Tiểu luận Quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong Tư pháp quốc tế tại Việt Nam

pdf 31 trang yenvu 01/03/2024 2200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong Tư pháp quốc tế tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong Tư pháp quốc tế tại Việt Nam

Tiểu luận Quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong Tư pháp quốc tế tại Việt Nam
1 
TIỂU LUẬN 
QUYỀN THỎA THUẬN CHỌN LUẬT ÁP DỤNG 
 TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM 
MÔN: TƯ PHÁP QUỐC TẾ 2 
1 
 I. MỞ ĐẦU 
Môn học tư pháp quốc tế là môn học cung cấp những kiến thức lý luận và quy 
định của pháp luật về Tư pháp quốc tế cũng như việc áp dụng quy định này trong 
thực tiễn. Bài học gồm 4 nhóm: tổng quan về tư pháp quốc tế; những kiến thức lý 
luận và quy định của pháp luật về xung đột pháp luật và áp dụng pháp luật nước 
ngoài cũng như kiến thức thực tiễn về vấn đề này, những kiến thức quy định của 
pháp luật về thẩm quyền của Tòa án quốc gia đối với những vụ việc có yếu tố nước 
ngoài, những kiến thức lý luận và quy định của pháp luật về công nhận và thi hành 
bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước 
ngoài. Ý nghĩa của chế định trong việc bảo vệ quyền con người khi tham gia vào 
quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh hiện nay vấn đề chủ động vận dụng những kiến 
thức đã học trong phân tích và giải quyết các vấn đề Tư pháp quốc tế ở Việt Nam là 
rất cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. 
Sự hợp tác về mọi mặt giữa các quốc gia là hiện thực tất yếu khách quan trong 
mọi thời đại. Việc củng cố và tăng cường hợp tác giữa các quốc gia thể hiện trong 
quan hệ dưới nhiều hình thức và phương diện: giữa các quốc gia và đồng thời giữa 
công dân và pháp nhân của họ. Quan hệ quốc tế là tổng thể các quan hệ giữa các 
công dân và pháp nhận của các nước và giữa các nước với nhau. Quyền lựa chọn áp 
dụng pháp luật giữa các bên là một quyền cơ bản trong tư pháp quốc tế của các 
quốc gia trên thế giới. Quyền lựa chọn pháp luật của các bên trong quan hệ hợp 
đồng đã được cộng đồng các quốc gia Châu Âu quy định trong công ước Rome về 
luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng, ngày nay vấn đề này được quy định trong quy 
tắc Rome I1. Bộ luật dân sự năm 2015 đã mở rộng quyền tự do áp dụng pháp luật 
của các bên trong các lĩnh vực khác ngoài hợp đồng và quyền sở hữu đối với động 
sản trên đường vận chuyển. Việc giải quyết xung đột pháp luật hay còn gọi là chọn 
1 Vũ Thị Hương, Lê Hồng Sơn (2015), “Hình thức và thời điểm thỏa thuận lựa chọn pháp luật của các bên 
trong tư pháp quốc tế Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số 19). 
2 
luật để từ đó cơ quan có thẩm quyền xác định được hệ thống pháp luật cần phải 
được áp dụng để giải quyết quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Do vậy, sẽ có 
những cách thức để giải quyết các xung đột pháp luật nói trên như: phương pháp 
xung đột, phương pháp thực chất. Tuy nhiên, việc làm rõ những ưu điểm, hạn chế 
của chúng hay thực tế áp dụng các phương pháp này trong Tư pháp quốc tế như thế 
nào? Và việc áp dụng cụ thể các phương pháp trên tại Việt Nam ra sao sẽ cho 
chúng ta một cái nhìn hoàn chỉnh hơn trong Tư pháp quốc tế về phương pháp giải 
quyết xung đột pháp luật cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy sinh viên chọn đề 
tài: “Quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong Tư pháp quốc tế tại Việt Nam” 
làm tiểu luận kết thúc môn học của mình 
II. NỘI DUNG 
1. Những khái niệm liên quan đến quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng 
trong tư pháp quốc tế 
 Theo PGS. TS Đỗ Văn Đại: Trước hiện tượng xung đột pháp luật, tư pháp 
quốc tế có quy định nhằm xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ có yếu tố 
nước ngoài, và nhìn một cách tổng thể, các quy định này có thể được chia thành hai 
nhóm. Trong nhóm thứ nhất, pháp luật đưa ra tiêu chí xác định hệ thống pháp luật 
điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước ngoài và không quan tâm tới ý chí của các chủ 
thể liên quan. Ví dụ, theo khoản 1 Điều 766 Bộ luật Dân sự năm 2005 của Việt 
Nam, "việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung 
quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản 
đó”. Hiện nay tại khoản điều 678 Bộ luật dân sự năm 2015, “Việc xác lập, thực 
hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sỡ hữu tài sản đối với tài sản được xác định theo 
pháp luật của nước nơi có tài sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều 678 Bộ 
luật dân sự năm 2015” Quy định này xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh các 
vấn đề về quyền sở hữu tài sản là "pháp luật của nước nơi có tài sản” và việc xác 
định này không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể liên quan. Trong nhóm thứ hai, 
3 
pháp luật đưa ra quy định theo hướng xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh quan 
hệ có yếu tố nước ngoài căn cứ vào ý chí của chủ thể liên quan. Ở đây, hệ thống 
pháp luật nào sẽ điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước ngoài phụ thuộc vào việc lựa 
chọn của chủ thể liên quan2. 
Để tìm hiểu quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong tư pháp quốc tế ta tìm 
hiểu những nội dung sau: 
1.1. Khái niệm xung đột pháp luật 
Mỗi quốc gia trên thế giới có một hệ thống pháp luật riêng của mình và các hệ 
thống pháp luật đó khác nhau, thâm chí trái ngược nhau: 
Xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời đều 
có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ pháp luật này hay quan hệ pháp luật khác. 
Vấn đề cần phải giải quyết là chọn một trong các hệ thống pháp luật đó để có thể 
giải quyết quan hệ pháp luật trên. Các ngành luật như: Luật dân sự, Luật thương 
mại, Luật hôn nhân và gia đình, Luật lao độngđiều chỉnh các quan hệ của mình 
một cách trực tiếp và đơn giản. 
Theo giáo trình Tư pháp quốc tế của Đại học Luật Hà Nội: “Xung đột pháp 
luật được hiểu là trong một tình thế (trạng thái) nhất định mà hai hay nhiều hệ 
thống pháp luật đều có thể điều chỉnh một quan hệ pháp luật nhất định”3. 
Theo giáo trình của Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh: “Xung đột pháp 
luật là hiện tượng khi có hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng có thể 
được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”4. 
2 Đỗ Văn Đại truy cập tại trang 
3 Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân dân. 
4 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Hồng Đức – Hội 
luật gia Việt Nam. 
4 
Phạm vi: Trong nội tại của hệ thống pháp luật quốc gia. Xung đột giữa các 
quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh một vấn đề ở các văn bản quy phạm pháp luật 
khác nhau gây nên mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy phạm pháp luật. 
 Một số mối quan hệ của tư pháp quốc tế dựa trên nguyên tắc lãnh thổ để giải 
quyết nên không có hiện tượng xung đột pháp luật: Quan hệ tố tụng dân sự có yếu 
tố nước ngoài, xác lập và bảo hộ quyền sỡ hữu trí tuệ. Trong nội tại của hệ thống 
pháp luật quốc gia: quốc gia liên bang dựa trên hệ thống “Chủ nghĩa liên bang nhị 
nguyên – Dualistic Federalism” như Hoa Kỳ: xung đột pháp luật giữa các tiểu bang 
với nhau và các quốc gia đơn nhất nhưng lại có quy chế riêng cho một số vùng lãnh 
thổ đặc biệt. Ví dụ giữa Anh và Bristish Virgin Islands hoặc giữa Pháp với vùng 
Alsace-Lorraine. 
Xung đột pháp luật là thuật ngữ mang tính ước lệ, Hiện tượng xung đột pháp 
luật xảy ra ở từng vấn đề pháp lý của quan hệ cụ thể, Xung đột pháp luật chỉ được 
đặt ra giữa các hệ thống pháp luật của các quốc gia có chủ quyền. 
 Nguyên nhân phát sinh xung đột pháp luật:, tính chất đặc thù của các quan hệ 
xã hội do tư pháp quốc tế điều chỉnh là các quan hệ mang bản chất dân sự có yếu tố 
nước ngoài. Đặt ra khả năng có thể dùng luật nhà nước, có sự khác nhau trong hệ 
thống pháp luật các nước khi giải quyết các vấn đề cụ thể 
Các quan hệ pháp luật không được trực tiếp giải quyết bằng các quy phạm 
xung đột. Nó chỉ có nhiệm vụ dẫn chiếu tới luật thực chất của quốc gia mà ở đó các 
quy định thực tế giải quyết quyền và phân định nghĩa vụ của các bên trong quan hệ 
đó cũng là nền tảng để giải quyết tranh chấp khi phát sinh. 
 Theo nghĩa rộng, các xung đột pháp luật chỉ xảy ra trong các quan hệ dân sự 
có yếu tố nước ngoài. Còn trong các quan hệ pháp luật khác như hành chính, hình 
sự (các nước phát triển gọi là luật công) thì không xảy ra xung đột pháp luật vì: 
Luật hình sự, hành chínhmang tính hiệu lực lãnh thổ rất nghiêm ngặt hay gọi là 
5 
quyền tài phán công bố có tính lãnh thổ chặt chẽ. Trong luật hình sự, Luật hành 
chính không bao giờ cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài. 
 Hiện nay, Tư pháp quốc tế Việt Nam cũng như Tư pháp quốc tế có hai 
phương pháp giải quyết xung đột đó là: phương pháp xung đột và phương pháp 
thực chất. Hai phương pháp này có mối quan hệ hài hòa, tác động hỗ trợ lẫn nhau 
tạo nên một cơ chế điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế và bảo đảm một trật tự 
pháp lý dân sự quốc tế. 
1.2. Phương pháp xung đột 
Phương pháp xung đột - phương pháp điều chỉnh gián tiếp, là phương pháp sử 
dụng các quy phạm xung đột nhằm lựa chọn hệ thống pháp luật để điều chỉnh quan 
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Phương pháp này được hình thành và xây dựng 
trên nền tảng các quy phạm xung đột của quốc gia (kể cả các quy phạm xung đột 
trong điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên). Điều này có ý nghĩa là cơ 
quan có thẩm quyền giải quyết lựa chọn pháp luật của nước này hay nước kia có 
hướng tới các yếu tố nước ngoài để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên đương 
sự. Công việc tiến hành lựa chọn hệ thống nước nào được áp dụng để giải quyết 
phải dựa trên quy định của quy phạm xung đột. 
 Quy phạm xung đột là một quy phạm pháp luật đặc biệt, mang tính chất đặc 
thù của Tư pháp quốc tế. Không trực tiếp điều chỉnh nội dung các quan hệ dân sự 
có yếu tố nước ngoài. Nội dung của các quan hệ đó được giải quyết như thế nào 
phụ thuộc vào hệ thống pháp luật mà quy phạm xung đột đó dẫn chiếu. 
 Ví dụ: Nữ công dân Việt Nam (18 tuổi) kết hôn với Nam công dân Pháp (18 
tuổi) tại cơ quan có thẩm quyền Việt Nam. Về độ tuổi kết hôn theo quy định tại 
điểm a khoản 1 điều 8: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”, Pháp 
luật Pháp quy định: nam từ 18 tuổi trở lên. Như vậy cơ quan có thẩm quyền sẽ phải 
chọn pháp luật áp dụng. Tại điều 126 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy 
6 
định: “1. Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi 
bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn 
được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước 
ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn. 
2. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài thường trú ở Việt Nam tại cơ 
quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này về 
điều kiện kết hôn”. 
 Ví dụ: Công dân M (quốc tịch nước A) giao kết hợp đồng bằng miệng với 
công dân N (quốc tịch nước B). Tranh chấp phát sinh liên quan đến hình thức hợp 
đồng. 
 Pháp luật nước A: hợp đồng phải giao kết bằng văn bản 
 Pháp luật nước B: có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng 
 Cơ quan có thẩm quyền phải chọn luật áp dụng căn cứ vào hình thức của hợp 
đồng phải tuân theo pháp luật nước nơi giao kết hợp đồng. 
 Phương pháp xung đột được xem là phương pháp điều chỉnh của Tư pháp 
quốc tế vì phát sinh từ quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài xuất phát từ nguyên tăc 
bình đẳng, chủ quyền giữa các quốc gia, có nhiều hệ thống pháp luật cùng được áp 
dụng nên phải chọn luật áp dụng. 
 Phương pháp xung đột là phương pháp điều chỉnh gián tiếp vì dựa vào các 
quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột không trực tiếp điều chỉnh nội dung các 
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Quy phạm xung đột chỉ làm bước trung gian 
là chỉ ra hệ thống pháp luật được áp dụng. 
 - Ưu và nhược điểm của phương pháp xung đột 
 + Về ưu điểm 
7 
 Việc xây dựng các quy phạm xung đột thuận lợi, dễ dàng nên số lượng các 
quy phạm nhiều, đáp ứng nhu cầu điều chỉnh. 
 Mang tính khách quan cao, tạo tâm lý tự tin, an tâm hơn khi tham gia vào các 
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. 
 + Nhược điểm: 
 Không trực tiếp giải quyết nội dung các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài 
nên giải quyết không nhanh chóng. 
 Có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài nên gây khó khăn cho 
thẩm phán trong việc tìm hiểu, áp dụng pháp luật nước ngoài. 
1.3. Phương pháp thực chất 
Phương pháp thực chất được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực 
chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có ý nghĩa là nó trực 
tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia quan hệ. Các quy 
phạm thực chất này thể hiện dưới hai hình thức: 
+ Trong các điều ước quốc tế (quy phạm thực chất thống nhất): Đây là trường 
hợp mà quy phạm thực chất đã được nhất thể hóa trong các điều ước quốc tế. Trong 
quá trình hợp tác quốc tế về mọi mặt: kinh tế, thương mại, kỹ thuật, văn hóa, giao 
thông vận tải Hay có thể nói rằng đây là quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế - 
xã hội giữa các nước. 
+ Trong các văn bản pháp luật của một quốc gia (quy phạm thực chất trong 
nước). Ví dụ: Luật đầu tư, Luật về chuyển giao công nghệ5 
Ưu điểm của phương pháp thực chất: 
5 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Hồng Đức – Hội 
luật gia Việt Nam 
8 
- Phương pháp thực chất là giải quyết trực tiếp các quan hệ nó chỉ áp dụng 
trong các quan hệ đặc biệt (lĩnh vực đặc biệt cụ thể), còn phương pháp xung đột 
mang tính chất bao quát và toàn diện hơn; 
 - Phương pháp trực tiếp thực chất chỉ sử dụng đối với các bên tham gia quan 
hệ cụ thể trong các không gian giới hạn và đôi khi chỉ áp dụng với các chủ thể cụ 
thể; hơn thế các chủ thể đó thường biết trước các điều kiện pháp lý đó; 
- Phương pháp trực tiếp bằng cách các quốc gia ký kết các điều ước quốc tế 
mà trong đó các quy phạm thực chất thống nhất đã tăng khả năng điều chỉnh hữu 
hiệu của luật pháp, tính khả thi cao hơn. Nó loại bỏ sự khác biệt. thậm chí gây mâu 
thuẫn trong luật pháp giữa các nước với nhau. 
Nhược điểm: 
Bên cạnh những ưu điểm của phương pháp này, còn phải nói đến những hạn 
chế nhất định không thể tránh khỏi. Cụ thể: 
- Vì pháp luật của các nước có những quy định khác nhau, việc sử dụng quy 
phạm xung đột để giải quyết xem ra là giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, do tinhs chất 
đặc thù và riêng biệt của quy phạm xung đột mà vẫn có những trường hợp Tòa án 
không chọn được luật thực chất để áp dụng bởi chưa có quy phạm xung đột trong 
lĩnh vực đó. Lúc này Tòa án cần xem xét hệ thống luật pháp của nước mình để tìm 
ra các quy định cần thiết để giải quyết vụ việc. 
Khi xem xét nội dung của phương pháp xung đột ta thấy rất trừu tượng, đòi 
hỏi phải có chuyên môn sâu trong lĩnh vực pháp luật mới có thể hiểu được đầy đủ. 
Trong khi đó, đội ngũ chuyên gia luật không phải ở nước nào cũng giỏi mà vấn đề 
áp dụng quy phạm xung đột lại phức tạp. Vì vậy, dễ xảy ra tính chất không nhất 
quán đối với một vụ việc nếu giải quyết ở Tòa án có thẩm quyền tại các nước khác 
nhau, dẫn đến việc các bên khi ký kết các hợp đồng cần phải thấy trước luật của 
9 
nước nào sẽ có khả năng áp dụng hoặc phải chọn sẵn luật nước nào để áp dụng cho 
quan hệ đó. 
Phương pháp xung đột được áp dụng trong hệ thống luật Anh – Mỹ còn phức 
tạp hơn nhiều. Ở đây, Tòa án có thẩm quyền rất rộng, còn các quy phạm xung đột 
lại được hình thành trên cơ sở án lệ (thực tiễn tòa án và trọng tài). Điều này dẫn đến 
rất nhiều khả năng xảy ra trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại trong 
quan hệ hợp đồng mà các bên khi tham gia các quan hệ đó không thể lường trước 
được. 
- Cần phải nói đến đặc trưng trung lập, khách quan của phương pháp xung đột. 
Rõ ràng là, không hoàn toàn trung lập hay khách quan khi quy phạm pháp luật 
xung đột dẫn chiếu đến luật nước nào thì áp dụng luật nước đó. Thực tế ai cũng biết 
là khi quyết định lựa chọn luật nào được áp dụng thì thẩm phán thông qua lăng kính 
ý chí chủ quan của mình đã hình dung trước, hay nhìn thấy trước hệ quả của việc 
áp dụng đó. Như vậy, phải chăng Tòa án làm ra vẻ khách quan khi dựa vào quy 
phạm pháp luật xung đột để lựa chọn luật áp dụng, nhưng thực tế thì họ đã nhìn 
thấy trước hệ quả của nó khi áp dụng một hệ thống pháp luật nào đó? 
- Trong quan hệ thương mại quốc tế hiện đại, người ta thường áp dụng loại hệ 
thuộc xung đột mới là tự do lựa chọn luật áp dụng. Chính sự tự do này đôi khi 
khiến cho các bên đương sự lạm dụng khi tránh không phải áp dụng một hệ thống 
pháp luật mà đáng lẽ nó phải được áp dụng. Do đó, phải xem xét yếu tố trung lập. 
Khách quan, có còn tồn tại không, hay vi phạm pháp luật xung đột, như chính quy 
phạm pháp luật, cũng chỉ là sản phẩm của con người trong quá trình hoạt động 
nhận thức hiện thực quanh mình, từ đó hình thành nên quy tắc ứng xử cho hành vi? 
- Mối liên hệ giữa hai phương pháp trên: 
Có thể thấy, phương pháp xung đột và việc áp dụng các quy phạm xung đột là 
phương pháp chủ yếu được sử dụng hiện nay bởi nó xuất phát từ thực tiễn áp dụng 
10 
trong tư pháp quốc tế, khả năng dễ xây dựng cũng như ít tốn kém vể chi phí vì chỉ 
thông qua thỏa thuận giữa hai bên mà thôi. Mặc dù, đi sâu vào nghiên cứu hai 
phương pháp trên, ta thấy phương pháp thực chất thể hiện được tính ưu việt hơn 
hẳn so với phương pháp xung đột bởi sự nhanh chóng, cụ thể trong việc áp dụng 
luật điều chỉnh một quan hệ pháp luật nào đó. Tuy nhiên, phương pháp thực chất 
khó có thể xây dựng và đi đến thống nhất giữa các bên bởi hầu hết các quốc gia 
không có sự tương đồng về lịch sử, dân tộc, trình độ phát triển và lợi ích Do đó, 
việc xây dựng được một quy phạm thực chất quả rất khó khăn. 
Về mặt nào đó, ta có thể nói việc thống nhất hóa các quy phạm xung đột nó 
cũng góp phần củng cố cho việc nhất thể hóa các quy phạm thực chất. Khi quy 
phạm xung đột dẫn chiếu tới một hệ thống pháp luật cụ thể mà các quy phạm thực 
chất được áp dụng để giải quyết quan hệ một cách dứt điểm, thì ở đây ta lại thấy 
tính chất “song hành” giữa quy phạm xung đột với quy phạm thực chất trong điều 
chỉnh pháp luât. 
Như vậy, sự thống nhất trong cơ cấu, hệ thống các quy phạm xung đột và quy 
phạm thực chất của tư pháp quốc tế là nền tảng cần thiết của hai phương pháp điều 
chỉnh để giải quyết một loại quan hệ pháp luật, đó là quan hệ dân sự quốc tế. Qua 
đó, ấn định một quy tắc xử sự chung, bảo đảm tốt nhất cho quyền và nghĩa vụ của 
các bên khi tham gia vào quan hệ đó. 
II. Lựa chọn pháp luật đối với những quan hệ cụ thể trong tư pháp quốc 
tế 
2.1. Hình thức và thời điểm thỏa thuận lựa chọn trong quan hệ hợp đồng 
* Trường hợp các bên có thỏa thuận chọn luật 
Tại Việt Nam, quyền thỏa thuận chọn luật của các bên trong hợp đồng có yếu 
tố nước ngoài được ghi nhận ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Cụ thể, khoản 1 
Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Các bên trong quan hệ hợp đồng được 
11 
thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng”. Bên cạnh đó, trong lĩnh 
vực thương mại, khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại 2005 cho phép các bên trong 
giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước 
ngoài, tập quán thương mại quốc tế để điều chỉnh hợp đồng của mình. Trong lĩnh 
vực hàng hải, Điều 5 Bộ luật Hàng hải 2015 cũng ghi nhận các bên có quyền thoả 
thuận áp dụng luật nước ngoài hoặc tập quán hàng hải quốc tế trong các quan hệ 
hợp đồng để giải quyết tranh chấp. Trong hoạt động đầu tư nước ngoài, quyền thỏa 
thuận lựa chọn pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế cũng được quy 
định tại khoản 4, Điều 4 Luật Đầu tư 2014. 
Căn cứ vào những quy định trên cho thấy pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận 
quyền tự do thỏa thuận lựa chọn luật là một nguyên tắc nền tảng, đươc ưu tiên áp 
dụng trong việc giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài 
Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam cũng đặt ra những giới hạn cho việc thỏa thuận 
chọn luật của các bên để điều chỉnh hợp đồng có yếu tố nước ngoài, cụ thể: 
- Việc chọn luật phải được quy định bởi điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội 
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam6. 
- Hậu quả của việc áp dụng pháp luật được chọn không trái với các nguyên tắc 
cơ bản của pháp luật Việt Nam7. 
- Pháp luật mà các bên lựa chọn là quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên 
tham gia quan hệ, không bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng 8(chỉ 
được áp dụng các quy phạm thực chất trong hệ thống pháp luật được các bên lựa 
chọn) 
6 Khoản 2 Điều 664 Bộ luật Dân sự 2015; Khoản 1 Điều 5 Bộ luật Hàng hải 2015; Khoản 4 Điều 4 Luật Đầu 
tư năm 2020. 
7 Điều 666, 670 Bộ luật Dân sự 2015 
8 Khoản 4 Điều 668 Bộ luật Dân sự 2015 
12 
Ngoài những nguyên tắc chung này, tùy vào từng loại hợp đồng đặc thù, pháp 
luật Việt Nam cũng xây dựng những quy định riêng nhằm hạn chế thỏa thuận chọn 
luật. Chẳng hạn, đối với hợp đồng có đối tượng là bất động sản được quy định tại 
khoản 4 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015 thì: “pháp luật áp dụng đối với việc 
chuyển giao quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động sản, thuê bất 
động sản hoặc việc sử dụng bất động sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là pháp 
luật của nước nơi có bất động sản, các bên không được quyền chọn luật áp dụng”. 
Hay như những hợp đồng mang tính chất gia nhập như hợp đồng lao động hay hợp 
đồng tiêu dùng thì các bên chỉ có thể thỏa thuận chọn luật áp dụng với điều kiện 
pháp luật do các bên lựa chọn không ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người 
lao động, người tiêu dùng theo quy định của pháp luật Việt Nam9. 
Có thể thấy so với những quy định trước đây, Bộ luật Dân sự 2015 đã có 
những bước tiến rõ rệt trong việc xây dựng các quy định liên quan đến việc xác 
định pháp luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong trường hợp các 
bên có thỏa thuận chọn luật. Nhiều quy định liên quan đến vấn đề này khá giống 
với những quy định trong pháp luật Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, bên cạnh một 
số điểm nổi bật mà Bộ luật Dân sự 2015 đã xây dựng được, liên quan đến các điều 
kiện áp dụng pháp luật nước ngoài đối với hợp đồng có yếu tố nước ngoài, vẫn còn 
tồn tại những quy định chưa được triển khai cụ thể, đưa đến cách hiểu không thống 
nhất, gây ra một số hạn chế trong quá trình áp dụng trên thực tiễn. Vì vậy, để quyền 
chọn luật của các bên thực sự phát huy hiệu lực trên thực tế và để pháp luật nước 
ngoài có khả năng cao được các thẩm phán Việt Nam áp dụng thì cần phải xây 
dựng các quy định chi tiết về điều kiện chọn luật đối với các bên trong quan hệ hợp 
đồng. Với sự hiện diện của các quy định chi tiết này, Tòa án sẽ có cơ sở để áp dụng 
pháp luật nước ngoài trong những trường hợp đáp ứng được các điều kiện đặt ra, 
cũng như có thể từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài một cách minh bạch và hợp 
9 Khoản 5 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015. 
13 
lý nếu pháp luật được lựa chọn không đáp ứng được điều kiện chọn luật. Điều này 
sẽ hạn chế được tình trạng đa số Thẩm phán đều tránh né việc xem xét các tình tiết 
thể hiện yếu tố nước ngoài trong vụ việc cũng như bỏ qua việc áp dụng pháp luật 
nước ngoài khi xét xử như hiện nay. 
* Trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật 
Đối với quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, về nguyên tắc nếu các bên 
không có thỏa thuận chọn luật hợp pháp thì việc xác định pháp luật áp dụng điều chỉnh 
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng sẽ căn cứ vào sự chỉ dẫn của quy phạm 
xung đột. 
Theo quy định của Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 thì trường hợp các bên không có 
thỏa thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp 
đồng đó được áp dụng. Và điều luật này cũng liệt kê pháp luật của nước sau đây được coi 
là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng: 
- Pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là 
pháp nhân đối với hợp đồng mua bán hàng hóa10; 
- Pháp luật của nước nơi người cung cấp dịch vụ cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi 
thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng dịch vụ11; 
- Pháp luật của nước nơi người nhận quyền cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập 
nếu là pháp nhân đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng 
quyền sở hữu trí tuệ12; 
- Pháp luật của nước nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc đối với 
hợp đồng lao động. Nếu người lao động thường xuyên thực hiện công việc tại nhiều nước 
khác nhau hoặc không xác định được nơi người lao động thường xuyên thực hiện công 
việc thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng lao động là pháp luật 
10 Điểm a khoản 2 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015. 
11 Điểm b khoản 2 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015. 
12 Điểm c khoản 2 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015. 
14 
của nước nơi người sử dụng lao động cư trú đối với cá nhân hoặc thành lập đối với pháp 
nhân13; 
- Pháp luật của nước nơi người tiêu dùng cư trú đối với hợp đồng tiêu dùng14. 
Tuy nhiên trong trường hợp chứng minh được pháp luật của nước khác với pháp luật 
được nêu ở trên có mối liên hệ gắn bó hơn với hợp đồng thì pháp luật áp dụng là pháp luật 
của nước đó. 
Có thể thấy, hiện tại Bộ luật Dân sự 2015 xác định pháp luật áp dụng cho hợp đồng 
trong trường hợp các bên không chọn luật, dựa vào nguyên tắc nơi có mối liên hệ gắn bó 
nhất với hợp đồng. Tại khoản 2, Điều 683 đã đưa ra dấu hiệu xác định mối quan hệ gắn 
bó nhất bằng cách liệt kê các nguyên tắc phù hợp với từng loại hợp đồng cụ thể như: hợp 
đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc 
chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ. Đây là các nguyên tắc tương đồng với cách quy định 
trong pháp luật các nước trên thế giới. Cách quy định liệt kê như trên có ưu điểm là rõ 
ràng, dễ áp dụng cho các hợp đồng chuyên biệt, nhưng có nhược điểm là không đầy đủ và 
khó áp dụng cho các hợp đồng phức tạp có bản chất hỗn hợp. Ngoài ra, việc liệt kê như 
vậy chắc chắn sẽ không bao trùm được hết các quan hệ hợp đồng trên thực tế, như hợp 
đồng phân phối chẳng hạn. 
Bên cạnh những điểm nổi bật mà Bộ luật dân sự năm 2015 quy định liên quan đến 
cách xác định pháp luật đối với hợp đồng có yếu tố nước ngoài vẫn còn những quy định 
chưa được triển khai cụ thể, dẫn đến áp dụng không thống nhất như sau: 
- Thiếu quy định về điều kiện áp dụng pháp luật nước ngoài cho hợp đồng có yếu tố 
nước ngoài trong trường hợp các bên có thỏa thuận chọn luật15. 
13 Điểm d khoản 2 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015. 
14 Điểm đ khoản 2 điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015. 
15 Phùng Hồng Thanh (2019), “Cách xác định luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo quy định 
của Liên minh Châu Âu – So sánh với pháp luật Việt Nam”, Công thương Industry and Trade magazine, truy cập tại 
đường link ngày truy cập 12/08/2021. 
15 
- Chưa xây dựng các quy định chi tiết hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật 
Dân sự 2015 về cách xác định pháp luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong 
trường hợp các bên không có thoả thuận chọn luật áp dụng16. 
2.2. Lựa chọn áp dụng pháp luật đối với quan hệ sỡ hữu tài sản có yếu tố nước 
ngoài 
Quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài phát sinh sẽ làm phát sinh xung đột pháp luật. 
Đó là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể 
được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài.Một trong những 
nguyên nhân đó là do có sự quy định khác nhau về chế định sở hữu trong pháp luật của 
các nước. Sở dĩ có sự quy định khác nhau trong pháp luật của các nước về chế định sở 
hữu là vì pháp luật của các nước được xây dựng trên nền tảng của chế độ chính trị, kinh tế, 
xã hội khác nhau, mặt khác do ảnh hưởng của tôn giáo, văn hoá, phong tục, tập quán ... 
đến pháp luật của từng nước. 
* Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sỡ hữu tài sản theo pháp luật của các nước 
Theo pháp luật và thực tiễn ở các nước, tài sản hữu hình được chia thành hai loại là 
động sản và bất động sản. Để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu đối với bất 
động sản, pháp luật hầu hết các nước đều quy định áp dụng nguyên tắc luật nơi có tài sản. 
Còn tài sản theo pháp luật của Pháp thì đối với các quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài, 
tại Điều 3 của Bộ luật dân sự Pháp thì nguyên tắc luật nơi có tài sản được áp dụng để điều 
chỉnh quan hệ sở hữu đối với động sản và bất động sản. 
Trong thực tiễn giao lưu dân sự quốc tế, một nguyên tắc chung được áp dụng phổ 
biến là: Nếu quyền sở hữu đối với tài sản của một người là động sản được phát sinh trên 
cơ sở pháp luật nước này nhưng khi tài sản đó được đem sang nước khác thì quyền sở hữu 
của chủ sở hữu tài sản vẫn được pháp luật nước kia bảo hộ. Tuy nhiên, về phạm vi và nội 
dung của quyền sở hữu đối với tài sản này thì theo pháp luật của đa số các nước phải do 
pháp luật của nước nơi đang có tài sản điều chỉnh. 
16 Phùng Hồng Thanh (2019), “Cách xác định luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo quy định 
của Liên minh Châu Âu – So sánh với pháp luật Việt Nam”, Công thương Industry and Trade magazine, truy cập tại 
đường link ngày truy cập 12/08/2021 
16 
*Pháp luật của nước có tài sản vẫn được áp dụng để xác định quyền sỡ hữu đối với 
tài sản đang trên đường vận chuyển 
Theo pháp luật của các nước hiện nay, quyền sở hữu cũng như các quyền tài sản đối 
với tài sản đang trên đường vận chuyển sẽ được điều chỉnh bởi một trong các hệ thống 
pháp luật sau đây: pháp luật của nước nơi gửi tài sản đi, pháp luật của nước nơi nhận tài 
sản, pháp luật của nước hiện đang có tài sản, pháp luật của nước mà phương tiện vận tải 
mang quốc tịch, luật nơi cư trú của chủ sở hữu, pháp luật của nước do các bên lựa chọn .... 
Như vậy, pháp luật của nước hiện đang có tài sản là một trong những nguyên tắc 
được áp dụng trong việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản đang trên đường vận 
chuyển. Tuy nhiên, nguyên tắc tự do ý chí trong việc lựa chọn pháp luật áp dụng ngày 
càng được coi trọng nên nguyên tắc được nhiều nước áp dụng nhất không phải là luật nơi 
có tài sản mà là nguyên tắc luật của nước nơi gửi tài sản đi (xuất khẩu hàng) hoặc pháp 
luật của nước nơi nhận hàng (nhập khẩu hàng). Mặt khác, nếu áp dụng luật nước nơi có 
tài sản mà đó lại là tài sản đang vận chuyển, rõ ràng sẽ gây rắc rối và khó khăn cho các cơ 
quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc khi không dễ dàng có thể xác 
Hiện nay, quan điểm được thống nhất chung ở các nước là việc chuyển giao động 
sản hữu hình (mua bán tài sản) được điều chỉnh bằng pháp luật quốc gia nơi có tài sản vào 
thời điểm chuyển giao. Người chủ sở hữu sẽ mất quyền sở hữu của mình đối với tài sản 
nếu như nó được chuyển ra nước ngoài và đã được chuyển giao ở đó một cách hợp pháp 
cho người khác theo pháp luật nước đó. 
* Hệ thuộc luật nơi có tài sản được áp dụng để định danh tài sản là động sản hay bất 
động sản 
Khi giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ tài sản, trước hết phải xác định đối 
tượng của vụ việc là động sản hay bất động sản, bởi vì trong thực tế việc xác định tài sản 
là động sản hay bất động sản là tiền đề cho việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở 
hữu có yếu tố nước ngoài. Căn cứ vào việc giải quyết đó sẽ xác định tiếp pháp luật nước 
nào điều chỉnh mối quan hệ tài sản ấy. Ví dụ, theo quy phạm xung đột của Anh, việc thừa 
kế không có di chúc được điều chỉnh theo pháp luật của nước nơi có tài sản (nếu di sản là 
17 
bất động sản) và pháp luật của nước nơi người để lại di sản thừa kế cư trú cuối cùng (nếu 
di sản là động sản). 
Vần đề phức tạp xảy ra là do nội dung khái niệm “bất động sản” ở các nước không 
giống nhau, có những loại tài sản ở nước này là bất động sản nhưng ở nước khác không 
được coi là bất động sản. Chính vì vậy, để giải quyết vấn đề tài sản nào là bất động sản, 
tài sản nào là động sản, đa số pháp luật các nước quy định áp dụng nguyên tắc luật nơi có 
tài sản. 
Tóm lại, nguyên tắc luật nơi có tài sản được đa số các nước áp dụng để giải quyết 
xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài. Mặc dù đây là hệ thuộc luật 
được sử dụng nhiêu nhât ở hầu hết các nước, nhưng đó không phải là hệ thuộc luật duy 
nhất. Theo pháp luật và thực tiễn các nước, hệ thuộc luật nơi có tài sản không được áp 
dụng trong các trường hợp sau đây: giải quyết vấn đề sở hữu tàu bay, tàu biển; tài sản 
thuộc quyền sở hữu nhà nước 
Điều 678 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Quyền sở hữu và quyền khác đối với 
tài sản là động sản trên đường vận chuyến được xác định theo pháp luật của nước nơi 
động sản được chuyển đến, trừ trường hợp có thoả thuận khác ”. Theo quy định của Bộ 
luật dân sự thì pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc pháp luật của nước nơi tài sản được 
chuyển đến hoặc hệ thuộc luật do các bên thoả thuận lựa chọn để xác định quyền sở hữu 
và quyền khác đối với tài sản trên đường vận chuyển. Quy định này phù hợp với thực tiễn 
của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 
Theo quy định của pháp luật Việt Nam tại Điều 107 của Bộ luật dân sự 2015, bất 
động sản là những tài sản bao gồm: 
- Đất đai; 
- Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; 
- Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng. 
- Tài sản khác theo quy định của pháp luật. 
Động sản là những tài sản không phải là bất động sản 
18 
2.3. Lựa chọn luật áp dụng trong quan hệ thừa kế 
Thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để 
lại được gọi là di sản. Thừa kế được chia thành thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di 
chúc thừa kế theo di chúc là việc chuyển dịch tài sản thừa kế của người đã chết cho người 
còn sống theo sự định đoạt của người đó khi còn sống. Thừa kế theo pháp luật là việ dịch 
chuyển tài sản thừa kế của người đã chết cho người sống theo quy định của pháp luật nếu 
người chết không để lại di chúc hoặ di chúc không hợp pháp. Thừa kế là một chế định 
quan trọng của pháp luật dân sự17. 
Thừa kế có yếu tố nước ngoài là quan hệ thừa kế mà người để lại thừa kế là cá nhân 
nước ngoài hoặc người nhận thừa kế là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; hoặc di sản thừa 
kế tồn tại ở nước ngoài; hoặc sự kiện chết xảy ra ở nước ngoài. Chỉ cần một trong các 
điều kiện trên được đáp ứng thì quan hệ thừa kể đó được coi là quan hệ thừa kế có yếu tố 
nước ngoài. 
Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Thừa kế được xác định theo pháp luật của nước 
mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết18”. 
Các vấn đề về nội dung của di chúc, thời điểm mở thừa kế, di sản thừa kế đều 
được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay 
trước khi chết. 
Ví dụ: Một người nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, người đó có nhiều loại tài sản ở 
Việt Nam, gồm cả động sản và bất động sản, người này có vợ và một con là người nước 
ngoài hiện đang sống tại nước ngoài. Người này trước khi chết đã lập di chúc và để lại di 
sản cho vợ và con của mình. Theo đó, tất cả các vấn đề về thời điểm mở thừa kế, người 
hưởng di sản, đều được áp dụng theo pháp luật của nước người để lại di sản thừa kế là 
công dân. Tức là trường hợp này cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam sẽ áp dụng luật 
17 Đặng Thị Huyến (2021), “Lựa chọn luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài”, truy cập tại 
đường link ngày truy cập 12/08/2021. 
18 Khoản 1 điều 680 Bộ luật dân sự năm 2015. 
19 
nội dung của nước ngoài nhưng các quy định liên quan đến thủ tục ( luật hình thức) sẽ 
tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam. 
Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động 
sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có bất động sản”. 19Bất động sản là một 
loại tài sản đặc biệt, do đặc tính gắn liền với đất đai, mà đất đai là một phần lãnh thổ của 
quốc gia, không thể sinh sôi, vì vậy việc thực hiện quyền thừa kế với loại tài sản này sẽ có 
những điểm khác biệt. 
 Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được hiểu là người hưởng di sản 
thừa kế hay người còn sống có được sở hữu bất động sản hay không hoàn toàn do pháp 
luật của nước nơi có bất động sản quy định. 
Ví dụ: Việt Nam thừa nhận quyền hưởng di sản theo di chúc của người được hưởng 
di sản nhưng nếu họ không thuộc diện mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì họ không thể 
đứng tên là chủ sở hữu của ngôi nhà đó, họ chỉ được hưởng giá trị của ngôi nhà đó mà 
thôi. 
Khoản 1 Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Năng lực lập di chúc, thay 
đổi hoặc hủy bỏ được xác định theo pháp luật của nước mà người lập di chúc có quốc 
tịch tại thời điểm lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc”. 
Có thể thấy, việc chuyển dịch di sản cho người thừa kế theo di chúc là thừa kế dựa 
trên cơ sở ý chí định đoạt của người lập di chúc khi còn sống. Di chúc là sự thể hiện ý chí 
cá nhân nhằm chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Quan 
hệ thừa kế theo di chúc được đặt ra trong trường hợp người chết để lại di chúc và di chúc 
đó là hợp pháp. Di chúc có thể định đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản. 
Khoản 2 điều 681 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Hình thức của di chúc được 
xác định theo pháp luật của nước nơi di chúc được lập. Hình thức của di chúc cũng được 
công nhận tại Việt Nam nếu phù hợp với pháp luật của một trong các nước sau đây: a) 
Nước nơi người lập di chúc cư trú tại thời điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm người lập 
19 Khoản 2 điều 680 Bộ luật dân sự năm 2015. 
20 
di chúc chết; b) Nước nơi người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập di chúc hoặc 
tại thời điểm người lập di chúc chết; c) Nước nơi có bất động sản nếu di sản thừa kế là 
bất động sản”. 
Khoản 2 điều 681 Bộ luật dân sự năm 2015 sử dụng hệ thuộc luật nước nơi lập di 
chúc để xác định tính hợp pháp hình thức của di chúc (locus regin actum). Khác với 
nguyên tắc áp dụng luật đối với việc xác định năng lực lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc, hình 
thức của di chúc trong trường hợp có yếu tố nước ngoài không căn cứ vào quốc tịch của 
người lập di chúc mà căn cứ vào lãnh thổ nơi người để lại di sản lập di chúc. Như vậy, 
nếu công dân Việt Nam lập di chúc ở Pháp thì phải tuân thủ những quy định của pháp luật 
Pháp về hình thức di chúc. Và nếu công dân nước ngoài lập di chúc ở Việt Nam thì phải 
tuân thủ những quy định của Việt Nam về hình thức di chúc. Điều này hoàn toàn hợp lý. 
Bởi lẽ, nhiều quốc gia quy định di chúc có hiệu lực khi được đăng ký tại cơ quan Nhà 
nước có thẩm quyền, do đó, cần phải tuân theo các quy định của quốc gia nơi lập di chúc 
về hình thức của di chúc. 
Việc thừa kế của công dân Việt Nam đối với tài sản ở nước ngoài, pháp luật của 
nước ta không có các quy định cấm và trên thực tế Nhà nước cho phép và bảo hộ công 
dân Việt Nam hiện đang cư trú trong nước được nhận các di sản thừa kế mà người thân 
của họ để lại ở nước ngoài. Đối với việc thừa kế theo di chúc của công dân Việt Nam ở 
nước ngoài. 
Điều 638 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định những di chúc bằng văn bản dưới đây 
cũng có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực: “Di chúc của người đang 
đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó; Di chúc của 
công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện 
ngoại giao của Việt Nam ở nước đó”. 
Đối với những trường hợp nếu công dân Việt Nam lập di chúc ở nước ngoài theo 
pháp luật của nước ngoài thì các di chúc này được coi là hợp pháp nếu pháp luật nước 
ngoài được áp dụng để lập di chúc không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật 
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2015). 
21 
Nếu căn cứ vào pháp luật nước nơi di chúc được lập thì di chúc đó không phù hợp 
về hình thức, trường hợp này các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét đến các hệ thống 
pháp luật có liên quan khác, ví dụ pháp luật của nước nơi cư trú hoặc pháp luật của nước 
người lập di chúc có quốc tịch vào thười điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm người đó 
chết hoặc pháp luật của nước nơi có bất động sản nếu di sản thừa kế là bất động sản. Chỉ 
cần thỏa mãn một trong các hệ thống pháp luật nêu trên thì hình thức của di chúc được coi 
là hợp pháp. 
2.4. Lựa chọn luật áp dụng về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố 
nước ngoài 
Trong việc điều chỉnh vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có 
yếu tố nước ngoài, đa số pháp luật của các nước đều áp dụng pháp luật của nước nơi xảy 
ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti commisi). Tuy nhiên, trong thực tế của đời 
sống quốc tế thường xảy ra trường hợp là hành vi gây thiệt hại được thực hiện ở nước này 
nhưng hậu quả của hành vi gây thiệt hại đó lại phát sinh ở một nước khác. Vậy, pháp luật 
của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật ở đây sẽ là pháp luật của nước nào. Hiện 
nay các nước trên thế giới chưa có quan điểm thống nhất đâu được coi là nơi xảy ra hành 
vi gây thiệt hại. Cụ thể, pháp luật một số nước quy định nơi vi phạm pháp luật là nơi xảy 
ra hành vi gây thiệt hại (Italia, Hy lạp). Theo quan điểm này, thì khi giải quyết xung đột 
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, các 
cơ quan Tư pháp của các nước này sẽ áp dụng hệ thuộc luật nơi có hành vi gây thiệt hại 
xảy ra. Trong khi đó, pháp luật một số nước khác lại quy định nơi vi phạm pháp luật là 
nơi phát sinh hậu quả thực tế do hành vi gây thiệt hại gây ra (Anh, Hoa Kỳ). Như vậy, ở 
những nước theo quan điểm này, người ta sẽ áp dụng pháp luật của nước nơi có hiện diện 
của hậu quả thiệt hại để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Kết 
hợp cả hai quan điểm nêu trên, pháp luật của một số nước (Đông Âu) quy định áp dụng cả 
hai loại pháp luật. Đó là pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc pháp 
22 
luật của nước nơi phát sinh hậu quả thực tế tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể pháp luật nước nào 
có lợi hơn khi áp dụng20. 
Thông qua các quy định của pháp luật quốc gia cũng như các Điều ước quốc tế mà 
Việt Nam là thành viên, chúng ta đều thấy rằng, nguyên tắc được áp dụng chủ yếu để giải 
quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là “Các bên được thỏa 
thuận lựa chọn luật áp dụng”. Điều 687 BLDS năm 2015 quy định: “1. Các bên được 
thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trừ 
trường quy định tại khoản 2 Điều này. Trường hợp không có thỏa thuận thì pháp luật của 
nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây thiệt hại được áp dụng; 2. Trường hợp bên 
gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có nơi cư trú, đối với cá nhân hoặc nơi thành lập, đối với 
pháp nhân tại cùng một nước thì pháp luật của nước đó được áp dụng”. 
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là quan hệ bồi thường 
thiệt hại diễn ra giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại, trong các bên có một bên là cá 
nhân, pháp nhân nước ngoài, hoặc tài sản là đối tượng của quan hệ này tồn tại ở nước 
ngoài, hoặc sự kiện gây thiệt hại xảy ra ở nước ngoài. Tại khoản 1 Điều 687 Bộ luật dân 
sự năm 2015 đã cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho quan hệ bồi 
thường thiệt hại của họ. Với thay đổi này trong Bộ luật dân sự năm 2015, các nhà làm luật 
một lần nữa muốn khẳng định quan điểm “việc của người dân thì để cho người dân tự 
giải quyết”, trao sự chủ động cho các đương sự, tôn trọng sự tự định đoạt của các đương 
sự ngay cả trong việc lựa chọn pháp luật áp dụng. Ngoài việc là quan hệ giữa các chủ thể 
bình đẳng ngang quyền nên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng trở nên có lý và thuyết phục 
là vì nếu các bên đã chọn luật thì họ cũng dễ chấp nhận những quy định của hệ thống 
pháp luật do họ lựa chọn hơn và việc thực thi pháp luật vì thế sẽ thuận lợi và dễ dàng 
hơn21. 
Tuy nhiên, trong trường hợp pháp luật quy định cho phép các bên được thỏa thuận 
lựa chọn pháp luật áp dụng nhưng các bên đã không thỏa thuận hoặc không thể thỏa thuận 
20 Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), “Giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp 
đồng trong Tư pháp quốc tế’, truy cập tại trang ngày truy cập 12/08/2021. 
21 Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), “Giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp 
đồng trong Tư pháp quốc tế’, truy cập tại trang ngày truy cập 12/08/2021. 
23 
được, trong trường hợp đó, quy phạm ở Điều 687 đã dự liệu sẵn một hệ thuộc luật để điều 
chỉnh quan hệ này đó là hệ thuộc luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây 
thiệt hại. 
- Trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại là các cá nhân có cùng nơi cư trú, 
hoặc bên gây thiệt hại là các pháp nhân có cùng nơi thành lập tại một nước thì pháp luật 
của nước đó được áp dụng. Quy định này dựa vào căn cứ nhân thân của các bên để xác 
định luật áp dụng chứ không dựa vào nơi phát sinh hậu quả của hành vi gây thiệt hại như 
quy định tại khoản 1. Thay đổi này xuất phát từ việc áp dụng các hệ thống pháp luật đó 
(hệ thống pháp luật nơi cư trú của cá nhân và hệ thống pháp luật nơi thành lập pháp nhân) 
các bên sẽ nắm bắt dễ dàng và do dó sẽ dễ chấp nhận kết quả giải quyết của Tòa án hơn22. 
- Giải quyết xung đột về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của các 
Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên 
Các quy định của các Điều ước quốc tế chủ yếu được kể đến là các quy định quy 
phạm xung đột pháp luật được quy định trong các Hiệp định tương trợ Tư pháp về dân sự 
mà Việt Nam tham gia ký kết với các quốc gia khác. Khi nghiên cứu các Hiệp định tương 
trợ này, ta thấy ở các Hiệp định có những cách giải quyết về cơ bản tương đối giống nhau 
trong việc xác định pháp luật giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có 
yếu tố nước ngoài. Cụ thể, trong mỗi Hiệp định tương trợ Tư pháp thường chia thành hai 
trường hợp: 
+ Trong trường hợp các bên chủ thể (người bị hại và người gây ra thiệt hại) cùng 
quốc tịch. Các Hiệp định tương trợ Tư pháp ghi nhận việc áp dụng Luật Quốc tịch của 
mỗi bên đương sự để giải quyết. Ví dụ: tại khoản 1 Điều 37 Hiệp định tương trợ Tư pháp 
giữa Việt Nam và Liên Bang Nga quy định “Nếu nguyên đơn và bị đơn đều là công dân 
của một bên ký kết hoặc đều được thành lập hoặc có trụ sở ở một bên ký kết thì áp dụng 
Luật của bên ký kết đó”. Tại khoản 2 Điều 41 Hiệp định tương trợ Tư pháp giữa Việt 
22 Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), “Giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp 
đồng trong Tư pháp quốc tế’, truy cập tại trang ngày truy cập 12/08/2021. 
24 
Nam và Mông Cổ quy định “Nếu người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là công 
dân của một bên ký kết thì áp dụng Luật của bên ký kết đó”. 
+ Trong trường hợp các bên chủ thể (người bị hại và người gây ra thiệt hại khác 
quốc tịch) thì các Hiệp định tương trợ Tư pháp ghi nhận việc áp dụng hệ thuộc luật nơi 
xảy ra hành vi vi phạm pháp luật để giải quyết tranh chấp. Ví dụ: cũng tại khoản 1 Điều 
37 Hiệp định tương trợ Tư pháp giữa Việt Nam và Liên Bang Nga quy định “Trách nhiệm 
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (do hành vi vi phạm pháp luật) được xác định theo 
pháp luật của Bên ký kết nơi xảy ra hoàn cảnh làm căn cứ để yêu cầu đòi bồi thường thiệt 
hại”. Tại khoản 1 Điều 23 Hiệp định tương trợ Tư pháp giữa Việt Nam và Cộng hòa Dân 
chủ nhân dân Lào cũng quy định “Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác 
định theo pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nước ký kết 
nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại thuộc thẩm quyền của cơ quan Tư pháp của 
nước ký kết nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại đó”. Ngoài ra, hiện nay Việt Nam 
đã ký kết Hiệp định tương trợ Tư pháp với khoảng 15 nước. Các hiệp định cơ bản đều quy 
định các điều khoản quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu 
tố nước ngoài. Cụ thể: Với Tiệp Khắc tại Điều 33, với Hungari tại Điều 30, với Bungari 
tại Điều 31, với Ba Lan tại Điều 38, với Ucraina tại Điều 33, với Belarut tại Điều 39. Còn 
lại ba Hiệp định tương trợ Tư pháp là Hiệp Định với Cu Ba, Hiệp định với Trung Quốc, 
Hiệp định với Cộng hòa pháp không có điều khoản quy định về vấn đề này. 
Qua các quy định trên cho thấy, trong việc điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt 
hại ngoài hợp đồng, Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước thường áp 
dụng hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti Commissi) hoặc 
Luật nhân thân (Lex Personalis) trong đó hoặc áp dụng luật quốc tịch (Lex Nationalis ) 
hoặc áp dụng luật nơi cư trú (Lex Domicilli). 
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài việc được quy định trong điều ước quốc tế 
song phương còn được ghi nhận trong điều ước quốc tế đa phương. Một số điều ước quốc 
tế đáng chú ý đã được xây dựng như: 
25 
+ Công ước Lahaye ngày 2/10/1973 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản 
phẩm gây ra. Công ước quy định rõ cơ chế bồi thường thiệt hại nếu sản phẩm, hàng hóa 
gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì trách nhiệm thuộc về nhà sản xuất. Tuy nhiên, công 
ước cũng đưa ra nhiều nguyên tắc chọn luật phức tạp, những nguyên tắc này chỉ được áp 
dụng với những điều kiện nhất định. 
Ví dụ Công ước quy định: Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản 
phẩm gây ra, có thể áp dụng một trong các hệ thống pháp luật sau: 
Luật nơi thường trú của nạn nhân nếu đây cũng là nơi có cơ sở chính của nhà sản 
xuất hoặc là nơi mua sản phẩm (điều 5). 
Luật nơi xảy ra thiệt hại nếu đây cũng đồng thời là nơi có trụ sở chính của nhà sản 
xuất hoặc là nơi mua sản phẩm (điều 4). 
Nguyên đơn có quyền lựa chọn luật áp dụng là luật xảy ra thiệt hại hoặc nơi có cơ sở 
chính của nhà sản xuất (điều 6). 
+ Công ước về tai nạn giao thông đường bộ ngày 4/5/1971. Nội dung công ước đề 
cập đến việc chọn luật áp dụng giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các phương 
tiện giao thông gây ra, theo đó luật áp dụng là luật nơi xảy ra tai nạn, hoặc luật nơi đăng 
ký phương tiện giao thông. 
Để giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài 
hợp đồng đều có thể căn cứ vào luật nơi xảy ra hành vi hoặc sự kiện gây thiệt hại. 
Tuy nhiên, có một điểm cần chú ý, trong trường hợp quy phạm xung đột chỉ dẫn áp 
dụng luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại là luật áp dụng để xác định trách nhiệm bồi 
thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì chỉ áp dụng hệ thống pháp luật thực chất (luật nội 
dung) của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại, không áp dụng các quy phạm xung đột 
của tư pháp quốc tế, nói cách khác trong lĩnh vực này cũng không chấp nhận hiện tượng 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_quyen_thoa_thuan_chon_luat_ap_dung_trong_tu_phap_q.pdf