế tình trạng bị cô lập. 
Từ năm 1991 đến 1999 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc cao 
chưa từng có: 
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 
9,2% 14,2% 13,5% 12,6% 10,5% 9,6% 8,8% 7,8% 7,1% 
 Nguồn: www. Chinability.com/GDP.htm 
Nền kinh tế Trung Quốc đến năm 1999 chỉ đứng thứ 3 sau Mĩ và Nhật 
Bản (5). 
8 
b. Việt Nam 
Việt Nam trong giai đoạn 1979-1986 đang ở trong thế cô lập, bị bao vây, 
khiến tình hình kinh tế trong nước rơi vào khủng hoảng trì trệ nghiêm trọng. 
Trước tình hình đó Việt Nam đã tiến hành chính sách cải cách mở cửa. 
Đến giai giai đoạn năm 1991-1999 tình hình kinh tế đã có những bước 
phát triển chứng tỏ kết quả khả quan của chính sách mở cửa. Theo số liệu 
của cục Thống Kê nhà nước(6) 
Năm GNP FDI Cán cân thương mại 
1991 76 707 nghìn tỷ đồng 1291,5triệu USD -251 triệu USD 
1999 399 942 nghìn tỷ đồng 2565,5 triệu USD -200,7 triệu USD 
Chỉ số trên cho thấy kinh tế Việt Nam đang từng bước thoát khỏi khủng 
hoảng trước đổi mới, thậm chí đứng vững trong khủng hoảng tài chính tiền 
tệ khu vực Châu Á năm 1997. Những thành tựu đó là nhờ quan hệ chính trị 
của Việt Nam kể từ năm 1991 đã được khai thông và phát triển tích cực khi 
mà Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc năm 1991, với Mỹ 
năm 1995, gia nhập ASEAN, ASEM-1996, APEC-1998 
2. Chính sách đối ngoại cuả Việt Nam và Trung Quốc từ 1986 đến 1999 
Chính sách đối ngoại là nhằm mục tiêu đối nội, đều nhằm mục đích cuối 
cùng là thực hiện các lợi ích quốc gia, đó là tồn tại, phát triển và xa hơn nữa 
là ảnh hưởng. 
2.1. Việt Nam 
a. Giai đoạn 1986-1991 
9 
Trước sự mạnh mẽ của công cuộc khoa học kĩ thuật và sự xuất hiện của 
xu thế hoà bình và hợp tác trên thế giới, Việt Nam nhận thức được sự đòi hỏi 
cấp thiết của việc thay đổi tư duy kinh tế cũng như kinh tế đối ngoại để sớm 
đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và phát triển đất nước. Tháng 7/1986, 
Bộ chính trị Khoá V của Đảng Cộng Sản ra Nghị Quyết vạch rõ: “trong 
những năm tới, nhiệm vụ của Đảng và nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là 
ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ gìn hoà 
bình ở Đông Dương, góp phần tích cực gìn giữ hoà bình ở Đông Nam Á và 
trên thế giớitranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng 
xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ Quốc”(7) Đến tháng 12 cùng năm Đại hội 
VI đã bầu chọn đội ngũ lãnh đạo mới cho Việt Nam do TBT Nguyễn Văn 
Linh đứng đầu, đại hội quyết định phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho 
nhân dân, mở rộng hợp tác với bên ngoài. 
Trong bối cảnh này, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã hoạch đường lối đối 
ngoại để phục vụ cho mục tiêu củng cố môi trường quốc tế hoà bình, tạo 
điều kiện thuận lợi cho chúng ta tiếp cận nguồn vốn kĩ thuật, công nghệ cũng 
như thị trường phục vụ cho phát triển kinh tế xã hộiQua các kì đại hội có 
thể thấy được những chuyển biến rõ rệt: Đại hội VI (1986), chính sách đối 
ngoại chung được xác định bởi 6 trọng điểm lớn bao gồm việc coi Liên Xô 
là “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại, củng cố mối quan hệ giữa 3 
nước Đông Dương, tăng cường quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa khác, 
ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc và phong trào của giai cấp công nhân 
trên thế giới, tích cực hợp tác phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. 
Trong đó chính sách đối với Trung Quốc được xác định cụ thể như sau: 
“Một lần nữa chúng ta chính thức tuyên bố rằng: Việt Nam sẵn sang đàm 
phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm 
bình thường hoá quan hệ giữa hai nước vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì 
hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới” (8). 
10 
Ngày 20/5/1988 Bộ chính trị ra nghị quyết 13 chủ trương giải quyết vấn 
đề Campuchia trước năm 1990 và phấn đấu bình thường hoá quan hệ với 
Trung Quốc. Nghị quyết nêu rõ: “phấn đấu bình thường hoá quan hệ với 
Trung Quốc là một quá trình gay go, phức tạp, đòi hỏi có thời gian. Sau khi 
bình thường hoá quan hệ hai nước khó trở lại ngay như những năm 
50,60Cần phòng ngừa và khắc phục những tư tưởng lệch lạc, chỉ thấy giới 
hạn Trung Quốc là bá quyền, không thấy Trung Quốc là XHCN; hoặc chỉ 
thấy Trung Quốc là XHCN mà không thấy bá quyền bành trướng.(9) Trần 
Quang Cơ, Hồi ức và suy nghĩ, tr 24. Nghị quyết 13 đã góp phần cụ thể hoá 
hơn nữa chính sách đối ngoại của Việt Nam, đề ra phương hướng giải quyết 
vấn đề mang tính thực chất hơn, đặc biệt là vấn đề Trung Quốc. 
b. Giai đoạn 1991-1999 
Do nhận thức được tầm quan trọng của Trung Quốc đối với môi trường 
hoà bình an ninh của đất nước cũng như khu vực nên giai đoạn này chúng ta 
luôn đặt Trung Quốc trong ưu tiên chính sách đối ngoại của mình. Và một 
trong những thành tưu nổi bật là của chính sách đối ngoại Việt Nam đó là 
việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Điều này được thể 
hiện rõ trong các văn kiện nghị quyết quan trọng. 
Tại Đại Hội VII (1991) xác định: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các 
nước trên thế giới phấn đấu vì hoà bình, hợp tác và phát triển”(9) Hiến pháp 
năm 1992 khẳng định: “tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp 
tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng”. Theo như Hiến 
Pháp thì rõ rang Trung Quốc là ưu tiên số một vì Trung Quốc là láng giềng 
duy nhất của ta đi theo con đường XHCN. 
Trong nghị quyết TW III khoá VII (6/1992) chúng ta đề ra bốn phương 
châm để xử lí quan hệ đối ngoại trong tình hình mới, trong đó có phương 
châm “tích cực tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất 
11 
cả các nước, đặc biệt là các nước lớn”. Theo như nghị quyết thì Trung Quốc 
là một ưu tiên chính sách. 
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996 tiếp tục cho thấy chính 
sách ưu tiên láng giềng của ta “ Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng 
và các nước trong tổ chức ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các 
nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các 
trung tâm kinh tế chính trị trên thế giới” 
Như vậy từ khi bình thường quan hệ với Trung Quốc chúng ta vào năm 
1991 chúng ta luôn đặt Trung Quốc trong vị trí ưu tiên chính sách đối ngoại. 
2.2 Trung Quốc 
a. Giai đoạn 1986-1991 
Tháng 12/1978, Hội nghị ban chấp hành TW ĐCS Trung Quốc vạch 
đường lối đổi mới,mở đầu cho công cuộc cải cách kinh tế xã hội ở Trung 
Quốc. “Kế hoạch xuyên thế kỉ” gồm có 3 bước: bước 1 từ năm 1978-1990, 
bước 2 từ năm 1990-2000 và bước 3 là từ đầu thế kỉ XXI khi CHND Trung 
Hoa tròn 100 tuổi, trong đó coi cải cách là động lực, ổn định chính trị là tiền 
đề.(10). Đến cuối những năm 1980s và đầu 1990s phương châm hành động 
của Trung Quốc là “ Trong hoà bình không mất cảnh giác, gắng hết sức để 
trở thành hùng cường”(11) Kết quả của quá trình thực hiện đường lối trên, 
Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng kể, nền kinh tế Trung Quốc 
phát triển nhanh chóng sức sống của doanh nghiệp được cải thiện, mức sống 
của người dân được nâng cao. 
Tuy nhiên do sự kiện Thiên An Môn tháng 6 năm 1989,Trung Quốc bị 
các nước phương tây cô lập cấm vận về mặt ngoại giao kinh tế. Sự kiện này 
đã tác động rất mạnh đối với quá trình phát triển kinh tế của Trung Quốc. 
Dẫn đến việc Trung Quốc phải coi trọng hơn mối quan hệ với các nước 
12 
thuộc thế giới thứ ba nhằm hạn chế tình trạng bị cô lập. Những sự kiện trên 
là một trong chất xúc tác đẩy mạnh quan hệ Việt- Trung. 
b. Giai đoạn 1991-1999 
Đại hội Đảng trung quốc lần thứ XIV diễn ra vào cuối năm 1992 nêu lên 
nhiệm vụ trọng tâm của CHND Trung Hoa thập niên 90 là tạo ra một nền 
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội lần thứ XV, chính sách 
ngoại giao của Trung Quốc được xác định như sau: “không thiết lập quan 
hệ đồng minh với bất cứ nước lớn nào, không gây dựng tập đoàn quân 
sựkiên trì chính sách láng giềng than thiệngiải quyết những vấn đề 
tranh chấp tồn tại giữa Trung Quốc và các nước láng giềng thông qua hiệp 
thương và hữu nghị, những vấn đề chưa thể giải quyết ngay được có thể tạm 
gác lại, cầu đồng tồn dị”(12) Như vậy sau chiến tranh lạnh, nhận thức được 
tầm quan trọng của khu vực Châu Á-TBD, Trung Quốc chuyển dần trọng 
tâm của chính sách đối ngoại sang khu vực, tạo môi trường an ninh quốc tế 
thuận lợi cho phát triển kinh tế, đề cao hợp tác với các nước ASEAN, đẩy 
mạnh phát triển hợp tác kinh tế. 
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á nên cũng là một trong những 
đối tượng của chính sách đối ngoại nói trên của Trung Quốc. Trung Quốc 
chỉ đặt quan hệ với Việt Nam trong khuôn khổ chung sống hoà bình như với 
các nước láng giềng khác.(13) Trung Quốc chỉ chú trọng vào việc tranh thủ 
Mỹ và phương tây, ASEAN để phục vục mục tiêu “bốn hiện đại hoá” đã đề 
ra ở hội nghị TW III khoá XI. 
Dưới tác động của nhiều yếu tố đan cài, quan hệ giữa hai nước Việt-
Trung đã có những bước phát triển nhất định. 
13 
CHƯƠNG II 
 QUAN HỆ VIỆT NAM TRUNG QUỐC TỪ ĐỐI ĐẦU ĐẾN 
KHUÔN KHỔ 16 CHỮ 
I. Quan hệ Việt-Trung 1986-1991 từ đối đầu đến bình thường hoá. 
Sau chiến tranh biên giới quan hệ hai nước tiếp tục căng thẳng . Tình 
trạng này kéo dài suốt thập kỉ 80, gây ảnh hưởng xấu đến chính sách đối 
ngoại và sự phát triển kinh tế của cả hai nước nhất là của Việt Nam. 
Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành hai vòng đàm phán sau khi chiến 
tranh biên giới kết thúc Việt Nam đưa ra lập trường ba điểm nhằm đảm bảo 
hoà bình ổn định ở biên giới, khôi phục quan hệ bình thường hoá hai nước 
và giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ. Trung Quốc đưa ra lập trường 8 điểm 
với nhiều yêu sách phi lí (đòi Việt Nam từ bỏ chủ quyền Hoàng Sa-Trường 
Sa) nên đàm phán thất bại. Trong tám năm 1980-1987 Việt Nam đã gửi 17 
công hàm đề nghị nối lại đàm phán nhưng Trung Quốc đều từ chối. Trung 
Quốc còn thường xuyên gây ra các vụ khiêu khích dọc theo biên giới hai 
nước đặc biệt là biên giới trên bộ. Trung Quốc duy trì 5 quân đoàn ở vùng 
biên giới Trung –Việt bắn pháo và khiêu khích vũ trang.(14) Nghiêm trọng 
nhất là vào 14/3/1988 một biên đội tàu chiến gồm 6 chiếc của Hải quân 
Trung Quốc đã gây sự tấn công các tàu tiếp tế của Việt Nam và đổ bộ chiếm 
6 bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa. Do vậy Việt Nam phải tranh thủ Liên 
Xô và các hội nghị cấp cao và hội nghị ngoại trưởng 3 nước Đông Dương để 
đấu tranh với Trung Quốc . Hội nghị ngoại trưởng 3 nước Đông Dương đã 
đưa ra lập trường 5 điểm theo đó Việt Nam sẽ rút hết quân khỏi Campuchia 
vào năm 1990 nhưng Trung Quốc đòi Việt Nam phải rút ngay. Trong bối 
cảnh mới của thế giới và khu vực các nước lớn vừa đấu tranh vừa hợp tác 
trong cùng tồn tại hoà bình, tháng 7/1986 Đảng ta đã quyết định chuyển sang 
một giai đoạn đấu tranh mới trong cùng hoà bình với Trung Quốc. Đến Đại 
hội VI Việt Nam chủ trương đàm phán hoà bình quan hệ với Trung Quốc. 
14 
giữa năm 1988,Việt Nam tuyên bố rút quân khỏi Campuchia, sửa lời nói đầu 
của Hiến Pháp, đơn phương thực hiện một số biện pháp giảm căng thẳng ở 
biên giớiv..v.. Do vậy, từ tháng 1 năm 1989 hai bên nối lại đàm phán và 
đến tháng 9/1990 hai bên gặp gỡ cấp cao ở Thành Đô mở đầu cho viêc giải 
quyết triệt để vấn đề Campuchia và bình thường hoá quan hệ Việt-Trung. 
Thông cáo chung năm 1991 đã đánh dấu thời điểm quan hệ hai nước Việt-
Trung bước sang một giai đoạn mới, hai bên “đồng ý thông qua thương 
lượng giải quyết hoà bình các vấn đề lãnh thổ, biên giớitồn tại giữa hai 
nước” hai bên tuyên bố “ sẽ phát triển quan hệ hữu nghị láng giềng thân 
thiện trên cơ sở tôn trọng năm nguyên tắc: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn 
lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau không can thiệp vào công việc 
nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hoà bình” (15 
II. Việt –Trung 1991-1999 : xác lập khuôn khổ quan hệ đối tác 
Quan hệ Việt-Trung dần bình thường hoá trên tất cả các lĩnh vực thể hiện 
bằng việc các chuyến thăm trao đổi cấp cao giữa hai bên: hội nghị Thành Đô 
9/1990, các chuyến thăm Trung Quốc của TBT Nguyễn Văn Linh, chủ tịch 
hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười, cố vấn Phạm Văn Đồng, đại tướng Võ 
Nguyên GiápSau đó Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng tuyên bố “quan hệ 
Việt Nam-Trung Quốc đã tan băng” đi vào chính thức bình thường hoá quan 
hệ năm 1991. Diễn ra ngày càng nhiều dẫn đến ra đời hang loạt thông cáo 
chung (1992-1994-1995) nhằm thúc đầy quan hệ song phương phát triển 
theo chiều rông và sâu. Trong tuyên bố chung nhân chuyến thăm của TBT 
Đỗ Mười, chủ tịch Hội đòng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã xác định sẽ phát 
triển quan hệ “hữu nghị, láng giềng thân thiện trên cơ sở 5 nguyên tắc “tôn 
trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, 
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, cùng 
tồn tại hoà bình”; hai Đảng khôi phục quan hệ bình thường hóa trên cơ sở 
bốn nguyên tắc: “độc lập tự chủ hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và 
không can thiệp vào nội bộ của nhau. Những cuộc gặp gỡ cấp cao đó có ý 
15 
nghĩa không thể thay thế trong việc phát triển quan hệ hai Đảng hai nước 
nhằm tăng cường mối quan hệ láng giềng hữu nghị, tạo dựng long tin và sư 
tin cậy lẫn nhau kịp thời trao đổi và tháo gỡ vướng mắc tồn tại cũ và mới 
trong quan hệ hai nước. 
Từ khi bình thương hoá từ năm 1991 đến năm 1999 quan hệ hai nước đã có 
những bước phát triển nhanh chóng về nhiều mặt. 
Về chính trị, hai bên đã tiến hành nhiều chuyến thăm ở tất cả các cấp, 
kể cả cấp cao nhất. Các cuộc tiếp xúc trao đổi kinh nghiệm giữa đại diện các 
ngành, các cấp và điạ phương hai nước diễn ra thường xuyên. 
Về kinh tế-thương mại, Việt Nam và Trung Quốc đã xác định phát 
triển quan hệ trên nguyên tắc hợp tác bình đẳng cùng có lơi. Hai nước đã kí 
kết hàng chục văn kiện hợp tác song phương về mậu dịch, hàng không, vận 
tải biển, đường sắt, văn hoá giáo dục.kim ngạch hai nước tăng nhanh năm 
1991 tổng kim ngạch buôn bán hai chiều của hai nước đã đạt 30 triệu đồng 
đô la, đến năm 1999 đạt 1, 35 triệu đô la, đầu tư của Trung Quốc vào Việt 
Nam cũng dần được cải thiện 
Về giải quyết vấn đề còn tồn tại, hai nước đã bước đầu đàm phán về 
giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ trên đất liền và trên biển. 
Chính sự phát triển trong quan hệ hai nước đật các nhà lãnh đạo Việt 
Nam và Trung Quốc trước việc phải xây dựng một khuôn khổ hợp tác ổn 
định lâu dài. Quá trình hợp tác trong từng vấn đề cụ thể đã tăng cường long 
tin giữa hai bên, tạo điều kiện và bước đầu xác lập được những cơ chế là nền 
tảng cho trong tương lai, Việt Nam và Trung Quốc đều có nhu cầu xác lập 
một phương châm quan hệ ổn định. Đây là mục đích mà hai bên hướng tới 
khi xác lập khuôn khổ quan hệ 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn 
diện, ổn định lâu dài hướng tới tương lai” năm 1999. 
16 
Phương châm 16 chữ được xác định trong chuyến thăm Trung Quốc 
của Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu năm 1999 này có ý nghĩa như một sự tổng 
kết đánh giá lại quan hệ hai nước. Đó chính là kết quả của sự phát triển quan 
hệ tốt đẹp trên cơ sở long tin giữa hai quốc gia. 
17 
KẾT LUẬN 
Giai đoạn 1986-1999 đã chứng kiến nhiều mốc quan trọng trong tiến 
trình phát triển của quan hệ chính trị Việt-Trung: chuyển dần từ đối 
đầu(1978-1985) sang bình thường quá (1991) và xác lập khuôn khổ quan hệ 
bền vững (1999). Sau một quá trình dài đàm phán , hai nước đã tiến tới bình 
thường hoá quan hệ và tiếp tục phát triển quan hệ song phương lên tầm cao 
mới- quan hệ đối tác bền vững thể hiện qua các chuyến thăm ở nhiều cấp, 
các bản tuyên bố chung và thông cáo chung , các hiệo định và các hiệp ước 
được kí kết trên nhiều lĩnh vực và thậm chí là phối hợp với nhau trên các 
mặt trận ngoại giao, kinh tế đa phương. Để có được sự chuyển biến tích cực 
có lợi cho hai bên, cả Việt Nam và Trung Quốc đều đã phải đánh đổi, nỗ lực, 
quyết tâm và thiện chí trong quá trình đàm phán thương lượng và giải quyết 
các bất đồng, gác lại tranh chấp cùng nhau xây dựng quan hệ Việt- Trung 
với tinh thần “cầu đồng tồn dị, lấy đại cục làm trọng. 
18 
Chú thích: 
(1) Hồ Chí Minh “điện văn mừng ngày thành lập chính phủ CHND Trung Hoa”, toàn tập, 
t.5., tr.717 (2) Đại tướng Võ Nguyên Giáp “đường tới Điện Biên Phủ, NXB Quân đội nhân dân Hà Nội 
1999, tr.14-15 
(3) Lưu Văn Lợi “ngoại giao Việt Nam 1945-1995, NXB Công an nhân dân,Hà Nội 2004-
sđd 
(4) Nguyễn Vũ Tùng 2007 “khuôn khổ quan hệ đối tác của Việt Nam” Học viện quan hệ 
quốc tế, Hà Nội, tr.186-187 
(5) 
(6) 
(7) Đảng Cộng Sản Việt Nam: văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,nxb Sự thật, 
H. 1987,trang 99. 
(8) Đảng Cộng Sản Việt Nam: văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nxb Sự thật, 
H.1987, tr 107 
(9) Tô Huy Rứa 2006, quá trình đổi mới tư duy lí luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, nxb 
Chính trị quốc gia Hà Nội, tr 518 
(10) Lê Tịnh 1996, “ về mục tiêu của Trung Quốc tới năm 2000 và 2010” tạp chí Cộng sản, 
tr. 58-59s 
(11) Lê Tịnh, sđd, tr. 59. 
(12) Lý Gia Trung, “Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc- một đại hội xuyên thế kỉ”, Tạp chí 
Cộng sản, tháng 11 năm 1997, tr. 61 
(13) Trần Quang Cơ, sđd, tr. 38. Và cơ bản theo phương châm “thân nhi bất cận, sơ nhi bất 
viễn, tranh nhi bất đấu”. 
(14) Lưu Văn Lợi, “50 năm ngoại giao Việt Nam, t.2 NXB công an nhân dân Hà Nội 
1998,tr.199. 
(15) thông cáo chung Việt-Trung 11/1991, Lưu Văn Lợi, “năm mươi năm ngoại giao Việt 
Nam” tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,1998,tr.211-215 
19 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp “đường tới Điện Biên Phủ, NXB Quân 
đội nhân dân Hà Nội 1999 2. Lưu Văn Lợi “ngoại giao Việt Nam 1945-1995, NXB Công an 
nhân dân,Hà Nội 2004 3. Nguyễn Vũ Tùng 2007 “khuôn khổ quan hệ đối tác của Việt Nam” 
Học viện quan hệ quốc tế, Hà Nội 4. Đảng Cộng Sản Việt Nam: văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 
thứ VI,nxb Sự thật 5. Tô Huy Rứa 2006, quá trình đổi mới tư duy lí luận của Đảng từ 
năm 1986 đến nay, nxb Chính trị quốc gia Hà Nội 6. Tạp chí Cộng sản “về mục tiêu của Trung Quốc tới năm 2000 và 
2010” 7. “Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc- một đại hội xuyên thế kỉ”, 
Tạp chí Cộng sản, tháng 11 năm 1997 8. Lưu Văn Lợi, “50 năm ngoại giao Việt Nam, t.2 NXB công an 
nhân dân Hà Nội 1998 9. Thông cáo chung Việt-Trung 11/1991, Lưu Văn Lợi, “năm mươi 
năm ngoại giao Việt Nam” tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 10. Trần Quang Cơ (2003), Hồi ức và suy nghĩ 11. Chính sách đối ngoại Việt Nam tập 2, Nxb Chính trị quốc gia 
2006 
20 
12. Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ VI, NXb Sự Thật 1987 13. Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ VII, Nxb, Sự thật 1991 14. Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ VIII, Nxb, Sự thật 1996 15. Tạp chí nghiên cứu quốc tế 16. Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_quan_he_chinh_tri_viet_nam_va_trung_quoc_1986_1999.pdf