Tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

pdf 19 trang yenvu 28/08/2024 490
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
 1 
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ IX chúng ta bước vào thời kỳ phát triển 
mới thời kỳ “đầy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ” định hướng 
phát triển nhằm mục tiêu “xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất 
kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với 
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần được 
nâng cao quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng 
văn minh”. Không phải ngẫu nhiên việc nghiên cứu quy luật quan hệ sản xuất 
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trong 
những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội mà chúng ta 
đang tiến hành hôm nay. Việc thực hiện mô hình này trong thực tế không những 
là nội dung của công cuộc đổi mới, mà hơn thế nữa nó là công cụ, là phương 
tiện để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của chủ 
nghĩa xã hội ở nước ta một phần phụ thuộc vào việc xây dựng này tốt hay không
. Một xã hội phát triển được đánh giá từ trình độ của lực lượng sản xuất và sự 
kết hợp hài hoà giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất thời đại ngày nay 
trình độ khoa học kỹ thuật đã phát triển mạnh mẽ song quan hệ sản xuất phù hợp 
với tính chất của lực lượng sản xuất vẫn là cơ sở chính cho sự phát triển của nó. 
Do vậy vấn đề quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát 
triển của lực lượng sản xuất vẫn là một trong những vấn đề nan giải mà chúng ta 
cần phải quan tâm và giải quyết. 
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định rằng lực lượng sản xuất có vai 
trò quyết định đối với quan hệ sản xuất và ngược lại, có thể thúc đầy hoặc kìm 
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất . Vấn đề này từng là bài học đắt giá 
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự tác động trở lại của 
các yếu tố của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất khá phong phú và 
phức tạp, nhất là trong những điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay. 
 2 
Vấn đề quan hệ sản xuất có tác động thúc đầy hay kìm hãm sự phát triển 
của lực lượng sản xuất đã được Đảng ta nhận thức và vận dụng đúng đắn trong 
quá trình lãnh đạo đất nước theo đường lối đổi mới. Đảng ta đã khẳng định rằng: 
lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc 
hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển khong đồng bộ, có những yếu tố đi 
quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất “Đảng cộng sản Việt 
Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.”. Quan hệ sở hữu được 
hiểu là “hình thức chiếm hữu của cải vật chất do lịch sử quy định, trong đó thể 
hiện quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất xã hội ”. Sở 
hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định đối với mọi hình thức khác của quan 
hệ sản xuất, do vậy, khi hình thức của quan hệ sở hữu thay đổi sẽ kéo theo sự 
thay đổi trong mọi hình thức khác của quan hệ sản xuất. Về nguyên tắc, những 
thay đổi của quan hệ sản xuất nói chung là nhằm thúc đầy lực lượng sản xuất 
phát triển, do lực lượng sản xuất đã phát triển đòi hỏi nó phải thay đổi cho phù 
hợp. 
Chúng ta đã từng phạm sai lầm là xây dựng nhiều yếu tố của quan hệ sản 
xuất vượt trước so với lực lượng sản xuất mà chúng ta hiện có. Đó là việc chỉ 
cho phép các hình thức sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể tồn tại, trong khi các 
hình thức sở hữu khác đang còn có tác dụng mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất 
thì lại bị ngăn cấm, không được phép phát triển. việc đó đã dẫn đến tình trạng 
sản xuất bị đình đốn, không phát triển . Sau khi nhận thức được sai lầm này, 
chúng ta đã đổi mới đường lối chiến lược trong lĩnh vực kinh tế, đó là xác lập lại 
các hình thức sở hữu, cho phép nhiều kiểu quan hệ sản xuất cùng tồn tại để mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển. 
 3 
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA 
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT. 
1. Lực lượng sản xuất. 
Thực tiến cho thấy, sự phát triển kinh tế – xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu 
tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người . Điều 
khẳng định trên lại càng đúng với hoàn cảnh nước ta trong gian đoạn đẩy mạnh 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, 
nguồn nhân lực phải chiếm vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã 
hội nước ta. Nhận thức rõ điều đó Đảng ta xác định con người vừa là mục tiêu, 
vừa là động lực của sự phát triển xã hội bền vững . Đây là nguồn lực của mọi 
nguồn lực, nhân tố quan trọng bậc nhất để đưa nước ta nhanh chóng trở thành 
một nước công nghiệp phát triển. trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá 
đất nước, Đảng ta “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho 
sự phát triển nhanh và bền vững”, coi việc “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát 
huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi 
của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá” (Đảng cộng sản Việt Nam. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII). Do vậy, khai thác, sử dụng và phát 
triển nguồn nhân lực là vấn đề quan trọng góp phần thực hiện thành công quá 
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. 
Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ trinh phục thiên nhiên của con 
người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp 
giữa người lao động với tư liệu sản xuất. 
Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, sử 
dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Tư liệu sản xuất gồm đối tượng 
 4 
lao động và tư liệu lao động khác cần thiết cho việc chuyển, bảo quản sản phẩm 
.... 
Trong thời đại ngày nay, khoa khọc đã trở thành lực lượng sản xuất trực 
tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất riêng. Vừa xâm nhập vào yếu tố cấu thành lực 
lượng sản xuất, đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất. Các yếu tố 
cấu thành lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan, làm cho 
lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất. 
Sự tác động của cách mạng khoa khọc và công nghệ cùng với đòi hỏi tăng 
trưởng kinh tế nhanh và bền vững đang đặt ra những yêu cầu mới cho việc khai 
thác và phát huy tiềm năng của con người. Quá trình tìm kiếm những cách thức, 
giải pháp nhằm sử dụng và phát triển nguồn lực quan trọng này đang diễn ra ở 
hầu hết các quốc gia trên thế giới. Do đặc điểm kinh tế – xã hội khác nhau nên 
mỗi nước đều có giải pháp và bước đi khác nhau trong trong từng thời điểm lịch 
sử cụ thể. Tuy nhiên, gắn với những tác động của cuộc cách mạng khoa khọc và 
công nghệ, xu hướng phổ biến của sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đều mang những nét chủ yếu sau: 
Thứ nhất , con người được coi là nguồn cơ bản để tăng trưởng và phát 
triển kinh tế – xã hội.Trong bất cứ hình thái kinh tế nào, con người đều là nhân 
tố trung tâm của quá trình sản xuất. 
 Thứ hai, khai thác tiềm năng trí tuệ, phát huy năng lực sáng tạo trở thành 
yêu cầu chủ yếu của chiến lược phát triển nguồn nhân lực. 
Cuộc cách mạng khoa khọc và công nghệ hiện nay đã tác động và làm 
biến đổi mạnh mẽ lao động xã hội theo hướng tăng tỷ trọng của lao động trí tuệ, 
giảm bớt các hoạt động chân tay, làm cho lao động trí tuệ trở thành hoạt động cơ 
bản của con người. Việc ứng dụng ngày càng rộng rãi trí thức vào sản xuất và tổ 
chức lao động đã làm cho trí thức nhanh chóng trở thành yếu tố sản xuất quan 
trọng nhất, thành nguồn lực kinh tế cơ bản và chủ yếu. Vai trò của các yếu tố sản 
xuất truyền thống như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn.... dẫu không mất đi 
song đã trở thành thứ yếu. Các nghiên cứu trắc lượng gần đây cho thấy chỉ một 
 5 
phần nhỏ của sự tăng trưởng có thể giải thích bởi đầu vào vốn, còn phần quan 
trọng của tăng trưởng gắn liền với chất lượng của lực lượng lao động. 
Thứ ba, ưu tiên đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao 
chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu cơ bản của chiến lược phát triển nguồn 
nhân lực. 
Để khai thác và phát huy có hiệu quả tiềm năng con người, cần có nguồn 
nhân lực chất lượng cao trên các mặt văn hoá xã hội, chuyên môn, nghiệp vụ và 
tri thức khoa học... trong tất cả các chính sách, biện pháp nhằm nâng cao chất 
lượng nguồn nhân lực thì giáo dục đào tạo là cái có ý nghĩa quan trọng hơn cả. 
Bởi lẽ, một mặt, giáo dục đào tạo góp phần nâng cao trình độ nhận thức chung 
cho con người trên các mặt văn hoá xã hội, tri thức khoa học, kỹ thuật, chuyên 
môn, nghiệp vụ.. Mặt khác, sau khi được đào tạo, quan niệm về giá trị của người 
lao động sẽ được đổi mới, tính kỷ luật, ý thức trách nhiệm ở họ đựơc nâng cao. 
Với ý nghĩa đó, giáo dục đào tạo được coi là tiền đề và là cơ sở chủ yếu để nâng 
cao hiệu quả sử dụng và phát triển nguồn nhân lực. 
Thứ tư, chuyển hướng từ sử dụng đại trà sang tổ chức quản lý và sử dụng 
linh hoạt nguồn nhân lực. 
Dước tác động của cách mạng khoa học công nghệ, việc áp dụng rộng rãi 
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất làm cho số người dôi ra và phải đổi nghề ngày 
càng nhiều hơn. Quá trình đó đồng thời còn làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế 
không còn đi đôi với sự tăng trưởng về việc làm. Tình hình đó đặt ra những 
thách thức trực tiếp trong quá trình sử dụng nguồn nhân lực. Một mặt, phải nâng 
cao hiệu quả hoạt động của từng cá nhân và toàn xã hội trên cơ sở nâng cao trình 
độ học vấn và chuyên môn nghề nghiệp, mặt khác, phải giảm đến mức tối thiểu 
số người thất nghiệp hoặc không có viếc làm trong toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, 
chỉ có trên cơ sở áp dụng các hình thức, biện pháp tổ chức và quản lý lao động 
linh hoạt mới có thể vượt qua được thách thức ấy. 
Thứ năm, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực là một 
xu hướng phổ biến trong điều kiện cách mạng khoa khọc công nghệ hiện nay. 
 6 
Với sự phát triển của công nghệ mới , cuộc cách mạng khoa học công 
nghệ hiện nay đang tạo ra sự phát triển mới của quá trình sản xuất. Xu hướng 
khu vực hoá, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang trở thành xu hướng chủ đạo. Sự 
xuất hiện của các Công ty xuyên quốc gia đã làm cho sự phân công và hiệp tác 
lao động ngày càng phát triển từ quy mô Xí nghiệp đến tập đoàn , từ quy mô
quốc gia đến liên quốc gia, đa quốc gia ... Điều đó đang làm xuất hiện nhu cầu 
và khả năng thực hiện các hình thức hợp tác quốc tế về phát triển nguồn nhân 
lực. 
2. Quan hệ sản xuất: 
 Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ kinh tế giữ người với người trong quá 
trình sản xuất và tái sản xuất xã hội: sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng. 
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế – xã hội và quan hệ kinh tế tổ chức. 
Quan hệ kinh tế – xã hội biểu hiện hình thức xã hội của sản xuất, nó biểu 
hiện mối quan hệ giữa người với người trên ba mặt chủ yếu: 
Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất , quan hệ tổ chưc , quản lý sản xuất và 
quan hệ phân phối sản phẩm, trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai 
trò quyết định. 
Quan hệ kinh tế tổ chức xuất hiện trong quá trình tổ chức sản xuất . Nó 
vừa biểu hiện quan hệ giữa người với người, vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên kỹ 
thuật của nền sản xuất. Quan hệ kinh tế – tổ chức phản ánh trình độ phân công 
lao động xã hội, chuyên môn hoá và hiệp tác hoá sản xuất. Nó do tính chất và 
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. 
 Sự thống thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan 
hệ sản xuất xã hội hợp thành phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất biện 
chứng này, sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đối với
quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải phụ thuộc với tính chất và trình độ phát 
triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thường xuyên vận động, phát 
 7 
triển, nên quan hệ sản xuất cũng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát 
triển của lực lượng sản xuất. 
Sự tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất 
diễn ra theo hai hướng , hoặc là thúc đầy lực lượng sản xuất phát triển , hoặc 
kiềm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong trường hợp quan hệ sản 
xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ 
thúc đầy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lạc hậu sẽ 
kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngay cả trong trường hợp quan hệ 
sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó cũng 
kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. 
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm 
hình thành quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát 
triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức 
sản xuất xã hội. 
Quy luật kinh tế đó chi phối lịch sử phát triển của các phương thức sản 
xuất xã hội, đồng thời cũng trực tiếp tác động tới sự vận động của mỗi phương 
thức sản xuất. 
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội là lịch sử phát triển của những 
phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao: phương thức sản xuất cộng 
sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ 
nghĩa. 
3. Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất: Xu hướng của sản xuất 
vật chất là không ngừng phát triển, sự biến đổi bao giờ cũng bắt đầu bằng sự 
biến đổi của lực lượng sản xuất. 
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả hơn 
con người luôn luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động và chế tạo ra những công 
cụ lao động tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao 
 8 
động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động kỹ năng sản xuất kiến thức 
khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố đồng 
nhất, cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố ổn định, có khuynh hướng 
lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung 
là phương thức còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan 
hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức, hình thức phụ 
thuộc vào nội dung, nội dung thay đổi trước sau đó hình thức thay đổi theo, tất 
nhiên trong quan hệ với nội dung và hình thức không phải là mặt thụ động, nó 
cũng tác động trở lại đối với sự phát triển của nội dung. 
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất cũng hình 
thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng 
sản xuất, sự phù hợp đó là động lực làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh 
mẽ. Nhưng lực lượng sản xuất thường phát triển nhanh còn quan hệ sản xuất có 
xu hướng ổn định khi lực lượng sản xuất đã phát triển lên một trình độ mới , 
quan hệ sản xuất không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản 
xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. 
- Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất : Sự hình 
thành, biến đổi phát triển của quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng 
sản xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, 
có thể thúc đầy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ 
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nó 
thúc đầy sản xuất phát triển nhanh. Nếu nó không phù hợp nó kìm hãm sự phát 
triển của lực lượng sản xuất, song tác dụng kìm hãm đó chỉ tạm thời theo tính tất 
yếu khách quan, cuối cùng nó sẽ bị thay thể bằng kiểu quan hệ sản xuất phù hợp 
với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. 
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng 
sản xuất (thúc đầy hoặc kìm hãm ), vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy 
định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức 
phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó 
 9 
nó ảnh hưởng đến thái độ quảng đại quần chúng lao động lực lượng sản xuất chủ 
yếu của xã hội, nó tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến 
công cụ lao động áp dụng những thành tựu khoa khọc và kỹ thuật vào sản xuất, 
hợp tác và phân phối lao động. 
Tuy nhiên, không được hiểu một cách đơn giản tính tích cực của quan hệ 
sản xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu, mỗi kiểu quan hệ sản xuất là 
một hệ thống một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt, quan hệ sở hữu, quan hệ quản 
lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, quan hệ sản xuất mới trở thành 
động lực thúc đầy con người hành động nhằm phát triển sản xuất. 
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của 
lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội sự tác động 
của quy luật này đã đưa xã hội loại người trải qua các phương thức sản xuất , 
công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ 
nghĩa. 
Thời kỳ đầu trong lịch sử là xã hội cộng sản nguyên thuỷ với lực lượng 
sản xuất thấp kém, quan hệ sản xuất cộng đồng nguyên thuỷ đời sống của họ 
chủ yếu thuộc vào săn bắt hái lượm. 
Trong quá trình sinh sống họ đã không ngừng cải tiến và thay đổi công cụ 
(lực lượng sản xuất ) đến sau một thời kỳ lực lượng sản xuất phát triển quan hệ 
cộng đồng bị phá vỡ dần dần xuất hiện hệ tư nhân nhường chỗ cho nó là một xã 
hội chiếm hữu nô lệ. Với quan hệ sản xuất chạy theo sản phẩm thặng dư, chủ nô 
muốn có nhiều sản phẩm dẫn đến bóc lột, đưa ra công cụ lao động tốt, tinh xảo 
vào sản xuất, những người lao động trong thời kỳ này bị đối xử hết sức man rợ. 
Họ là những món hàng trao đổi lại, họ lầm tưởng do những công cụ lao động 
dẫn đến cuộc sống khổ cực của mình nên họ đã phá hoại lực lượng sản xuất , 
những cuộc khởi nghĩa nô lệ diễn ra khắp nơi. 
Chấm dứt chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến ra đời, xã hội 
mới ra đời giai cấp thời kỳ này là địa chủ, thời kỳ đầu giai cấp địa chủ nới lòng 
hơn chế độ trước, người nông dân có ruộng đất, tự do thân thể. 
 10 
Cuối thời kỳ phong kiến xuất hiện công trường thủ công ra đời và dẫn tới 
lực lượng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, cuộc cách mạng tư sản ra 
đời chế độ tư bản thời kỳ này chạy theo giá trị thặng dư và lợi nhuận họ đưa ra
những kỹ thuật mới những công cụ sản xuất hiện đại áp dụng vào sản xuất thời 
kỳ này lực lượng sản xuất mang tính chất cực kỳ hoá cao và quan hệ sản xuất là 
quan hệ sản xuất tư nhân về tư liệu sản xuất nên dẫn tới cuộc đấu tranh gay gắt 
giữa tư sản và vô sản nổ ra xuất hiện một số nước chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa 
xã hội ra đời quan tâm đến xã hội hoá công hữu nhưng trên thực tế chủ nghĩa xã 
hội ra đời ở các nước chưa qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa chỉ có Liên Xô là qua 
thời kỳ tư bả chủ nghĩa nhưng chỉ là chủ nghĩa tư bản trung bình. 
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của 
lực lượng sản xuất là quy luật vận dụng phát triển của xã hội sự tác động qua sự 
thay thế kế tiếp nhau từ thấp đến cao của phương thức sản xuất. 
- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: 
Khi trình độ lực lượng sản xuất còn thủ công thì tính chất của nó là tính chất cá 
nhân. Nó thể hiện ở chỗ chỉ một người có thể sử dụng đựơc nhiều công cụ khác 
nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Như vậy, tất yếu dẫn đến quan 
hệ sản xuất sở hữu tư nhân (nhiều hình thức ) về tư liệu sản xuất. 
Khi sản xuất bằng máy ra đời, trình độ lực lượng sản xuất công nghiệp 
một người không thể sử dụng được nhiều mà chỉ một công cụ, hoặc một bộ phận
, chức năng. Như vậy, quá trình sản xuất phải nhiều người tham gia, sản phẩm 
lao động là thành quả của nhiều người, ở đây lực lượng sản xuất đã mang tính 
xã hội hoa. Và tất yếu một quan hệ sản xuất thích hợp phải là quan hệ sản xuất 
sở hữu về tư liệu sản xuất. Ănghen viết: “Giai cấp tư sản không thể biến tư liệu 
sản xuất có tính chất hạn chế ấy thành lực lượng sản xuất mạnh mẽ được nếu 
không biến những tư liệu sản xuất của cá nhân thành những tư liệu sản xuất có 
tính chất xã hội mà chỉ một số người cùng làm mới có thể sử dụng được”. 
Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu 
hiện ở chỗ: 
 11 
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển . sự 
biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng 
sản xuất mà trước hết là công cụ. Công cụ phát triển đến mâu thuẫn gay gắt với 
quan hệ sản xuất có và xuất hiện đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ quan hệ sản 
xuất cũ thay bằng quan hệ sản xuất mới. Như vậy, quan hệ sản xuất vốn là hình 
thức phát triển của lực lượng sản xuất (ổn định tương đối), quan hệ sản xuất trở 
thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất (không phù hợp). 
Phù hợp và không phù hợp là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng của lực lượng 
sản xuất và quan hệ sản xuất , tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn và bao hàm 
mâu thuẫn. 
Khi phù hợp cũng như lúc không phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ 
sản xuất luôn có tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất, thể hiện trong sử 
dụng sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội 
của sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành những 
yếu tố hoặc thúc đầy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. 
Sự tác động trở lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua 
các quy luật kinh tế cơ bản phù hợp và không phù hợp giữa lực lượng sản xuất 
và quan hệ sản xuất là khách quan và phổ biến của mọi phương thức sản xuất. 
Sẽ không đúng nếu quan niệm trong chủ nghĩa tư bản luôn luôn diễn ra “không 
phù hợp”, còn dưới chủ nghĩa xã hội “phù hợp” giữa quan hệ sản xuất và lực 
lượng sản xuất. 
II. QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG THỜI KỲ QUÁ 
ĐỘ LỆ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA VÀ NHỮNG MÂU THUẪN CÒN TỒN TẠI. 
- Những sai lầm về quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất trước 
kia: 
Do nhận thức chưa đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng 
sản xuất và quan hệ sản xuất trong công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây 
dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra sức vận đồng gần như cưỡng bức 
nông dân đi vào hợp tác xã, mở rộng phát triển quy mô nông trường quốc doanh, 
 12 
các nhà máy Xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ lực lượng sản xuất đang 
còn thời kỳ quá thấp kém chúng ta đã tạo ra những quy mô lớn và ngộ nhận là 
đã có “Quan hệ sản xuất XHCN” và còn nói rằng: mỗi bước cải tạo quan hệ sản 
xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới đều thúc đầy sự ra đời và lớn mạnh của 
lực lượng sản xuất mới. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có khả năng “vượt 
trước” “mở đường” cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thực tế nhiều năm 
qua đã chứng minh quan điểm đó là sai lầm. Sai lầm chủ yếu không phải chỗ 
chúng ta duy trì quan hệ sản xuất lạc hậu so với sự phát triển của lực lượng sản 
xuất như người ta thường nói mà chủ yếu có những mặt của quan hệ sản xuất bị 
thúc đầy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời với trình độ 
thấp kém của lực lượng sản xuất. Bởi vậy, nhận định trong đại hội lần thứ 6 là 
có căn cứ đã làm phong phú thêm lý luận biện chứng giữa lực lượng sản xuất và 
quan hệ sản xuất “Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp 
quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ 
có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ”. 
Để chứng minh cho “Quan niệm sản xuất đi trước” hoặc nói theo cách 
thời bấy giờ là để giải quyết mâu tuẫn giữa quan hệ sản xuất tiên tiến với lực 
lượng sản xuất lạc hậu chúng ta đã ra sức xây dựng lực lượng sản xuất một cách 
khẩn trương bằng cách đưa khá nhiều máy móc vào các cơ sở sản xuất Nông 
nghiệp mới hình thành còn non yếu, què quặt nhằm xây dựng mô hình lâu dài 
công – Nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không tính đến khả năng quản lý 
trình độ, tổ chức sử dụng của nông dân. 
Quan điểm về quan hệ sản xuất đi trước là không đúng và nói đến quan hệ 
sản xuất xã hội chủ nghĩa là nhấn mạnh việc xây dựng chế độ công hữu về tư 
liệu sản xuất và cơ chế thực hiện chế độ đó là phiến diện. Đành rằng yếu tố này 
cơ bản nhưng không thể xem xét nhẹ quan hệ quản lý và quan hệ phân phối . 
Phải thấy rằng quan hệ sở hữu được thể hiện trong tất cả việc xoá bỏ chế độ tư 
hữu, thiết lập công hữu về tư liệu sản xuất không phải chỉ thời gian ngăn là xong
. Nhưng dẫu có làm được thì cũng không phải là mục tiêu trước mắt của 
 13 
nước ta khi mà chế độ công hữu này chưa thể phù hợp với lực lượng sản xuất 
hiện có. Hơn nữa những thành phần kinh tế khác có khả năng góp phần làm cho 
sản xuất phát triển. Một trong những sai lầm cơ bản mà chúng ta đã vấp phải là 
xoá bỏ quá sớm quan hệ sản xuất TBCN, khi nền kinh tế XHCN của chúng ta 
chưa còn đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của lực 
lượng sản xuất và đã làm mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội. 
Cũng vậy , chúng ta xoá sạch tiểu thương khi hệ thống thương nghiệp quốc 
doanh và hợp tác xã mua bán của ta chưa làm nổi vai trò “người nội trợ cho xã 
hội ” gây nhiều khó khăn ách tắc cho lưu thông hàng hoá và không đáp ứng nhu 
cầu thiết yếu cho nhân dân. 
- Giải pháp để phát triển lực lượng sản xuất: Cần phải sàng lọc trong lực 
lượng sản xuất truyền thống những yếu tố nào có giá trị để bổ sung cho việc xây 
dựng lực lượng sản xuất hiện đại cần phải kết hợp các yếu tố truyền thống với 
yếu tố hiện đại, bảo đảm tính phủ định có kế thừa, tiếp thu có chọn lọc cho phép 
tạo nên một sự phát triển ổn định , bình thường của lực lượng sản xuất tránh 
được sự “gãy gục” trong tiến trình phát triển nó. 
Những tiến bộ to lớn của cuộc cách mạng khoa khọc kỹ thuật ngày nay 
cho phép nước ta có thể tranh thủ vận dụng trực tiếp những thành tựu khoa khọc 
– kỹ thuật, nhập khẩu tư liệu sản xuất hiện đại, chuyển giao công nghệ qua liên 
kết kinh tế và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Từ đó chúng ta có thể tạo nên sự 
kết hợp những tiến bộ về lực lượng sản xuất do đó tiếp thu có chọn lọc từ bên 
ngoài với những cơ sở vật chất và lực lượng sản xuất vốn có trong nước để đầy 
nahnh và rút ngắn thời hạn phát triển lịch sử tự nhiên của lực lượng sản xuất, 
vươn lên kịp trình độ của thế giới. 
Con người tham gia vào quá trình sản xuất vừa với tư cách là sức lao 
động, vưa với tư cách là con người có ý thức chủ thể của những quan hệ kinh tế. 
Trình độ văn hoá, trình độ kỹ thuật chuyên môn, ý thức và thái độ của người lao 
động đối với sản xuất và sản phẩm là những yếu tốt quan trọng để sử dụng, khai 
thác kỹ thuật và tư liệu sản xuất vốn có, để sáng tạo trong quá trình sản xuất 
Ănghen đã nhấn mạnh “muốn nâng cao sản xuất công nghiệp và Nông nghiệp 
 14 
đến mức độ cao mà chỉ có phương tiện cơ giới và hoá học phù hợp thì chưa đủ. 
Còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng 
những phương tiện đó nữa” nghĩa là phải có sự phối hợp phát triển hài hoà các 
nhân tố khách quan của các lực lượng sản xuất hiện đại. 
- Quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN – xây dựng nền kinh tế 
nhiều thành phần: 
Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển 
của lực lượng sản xuất luôn là yêu cầu đặt ra đối với mọi chế độ xã hội. Đối với 
nước ta đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười đã khẳng định: “nếu công nghiệp hoá 
hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ mới thì việc phát 
triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản 
xuất phù hợp”. 
Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đúng. Bởi 
vì, nó biểu hiện sự lựa chọn những hình thức, bước đi, giải pháp thích hợp với 
trạng thái kinh tế hiện nay. 
Đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất 
nước ta hiện nay vừa thấp không đồng đều nên không thể nóng vội nhất loạt xây 
dựng quan hệ sản xuất một thành phần dựa trên cơ sở chế độ công hữu XHCN 
về tư liệu sản xuất như trước đại hội VI. Làm như vậy là đầy quan hệ sản xuất đi 
quá xa so với trình độ lực lượng sản xuất. Mở ra nền kinh tế nhiều thành phần đã 
khơi dậy tiềm năng, của sản xuất, xây dựng năng lực sáng tạo, chủ động của các 
chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh thúc đầy sản xuất phát triển. 
Thực tiễn mấy năm qua cho thấy, chính sách kinh tế nhiều thành phần đã 
góp phần giải phòng và phát triển lực lượng sản xuất, đưa đến những thành tự to 
lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, Đại hội VIII khẳng định: “tiếp tục thực 
hiện nhất quán lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp và cá 
nhân trong nước khai thác tiềm năng ra sức đầu tư phát triển... trong khi thực 
hiện chính sách kinh tế nhiều thành phàn, một mặt cần phải thoát ra khỏi sự trói 
buộc của tư duy cũ, những nhận thức không đúng trước đây đối với các thành 
phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân Nhà nước trong quá trình xây dựng chủ nghĩa 
 15 
xã hội, từ đó không chủ động tháo gỡ những vướng mắc hoặc thiếu sự quản lý 
hướng dẫn các thành phầnkt này phát triển đúng hướng. 
- Đường lối phát triển quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất theo định 
hướng XHCN: 
Quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước đi lên CNXH Đảng ta đã rút ra 
những kinh nghiệm bổ ích và xác định rằng: một trong những nguyên nhân làm 
cho sản xuất chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là “không 
nắm vững quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực 
lượng sản xuất ”. Từ đó Đảng đã rút ra cốt lõi để đầy mạnh việc vận dụng quy 
luật bằng cách nêu vấn đề gắn liền với cách mạng quan hệ sản xuất với cách 
mạng khoa khọc kỹ thuật, chú trọng việc tổ chức lại nền sản xuất xã hội để xác 
định những hình thức và bước thích hợp. 
Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản 
xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không thay đổi
. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không bao giờ là sự 
phù hợp chung mà bao giờ cũng tồn tại dưới những hình thức cụ thể, thích ứng 
với những đặc điểm nhất định với trình độ nào đó của lực lượng sản xuất. Trong 
thời kỳ quá độ đi lên CNXH, nền kinh tế không còn là nền kinh tế tư bản, nhưng 
cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế XHCN. Bởi vậy công cuộc cải tạo XHCN 
phải chú ý đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành 
phần. Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới, đại 
hội VI đã nhấn mạnh là phải giải quyết đồng bộ ba mặt, xây dựng chế độ sở hữu
, chế độ quản lý và chế độ phân phối, không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế 
độ công hữu, coi đó là cái duy nhất để xây dựng quan hệ sản xuất mới. Thực tế 
chỉ rõ, nếu chế quản lý và phân phối không được xác lập theo nguyên tắc của 
CNXH và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhằm củng cố chế độ công 
hữu về tư liệu sản xuất mà còn cản trở lực lượng sản xuất phát triển. 
Trong công cuộc đổi mới đất nước phải tuân thủ quy luật về sự phù hợp 
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 
hiện có để xác định bước đi và những hình thức thích hợp. Quy luật đó luôn 
được coi là tư tưởng chỉ đạo công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng 
 16 
quan hệ sản xuất mới trên những điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất. Đại 
hội VI chỉ rõ “đảm bảo sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 
luôn luôn kết hợp chặt chẽ tạo quan hệ sản xuất với tổ chức và phát triển sản 
xuất ”, không nên nóng vội duy ý chí trong việc xác định trật tự bước đi cũng 
như việc lựa chọn các hình thức kinh tế cần phải cải tạo nền sản xuất nhỏ, cá thể 
để đưa nền sản xuất từng bước và đồng bộ. Rà soát lại quá trình cải tạo XHCN 
trong thời gian qua Đảng ta đã đưa ra kết luận: “Theo quy luật về sự phù hợp 
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, 
quá trình cải tạo XHCN phải có bước đi và hình thức thích hợp” “Phải coi trọng 
những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ đến 
quy mô lớn, trong mỗi bước đi của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải đầy 
mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật tạo ra lực lượng sản xuất mới trên 
cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức và quy mô thích hợp để 
thúc đầy lực lượng sản xuất phát triển ”. 
 17 
KẾT LUẬN 
Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử thay đổi các phương 
thức sản xuất, sự thay đổi bắt đầu từ sự thay đổi lực lượng sản xuất, lực lượng 
sản xuất là nội dung, là quá trình sản xuất, quan hệ sản xuất là hình thức của quá 
trình sản xuất , hình thức của sản xuất bao giờ cũng ổn định hơn. Song sự ổn 
định đó cũng chỉ là tạm thời và sớm muộn cũng phải thay đổi cho phù hợp . 
Quan hệ sản xuất ra đời từ lực lượng sản xuất, nhưng khi ra đời nó có vai trò tác 
động trở lại tích cực. Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực 
lượng sản xuất thì nó thúc đầy sự phát triển của nền kinh tế, còn ngược lại nó sẽ 
kìm hãm sự phát triển đó. Trong thời đại công nghiệp hoá hiện đại hoá với nền 
kinh tế nhiều thành phần thì cần phải có sự phát triển cân đối giữa lực lượng sản 
xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất của nước ta đông đảo, tuy nhiên 
lại chưa nắm bắt được hết các thành tựu của khoa khọc kỹ thuật , sự vận dụng 
vào thực tế còn hạn chế. Trong tương lai phải có chính sách đào tạo phù hợp 
nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên, quan hệ sản xuất cũng 
cần phát triển để tương lai phải có chính sách đào tạo phù hợp nâng cao trình độ 
tay nghề cho đọi ngũ cán bộ, công nhân viên. Quan hệ sản xuất cũng cần phải 
phát triển để tương xứng với lực lượng sản xuất. Quy luật quan hệ sản xuất – sản 
xuất lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến của mọi hình thái kinh tế xã hội, 
vạch ra tính chất phù thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển 
của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất lại tác động trở lại đối với lực lượng 
sản xuất. Đại hội IX tiếp tục chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, 
khơi dậy tiềm năng của sản xuất, xây dựng năng lực sáng tạo, thúc đầy sản xuất 
phát triển. 
 18 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Giáo trình triết học Mác – LêNin 
2. Tạp chí triết học sô 1-1993 
3. Tạp chí triết học số 3-4997 
4. Tạp chí triết học số 5-2000 
5. Tạp chí triết học số 1-2001 
6. Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội VI của Đảng 
7. Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội VIII của Đảng 
8. Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội IX của Đảng 
9. Thực trạng quan hệ sản xuất ở Việt Nam 
 19 
MỤC LỤC 
A. Đặt vấn đề ........................................................................................................ 1 
B. Giải quyết vấn đề ............................................................................................ 3 
I. Cơ sở lý luận cho việc phân tích mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và 
quan hệ sản xuất. ............................................................................................... 3 
1. Lực lượng sản xuất..................................................................................3 
2.Quan hệ sản xuất . ...................................... Error! Bookmark not defined. 
3. Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. ............................ 7 
II. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lệ chủ nghĩa 
xã hội ở nước ta và những mâu thuẫn còn tồn tại. .......................................... 11 
Kết luận .............................................................................................................. 17 
Danh mục tài liệu tham khảo ........................................................................... 18 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_quy_luat_quan_he_san_xuat_phu_hop_voi_tinh_chat_va.pdf