Tiểu luận Quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong Tư pháp quốc tế tại Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong Tư pháp quốc tế tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong Tư pháp quốc tế tại Việt Nam
1 TIỂU LUẬN QUYỀN THỎA THUẬN CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM MÔN: TƯ PHÁP QUỐC TẾ 2 1 I. MỞ ĐẦU Môn học tư pháp quốc tế là môn học cung cấp những kiến thức lý luận và quy định của pháp luật về Tư pháp quốc tế cũng như việc áp dụng quy định này trong thực tiễn. Bài học gồm 4 nhóm: tổng quan về tư pháp quốc tế; những kiến thức lý luận và quy định của pháp luật về xung đột pháp luật và áp dụng pháp luật nước ngoài cũng như kiến thức thực tiễn về vấn đề này, những kiến thức quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án quốc gia đối với những vụ việc có yếu tố nước ngoài, những kiến thức lý luận và quy định của pháp luật về công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài. Ý nghĩa của chế định trong việc bảo vệ quyền con người khi tham gia vào quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh hiện nay vấn đề chủ động vận dụng những kiến thức đã học trong phân tích và giải quyết các vấn đề Tư pháp quốc tế ở Việt Nam là rất cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Sự hợp tác về mọi mặt giữa các quốc gia là hiện thực tất yếu khách quan trong mọi thời đại. Việc củng cố và tăng cường hợp tác giữa các quốc gia thể hiện trong quan hệ dưới nhiều hình thức và phương diện: giữa các quốc gia và đồng thời giữa công dân và pháp nhân của họ. Quan hệ quốc tế là tổng thể các quan hệ giữa các công dân và pháp nhận của các nước và giữa các nước với nhau. Quyền lựa chọn áp dụng pháp luật giữa các bên là một quyền cơ bản trong tư pháp quốc tế của các quốc gia trên thế giới. Quyền lựa chọn pháp luật của các bên trong quan hệ hợp đồng đã được cộng đồng các quốc gia Châu Âu quy định trong công ước Rome về luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng, ngày nay vấn đề này được quy định trong quy tắc Rome I1. Bộ luật dân sự năm 2015 đã mở rộng quyền tự do áp dụng pháp luật của các bên trong các lĩnh vực khác ngoài hợp đồng và quyền sở hữu đối với động sản trên đường vận chuyển. Việc giải quyết xung đột pháp luật hay còn gọi là chọn 1 Vũ Thị Hương, Lê Hồng Sơn (2015), “Hình thức và thời điểm thỏa thuận lựa chọn pháp luật của các bên trong tư pháp quốc tế Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số 19). 2 luật để từ đó cơ quan có thẩm quyền xác định được hệ thống pháp luật cần phải được áp dụng để giải quyết quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Do vậy, sẽ có những cách thức để giải quyết các xung đột pháp luật nói trên như: phương pháp xung đột, phương pháp thực chất. Tuy nhiên, việc làm rõ những ưu điểm, hạn chế của chúng hay thực tế áp dụng các phương pháp này trong Tư pháp quốc tế như thế nào? Và việc áp dụng cụ thể các phương pháp trên tại Việt Nam ra sao sẽ cho chúng ta một cái nhìn hoàn chỉnh hơn trong Tư pháp quốc tế về phương pháp giải quyết xung đột pháp luật cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy sinh viên chọn đề tài: “Quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong Tư pháp quốc tế tại Việt Nam” làm tiểu luận kết thúc môn học của mình II. NỘI DUNG 1. Những khái niệm liên quan đến quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong tư pháp quốc tế Theo PGS. TS Đỗ Văn Đại: Trước hiện tượng xung đột pháp luật, tư pháp quốc tế có quy định nhằm xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước ngoài, và nhìn một cách tổng thể, các quy định này có thể được chia thành hai nhóm. Trong nhóm thứ nhất, pháp luật đưa ra tiêu chí xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước ngoài và không quan tâm tới ý chí của các chủ thể liên quan. Ví dụ, theo khoản 1 Điều 766 Bộ luật Dân sự năm 2005 của Việt Nam, "việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó”. Hiện nay tại khoản điều 678 Bộ luật dân sự năm 2015, “Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sỡ hữu tài sản đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều 678 Bộ luật dân sự năm 2015” Quy định này xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh các vấn đề về quyền sở hữu tài sản là "pháp luật của nước nơi có tài sản” và việc xác định này không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể liên quan. Trong nhóm thứ hai, 3 pháp luật đưa ra quy định theo hướng xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước ngoài căn cứ vào ý chí của chủ thể liên quan. Ở đây, hệ thống pháp luật nào sẽ điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước ngoài phụ thuộc vào việc lựa chọn của chủ thể liên quan2. Để tìm hiểu quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong tư pháp quốc tế ta tìm hiểu những nội dung sau: 1.1. Khái niệm xung đột pháp luật Mỗi quốc gia trên thế giới có một hệ thống pháp luật riêng của mình và các hệ thống pháp luật đó khác nhau, thâm chí trái ngược nhau: Xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời đều có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ pháp luật này hay quan hệ pháp luật khác. Vấn đề cần phải giải quyết là chọn một trong các hệ thống pháp luật đó để có thể giải quyết quan hệ pháp luật trên. Các ngành luật như: Luật dân sự, Luật thương mại, Luật hôn nhân và gia đình, Luật lao độngđiều chỉnh các quan hệ của mình một cách trực tiếp và đơn giản. Theo giáo trình Tư pháp quốc tế của Đại học Luật Hà Nội: “Xung đột pháp luật được hiểu là trong một tình thế (trạng thái) nhất định mà hai hay nhiều hệ thống pháp luật đều có thể điều chỉnh một quan hệ pháp luật nhất định”3. Theo giáo trình của Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh: “Xung đột pháp luật là hiện tượng khi có hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”4. 2 Đỗ Văn Đại truy cập tại trang 3 Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân dân. 4 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam. 4 Phạm vi: Trong nội tại của hệ thống pháp luật quốc gia. Xung đột giữa các quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh một vấn đề ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau gây nên mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy phạm pháp luật. Một số mối quan hệ của tư pháp quốc tế dựa trên nguyên tắc lãnh thổ để giải quyết nên không có hiện tượng xung đột pháp luật: Quan hệ tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài, xác lập và bảo hộ quyền sỡ hữu trí tuệ. Trong nội tại của hệ thống pháp luật quốc gia: quốc gia liên bang dựa trên hệ thống “Chủ nghĩa liên bang nhị nguyên – Dualistic Federalism” như Hoa Kỳ: xung đột pháp luật giữa các tiểu bang với nhau và các quốc gia đơn nhất nhưng lại có quy chế riêng cho một số vùng lãnh thổ đặc biệt. Ví dụ giữa Anh và Bristish Virgin Islands hoặc giữa Pháp với vùng Alsace-Lorraine. Xung đột pháp luật là thuật ngữ mang tính ước lệ, Hiện tượng xung đột pháp luật xảy ra ở từng vấn đề pháp lý của quan hệ cụ thể, Xung đột pháp luật chỉ được đặt ra giữa các hệ thống pháp luật của các quốc gia có chủ quyền. Nguyên nhân phát sinh xung đột pháp luật:, tính chất đặc thù của các quan hệ xã hội do tư pháp quốc tế điều chỉnh là các quan hệ mang bản chất dân sự có yếu tố nước ngoài. Đặt ra khả năng có thể dùng luật nhà nước, có sự khác nhau trong hệ thống pháp luật các nước khi giải quyết các vấn đề cụ thể Các quan hệ pháp luật không được trực tiếp giải quyết bằng các quy phạm xung đột. Nó chỉ có nhiệm vụ dẫn chiếu tới luật thực chất của quốc gia mà ở đó các quy định thực tế giải quyết quyền và phân định nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đó cũng là nền tảng để giải quyết tranh chấp khi phát sinh. Theo nghĩa rộng, các xung đột pháp luật chỉ xảy ra trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Còn trong các quan hệ pháp luật khác như hành chính, hình sự (các nước phát triển gọi là luật công) thì không xảy ra xung đột pháp luật vì: Luật hình sự, hành chínhmang tính hiệu lực lãnh thổ rất nghiêm ngặt hay gọi là 5 quyền tài phán công bố có tính lãnh thổ chặt chẽ. Trong luật hình sự, Luật hành chính không bao giờ cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài. Hiện nay, Tư pháp quốc tế Việt Nam cũng như Tư pháp quốc tế có hai phương pháp giải quyết xung đột đó là: phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. Hai phương pháp này có mối quan hệ hài hòa, tác động hỗ trợ lẫn nhau tạo nên một cơ chế điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế và bảo đảm một trật tự pháp lý dân sự quốc tế. 1.2. Phương pháp xung đột Phương pháp xung đột - phương pháp điều chỉnh gián tiếp, là phương pháp sử dụng các quy phạm xung đột nhằm lựa chọn hệ thống pháp luật để điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Phương pháp này được hình thành và xây dựng trên nền tảng các quy phạm xung đột của quốc gia (kể cả các quy phạm xung đột trong điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên). Điều này có ý nghĩa là cơ quan có thẩm quyền giải quyết lựa chọn pháp luật của nước này hay nước kia có hướng tới các yếu tố nước ngoài để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự. Công việc tiến hành lựa chọn hệ thống nước nào được áp dụng để giải quyết phải dựa trên quy định của quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột là một quy phạm pháp luật đặc biệt, mang tính chất đặc thù của Tư pháp quốc tế. Không trực tiếp điều chỉnh nội dung các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Nội dung của các quan hệ đó được giải quyết như thế nào phụ thuộc vào hệ thống pháp luật mà quy phạm xung đột đó dẫn chiếu. Ví dụ: Nữ công dân Việt Nam (18 tuổi) kết hôn với Nam công dân Pháp (18 tuổi) tại cơ quan có thẩm quyền Việt Nam. Về độ tuổi kết hôn theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 8: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”, Pháp luật Pháp quy định: nam từ 18 tuổi trở lên. Như vậy cơ quan có thẩm quyền sẽ phải chọn pháp luật áp dụng. Tại điều 126 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy 6 định: “1. Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn. 2. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài thường trú ở Việt Nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn”. Ví dụ: Công dân M (quốc tịch nước A) giao kết hợp đồng bằng miệng với công dân N (quốc tịch nước B). Tranh chấp phát sinh liên quan đến hình thức hợp đồng. Pháp luật nước A: hợp đồng phải giao kết bằng văn bản Pháp luật nước B: có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng Cơ quan có thẩm quyền phải chọn luật áp dụng căn cứ vào hình thức của hợp đồng phải tuân theo pháp luật nước nơi giao kết hợp đồng. Phương pháp xung đột được xem là phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế vì phát sinh từ quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài xuất phát từ nguyên tăc bình đẳng, chủ quyền giữa các quốc gia, có nhiều hệ thống pháp luật cùng được áp dụng nên phải chọn luật áp dụng. Phương pháp xung đột là phương pháp điều chỉnh gián tiếp vì dựa vào các quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột không trực tiếp điều chỉnh nội dung các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Quy phạm xung đột chỉ làm bước trung gian là chỉ ra hệ thống pháp luật được áp dụng. - Ưu và nhược điểm của phương pháp xung đột + Về ưu điểm 7 Việc xây dựng các quy phạm xung đột thuận lợi, dễ dàng nên số lượng các quy phạm nhiều, đáp ứng nhu cầu điều chỉnh. Mang tính khách quan cao, tạo tâm lý tự tin, an tâm hơn khi tham gia vào các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. + Nhược điểm: Không trực tiếp giải quyết nội dung các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nên giải quyết không nhanh chóng. Có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài nên gây khó khăn cho thẩm phán trong việc tìm hiểu, áp dụng pháp luật nước ngoài. 1.3. Phương pháp thực chất Phương pháp thực chất được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có ý nghĩa là nó trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia quan hệ. Các quy phạm thực chất này thể hiện dưới hai hình thức: + Trong các điều ước quốc tế (quy phạm thực chất thống nhất): Đây là trường hợp mà quy phạm thực chất đã được nhất thể hóa trong các điều ước quốc tế. Trong quá trình hợp tác quốc tế về mọi mặt: kinh tế, thương mại, kỹ thuật, văn hóa, giao thông vận tải Hay có thể nói rằng đây là quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế - xã hội giữa các nước. + Trong các văn bản pháp luật của một quốc gia (quy phạm thực chất trong nước). Ví dụ: Luật đầu tư, Luật về chuyển giao công nghệ5 Ưu điểm của phương pháp thực chất: 5 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam 8 - Phương pháp thực chất là giải quyết trực tiếp các quan hệ nó chỉ áp dụng trong các quan hệ đặc biệt (lĩnh vực đặc biệt cụ thể), còn phương pháp xung đột mang tính chất bao quát và toàn diện hơn; - Phương pháp trực tiếp thực chất chỉ sử dụng đối với các bên tham gia quan hệ cụ thể trong các không gian giới hạn và đôi khi chỉ áp dụng với các chủ thể cụ thể; hơn thế các chủ thể đó thường biết trước các điều kiện pháp lý đó; - Phương pháp trực tiếp bằng cách các quốc gia ký kết các điều ước quốc tế mà trong đó các quy phạm thực chất thống nhất đã tăng khả năng điều chỉnh hữu hiệu của luật pháp, tính khả thi cao hơn. Nó loại bỏ sự khác biệt. thậm chí gây mâu thuẫn trong luật pháp giữa các nước với nhau. Nhược điểm: Bên cạnh những ưu điểm của phương pháp này, còn phải nói đến những hạn chế nhất định không thể tránh khỏi. Cụ thể: - Vì pháp luật của các nước có những quy định khác nhau, việc sử dụng quy phạm xung đột để giải quyết xem ra là giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, do tinhs chất đặc thù và riêng biệt của quy phạm xung đột mà vẫn có những trường hợp Tòa án không chọn được luật thực chất để áp dụng bởi chưa có quy phạm xung đột trong lĩnh vực đó. Lúc này Tòa án cần xem xét hệ thống luật pháp của nước mình để tìm ra các quy định cần thiết để giải quyết vụ việc. Khi xem xét nội dung của phương pháp xung đột ta thấy rất trừu tượng, đòi hỏi phải có chuyên môn sâu trong lĩnh vực pháp luật mới có thể hiểu được đầy đủ. Trong khi đó, đội ngũ chuyên gia luật không phải ở nước nào cũng giỏi mà vấn đề áp dụng quy phạm xung đột lại phức tạp. Vì vậy, dễ xảy ra tính chất không nhất quán đối với một vụ việc nếu giải quyết ở Tòa án có thẩm quyền tại các nước khác nhau, dẫn đến việc các bên khi ký kết các hợp đồng cần phải thấy trước luật của 9 nước nào sẽ có khả năng áp dụng hoặc phải chọn sẵn luật nước nào để áp dụng cho quan hệ đó. Phương pháp xung đột được áp dụng trong hệ thống luật Anh – Mỹ còn phức tạp hơn nhiều. Ở đây, Tòa án có thẩm quyền rất rộng, còn các quy phạm xung đột lại được hình thành trên cơ sở án lệ (thực tiễn tòa án và trọng tài). Điều này dẫn đến rất nhiều khả năng xảy ra trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại trong quan hệ hợp đồng mà các bên khi tham gia các quan hệ đó không thể lường trước được. - Cần phải nói đến đặc trưng trung lập, khách quan của phương pháp xung đột. Rõ ràng là, không hoàn toàn trung lập hay khách quan khi quy phạm pháp luật xung đột dẫn chiếu đến luật nước nào thì áp dụng luật nước đó. Thực tế ai cũng biết là khi quyết định lựa chọn luật nào được áp dụng thì thẩm phán thông qua lăng kính ý chí chủ quan của mình đã hình dung trước, hay nhìn thấy trước hệ quả của việc áp dụng đó. Như vậy, phải chăng Tòa án làm ra vẻ khách quan khi dựa vào quy phạm pháp luật xung đột để lựa chọn luật áp dụng, nhưng thực tế thì họ đã nhìn thấy trước hệ quả của nó khi áp dụng một hệ thống pháp luật nào đó? - Trong quan hệ thương mại quốc tế hiện đại, người ta thường áp dụng loại hệ thuộc xung đột mới là tự do lựa chọn luật áp dụng. Chính sự tự do này đôi khi khiến cho các bên đương sự lạm dụng khi tránh không phải áp dụng một hệ thống pháp luật mà đáng lẽ nó phải được áp dụng. Do đó, phải xem xét yếu tố trung lập. Khách quan, có còn tồn tại không, hay vi phạm pháp luật xung đột, như chính quy phạm pháp luật, cũng chỉ là sản phẩm của con người trong quá trình hoạt động nhận thức hiện thực quanh mình, từ đó hình thành nên quy tắc ứng xử cho hành vi? - Mối liên hệ giữa hai phương pháp trên: Có thể thấy, phương pháp xung đột và việc áp dụng các quy phạm xung đột là phương pháp chủ yếu được sử dụng hiện nay bởi nó xuất phát từ thực tiễn áp dụng 10 trong tư pháp quốc tế, khả năng dễ xây dựng cũng như ít tốn kém vể chi phí vì chỉ thông qua thỏa thuận giữa hai bên mà thôi. Mặc dù, đi sâu vào nghiên cứu hai phương pháp trên, ta thấy phương pháp thực chất thể hiện được tính ưu việt hơn hẳn so với phương pháp xung đột bởi sự nhanh chóng, cụ thể trong việc áp dụng luật điều chỉnh một quan hệ pháp luật nào đó. Tuy nhiên, phương pháp thực chất khó có thể xây dựng và đi đến thống nhất giữa các bên bởi hầu hết các quốc gia không có sự tương đồng về lịch sử, dân tộc, trình độ phát triển và lợi ích Do đó, việc xây dựng được một quy phạm thực chất quả rất khó khăn. Về mặt nào đó, ta có thể nói việc thống nhất hóa các quy phạm xung đột nó cũng góp phần củng cố cho việc nhất thể hóa các quy phạm thực chất. Khi quy phạm xung đột dẫn chiếu tới một hệ thống pháp luật cụ thể mà các quy phạm thực chất được áp dụng để giải quyết quan hệ một cách dứt điểm, thì ở đây ta lại thấy tính chất “song hành” giữa quy phạm xung đột với quy phạm thực chất trong điều chỉnh pháp luât. Như vậy, sự thống nhất trong cơ cấu, hệ thống các quy phạm xung đột và quy phạm thực chất của tư pháp quốc tế là nền tảng cần thiết của hai phương pháp điều chỉnh để giải quyết một loại quan hệ pháp luật, đó là quan hệ dân sự quốc tế. Qua đó, ấn định một quy tắc xử sự chung, bảo đảm tốt nhất cho quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào quan hệ đó. II. Lựa chọn pháp luật đối với những quan hệ cụ thể trong tư pháp quốc tế 2.1. Hình thức và thời điểm thỏa thuận lựa chọn trong quan hệ hợp đồng * Trường hợp các bên có thỏa thuận chọn luật Tại Việt Nam, quyền thỏa thuận chọn luật của các bên trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài được ghi nhận ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Cụ thể, khoản 1 Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Các bên trong quan hệ hợp đồng được 11 thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng”. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực thương mại, khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại 2005 cho phép các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế để điều chỉnh hợp đồng của mình. Trong lĩnh vực hàng hải, Điều 5 Bộ luật Hàng hải 2015 cũng ghi nhận các bên có quyền thoả thuận áp dụng luật nước ngoài hoặc tập quán hàng hải quốc tế trong các quan hệ hợp đồng để giải quyết tranh chấp. Trong hoạt động đầu tư nước ngoài, quyền thỏa thuận lựa chọn pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế cũng được quy định tại khoản 4, Điều 4 Luật Đầu tư 2014. Căn cứ vào những quy định trên cho thấy pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận quyền tự do thỏa thuận lựa chọn luật là một nguyên tắc nền tảng, đươc ưu tiên áp dụng trong việc giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam cũng đặt ra những giới hạn cho việc thỏa thuận chọn luật của các bên để điều chỉnh hợp đồng có yếu tố nước ngoài, cụ thể: - Việc chọn luật phải được quy định bởi điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam6. - Hậu quả của việc áp dụng pháp luật được chọn không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam7. - Pháp luật mà các bên lựa chọn là quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ, không bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng 8(chỉ được áp dụng các quy phạm thực chất trong hệ thống pháp luật được các bên lựa chọn) 6 Khoản 2 Điều 664 Bộ luật Dân sự 2015; Khoản 1 Điều 5 Bộ luật Hàng hải 2015; Khoản 4 Điều 4 Luật Đầu tư năm 2020. 7 Điều 666, 670 Bộ luật Dân sự 2015 8 Khoản 4 Điều 668 Bộ luật Dân sự 2015 12 Ngoài những nguyên tắc chung này, tùy vào từng loại hợp đồng đặc thù, pháp luật Việt Nam cũng xây dựng những quy định riêng nhằm hạn chế thỏa thuận chọn luật. Chẳng hạn, đối với hợp đồng có đối tượng là bất động sản được quy định tại khoản 4 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015 thì: “pháp luật áp dụng đối với việc chuyển giao quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động sản, thuê bất động sản hoặc việc sử dụng bất động sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là pháp luật của nước nơi có bất động sản, các bên không được quyền chọn luật áp dụng”. Hay như những hợp đồng mang tính chất gia nhập như hợp đồng lao động hay hợp đồng tiêu dùng thì các bên chỉ có thể thỏa thuận chọn luật áp dụng với điều kiện pháp luật do các bên lựa chọn không ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu dùng theo quy định của pháp luật Việt Nam9. Có thể thấy so với những quy định trước đây, Bộ luật Dân sự 2015 đã có những bước tiến rõ rệt trong việc xây dựng các quy định liên quan đến việc xác định pháp luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong trường hợp các bên có thỏa thuận chọn luật. Nhiều quy định liên quan đến vấn đề này khá giống với những quy định trong pháp luật Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, bên cạnh một số điểm nổi bật mà Bộ luật Dân sự 2015 đã xây dựng được, liên quan đến các điều kiện áp dụng pháp luật nước ngoài đối với hợp đồng có yếu tố nước ngoài, vẫn còn tồn tại những quy định chưa được triển khai cụ thể, đưa đến cách hiểu không thống nhất, gây ra một số hạn chế trong quá trình áp dụng trên thực tiễn. Vì vậy, để quyền chọn luật của các bên thực sự phát huy hiệu lực trên thực tế và để pháp luật nước ngoài có khả năng cao được các thẩm phán Việt Nam áp dụng thì cần phải xây dựng các quy định chi tiết về điều kiện chọn luật đối với các bên trong quan hệ hợp đồng. Với sự hiện diện của các quy định chi tiết này, Tòa án sẽ có cơ sở để áp dụng pháp luật nước ngoài trong những trường hợp đáp ứng được các điều kiện đặt ra, cũng như có thể từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài một cách minh bạch và hợp 9 Khoản 5 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015. 13 lý nếu pháp luật được lựa chọn không đáp ứng được điều kiện chọn luật. Điều này sẽ hạn chế được tình trạng đa số Thẩm phán đều tránh né việc xem xét các tình tiết thể hiện yếu tố nước ngoài trong vụ việc cũng như bỏ qua việc áp dụng pháp luật nước ngoài khi xét xử như hiện nay. * Trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật Đối với quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, về nguyên tắc nếu các bên không có thỏa thuận chọn luật hợp pháp thì việc xác định pháp luật áp dụng điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng sẽ căn cứ vào sự chỉ dẫn của quy phạm xung đột. Theo quy định của Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 thì trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng. Và điều luật này cũng liệt kê pháp luật của nước sau đây được coi là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng: - Pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng mua bán hàng hóa10; - Pháp luật của nước nơi người cung cấp dịch vụ cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng dịch vụ11; - Pháp luật của nước nơi người nhận quyền cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ12; - Pháp luật của nước nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc đối với hợp đồng lao động. Nếu người lao động thường xuyên thực hiện công việc tại nhiều nước khác nhau hoặc không xác định được nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng lao động là pháp luật 10 Điểm a khoản 2 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015. 11 Điểm b khoản 2 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015. 12 Điểm c khoản 2 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015. 14 của nước nơi người sử dụng lao động cư trú đối với cá nhân hoặc thành lập đối với pháp nhân13; - Pháp luật của nước nơi người tiêu dùng cư trú đối với hợp đồng tiêu dùng14. Tuy nhiên trong trường hợp chứng minh được pháp luật của nước khác với pháp luật được nêu ở trên có mối liên hệ gắn bó hơn với hợp đồng thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước đó. Có thể thấy, hiện tại Bộ luật Dân sự 2015 xác định pháp luật áp dụng cho hợp đồng trong trường hợp các bên không chọn luật, dựa vào nguyên tắc nơi có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng. Tại khoản 2, Điều 683 đã đưa ra dấu hiệu xác định mối quan hệ gắn bó nhất bằng cách liệt kê các nguyên tắc phù hợp với từng loại hợp đồng cụ thể như: hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ. Đây là các nguyên tắc tương đồng với cách quy định trong pháp luật các nước trên thế giới. Cách quy định liệt kê như trên có ưu điểm là rõ ràng, dễ áp dụng cho các hợp đồng chuyên biệt, nhưng có nhược điểm là không đầy đủ và khó áp dụng cho các hợp đồng phức tạp có bản chất hỗn hợp. Ngoài ra, việc liệt kê như vậy chắc chắn sẽ không bao trùm được hết các quan hệ hợp đồng trên thực tế, như hợp đồng phân phối chẳng hạn. Bên cạnh những điểm nổi bật mà Bộ luật dân sự năm 2015 quy định liên quan đến cách xác định pháp luật đối với hợp đồng có yếu tố nước ngoài vẫn còn những quy định chưa được triển khai cụ thể, dẫn đến áp dụng không thống nhất như sau: - Thiếu quy định về điều kiện áp dụng pháp luật nước ngoài cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong trường hợp các bên có thỏa thuận chọn luật15. 13 Điểm d khoản 2 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015. 14 Điểm đ khoản 2 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015. 15 Phùng Hồng Thanh (2019), “Cách xác định luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo quy định của Liên minh Châu Âu – So sánh với pháp luật Việt Nam”, Công thương Industry and Trade magazine, truy cập tại đường link ngày truy cập 12/08/2021. 15 - Chưa xây dựng các quy định chi tiết hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về cách xác định pháp luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong trường hợp các bên không có thoả thuận chọn luật áp dụng16. 2.2. Lựa chọn áp dụng pháp luật đối với quan hệ sỡ hữu tài sản có yếu tố nước ngoài Quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài phát sinh sẽ làm phát sinh xung đột pháp luật. Đó là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài.Một trong những nguyên nhân đó là do có sự quy định khác nhau về chế định sở hữu trong pháp luật của các nước. Sở dĩ có sự quy định khác nhau trong pháp luật của các nước về chế định sở hữu là vì pháp luật của các nước được xây dựng trên nền tảng của chế độ chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau, mặt khác do ảnh hưởng của tôn giáo, văn hoá, phong tục, tập quán ... đến pháp luật của từng nước. * Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sỡ hữu tài sản theo pháp luật của các nước Theo pháp luật và thực tiễn ở các nước, tài sản hữu hình được chia thành hai loại là động sản và bất động sản. Để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu đối với bất động sản, pháp luật hầu hết các nước đều quy định áp dụng nguyên tắc luật nơi có tài sản. Còn tài sản theo pháp luật của Pháp thì đối với các quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài, tại Điều 3 của Bộ luật dân sự Pháp thì nguyên tắc luật nơi có tài sản được áp dụng để điều chỉnh quan hệ sở hữu đối với động sản và bất động sản. Trong thực tiễn giao lưu dân sự quốc tế, một nguyên tắc chung được áp dụng phổ biến là: Nếu quyền sở hữu đối với tài sản của một người là động sản được phát sinh trên cơ sở pháp luật nước này nhưng khi tài sản đó được đem sang nước khác thì quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản vẫn được pháp luật nước kia bảo hộ. Tuy nhiên, về phạm vi và nội dung của quyền sở hữu đối với tài sản này thì theo pháp luật của đa số các nước phải do pháp luật của nước nơi đang có tài sản điều chỉnh. 16 Phùng Hồng Thanh (2019), “Cách xác định luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo quy định của Liên minh Châu Âu – So sánh với pháp luật Việt Nam”, Công thương Industry and Trade magazine, truy cập tại đường link ngày truy cập 12/08/2021 16 *Pháp luật của nước có tài sản vẫn được áp dụng để xác định quyền sỡ hữu đối với tài sản đang trên đường vận chuyển Theo pháp luật của các nước hiện nay, quyền sở hữu cũng như các quyền tài sản đối với tài sản đang trên đường vận chuyển sẽ được điều chỉnh bởi một trong các hệ thống pháp luật sau đây: pháp luật của nước nơi gửi tài sản đi, pháp luật của nước nơi nhận tài sản, pháp luật của nước hiện đang có tài sản, pháp luật của nước mà phương tiện vận tải mang quốc tịch, luật nơi cư trú của chủ sở hữu, pháp luật của nước do các bên lựa chọn .... Như vậy, pháp luật của nước hiện đang có tài sản là một trong những nguyên tắc được áp dụng trong việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản đang trên đường vận chuyển. Tuy nhiên, nguyên tắc tự do ý chí trong việc lựa chọn pháp luật áp dụng ngày càng được coi trọng nên nguyên tắc được nhiều nước áp dụng nhất không phải là luật nơi có tài sản mà là nguyên tắc luật của nước nơi gửi tài sản đi (xuất khẩu hàng) hoặc pháp luật của nước nơi nhận hàng (nhập khẩu hàng). Mặt khác, nếu áp dụng luật nước nơi có tài sản mà đó lại là tài sản đang vận chuyển, rõ ràng sẽ gây rắc rối và khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc khi không dễ dàng có thể xác Hiện nay, quan điểm được thống nhất chung ở các nước là việc chuyển giao động sản hữu hình (mua bán tài sản) được điều chỉnh bằng pháp luật quốc gia nơi có tài sản vào thời điểm chuyển giao. Người chủ sở hữu sẽ mất quyền sở hữu của mình đối với tài sản nếu như nó được chuyển ra nước ngoài và đã được chuyển giao ở đó một cách hợp pháp cho người khác theo pháp luật nước đó. * Hệ thuộc luật nơi có tài sản được áp dụng để định danh tài sản là động sản hay bất động sản Khi giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ tài sản, trước hết phải xác định đối tượng của vụ việc là động sản hay bất động sản, bởi vì trong thực tế việc xác định tài sản là động sản hay bất động sản là tiền đề cho việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài. Căn cứ vào việc giải quyết đó sẽ xác định tiếp pháp luật nước nào điều chỉnh mối quan hệ tài sản ấy. Ví dụ, theo quy phạm xung đột của Anh, việc thừa kế không có di chúc được điều chỉnh theo pháp luật của nước nơi có tài sản (nếu di sản là 17 bất động sản) và pháp luật của nước nơi người để lại di sản thừa kế cư trú cuối cùng (nếu di sản là động sản). Vần đề phức tạp xảy ra là do nội dung khái niệm “bất động sản” ở các nước không giống nhau, có những loại tài sản ở nước này là bất động sản nhưng ở nước khác không được coi là bất động sản. Chính vì vậy, để giải quyết vấn đề tài sản nào là bất động sản, tài sản nào là động sản, đa số pháp luật các nước quy định áp dụng nguyên tắc luật nơi có tài sản. Tóm lại, nguyên tắc luật nơi có tài sản được đa số các nước áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài. Mặc dù đây là hệ thuộc luật được sử dụng nhiêu nhât ở hầu hết các nước, nhưng đó không phải là hệ thuộc luật duy nhất. Theo pháp luật và thực tiễn các nước, hệ thuộc luật nơi có tài sản không được áp dụng trong các trường hợp sau đây: giải quyết vấn đề sở hữu tàu bay, tàu biển; tài sản thuộc quyền sở hữu nhà nước Điều 678 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyến được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, trừ trường hợp có thoả thuận khác ”. Theo quy định của Bộ luật dân sự thì pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc pháp luật của nước nơi tài sản được chuyển đến hoặc hệ thuộc luật do các bên thoả thuận lựa chọn để xác định quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản trên đường vận chuyển. Quy định này phù hợp với thực tiễn của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Theo quy định của pháp luật Việt Nam tại Điều 107 của Bộ luật dân sự 2015, bất động sản là những tài sản bao gồm: - Đất đai; - Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; - Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng. - Tài sản khác theo quy định của pháp luật. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản 18 2.3. Lựa chọn luật áp dụng trong quan hệ thừa kế Thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để lại được gọi là di sản. Thừa kế được chia thành thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc thừa kế theo di chúc là việc chuyển dịch tài sản thừa kế của người đã chết cho người còn sống theo sự định đoạt của người đó khi còn sống. Thừa kế theo pháp luật là việ dịch chuyển tài sản thừa kế của người đã chết cho người sống theo quy định của pháp luật nếu người chết không để lại di chúc hoặ di chúc không hợp pháp. Thừa kế là một chế định quan trọng của pháp luật dân sự17. Thừa kế có yếu tố nước ngoài là quan hệ thừa kế mà người để lại thừa kế là cá nhân nước ngoài hoặc người nhận thừa kế là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; hoặc di sản thừa kế tồn tại ở nước ngoài; hoặc sự kiện chết xảy ra ở nước ngoài. Chỉ cần một trong các điều kiện trên được đáp ứng thì quan hệ thừa kể đó được coi là quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Thừa kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết18”. Các vấn đề về nội dung của di chúc, thời điểm mở thừa kế, di sản thừa kế đều được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết. Ví dụ: Một người nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, người đó có nhiều loại tài sản ở Việt Nam, gồm cả động sản và bất động sản, người này có vợ và một con là người nước ngoài hiện đang sống tại nước ngoài. Người này trước khi chết đã lập di chúc và để lại di sản cho vợ và con của mình. Theo đó, tất cả các vấn đề về thời điểm mở thừa kế, người hưởng di sản, đều được áp dụng theo pháp luật của nước người để lại di sản thừa kế là công dân. Tức là trường hợp này cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam sẽ áp dụng luật 17 Đặng Thị Huyến (2021), “Lựa chọn luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài”, truy cập tại đường link ngày truy cập 12/08/2021. 18 Khoản 1 điều 680 Bộ luật dân sự năm 2015. 19 nội dung của nước ngoài nhưng các quy định liên quan đến thủ tục ( luật hình thức) sẽ tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam. Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có bất động sản”. 19Bất động sản là một loại tài sản đặc biệt, do đặc tính gắn liền với đất đai, mà đất đai là một phần lãnh thổ của quốc gia, không thể sinh sôi, vì vậy việc thực hiện quyền thừa kế với loại tài sản này sẽ có những điểm khác biệt. Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được hiểu là người hưởng di sản thừa kế hay người còn sống có được sở hữu bất động sản hay không hoàn toàn do pháp luật của nước nơi có bất động sản quy định. Ví dụ: Việt Nam thừa nhận quyền hưởng di sản theo di chúc của người được hưởng di sản nhưng nếu họ không thuộc diện mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì họ không thể đứng tên là chủ sở hữu của ngôi nhà đó, họ chỉ được hưởng giá trị của ngôi nhà đó mà thôi. Khoản 1 Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Năng lực lập di chúc, thay đổi hoặc hủy bỏ được xác định theo pháp luật của nước mà người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc”. Có thể thấy, việc chuyển dịch di sản cho người thừa kế theo di chúc là thừa kế dựa trên cơ sở ý chí định đoạt của người lập di chúc khi còn sống. Di chúc là sự thể hiện ý chí cá nhân nhằm chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Quan hệ thừa kế theo di chúc được đặt ra trong trường hợp người chết để lại di chúc và di chúc đó là hợp pháp. Di chúc có thể định đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản. Khoản 2 điều 681 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Hình thức của di chúc được xác định theo pháp luật của nước nơi di chúc được lập. Hình thức của di chúc cũng được công nhận tại Việt Nam nếu phù hợp với pháp luật của một trong các nước sau đây: a) Nước nơi người lập di chúc cư trú tại thời điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm người lập 19 Khoản 2 điều 680 Bộ luật dân sự năm 2015. 20 di chúc chết; b) Nước nơi người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm người lập di chúc chết; c) Nước nơi có bất động sản nếu di sản thừa kế là bất động sản”. Khoản 2 điều 681 Bộ luật dân sự năm 2015 sử dụng hệ thuộc luật nước nơi lập di chúc để xác định tính hợp pháp hình thức của di chúc (locus regin actum). Khác với nguyên tắc áp dụng luật đối với việc xác định năng lực lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc, hình thức của di chúc trong trường hợp có yếu tố nước ngoài không căn cứ vào quốc tịch của người lập di chúc mà căn cứ vào lãnh thổ nơi người để lại di sản lập di chúc. Như vậy, nếu công dân Việt Nam lập di chúc ở Pháp thì phải tuân thủ những quy định của pháp luật Pháp về hình thức di chúc. Và nếu công dân nước ngoài lập di chúc ở Việt Nam thì phải tuân thủ những quy định của Việt Nam về hình thức di chúc. Điều này hoàn toàn hợp lý. Bởi lẽ, nhiều quốc gia quy định di chúc có hiệu lực khi được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, do đó, cần phải tuân theo các quy định của quốc gia nơi lập di chúc về hình thức của di chúc. Việc thừa kế của công dân Việt Nam đối với tài sản ở nước ngoài, pháp luật của nước ta không có các quy định cấm và trên thực tế Nhà nước cho phép và bảo hộ công dân Việt Nam hiện đang cư trú trong nước được nhận các di sản thừa kế mà người thân của họ để lại ở nước ngoài. Đối với việc thừa kế theo di chúc của công dân Việt Nam ở nước ngoài. Điều 638 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định những di chúc bằng văn bản dưới đây cũng có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực: “Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó; Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước đó”. Đối với những trường hợp nếu công dân Việt Nam lập di chúc ở nước ngoài theo pháp luật của nước ngoài thì các di chúc này được coi là hợp pháp nếu pháp luật nước ngoài được áp dụng để lập di chúc không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2015). 21 Nếu căn cứ vào pháp luật nước nơi di chúc được lập thì di chúc đó không phù hợp về hình thức, trường hợp này các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét đến các hệ thống pháp luật có liên quan khác, ví dụ pháp luật của nước nơi cư trú hoặc pháp luật của nước người lập di chúc có quốc tịch vào thười điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm người đó chết hoặc pháp luật của nước nơi có bất động sản nếu di sản thừa kế là bất động sản. Chỉ cần thỏa mãn một trong các hệ thống pháp luật nêu trên thì hình thức của di chúc được coi là hợp pháp. 2.4. Lựa chọn luật áp dụng về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài Trong việc điều chỉnh vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, đa số pháp luật của các nước đều áp dụng pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti commisi). Tuy nhiên, trong thực tế của đời sống quốc tế thường xảy ra trường hợp là hành vi gây thiệt hại được thực hiện ở nước này nhưng hậu quả của hành vi gây thiệt hại đó lại phát sinh ở một nước khác. Vậy, pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật ở đây sẽ là pháp luật của nước nào. Hiện nay các nước trên thế giới chưa có quan điểm thống nhất đâu được coi là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại. Cụ thể, pháp luật một số nước quy định nơi vi phạm pháp luật là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại (Italia, Hy lạp). Theo quan điểm này, thì khi giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, các cơ quan Tư pháp của các nước này sẽ áp dụng hệ thuộc luật nơi có hành vi gây thiệt hại xảy ra. Trong khi đó, pháp luật một số nước khác lại quy định nơi vi phạm pháp luật là nơi phát sinh hậu quả thực tế do hành vi gây thiệt hại gây ra (Anh, Hoa Kỳ). Như vậy, ở những nước theo quan điểm này, người ta sẽ áp dụng pháp luật của nước nơi có hiện diện của hậu quả thiệt hại để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Kết hợp cả hai quan điểm nêu trên, pháp luật của một số nước (Đông Âu) quy định áp dụng cả hai loại pháp luật. Đó là pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc pháp 22 luật của nước nơi phát sinh hậu quả thực tế tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể pháp luật nước nào có lợi hơn khi áp dụng20. Thông qua các quy định của pháp luật quốc gia cũng như các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, chúng ta đều thấy rằng, nguyên tắc được áp dụng chủ yếu để giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là “Các bên được thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng”. Điều 687 BLDS năm 2015 quy định: “1. Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trừ trường quy định tại khoản 2 Điều này. Trường hợp không có thỏa thuận thì pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây thiệt hại được áp dụng; 2. Trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có nơi cư trú, đối với cá nhân hoặc nơi thành lập, đối với pháp nhân tại cùng một nước thì pháp luật của nước đó được áp dụng”. - Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là quan hệ bồi thường thiệt hại diễn ra giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại, trong các bên có một bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, hoặc tài sản là đối tượng của quan hệ này tồn tại ở nước ngoài, hoặc sự kiện gây thiệt hại xảy ra ở nước ngoài. Tại khoản 1 Điều 687 Bộ luật dân sự năm 2015 đã cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho quan hệ bồi thường thiệt hại của họ. Với thay đổi này trong Bộ luật dân sự năm 2015, các nhà làm luật một lần nữa muốn khẳng định quan điểm “việc của người dân thì để cho người dân tự giải quyết”, trao sự chủ động cho các đương sự, tôn trọng sự tự định đoạt của các đương sự ngay cả trong việc lựa chọn pháp luật áp dụng. Ngoài việc là quan hệ giữa các chủ thể bình đẳng ngang quyền nên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng trở nên có lý và thuyết phục là vì nếu các bên đã chọn luật thì họ cũng dễ chấp nhận những quy định của hệ thống pháp luật do họ lựa chọn hơn và việc thực thi pháp luật vì thế sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn21. Tuy nhiên, trong trường hợp pháp luật quy định cho phép các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng nhưng các bên đã không thỏa thuận hoặc không thể thỏa thuận 20 Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), “Giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế’, truy cập tại trang ngày truy cập 12/08/2021. 21 Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), “Giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế’, truy cập tại trang ngày truy cập 12/08/2021. 23 được, trong trường hợp đó, quy phạm ở Điều 687 đã dự liệu sẵn một hệ thuộc luật để điều chỉnh quan hệ này đó là hệ thuộc luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây thiệt hại. - Trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại là các cá nhân có cùng nơi cư trú, hoặc bên gây thiệt hại là các pháp nhân có cùng nơi thành lập tại một nước thì pháp luật của nước đó được áp dụng. Quy định này dựa vào căn cứ nhân thân của các bên để xác định luật áp dụng chứ không dựa vào nơi phát sinh hậu quả của hành vi gây thiệt hại như quy định tại khoản 1. Thay đổi này xuất phát từ việc áp dụng các hệ thống pháp luật đó (hệ thống pháp luật nơi cư trú của cá nhân và hệ thống pháp luật nơi thành lập pháp nhân) các bên sẽ nắm bắt dễ dàng và do dó sẽ dễ chấp nhận kết quả giải quyết của Tòa án hơn22. - Giải quyết xung đột về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên Các quy định của các Điều ước quốc tế chủ yếu được kể đến là các quy định quy phạm xung đột pháp luật được quy định trong các Hiệp định tương trợ Tư pháp về dân sự mà Việt Nam tham gia ký kết với các quốc gia khác. Khi nghiên cứu các Hiệp định tương trợ này, ta thấy ở các Hiệp định có những cách giải quyết về cơ bản tương đối giống nhau trong việc xác định pháp luật giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Cụ thể, trong mỗi Hiệp định tương trợ Tư pháp thường chia thành hai trường hợp: + Trong trường hợp các bên chủ thể (người bị hại và người gây ra thiệt hại) cùng quốc tịch. Các Hiệp định tương trợ Tư pháp ghi nhận việc áp dụng Luật Quốc tịch của mỗi bên đương sự để giải quyết. Ví dụ: tại khoản 1 Điều 37 Hiệp định tương trợ Tư pháp giữa Việt Nam và Liên Bang Nga quy định “Nếu nguyên đơn và bị đơn đều là công dân của một bên ký kết hoặc đều được thành lập hoặc có trụ sở ở một bên ký kết thì áp dụng Luật của bên ký kết đó”. Tại khoản 2 Điều 41 Hiệp định tương trợ Tư pháp giữa Việt 22 Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), “Giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế’, truy cập tại trang ngày truy cập 12/08/2021. 24 Nam và Mông Cổ quy định “Nếu người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là công dân của một bên ký kết thì áp dụng Luật của bên ký kết đó”. + Trong trường hợp các bên chủ thể (người bị hại và người gây ra thiệt hại khác quốc tịch) thì các Hiệp định tương trợ Tư pháp ghi nhận việc áp dụng hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật để giải quyết tranh chấp. Ví dụ: cũng tại khoản 1 Điều 37 Hiệp định tương trợ Tư pháp giữa Việt Nam và Liên Bang Nga quy định “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (do hành vi vi phạm pháp luật) được xác định theo pháp luật của Bên ký kết nơi xảy ra hoàn cảnh làm căn cứ để yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại”. Tại khoản 1 Điều 23 Hiệp định tương trợ Tư pháp giữa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào cũng quy định “Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nước ký kết nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại thuộc thẩm quyền của cơ quan Tư pháp của nước ký kết nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại đó”. Ngoài ra, hiện nay Việt Nam đã ký kết Hiệp định tương trợ Tư pháp với khoảng 15 nước. Các hiệp định cơ bản đều quy định các điều khoản quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Cụ thể: Với Tiệp Khắc tại Điều 33, với Hungari tại Điều 30, với Bungari tại Điều 31, với Ba Lan tại Điều 38, với Ucraina tại Điều 33, với Belarut tại Điều 39. Còn lại ba Hiệp định tương trợ Tư pháp là Hiệp Định với Cu Ba, Hiệp định với Trung Quốc, Hiệp định với Cộng hòa pháp không có điều khoản quy định về vấn đề này. Qua các quy định trên cho thấy, trong việc điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước thường áp dụng hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti Commissi) hoặc Luật nhân thân (Lex Personalis) trong đó hoặc áp dụng luật quốc tịch (Lex Nationalis ) hoặc áp dụng luật nơi cư trú (Lex Domicilli). Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài việc được quy định trong điều ước quốc tế song phương còn được ghi nhận trong điều ước quốc tế đa phương. Một số điều ước quốc tế đáng chú ý đã được xây dựng như: 25 + Công ước Lahaye ngày 2/10/1973 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm gây ra. Công ước quy định rõ cơ chế bồi thường thiệt hại nếu sản phẩm, hàng hóa gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì trách nhiệm thuộc về nhà sản xuất. Tuy nhiên, công ước cũng đưa ra nhiều nguyên tắc chọn luật phức tạp, những nguyên tắc này chỉ được áp dụng với những điều kiện nhất định. Ví dụ Công ước quy định: Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm gây ra, có thể áp dụng một trong các hệ thống pháp luật sau: Luật nơi thường trú của nạn nhân nếu đây cũng là nơi có cơ sở chính của nhà sản xuất hoặc là nơi mua sản phẩm (điều 5). Luật nơi xảy ra thiệt hại nếu đây cũng đồng thời là nơi có trụ sở chính của nhà sản xuất hoặc là nơi mua sản phẩm (điều 4). Nguyên đơn có quyền lựa chọn luật áp dụng là luật xảy ra thiệt hại hoặc nơi có cơ sở chính của nhà sản xuất (điều 6). + Công ước về tai nạn giao thông đường bộ ngày 4/5/1971. Nội dung công ước đề cập đến việc chọn luật áp dụng giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các phương tiện giao thông gây ra, theo đó luật áp dụng là luật nơi xảy ra tai nạn, hoặc luật nơi đăng ký phương tiện giao thông. Để giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đều có thể căn cứ vào luật nơi xảy ra hành vi hoặc sự kiện gây thiệt hại. Tuy nhiên, có một điểm cần chú ý, trong trường hợp quy phạm xung đột chỉ dẫn áp dụng luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại là luật áp dụng để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì chỉ áp dụng hệ thống pháp luật thực chất (luật nội dung) của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại, không áp dụng các quy phạm xung đột của tư pháp quốc tế, nói cách khác trong lĩnh vực này cũng không chấp nhận hiện tượng
File đính kèm:
- tieu_luan_quyen_thoa_thuan_chon_luat_ap_dung_trong_tu_phap_q.pdf