Tiểu luận Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội

pdf 33 trang yenvu 24/02/2024 4270
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội

Tiểu luận Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
Tiểu luận Cnhkh - tiểu luận
Chủ nghĩa xã hội khoa học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền)
lOMoARcPSD|12184112
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ
TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC
TRẦN QUỲNH NHI
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Tiểu luận môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Hà Nội - 2021
lOMoARcPSD|12184112
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ
TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC
TRẦN QUỲNH NHI
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Lớp: Xuất Bản Điện Tử K41
Mã số sinh viên: 2508020051
Tiểu luận môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học
lOMoARcPSD|12184112
Hà Nội - 2021
lOMoARcPSD|12184112
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................3
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ GIA 
ĐÌNH TRONG THỜI KỲ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI...................3
1.1, Khái niệm về gia đình....................................................3
1.2, Vị trí của gia đình trong xã hội.......................................4
1.3, Chức năng cơ bản của gia đình......................................6
CHƯƠNG 2: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG 
THỜI KỲ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI......................................11
2.1, Biến đổi về quy mô, kết cấu gia đình...........................11
2.2, Biến đổi chức năng tái sản xuất con người..................12
2.3, Biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng.........13
2.4, Biến đổi chức năng giáo dục........................................13
2.5, Biến đổi chức năng đáp ứng nhu cầu tâm sinh lý, tình 
cảm con người....................................................................14
2.6, Biến đổi về các mối quan hệ cơ bản trong gia đình.....15
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN GIA
ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ 
HỘI.......................................................................................17
KẾT LUẬN..............................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................21
lOMoARcPSD|12184112
lOMoARcPSD|12184112
1MỞ ĐẦU
1, Tính cấp thiết của vấn đề
Trong quá trình phát triển của lịch sử, gia đình còn được coi là
một yếu tố đầy giá trị nhân văn trong xã hội; là một biểu
tượng của tổ ấm, của sự hạnh phúc đủ đầy của từng cá nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói rằng: “... nhiều gia
đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt,
gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia
đình”[7, tr.300]. Gia đình luôn là một chủ đề thiết yếu và
không bao giờ hạ nhiệt, luôn cần được bàn luận và nghiên cứu
ở mọi đất nước trên thế giới và Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Đặc biệt trong quá trình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đây là một bước tiến mới, góp phần đưa Việt Nam có
những bước phát triển về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa – xã
hội, xu thế toàn cầu hóa và hòa nhập cùng với quốc tế,... đây
cũng chính là những yếu tố ảnh hưởng đến gia đình Việt Nam
và gây ra những tác động đến biển đổi về một số chức năng,
cơ cấu. Về mặt thực tiễn, đề tài sẽ có nhiệm vụ củng cố và
phát triển cho hệ thống gia đình – một trong những vấn đề
quan trọng với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước Việt
Nam ta hiện nay. Bên cạnh đó về mặt lý luận, sẽ góp phần
làm phong phú thêm những đề tài khoa học nghiên cứu về gia
đình. Từ đó cũng chính là cơ sở để chúng ta đưa ra những giải
pháp cho việc xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2, Những công trình nghiên cứu có liên quan
lOMoARcPSD|12184112
2TS. Nghiêm Sỹ Liêm (2017), Lý luận gia đình, bình đẳng giới ở
Việt Nam; GS.TS. Lê Thị Quý (2018), Cơ sở lý luận và thực tiễn
xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay, Tạp chí tổ chức nhà
nước; PGS, TS. Trần Thị Minh Thi (2020), Những biến đổi của
gia đình Việt Nam hiện nay và một số khuyến nghị chính sách,
Tạp chí cộng sản.
3, Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sự biến đổi của gia đình.
Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
4, Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Làm rõ sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội qua đó đưa ra giải pháp xây
dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Để dạt được mục đích đó, đề tài sẽ giải quyết những nhiệm vụ
sau đây:
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về gia
đình trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội
Chương 2: Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời
kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội
Chương 3: Một số giải pháp xây dựng và phát triển gia
đình Việt Nam trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội
lOMoARcPSD|12184112
35, Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề
gia đình trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương thức logic và
lịch sử, tổng hợp và khái quát hóa.
6, Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài gồm 3 chương 9 tiết.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ
GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1, Khái niệm về gia đình
Từ trước đến nay, không thiếu những bài nghiên cứu về vấn
đề gia đình nhưng đa phần đều được luận giải theo chủ nghĩa
duy tâm. Nhưng khi C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra những
nghiên cứu về vấn đề này thì nó lại được dựa trên chủ nghĩa
duy vật, các sự luận giải về gia đình đều được đưa ra dưới góc
nhìn của chủ nghĩa xã hội khoa học. C.Mác và Ph.Ăngghen
nhận định rằng: “Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào
quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của
bản thân mình, con người bắt đầu tái tạo ra những người
khác, sinh sôi nẩy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha
mẹ và con cái, đó là gia đình”[2, tr.41].
lOMoARcPSD|12184112
4Gia đình được cho là sự hình thành của hai yếu tố: quan hệ
hôn nhân (giữa vợ và chồng) và quan hệ huyết thống (giữa bố
mẹ và con cái). Quan hệ hôn nhân là nền tảng, cơ sở để tạo ra
và phát triển nên một gia đình. Quan hệ huyết thống là quan
hệ giữa những người cùng một dòng máu, được bắt nguồn từ
quan hệ hôn nhân. Đây cũng là mối quan hệ tự nhiên, tạo nên
sự gắn kết đối với các thành viên trong một gia đình. Các hình
thức, chức năng cơ bản của xã hội cũng được hình thành từ sự
liên kết chặt chẽ của mối quan hệ trên. Từ đó, gia đình và xã
hội có những mối quan hệ tác động qua lại với nhau và sự
phát triển của xã hội sẽ quyết định đến sự thay đổi của các
quan hệ này. 
Ngày nay, ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới cũng thừa
nhận mối quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi. Dù là hình thức
nào thì cũng là quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc quan tâm giữa
các thành viên trong gia đình.
Từ đó, ta có thể hiểu gia đình chính là một hình thức xã hội
đặc biệt. Nhờ mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng để duy trì và tồn tại. Bên cạnh đó còn có những
luật, quyền và nghĩa vũ của từng thành viên trong gia đình.
1.2, Vị trí của gia đình trong xã hội
Gia đình được coi là một phần cốt lõi, tế bào của xã hội
Nói gia đình là tế bào của xã hội là một sự khẳng định gia
đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Theo từng
giai đoạn lịch sử, gia đình biến đổi và mang từng đặc điểm
khác nhau tương ứng với từ giai đoạn từ nô lệ, phong kiến, tư
lOMoARcPSD|12184112
5bản,... Theo Ph.Ăngghen, đã xuất hiện một hình thức gia đình
mới trong tầng lớp nhân dân lao động. Tuy nhiên chỉ trong
hoàn cảnh xã hội có tự do, bình đẳng thì hình thức này mới có
thể hình thành và phát triển một cách toàn diện. Từ đó, gia
đình mới thể hiện được vị trí của mình đối với sự phát triển
của xã hội
Chú ý và xây dựng một tế bào gia đình tốt là một nhiệm vụ
tất yếu để xã hội phát triển một cách lành mạnh. Gia đình
phát triển thì xã hội mới phát triển, nếu không có sự tái sản
xuất con người của gia đình thì xã hội sẽ không thể phát triển.
Và việc tái sản xuất con người khiến cho gia đình như một tế
bào tự nhiên là tiền đề tạo ra cơ thể - xã hội. Ngoài ra còn có
sự góp mặt của sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất.
“Trong hệ thống cơ cấu xã hội có nhiều bộ phận khác nhau
(dân tộc, giai cấp, giới...); nhiều thiết chế lớn nhỏ (nhà nước,
ngành, đoàn thể...)... Với tính cách của tế bào xã hội, gia đình
là tổ chức cơ sở, cơ cấu và thiết chế xã hội nhỏ nhất”[8,
tr.419]. Tuy thiết chế nhỏ nhưng vẫn rất đa dạng và phong
phú, tuân thủ song song cả quy luật, cơ chế chung của toàn
xã hội và cả của riêng mình.
“Trong các xã hội xưa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và quan hệ
gia đình đã hạn chế rất lớn đến sự tác động của gia đình đối
với xã hội. Chỉ khi con người được yên ấm, hòa thuận trong
gia đình thì mới có thể yên tâm lao động, sáng tạo và đóng
góp sức mình cho xã hội và ngược lại”[9, tr.243]. Cho nên,
lOMoARcPSD|12184112
6trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội việc xây dựng và
phát triển gia đình bình đẳng, công bằng, văn minh là vô cùng
cấp thiết.
Gia đình là tổ ấm, là nơi đem lại hạnh phúc, cân bằng
trong cuộc sống mỗi người
Gia đình chính là nơi nuôi dưỡng, đùm bọc chăm sóc và yêu
thương chúng ta về cả thể chất lẫn tinh thần, là nơi để ta phát
triển và thành người. Chính vì thế một môi trường gia đình
lành mạnh, tích cực, hạnh phúc chính là tiền đề cho sự hình
thành và phát triển nhân cách, trí tuệ của mỗi cá nhân. Gia
đình thế nào sẽ tạo ra một con người như vậy. Một gia đình tốt
đẹp, yên bình, ấm êm hạnh phúc sẽ là nguồn động lực to lớn
cho mỗi cá nhân trở thành một công dân có ích cho xã hội và
ngược lại. 
“... Liên hợp quốc đã lấy năm 1994 là năm Quốc tế gia đình
với biểu tượng hình ảnh một mái nhà trong đó ôm ấp những
trái tim để nhắc nhở các quốc gia cần quan tâm đúng mức
đến gia đình”[5, tr.3].
Gia đình là sợ dây liên kết của cá nhân với toàn xã hội
Đối với mỗi cá nhân, gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà
họ gắn bó cùng từ khi mới chào đời, có sự ảnh hưởng rất lớn
đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người.
Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình được coi là một
mối quan hệ đặc biệt của quan hệ các thành viên trong xã hội
vì không nơi nào có thể tìm được những tình cảm gắn bó,
lOMoARcPSD|12184112
7khăng khít như tình cảm của bố mẹ với con cái, của anh chị
em với nhau hay tình cảm vợ chồng. 
Gia đình chính là bước đệm trung gian cho mỗi cá nhân khi
bước đầu đặt chân vào mối quan hệ xã hội. Vậy nên quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình cũng chính là mối quan hệ
giữa các thành viên bên ngoài xã hội. Do đó một cá nhân
không thể sống tách biệt hẳn với gia đình và xã hội. Gia đình
là cộng đồng đầu tiên cho phép mỗi người được trải qua các
mối quan hệ bên ngoài xã hội. Nếu thiếu một trong hai thứ, cá
nhân đó sẽ không thể phát triển nhân cách một cách hài hòa,
trọn vẹn và toàn diện.
Không những thế, gia đình còn ảnh hưởng đến cách mỗi cá
nhân biểu hiện ra ngoài xã hội. Vậy nên trong thời kỳ nào, chế
độ nào nếu giai cấp cầm quyền muốn xã hội đi theo đúng chủ
ý của mình thì việc làm thất yếu chính là cải tạo và phát triển
gia đình theo hướng tích cực nhất. Một môi trường gia đình
tích cực sẽ tạo nên một con người tích cực khi đối nhân xử
thế, giao tiếp trong môi trường xã hội. Những hiện tượng bên
ngoài xã hội tác động thế nào lên nhân cách, suy nghĩ, hành
động của mỗi con người đều thông qua gia đình. Tất cả những
điều mà mỗi cá nhân thể hiện hay bộc lộ ra ngoài đều phản
ánh lên hình ảnh của gia đình họ. Chính vì vậy, ở mỗi xã hội
đặc điểm của gia đình sẽ không giống nhau. Trong xã hội
phong kiến cũng khác với trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Trong khi xã hội phong kiến độc đoán, chuyên quyền
coi thường người phụ nữ, chỉ đề cao vai trò của người đàn
lOMoARcPSD|12184112
8ông. Thì trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, phụ nữ
được tôn trọng, yêu cầu bình đẳng giữa hai giới, bảo vệ chế
độ một vợ một chồng.
1.3, Chức năng cơ bản của gia đình
Chức năng tái sản xuất con người
Đây là chức năng cơ bản và đặc thù của gia đình mà không
cộng đồng nào có thể thay thế. Nó không những đáp ứng nhu
cầu tâm, sinh lý cho con người; duy trì nòi giống để nối dõi
trong gia đình, dòng họ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến dân
số, lực lượng lao động và duy trì sự tồn tại của xã hội.
Thực hiện tái sản xuất con người không chỉ là vấn đề riêng
của gia đình mà là vấn đề của toàn xã hội. Khi mỗi con người
được sinh ra, dân số và nguồn lao động trên thế giới sẽ có sự
thay đổi rất lớn vậy nên tùy theo tình hình của từng nơi mà
nên có biện pháp khuyến khích hay hạn chế. Điều nay ảnh
hướng một trực tiếp đến sự phát triển và tồn tại của xã hội
trong một quốc gia. 
Thực tế chỉ ra rằng, có sự chênh lệch rất rõ ràng trong việc tái
sản xuất con người ở các quốc gia phương Đông và phương
Tây. Ở những quốc gia phương Đông do nhiều nơi vẫn còn
quan niệm trọng nam khinh nữ nên vẫn còn những trường hợp
đẻ cố để có con trai từ đó dẫn đến tình trạng bùng nổ dân số
gây ảnh hưởng đến kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước
đó. Ngược lại với các nước phương Tây thì hầu đa người dân
đều sinh quá ít hoặc tránh né việc tái sản xuất con người
lOMoARcPSD|12184112
9khiến suy giảm quy mô dân số của đất nước. Số người trong
độ tuổi lao động giảm, ngoài độ tuổi lao động tăng ảnh hưởng
trực tiếp đến nền kinh tế quốc gia. Vì vậy cần phải phát triển
cân bằng về số lượng, chất lượng của từng gia đình rồi mới
đến của quốc gia.
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
Giáo dục luôn là một trong những nhiệm vụ vô cùng quan
trọng mà đất nước nào cũng hướng đến nếu muốn một cá
nhân trở nên tài giỏi và làm một người công dân có ích cho
cộng đồng và xã hội. Trước hết, mỗi cá nhân sẽ nhận được
nền giáo dục từ gia đình của họ, từ bố mẹ ông bà và anh chị
em. Chức năng này thể hiện sự gắn kết, tình cảm thiêng liêng,
sự quan tâm chăm sóc của mỗi gia đình với nhau. Gia đình sẽ
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách và
đạo đức của mỗi con người, tất cả những điều học được từ gia
đình sẽ để lại ấn tượng sâu đậm và khó quên trong trí nhớ mỗi
người. Cho nên gia đình cũng chính là một môi trường giáo
dục.
Mặc dù còn một số cộng đồng khác góp phần trong công cuộc
giáo dục con người như: nhà trường, chính quyền, đoàn thể,...
nhưng cũng không thể nào thay thế được hoàn chức năng
giáo dục của gia đình. Vì giáo dục trong gia đình tác động đến
mỗi cá nhân từ khi chào đời đến lúc về già, ảnh hưởng rất
nhiều đến nhân các của họ. Việc giáo dục của gia đình dựa rất
nhiều vào hoàn cảnh kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội của
đất nước đó. Gia đình góp phần đào tạo và phát triển ra
lOMoARcPSD|12184112
10
những lực lượng công dân có ích cho xã hội, những con người
thể chất tốt và trí tuệ thông minh, tạo ra nguồn lao động dồi
dào để tiếp tục suy trì sự tồn tại của xã hội. Tuy vậy cũng
không thể coi thường giáo dục bên ngoài xã hội, nếu một
người chỉ nhận được giáo dục từ gia đình thì sẽ không hoàn
thiện được kỹ năng và nhân cách, khi ra ngoài xã hội sẽ gặp
rất nhiều khó khăn và ngược lại. Vì thế chúng ta không được
xem nhẹ bất cứ hình thức giáo dục nào cả.
Để thực hiện tốt giáo dục gia đình ông bà, cha mẹ,... nên
trang bị cho mình nền tảng kiến thức thật tốt về tâm lý, văn
hóa, gia đình, lối sống lành mạnh và đặc biệt là về giáo dục.
Chức năng về kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Có hai nhóm gia đình cơ bản: gia đình tiêu dùng, gia đình
tham gia vào hoạt động kinh tế (sản xuất – kinh doanh – tiêu
dùng) hoặc chỉ là (kinh doanh – tiêu dùng). Khác với những
đơn vị kinh tế khác, các gia đình tham gia trực tiếp vào quá
trình sản xuất và tái sản xuất ra tư liệu sản xuất và tiêu dùng
là đơn vị duy nhất thực hiện những công việc đó. Còn về
những gia đình chỉ tham gia vào tiêu thụ, đó là một hành
động nhằm mục đích duy trì sự sống và năng lực lao động của
từng thành viên trong gia đình. Nhờ đó mà thu nhập của các
thành viên cũng được sử dụng một cách hợp lý đáp ứng được
nhu cầu về cả vật chất và tinh thần của mỗi người khiến
không khí trong gia đình tích cực, lành mạnh; tăng cường sức
khỏe, duy trì lối sống riêng của mỗi người.
lOMoARcPSD|12184112
11
Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, nhiều
gia đình bị cuốn theo chuyện làm ăn, kiếm tiền mà quên đi
trách nhiệm của mình còn có việc chăm sóc con cái. Khi ấy
chất lượng cuộc sống trong gia đình, mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình sẽ bị suy giảm. Nhưng nếu không
quan tâm đến kinh tế thì gia đình sẽ không đủ điều kiện trang
trải cuộc sống, sau đó cũng sẽ dẫn đến sự thiếu thốn vật chất,
không có khả năng quản lý cuộc sống, cơ hội học tập và phát
triển của con cái bị hạn chế và cuối cùng cũng sẽ làm cho tình
cảm gia đình sứt mẻ. Vậy nên, cần cân bằng và hài hòa giữa
việc sản xuất và tiêu dùng trong từng gia đình đảm bảo được
lợi ích cho tất cả các thành viên và để cho họ có cơ hội tốt để
phát triển.
Chức năng đáp ứng nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm con
người
Gia đình là tổ ấm, là nơi mỗi chúng ta tìm về sau những giông
bão của cuộc đời, nơi xoa dịu tâm hồn, cảm xúc của mỗi con
người sau những ngày lao động nặng nhọc mệt mỏi. Vậy nên
nhu cầu cảm xúc tâm sinh lý trong mỗi gia đình là một điều
vô cùng cơ bản
Chỉ khi ở gia đình, chúng ta mới có thể bộc lộ cảm xúc, tâm tư
một cách thoải mái nhất, được chia sẻ được cảm thông cùng
với những người thân yêu một điều rất khó thực hiện bên
ngoài xã hội. Đặc biệt trong hoàn cảnh xã hội ngày càng phát
triển, tất cả các lĩnh vực đều có yêu cầu rất cao nên không dễ
lOMoARcPSD|12184112
12
dàng gì đối với cá nhân trong việc đối mặt với cuộc sống. Vậy
nên vấn đề về tâm sinh lý lại càng trở nên quan trọng.
Trong một gia đình, trẻ nhỏ cần được bảo vệ và phát triển
toàn diện; người già cần được chăm sóc. Và hơn nữa có thể
đáp ứng được nhu cầu giữa vợ chồng, tránh việc quan hệ bừa
bãi dẫn đến các bệnh liên quan đến quan hệ tình dục không
mong muốn.
Tất cả các chức năng trên đều góp phần xây dựng nên một
gia đình hoàn hiện và toàn diện. Mỗi gia đình đều cần phải
dốc hết sức mình để góp sức mình vào việc phát huy rõ ràng
tất cả các chức năng đó của xã hội trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
lOMoARcPSD|12184112
13
CHƯƠNG 2: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, gia đình Việt
Nam đã có sự biến đổi về quy mô kết cấu gia đình; chức năng
tái sản xuất con người; kinh tế và tổ chức tiêu dùng; nhu cầu
tâm sinh lý con người và quan hệ cơ bản của gia đình. Những
điều đó đều là ảnh hưởng bởi những yếu tố khách quan và
chủ quan của thời kỳ như: định hướng xã hội chủ nghĩa về sự
phát triển thị trường; xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
xu thế toàn cầu hóa... Tất cả những biến đổi ấy còn tạo nên
sự phát triển của xã hội.
2.1, Biến đổi về quy mô, kết cấu gia đình
Hiện nay, kiểu gia đình hạt nhân (gia đình chỉ gồm hai thế hệ
cha mẹ và con cái; số con cũng không nhiều như trước kia)
ngày càng tăng ở cả thành thị và nông thôn; chiếm ưu thế
hơn so với gia đình đa thế hệ như trước kia (gia đình gồm từ
ba thế hệ trở lên). Từ đó cho thấy, quy mô gia đình ở Việt
Nam đang có xu hướng thu nhỏ, số lượng các thành viên
trong gia đình trở nên ít đi còn được gọi là “gia đình quá độ”.
“Chỉ trong vòng 40 năm quy mô gia đình đã giảm từ 5.22
người/hộ năm 1979 xuống còn 4 người năm 2018”[1]. Số ít
lOMoARcPSD|12184112
14
còn có những gia đình đơn thân, nhưng số lượng gia đình hai
thế hệ vẫn là phổ biến nhất. Trong quá trình này, sự giải thể
của hình thức gia đình truyền thống và phát triển hình thức
gia đình mới là một điều tất yếu.
Khi quy mô gia đình ngày càng thu nhỏ, cũng đáp ứng yêu
cầu và điều kiện thời đại mới đặt ra. Số lượng các thành viên
trong gia đình ít đi, khiến cho các thành viên trong gia đình có
điều kiện để quan tâm lẫn nhau; đặc biệt bố mẹ có nhiều thời
gian để chăm sóc, quan tâm đến con cái. Tuy nhiên, cũng
không thiếu những trường hợp vì bị cuốn theo guồng quay
của tiền bạc, của cơm áo gạo tiền mà các thành viên trong
gia đình càng dần trở nên xa cách, bố mẹ không có đủ thời
gian quan tâm đến con cái, khiến tình cảm gia đình ngày càng
mờ nhạt. Bên cạnh đó vì số lượng con được sinh ra ít hơn, nên
quan niệm trọng nam kinh nữ, cố đẻ con trai cũng giảm
mạnh, sự bình đẳng nam-nữ tăng cao, đề cao cuộc sống riêng
tư của mỗi cá nhân, hạn chế những mâu thuẫn trong gia đình
nhiều thế hệ trước kia. Sức khỏe sinh sản của người phụ nữ
cũng được đảm bảo. Gia đình ngày càng thay đổi một cách
tích cực và tốt đẹp hơn cũng chính là phản ánh nên sự thay
đổi của xã hội để dần thích nghi với thời đại mới.
2.2, Biến đổi chức năng tái sản xuất con người
Hiện nay, tùy theo chính sách của xã hội, tình hình dân số và
nhu cầu lao động mà việc sinh con phải chịu sự ảnh hưởng
theo. Không những thế nhờ y học và sinh học ngày càng phát
triển nên còn có thể quyết định được số lượng và thời gian
lOMoARcPSD|12184112
15
sinh con. Trước kia vào những năm 70 và 80 của thế kì XX,
nhà nước đã tuyên truyền và phổ biến rộng rãi về điều lệ
khuyến khích mỗi hộ gia đình sinh từ một đến hai con. Nhưng
vì số lượng dân số già nước ta ngày càng có xu hướng tăng
nên nhà nước đã lập ra kế hoạch khuyến khích sinh hai con để
đảm bảo lợi ích của từng hộ gia đình và duy trì sự phát triển
của toàn xã hội
“Quyết định 588 về “Chương trình điều chỉnh mức sinh
phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030” vừa được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt có nhiều nội dung đáng
chú ý, được người dân quan tâm như: ... bãi bỏ chính
sách sinh ít con, khuyến khích sinh đủ 2 con...”[4]
Trước kia, trong gia đình Việt Nam truyền thống thường sinh
rất nhiều con do quan niệm càng đông con càng tốt, cố đẻ
con trai để nối dõi tông đường hay đơn giản hơn chỉ là nhu
cầu về sản xuất nông nghiệp. Nhưng hiện nay số lượng con
trong gia đình đã được giảm đi đáng kể do xã hội phát triển
nên mọi thứ cũng thay đổi và phát triển theo được thể hiện ở:
quan niệm trong nam khinh nữ cũng đã giảm đi khá nhiều;
quyền bình đẳng giữa nam-nữa được đề cao; mức sinh của
phụ nữ đã giảm đi rất nhiều. Hạnh phúc gia đình không chỉ
được quyết định dự trên số lượng con trong gia đình mà còn
phụ thuộc vào yếu tố tâm lý, kinh tế và giáo dục.
2.3, Biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Trong tình hình hiện nay, có nhiều gia đình đã chuyển từ sản
xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu cá nhân sang kinh doanh
lOMoARcPSD|12184112
16
phục vụ cho xã hội và còn có những gia đình sản xuất kinh
doanh đáp ứng nhu cầu của một đất nước nay đã mở rộng ra
quy mô toàn cầu. Điều đó cho thấy hiện nay nền kinh tế gia
đình là một thành phần tất yếu cho nền kinh tế quốc dân.
Tuy thế nhưng do quy mô nhỏ, lao động còn ít và theo phương
hướng tự sản xuất là chính nên gia đình gặp khá nhiều khó
khăn trong việc sản xuất và kinh doanh hàng hóa ở nền công
nghiệp hiện đại ngày nay.
Gia đình dần tiến đến một thành phần tiêu dùng của xã hội
nhờ vào sự phát triển kinh tế sản xuất và nguồn thu nhập
bằng tiền của họ. Các hộ gia đình đang dần chuyển sang tiêu
dùng nhưng hàng hóa và dịch vụ thuộc về xã hội.
2.4, Biến đổi chức năng giáo dục
Trước kia, giáo dục gia đình là chủ yếu, là nền tảng và cơ sở
dành cho giáo dục xã hội. Thì hiện nay giáo dục xã hội lại trở
nên rất phổ biến, đưa ra những yêu cầu và điều kiện để giáo
dục gia đình đáp ứng.
Theo xu hướng đất nước ngày càng phát triển, giáo dục gia
đình hiện nay thường có xu hướng đầu tư tài chính vào giáo
dục để cho con cái có cơ hội được hưởng một nền giáo dục tốt
nhất. Ngoài những kiến thức về giao tiếp ứng xử trong gia
đình, họ hàng,... thì giáo dục gia đình ngày nay còn có nhiệm
vụ trau dồi cho con cái những kiến thức về tự nhiên về xã hội
để theo kịp sự phát triển của thế giới.
lOMoARcPSD|12184112
17
Ngày nay giáo dục xã hội và kinh tế thị trường ngày càng phát
triển khiến cho giáo dục gia đình có xu hướng giảm “Ở thành
phố, nhiều bậc phụ huynh có rất ít thời gian dành cho con cái.
Nhiều gia đình phải phó mặc cho người giúp việc. Phần lớn
các trường tiểu học và trung học cơ sở đã tổ chức học bán trú
cả ngày, nên hầu như việc học hành, dạy dỗ con cái từ nhà
trẻ, mẫu giáo trở lên là các gia đình dường như giao cho nhà
trường và xã hội”[10]. Tuy xã hội ngày càng phát triển nhưng
bên cạnh đó cũng xuất hiện rất nhiều những tệ nạn xã hội,
điều đó khiến cho giáo dục xã hội bị mất điểm trong mắt các
bậc phu huynh trong việc giáo dục và phát triển nhân cách,
đạo đức, cho con cái họ. Chẳng ai là muốn con mình bị liên
lụy đến những hiên tượng tiêu cực ấy.
Ngày càng xuất hiện nhiều hiện tượng trẻ em bó học, hút ma
túy, dính vào đường dây mại dâm,... thật sự là một vấn đề
đáng quan ngại đối với gia đình và toàn xã hội trong việc giáo
dục và chăm sóc con trẻ.
2.5, Biến đổi chức năng đáp ứng nhu cầu tâm sinh lý, 
tình cảm con người
Muốn giữ cho gia đình hòa hợp, vững chắc thì vấn đề quan hệ
tình cảm, cảm xúc giữa bố mẹ, con cái anh chị em trong gia
đình là vô cùng quan trọng. Nếu sống trong một gia đình mà
thái độ mỗi người với nhau như một cỗ máy, không có năng
lực bộc lộ tình cảm thì đó chỉ là sống để suy trì nghĩa vụ chứ
không gọi là một gia đình đúng nghĩa. Hơn nữa do xã hội ngày
càng phát triển nên việc hạn chế sinh nhiều con trong một gia
lOMoARcPSD|12184112
18
đình lại càng trở nên phổ biến. Các gia đình hầu hết là có tối
đa hai con, có những gia đình còn chỉ đẻ một con cho nên đời
sống tình cảm của các thành viên trong gia đình sẽ mất đi sự
phong phú, do thiếu đi mối quan hệ anh chị em đặc biệt là
trong các gia đình một con.
Do tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhiều hộ gia
đình đã đầu tư kinh doanh, làm bất động sản vì thế đã trở nên
giàu có. Ngược lại còn những gia đình chỉ đi lao động làm
công ăn lương nên cuộc sống chỉ đủ ăn thậm chí có nhiều gia
đình còn rơi vào hoàn cảnh nghèo đói, thiếu thốn. Từ đó đã
hình thành nên sự phân hóa giàu nghèo hết sức rõ ràng. Nhà
nước nên đưa ra những chính sách và giải pháp như hộ trợ
cho các hộ gia đình nghèo khó để xử lý vấn đề này sớm nhất
có thể.
Và quan trọng là việc thay đổi những quan niệm xưa cũ của
xã hội và gia đình Việt Nam truyền thống như: trọng nam
khinh nữ, mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu,... Trước kia
việc trọng nam kinh nữ thật sự rất phổ biến trong các gia đình
Việt Nam. Luôn luôn có một suy nghĩa rằng “ Nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô” nghĩa là có con trai mới gọi là có con,
còn có con gái thì coi như cả có gì. Xã hội và cả gia đình lúc
nào cũng đề cao quá mức chức vụ và vai trò của người đàn
ông trong trong khi đó người phụ nữ bị coi khinh, coi rẻ.
Chúng ta cần quyền bình đẳng giữa hai giới về mọi việc trong
cuộc sống. Chẳng nói đâu xa chính là trách nhiệm phụng
dưỡng chăm sóc ông bà cha mẹ, thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh
lOMoARcPSD|12184112
19
đó nhà nước cần có những chính sách, biện pháp giáo dục giới
tính cho con trẻ để tránh xảy ra những hậu quả không đáng
có. Và cả có định hướng mới về phương pháp giáo dục trong
gia đình dành cho các bậc cha mẹ để dễ dàng hơn trong quá
trình hình thành nhân cách và nhận thức của trẻ; đáp ứng
được nhu cầu tự do phát triển của người phụ nữ trong mối
quan hệ hôn nhân, trách nhiệm làm dâu con trong truyền
thống.
Để làm được những điều trên thật sự không dễ dàng. Việc đó
yêu cầu rất cao về việc tạo nên những chuẩn mực mới, nên sự
hài hòa giữa các thành viên trong gia đình; của gia đình và xã
hội phải đặt lên hàng đầu.
2.6, Biến đổi về các mối quan hệ cơ bản trong gia đình
Trong tình tình đất nước hiện nay, dưới sự ảnh hưởng của cơ
chế thị trường, khoa học công nghệ ngày càng phát triển, xu
thế toàn cầu hóa,... tình trạng hôn nhân và gia đình tại Việt
Nam đang phải đối mặt với những khó khăn và thách thức lớn
làm xuất hiện nhiều mặt tối trong gia đình như: quan hệ vợ
chồng rạn nứt, lỏng lẻo; tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình tăng
cao “Điều tra về gia đình Việt Nam năm 2006 cho thấy, nếu
năm 2000 chỉ có 51.361 vụ ly hôn, thì năm 2005 đã tăng lên
65.929 vụ”[11]. Bên cạnh đó còn xuất hiện nhiều bi kịch
trong gia đình như người già neo đơn, trẻ em sống ích kỷ, bạo
hành gia đình, xâm hại tình dục,... Dẫn đến giá trị truyền
thống trong gia đình bị lãng quên, bị xem nhẹ và ngày càng
nhiều gia đình đơn thân, ly thân xuất hiện. Và áp lực về cuộc
lOMoARcPSD|12184112
20
sống tiền bạc, công việc... cũng làm cho hôn nhân trở thành
gánh nặng cho nhiều người trong xã hội.
Thời xưa, người đàn ông chính là trụ cột gia đình, là người
đảm nhận công việc kiếm tiền nuôi sống gia đình, quyết định
những công việc quan trọng trong gia đình vì thế mọi quyền
lực trong gia đình đều thuộc về người đàn ông. Tuy nhiên hiện
nay, cuộc sống hiện đại, đã xuất hiện thêm các hình thức
khác như: người vợ là trụ cột gia đình hoặc cả hai sẽ cùng
nhau gánh vác. Nếu được coi là trụ cột gia đình thì họ phải là
người có phẩm chất lãnh đạo, có năng lực vượt trội, được các
thành viên coi trọng và là nguồn cung cấp tài chính chủ yếu
trong gia đình để đáp ứng được tình hình kinh tế đất nước
ngày càng đi lên.
lOMoARcPSD|12184112
21
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiểu biết,
nhận thức về xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam
Muốn phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ta cần tiếp tục thúc đẩy công
tác tuyên truyền để các chính quyền, cấp ủy, các Đoàn thể từ
từ Trung ương đến cơ sở có thêm cái nhìn sâu sắc về vị trí, vai
trò và tầm ảnh hưởng của gia đình và công cuộc phát triển gia
đình Việt Nam hiện nay. Để làm được điểu đó phải có những
chính sách, điều khoản của cấp ủy và chính quyền các cấp để
xác định được nội dung và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
chương trình kết hợp, cộng tác thường niên của các bộ,
ngành, địa phương.
Nâng cao đời sống vật chất, kinh tế gia đình
Chính sách phát triển kinh tế - xã hội ngày càng được hoàn
thiện đã góp phần củng cố và phát triển kinh tế gia đình. Các
gia đình thương binh, liệt sĩ, các gia đình dân tộc ít người,
vùng sâu vùng xa hay hộ nghèo, khó khăn đã được ưu tiên hỗ
trợ về kinh tế. Các gia đình kinh doanh sản xuất cũng có chính
sách hỗ trợ kịp thời việc sử dụng các nguyên liệu tại chỗ, giúp
gia đình tham gia sản xuất, phục vụ xuất khẩu. Việc vay vốn
ngắn hạn và dài hạn của các hộ gia đình cũng ngày càng
được khai thác và tạo điều kiện mục đích để giảm tình trạng
lOMoARcPSD|12184112
22
đói nghèo, mở rộng cơ cấu sản xuất, phát triển kinh tế, thúc
đẩy kinh tế trang trại, làm giàu cho chính đảng.
Kế thừa giá trị của gia đình truyền thống, tiếp thu những
phát hiện, nghiên cứu để phát triển gia đình Việt Nam
hiện nay
“Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X: Phát huy
những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam,
thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành
mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi
dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy
văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[6]. Gia đình Việt Nam
trong thời kỳ mới xuất hiện rất nhiều biến đổi và trong đó có
cả tích cực và tiêu cực. Chính vì thế, Nhà nước cần và các cơ
quan ban ngành cần duy trì, phát triển những mặt tốt, mặt
tích cực; xác định và hạn chế những mặt tiêu cực, những hủ
tục của gia đình xưa cũ.
Xây dựng gia đình Việt Nam hiện đại cũng chính là xây dựng
những hình thức gia đình phù hợp với công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay và hội nhập trong nền
kinh tế quốc tế. Muốn hoàn thành được tốt nhiệm vụ này,
chúng ta phải tiếp thu và phát huy những giá trị văn hóa tốt
đẹp của gia đình Việt Nam truyền thống và kết hợp cùng với
những đặc điểm của gia đình hiện đại để phù hợp với tình
lOMoARcPSD|12184112
23
hình phát triển của tất yếu của xã hội. Đó cũng chính là
những bước để tiến đến một tế bào gia đình lành mạnh, một
tổ ấm đúng nghĩa của mỗi cá nhân.
Tiếp túc đẩy mạnh chất lượng phong trào gia đình văn
hóa
Gia đình văn hóa là một hộ gia đình đáp ứng đủ các chỉ tiêu:
ấm no, hạnh phúc, hòa thuận, tiến bộ và khỏe mạnh; thực
hiện tốt nghĩa vụ công dân và kế hoạch hóa gia đình; đoàn
kết, giúp đỡ những người trong cộng đồng dân cư. Đó là một
danh hiệu mà gia đình nào cũng muốn đạt được.
Phong trào gia đình văn hóa ban đầu được hình thành tại một
số địa phương tại tỉnh Hưng Yên và sau đó lan rộng tại nhiều
địa phương ở Việt Nam. Xây dựng gia đình văn hóa đã có
những tác động rất tích cực đến các hộ gia đình ở Việt Nam,
khiến cách ứng xử, đạo đức giữa các thành viên trong gia đình
trở nên tốt đẹp hơn, chất lượng cuộc sống ngày càng được
nâng cao. Tại Thanh Hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” đã đạt được những thành tựu lớn
“Năm 2018, toàn tỉnh có 758.120/947.205 gia đình đạt danh
hiệu văn hóa, đạt tỷ lệ 80%; năm 2019, có 776.759/957.825
số hộ gia đình được công nhận danh hiệu gia đình văn hóa,
đạt tỷ lệ 81,1%; năm 2020, có 862.043/957.825 hộ gia đình
tham gia đăng ký phấn đấu để xét công nhận danh hiệu gia
đình văn hóa, đạt tỷ lệ 90%”[3]. Muốn phát triển gia đình Việt
Nam hiện nay, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu và đưa ra
những cách thức mở rộng mô hình gia đình văn hóa trong thời
lOMoARcPSD|12184112
24
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tiếp thu những giá
trị tiên tiến và dự báo những biến đổi của gia đình trong thời
kỳ mới và từ đó đưa ra những phương hướng giải quyết khó
khăn trong gia đình.
Các chỉ tiêu của phong trao gia đình văn hóa cần được đánh
giá một cách công bằng, khách quan nhất, dựa theo nguyên
tắc chung và có sự ủng hộ công nhận và hưởng ứng của toàn
công dân. Đừng chỉ vì một cái danh hiệu mà chạy theo thành
tích, thể hiện không chân thực mục đích của phong trào gia
đình văn hóa.
KẾT LUẬN
Gia đình đã được hình thành từ rất lâu đời, đóng góp một vị trí
và vai trò quan trọng trong cuộc sống con người. Từ trước đến
nay, gia đình đã trải qua rất nhiều thời kỳ biến đổi để có
những đặc tính, đặc điểm phù hợp với thời đại nhưng nó vẫn
luôn giữ là tổ ấm, là nơi để trở về của mỗi cá nhân.
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, gia đình cũng có
một vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng cho xã hội, góp phần
lOMoARcPSD|12184112
25
giúp xã hội phát triển và cũng nhờ vào sự đổi mới của xã hội
để phát triển. Bên cạnh đó còn xuất hiện nhiều biến đổi của
gia đình trong thời đại này, những biến đổi ấy đều được ảnh
hưởng từ sự phát triển của thời đại mới, của sự hội nhập và
phát triển về kinh tế, văn hóa, chính trị ở đất nước ta trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
Và vì thế chúng ta cần những giải pháp, cách thức để phát
triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Xã hội và gia đình cần kết hợp chặt chẽ với nhau để có
được những phương pháp tốt nhất để gia đình Việt Nam được
phát triển một cách toàn diện nhất có thể. Đặc biệt là trong
tình hình đất nước đang trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện
đại hóa; xu thế toàn cầu hóa;...
Hãy để gia đình luôn mang một tích chất đặc trưng của riêng
nó, để cho gia đình có vị trí và vai trò đúng với một gia đình
đích thực. Là một nơi không thể thiếu của mỗi cá nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lan Anh (2018), Bài 1: Biến đổi cấu trúc gia đình - So sánh
liên châu lục, Cổng thông tin điện tử Văn hóa, thể thao và du
lịch.
lOMoARcPSD|12184112
26
Trích dẫn nguồn: 
truc-gia-dinh-so-sanh-lien-chau-luc-622156.htm
2. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995), NXB Chính trị Quốc
gia – Sự thật tập 3, tr.41, Hà Nội.
3. Trần Giang (2021), Xây dựng gia đình văn hóa - nền tảng
hình thành con người văn hóa, Báo Thanh Hóa.
Trích dân nguồn: 
dung-gia-dinh-van-hoa-nen-tang-hinh-thanh-con-nguoi-van-
hoa/145178.htm
4. Liên Châu và Thu Hằng (2020), Khuyến khích sinh để có
dân số vàng, Báo thanh niên.
Trích dẫn nguồn: 
co-dan-so-vang-post952920.html
5. Nghiêm Sỹ Liêm (2017), Lý luận gia đình, bình đẳng giới ở
Việt Nam, tr.3, Hà Nội.
6. Trần Thị Tuyết Mai (2021), Xây dựng văn hóa gia đình trong
phát triển bền vững, Trưởng cán bộ quản lý văn hóa, thể thao
và du lịch.
Trích dẫn nguồn: 
hoa-gia-dinh-trong-phat-trien-ben-vung/
7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), tập 12, NXB Chính trị Quốc
gia – Sự thật tr.300, Hà Nội.
lOMoARcPSD|12184112
27
8. NXB Chính trị Quốc gia Giáo trình (2020), Giáo trình Chủ
nghĩa xã hội khoa học, tr.419, Hà Nội
9. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật (2021), Giáo trình Chủ
nghĩa xã hội khoa học, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
tr.243, Hà Nội.
10. Phan Thuận (2018), Chức năng gia đình và sự biến đổi từ
tiếp cận lý thuyết cấu trúc chức năng, Trang thông tin điện
tử Tổng cục dân số - Kế hoạch hóa gia đình.
Trích dẫn nguồn: 
tiet/chuc-nang-gia-%C4%91inh-va-su-bien-%C4%91oi-%0Atu-
tiep-can-ly-thuyet-cau-truc-chuc-nang-8404-3309.html
11. Unicef, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống
kê và Viện nghiên cứu Gia đình và Giới (2008), Kết quả
điều tra gia đình năm 2006, NXB Thống kê, Hà Nội.
lOMoARcPSD|12184112

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_su_bien_doi_cua_gia_dinh_viet_nam_trong_thoi_ky_qu.pdf