Tiểu luận Tài chính công và an sinh xã hội tại Việt Nam

doc 30 trang yenvu 29/10/2023 1250
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tài chính công và an sinh xã hội tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tài chính công và an sinh xã hội tại Việt Nam

Tiểu luận Tài chính công và an sinh xã hội tại Việt Nam
Lời mở đầu
C
uộc sống ngày càng phát triển, ngày càng tiến bộ, con người ngày càng có cuộc sống đầy đủ, phong phú hơn, song quy luật “sinh lão bệnh tử” không chừa một ai, cuộc sống luôn luôn tồn tại những khó khăn, rủi ro khó lường từ các hoạt động của con người, từ thiên nhiên, dịch bệnh, các quá trình phát triển kinh tế - xã hội...Điều đó tác động xấu đến chất lượng cuộc sống của con người, để tồn tại và phát triển con người đã có nhiều biện pháp để khắc phục khó khăn. An sinh xã hội (ASXH) ra đời đã ngăn chặn và hạn chế bớt những khó khăn, rủi ro trên.
Truyền thống tương trợ, hỗ trợ, san sẻ nhau đã xuất hiện từ xa xưa lúc con người cùng nhau săn bắt, hái lượm để tồn tại, cùng nhau chiến đấu với thú dữ, thiên tai, và cho đến ngày nay trước những biến cố, rủi ro của cuộc sống, tinh thần ấy vẫn được phát huy mạnh mẽ và ngày càng có những hình thức đa dạng như: bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội, trợ cấp gia đình, các chương trình xoá đói giảm nghèo, các quỹ tiết kiệm xã hội...Đối với nước ta, bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước. 
Vậy an sinh xã hội (ASXH) là gì? Thực trạng ASXH ở nước ta như thế nào? Còn những hạn chế, tiêu cực gì trong ASXH? Vai trò của chính phủ như thế nào trong việc giúp cuộc sống của người dân được nâng cao hơn, đảm bảo công bằng hơn?...Bằng phương pháp phân tích, tổng hợp từ những tài liệu trên sách, báo, internet...và những gì thấy được ở thực tế, nhóm tiểu luận sẽ giải đáp những câu hỏi trên, đồng thời cũng đưa ra một số giải pháp trong việc thực hiện an sinh xã hội được tốt hơn, công bằng hơn.
Song kiến thức là bao la, thực tế lại là một bí ẩn khó có thể khám phá hết mọi khía cạnh, những hiểu biết của chúng em lại còn hạn chế nên khó có thể tránh được thiếu sót trong quá trình viết bài này. Rất mong  thầy và các bạn góp ý thêm để bài tiểu luận hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
Phần 1: Khái quát về An Sinh Xã Hội ( ASXH)
Khái niệm
Theo tiếng Anh, ASXH thường được gọi là Social Security.Theo nghĩa chung nhất, Social Security là sự đảm bảo thực hiện các quyền của con người được sống trong hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ luật pháp; được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có việc làm, có nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già. Theo nghĩa hẹp, Social Security được hiểu là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho người lao động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cả, cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người nghèo đói và những người bị thiên tai, dịch hoạTheo chúng tôi, ASXH mà chúng ta đang nói tới, nên được hiểu theo nghĩa hẹp của khái niệm Social Security này. Bên cạnh khái niệm này, từ những cách tiếp cận khác nhau, một số nhà khoa học đưa ra những khái niệm rộng- hẹp khác nhau về ASXH.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đang sử dụng: ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Như vậy, về mặt bản chất, ASXH là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội. Phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công cộng. Mục đích là tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc.
Việc có một hệ thống an sinh xã hội có thể làm thay đổi cuộc sống của mọi người theo chiều hướng tốt lên cũng như không có một hệ thống an sinh xã hội cũng làm thay đổi cuộc sống của họ theo chiều hướng xấu đi.
Hệ thống an sinh xã hội của mỗi nước có tác động rất lớn đến an sinh khu vực và thậm chí là cả thế giới.
 2. Các bộ phận cấu thành của ASXH
 2. 1- Bảo hiểm xã hội
Đây là bộ phận lớn nhất trong hệ thống ASXH. Có thể nói, không có BHXH thì không thể có một nền ASXH vững mạnh. Theo nghĩa hẹp, cụ thể, có thể hiểu BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần bảo đảm an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
BHXH có những điểm cơ bản là: BHXH dựa trên nguyên tắc cùng chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia; đòi hỏi tất cả mọi người tham gia phải đóng góp tạo nên một quỹ chung; các thành viên được hưởng chế độ khi họ gặp các “sự cố” và đủ điều kiện để hưởng; chi phí cho các chế độ được chi trả bởi quỹ BHXH; nguồn quỹ được hình thành từ sự đóng góp của những người tham gia, thường là sự chia sẻ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, với một phần tham gia của Nhà nước; đòi hỏi tham gia bắt buộc, trừ những trường hợp ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử dụng của Quỹ được đầu tư tăng trưởng, nâng cao mức hưởng cho người thụ hưởng chế độ BHXH; các chế độ được bảo đảm trên cơ sở các đóng góp BHXH, không liên quan đến tài sản của người hưởng BHXH; các mức đóng góp và mức hưởng tỷ lệ với thu nhập trước khi hưởng BHXH
 2.2- Trợ giúp xã hội
Đó là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình.
Trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng và xã hội bằng tiền hoặc bằng các điều kiện và phương tiện thích hợp để đối tượng được giúp đỡ có thể phát huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình, sớm hòa nhập trở lại với cuộc sống của cộng đồng.
 2.3- Trợ cấp gia đình
Trong hệ thống ASXH của nhiều nước quy định chế độ BHXH dựa trên những nhu cầu đặc biệt và có những chi phí bổ sung gắn với gia đình.
Những phương pháp áp dụng bao gồm việc sử dụng cơ cấu thuế để gắn với trách nhiệm gia đình. Người không có con phải nộp thuế cao hơn những người có con; người ít con phải nộp thuế nhiều hơn người đông con
 2.4- Các quỹ tiết kiệm xã hội
Ngoài BHXH, trong hệ thống ASXH của nhiều nước có tổ chức các quỹ tiết kiệm dựa trên đóng góp cá nhân.
Những đóng góp được tích tụ dùng để chi trả cho các thành viên khi sự cố xảy ra. Đóng góp và khoản sinh lời được chi trả một lần theo những quy định.
Từng cá nhân nhận khoản đóng góp của mình và khoản sinh lời, không chia sẻ rủi ro cho người khác
 2. 5. Các dịch vụ xã hội được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng
Trợ cấp cơ bản cho mọi cư dân, hoặc tất cả những người đã từng làm việc trong một khoảng thời gian nhất định.
rợ cấp này không liên quan đến tài sản trước đó của người thụ hưởng; các chế độ được chi trả từ ngân sách Nhà nước.
 2.6.Trách nhiệm từ chủ sử dụng lao động
Thường chỉ là hệ thống tai nạn nghề nghiệp hoặc hệ thống đền bù cho người lao động.
Chủ yếu liên quan đến tai nạn tại nơi làm việc và bệnh nghề nghiệp.
Trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với chăm sóc y tế và bồi thường tuỳ theo mức độ tai nạn và bệnh nghề nghiệp.
Có thể bao gồm một phần để chi trả chế độ cho người lao động trong thời gian ngừng việc (nằm trong chế độ BHXH).
 2.7. Dịch vụ xã hội khác
 3. Bản chất và tính tất yếu khách quan của an sinh xã hội
 Theo khái niệm an sinh xã hội ở trên, có thể thấy:
 + ASXH trước hết đó là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình.
 + Sự bảo vệ này được thực hiện thông qua các biện pháp công cộng.
 + Mục đích của sự bảo vệ này nhằm giúp đỡ các thành viên của xã hội trước những biến cố, những “ rủi ro xã hội” dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập.
 Như vậy, có thể nói, bản chất sâu xa của ASXH là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội với phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Có thể thấy rõ bản chất của ASXH từ những khía cạnh sau:
3.1 ASXH là biểu hiện rõ rệt của quyền con người đã được Liên hợp quốc thừa nhận.
Để thấy rõ bản chất của ASXH, cần hiểu rõ mục tiêu của nó. Mục tiêu của ASXH là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ cho tất cả mọi thành viên của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do nhiều nguyên nhân khác nhau, như ốm đau, thương tật, già cả gọi chung là những biến cố và những “rủi ro xã hội”. Để tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp, ASXH dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội, được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương thức và các biện pháp khác nhau.
ASXH, như đã nêu, có nội dung rất rộng lớn, nhưng tập trung vào ba vấn đề chủ yếu:
 	Thứ nhất, là trụ cột cơ bản, cần thiết cho sự bảo đảm, đó là sự BHXH. Có thể nói BHXH là xương sống của hệ thống ASXH. Chỉ khi có một hệ thống BHXH hoạt động có hiệu quả thì mới có thể có một nền ASXH vững mạnh.Thông qua các trợ cấp BHXH, người lao động có được một khoản thu nhập bù đắp hoặc thay thế cho những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất trong những trường hợp họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
Thứ hai, là sự cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động và các thành viên gia đình họ, nhằm bảo đảm cho họ tái tạo được sức lao động, duy trì và phát triển nền sản xuất xã hội, đồng thời phát triển mọi mặt cuộc sống của con người, kể cả phát triển bản thân con người.
Thứ ba, là các loại trợ giúp xã hội (cung cấp tiền, hiện vật) cho những người có rất ít hoặc không có tài sản (người nghèo khó), những người cần sự giúp đỡ đặc biệt cho các gánh nặng gia đình ASXH cũng khuyến khích, thậm chí bao quát cả những loại trợ giúp như miễn giảm thuế, trợ cấp về ăn, ở, dịch vụ đi lại
Hệ thống ASXH hiện đại phân phối lại tiền bạc, của cải và các dịch vụ xã hội có lợi cho những nhóm người “yếu thế” hơn (hiểu một cách tương đối, biện chứng nhất – TG) trong cộng đồng xã hội.
Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của ASXH là nhằm che chắn, bảo vệ cho các thành viên của xã hội trước mọi “biến cố xã hội” bất lợi.
3.2 ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp.
Mỗi người trong xã hội từ những địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo khác nhau là những hiểu hiện khác nhau của một hệ thống giá trị xã hội. Nhưng vượt lên trên tất cả, với tư cách là một công dân, họ phải được bảo đảm mọi mặt để phát huy đầy đủ những khả năng của mình, không phân biệt địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo ASXH tạo cho những người bất hạnh, những người kém may mắn hơn những người bình thường khác có thêm những điều kiện, những lực đẩy cần thiết để khắc phục những “biến cố”, những “rủi ro xã hội”, có cơ hội để phát triển, hoà nhập vào cộng đồng. ASXH kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con người, kể cả những người giàu và người nghèo; người may mắn và người kém may mắn, giúp họ hướng tới những chuẩn mực của Chân – Thiện – Mỹ. Nhờ đó, một mặt có thể chống thói ỷ lại vào xã hội; mặt khác, có thể chống lại được tư tưởng mạnh ai nấy lo, “đèn nhà ai nhà ấy rạng” ASXH là yếu tố tạo nên sự hòa đồng mọi người không phân biệt chính kiến, tôn giáo, chủng tộc, vị trí xã hội Đồng thời, giúp mọi người hướng tới một xã hội nhân ái, góp phần tạo nên một cuộc sống công bằng, bình yên.
3.3 ASXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương thân tương ái của cộng đồng. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là một trong những nhân tố để ổn định và phát triển xã hội. Sự san sẻ trong cộng đồng, giúp đỡ những người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con người, bảo đảm cho một xã hội phát triển lành mạnh.
 3.3.1. ASXH thực hiện một phần công bằng và tiến bộ xã hội. Trên bình diện xã hội, ASXH là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống của các tầng lớp dân cư. Trên bình diện kinh tế, ASXH là một công cụ phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng, được thực hiện theo hai chiều ngang và dọc. Sự phân phối lại thu nhập theo chiều ngang là sự phân phối lại giữa những người khoẻ mạnh và người ốm đau, giữa người đang làm việc và người đã nghỉ việc. Một bên là những người đóng góp đều đặn vào các loại quỹ ASXH hoặc đóng thế, còn bên kia là những người được hưởng trong các trường hợp với các điều kiện xác định. Thông thường, sự phân phối lại theo chiều ngang chỉ xảy ra trong nội bộ những nhóm người được quyền hưởng trợ cấp (một “tập hợp đóng” tương đối).
Sự phân phối lại thu nhập theo chiều dọc là sự chuyển giao tài sản và sức mua của những người có thu nhập cao cho những người có thu nhập quá thấp, cho những nhóm người “yếu thế”. Phân phối lại theo chiều dọc được thực hiện bằng nhiều kỹ thuật khác nhau: trực tiếp (thuế trực thu, kiểm soát giá cả, thu nhập và lợi nhuận) hoặc gián tiếp (trợ cấp thực phẩm, cung cấp hiện vật hoặc các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế, nhà ở, giúp đỡ và bảo vệ trẻ em). Việc phân phối lại theo chiều dọc có ý nghĩa xã hội rất lớn (thực hiện cho một “tập hợp mở” tương đối).
 3.3.2. ASXH góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội.Bảo đảm phân phối công bằng hơn về thu nhập và của cải, tiến tới công bằng xã hội; đạt được hiệu quả sản xuất, bảo đảm việc làm, mở rộng và cải thiện về thu nhập giáo dục và y tế cộng đồng; giữ gìn và bảo vệ môi trường Đáp ứng những nhu cầu tối cần thiết cho những người gặp khó khăn, bất hạnh là vấn đề được ưu tiên trong chiến lược phát triển của thế giới. Những lưới đầu tiên của ASXH đã bảo vệ, giảm bớt sự khó khăn cho họ. Sự phát triển sau này của những lưới khác tạo ra sự đa dạng trong ASXH, giải quyết được những nhu cầu khác nhau của nhiều nhóm người trong những trường hợp “rủi ro xã hội”. Tuy nhiên, phải thấy rằng, ASXH không loại trừ được sự nghèo túng mà chỉ có tác dụng góp phần đẩy lùi nghèo túng, góp phần vào việc thúc đẩy tiến bộ xã hội.
 3.3.3. ASXH là một tất yếu khách quan trong cuộc sống xã hội loài người. Trong bất kỳ xã hội nào, ở bất cứ giai đoạn phát triển nào cũng đều có những nhóm dân cư, những đối tượng rơi vào tình trạng không thể tự lo liệu được cuộc sống, hoặc trong cảnh gặp sự cố nào đó trở thành những người “yếu thế” trong xã hội. Nếu trong xã hội có những nhóm người “yếu thế”, những người gặp rủi ro, bất hạnh thì cũng chính trong xã hội đó lại nẩy sinh những cơ chế hoặc tự phát, hoặc tự giác, thích ứng để giúp đỡ họ. Đây là cơ sở để hệ thống ASXH hình thành và phát triển. Tất nhiên, ASXH là một quá trình phát triển toàn diện, từ đơn giản đến phức tạp và ngày càng phong phú, đa dạng. 
Phần 2: Tìm hiểu và phân tích An Sinh Xã Hội ở Việt Nam ( ASXH)
Các vấn đề chung về ASXH ở Việt Nam
1.1 Khái niệm theo quan điểm ở Việt Nam
An sinh xã hội chỉ sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của mình, bằng một loạt những biện pháp công cộng, chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ
 1.2 Các bộ phận cấu thành chủ yếu của ASXH ở Việt Nam
Bảo hiểm xã hội.
Trợ giúp xã hội.
Trợ cấp gia đình.
Các quỹ tiết kiệm xã hội.
Các dịch vụ xã hội khác được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng
Các tổ chức chính liên quan đến ASXH ở Việt Nam
 	Bô lao đông -thương binh và xã hội
Bộ Y tế
Hội chữ thập đỏ
Ngân hàng chính sách xã hội 
 1.4 Vai trò và tầm quan trọng của ASXH ở Việt Nam.
 1.4.1 Vai trò của an sinh xã hội:
Hệ thống an sinh xã hội có vai trò là quản lý và đối phó với rủi ro, bao gồm ba nấc:
 Một là, phòng ngừa rủi ro thông qua hệ thống các chính sách bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội là bộ phận quan trọng nhất, có ý nghĩa vô cùng to lớn và thiết thực đối với đời sống của người lao động trong hệ thống an sinh xã hội. Với việc mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội đến mọi người dân dưới hai hình thức tham gia bắt buộc và tự nguyện; với chế độ bảo hiểm xã hội bằng các khoản trợ cấp dài hạn, trợ cấp ngắn hạn và bảo hiểm y tế; với việc quản lý và thực hiện bảo hiểm xã hội tập trung thống nhất, và với việc quỹ bảo hiểm xã hội được thanh toán độc lập dưới sự bảo trợ và điều hành của Nhà nước, thì hệ thống an sinh xã hội sẽ hoàn toàn có thể làm tốt chức năng phòng ngừa rủi ro.
Trong cuộc sống hầu như không ai không một lần gặp rủi ro, bất hạnh. Có những rủi ro đột xuất không thể dự đoán được, như tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, nhưng cũng có những rủi ro không ai có thể tránh được như bệnh tật, tuổi già. Bởi vậy, phòng ngừa rủi ro là nhiệm vụ của mỗi người, của toàn dân mà Nhà nước là người đứng ra tổ chức, điều hành. Phòng ngừa rủi ro phải phòng ngừa từ xa. Từ lúc con người còn trẻ khỏe, làm việc, sống bình thường, phải lo tích lũy một số vốn nào đó trong quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y tế để khi đã già, yếu không còn sức lao động nữa họ vẫn có thể sống được nhờ vào lương hưu, tiền bảo hiểm tuổi già, tiền bảo hiểm y tế tại các bệnh viện. Thực tế cho thấy, chi phí cho phòng ngừa rủi ro sẽ thấp hơn rất nhiều so với chi phí để khắc phục rủi ro.
 Hai là, giảm thiểu rủi ro. Rủi ro xảy ra có thể rất nặng nề, gây nên những mất mát rất lớn về vật chất và tinh thần, nhưng với hệ thống các chính sách an sinh xã hội, hậu quả của các rủi ro đó hoàn toàn có thể được giảm nhẹ, được khống chế ở mức độ có thể chấp nhận được. Để có thể giảm thiểu rủi ro, một mặt, Nhà nước phải có một hệ thống tổ chức, điều hành chặt chẽ, nhưng linh hoạt hệ thống an sinh xã hội; mặt khác, mọi thành viên trong xã hội cũng cần phải có ý thức tự giác tham gia vào các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quỹ phòng chống thiên tai, quỹ an sinh xã hội v.v.. trước hết vì cuộc sống của bản thân và gia đình của mỗi người, sau nữa là vì cộng đồng, sự ổn định và phát triển của xã hội. Việc giảm thiểu rủi ro này chủ yếu thuộc về các chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các chính sách trợ giúp xã hội có liên quan đến giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm.
 	 Ba là, khắc phục rủi ro được thực hiện chủ yếu thông qua các chính sách trợ giúp xã hội (trợ cấp xã hội, tương trợ xã hội và cứu tế xã hội). Có hai chế độ trợ giúp: thường xuyên (áp dụng đối với các đối tượng người già cô đơn, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật nặng) và trợ giúp đột xuất đối với những đối tượng chẳng may gặp rủi ro, hoạn nạn. Hệ thống an sinh xã hội phải có trách nhiệm chủ đạo trong việc khắc phục các rủi ro đó nhằm giúp cho mọi thành viên trong xã hội mau chóng ổn định cuộc sống.
 1.4.2 Tầm quan trọng của ASXH:
	Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, với hơn 100 năm đô hộ của thực dân đế quốc. Đến năm 2009, thu nhập trung bình của Việt nam là 1000 USD thuộc tốt thu nhập trung bình thấp của Thế Giới. Vì vậy, phúc lợi xã hội là vô cùng cần thiết khi đại bộ phận người là người nghèo khổ. Vậy, ASXH là vô cùng quan trọng cho đời sống người dân.
Hệ thống bảo hiểm xã hội:
BHXH đảm bảo quyền lợi cho người lao động trên cơ sở đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động.
Bản chất của BHXH là bảo đãm bù đắp một phần hoặc thay thế thu nhập của người lao động khi bị giảm hoặc mật thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn giao thông, bệnh nghề nghiệp
Thực hiện BHXH,BHYT nhằm ổn định cuộc sống người dân, trợ giúp người lao động khi họ gặp rủi ro đau ốm  đối với Doanh nghiệp thì nó giúp cho doanh nghiệp giảm bớt khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh nghiệp khi gặp sự cố để họ yên tâm sản xuất kinh doanh.
Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, giúp nhà nước điều tiết mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội trên phương diện vĩ mô. Bảo đảm cho nền kinh tế liên tục phát triển nhưng vẫn giữ vững ổn định xã hội trong từng thời kì cũng như trong xuốt quá trình.
Với quyền lợi mà người lao động được hưởng khi tham gia BHXH, BHYT đã góp phần thu hút lực lượng lao động vào sản xuất. Việc được tham gia bảo hiểm khi đang làm việc và được hưởng lương hưu khiến ngừoi lao đông hứng khởi trong công việc, tâm lý ổn định hơn.
BHXH là một công cụ quan trọng góp phần điều tiết thu nhập một cách công bằng và hợp lý giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Hệ thống trợ cấp
Hệ thống này hoàn toàn dựa vào các chế độ phúc lợi từ ngân sách nhà nước. người nhận được các quyền lợi mà không cần phải đóng góp. Chính sách này giúp người co công với cách mạng, những người gặp khó khăn như người già neo đơn, bị thiệt hại do thiên tai lũ lụt  có thể cải thiện đời sống của mình, lạc quan tin tưởng vào tương lai. Qua đó, giúp giữ vững và ổn định chính trị xã hội.
1.4.2.3 Hệ thống các chương trình xã hội khác
Đây cũng là kênh phân phối dựa vào ngân sách nhà nước, nó giúp phân phối lại thu nhập theo từng đối tượng. Chính sách này giúp có ý nghĩa ổn định kinh tế một cách bền vững khi cứu trợ và giúp người dân thoát nghèo.
 2.Phân tích thực trạng ASXH ở Việt Nam
2.1 Thực trạng chung hiện nay
Hiện nay, khả năng tạo việc làm của nền kinh tế còn thấp, tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên còn cao, tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế ( BHYT) bắt buộc của lao động làm việc ngoài nhà nước còn thấp, số lượng người được hưởng trợ cấp xã hội còn thấp . Đây là một số đặc điểm chính trong thực trạng ASXH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, ASXH ở nước ta hiện nay vẫn có những thành tựu của nó. Nhìn vào thực trạng ASXH hiện nay ta phải tìm ra cách phát huy những thành tựu, mặt tốt của nó. Đồng thời khắc phục những bất cập, thiếu sót của ASXH hiện nay.
Hệ thống các chính sách ASXH của Việt Nam hiện nay gồm nhiều vấn đề. Có thể chia thành 3 nhóm sau đây:
 1/ Nhóm các chế độ về Bảo hiểm xã hội: gồm Bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện trên nguyên tắc đóng thị được hưởng và cùng chia sẽ rủi ro. Đối tượng tham gia là Lao động theo quy định, các mức đóng góp tạo thành quỹ chung. Các thành viên được nhận Bảo hiểm khi gặp sự cố. Mọi chi phí lấy từ nguồn quỹ chung.
 2/ Nhóm các chế độ trợ cấp xã hội: bao gồm các chế độ trợ cấp cho các đối tượng gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do gặp phải rủi ro không may trong cuộc sống. Nguồn chi trả lấy từ Ngân sách nhà nước.
 3/ Nhóm các chương trình xã hội khác: Chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình y tế, gồm các loại quỹ tiết kiệm và các loại bảo hiểm khác.
Sau đây là thực trạng của các vấn đề đó hiện nay:
 1/ Nhóm các chế độ bảo hiểm xã hội: 
	Mặc dù được tạo điểu kiện nhưng thực tế cho thấy vẫn còn một bộ phận người lao động chưa tham gia BHXH bắt buộc, đặc biệt là khu vực ngoài nhà nước. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng này là do công tác tổ chức thực hiện các chế độ của BHXH còn nhiều bất cập dẫn đến việc thực thi các qui định của Luật bảo hiểm còn nhiều hạn chế.
 Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành gồm 03 loại bảo hiểm, gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, và bảo hiểm thất nghiệp đã tạo cơ hội cho người lao động tham gia bảo hiểm.
 Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tăng nhanh cả về quy mô và tốc độ. Từ 4,8 triệu người năm 2001 tăng lên 9,4 triệu người năm 2009, chiếm 18% tổng số lực lượng lao động. Nguồn thu quỹ BHXH bắt buộc tăng nhanh từ 6348 tỷ đồng vào năm 2001 lên 36,8 nghìn tỷ đồng năm 2009. Tổng chi BHXH bắt buộc cũng tăng nhanh, từ 1856 tỷ đồng năm 2001 lên 54,9 nghìn tỷ đồng năm 2009 ( trong đó chi từ ngân sách Nhà nước là 26,8 nghìn tỷ).
 Sau một năm triển khai thực hiện BHXH tự nguyện, số người tham gia đạt gần 50000 người. Nguồn thu quỹ BHXH tự nguyện ước tính đạt 69,5 tỷ đồng và chi khoảng 10,9 tỷ đồng năm 2009.
 Năm 2009, có khoảng 9% dân số từ 50 tuổi trở lên sống bằng lương hưu.
 Công tác quản lý ngày càng đi vào nề nếp, công tác giám sát ngày càng tăng cường, mạng lưới thu chi ngày càng mở rộng.
 Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận chưa tham gia BHXH bắt buộc, Nói về bảo hiểm thất nghiệp, luật chỉ cho phép đơn vị sử dụng lao động có sử dụng từ 10 lao động trở lên mới được tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Điều này làm hạn chế khả năng tham gia bảo hiểm thất nghiệp của người lao động làm cho doanh nghiệp nhỏ.
 Một bộ phận lớn người lao động không có khả năng tham gia BHXH tự nguyện do không có cơ hội được hưởng lương hưu khi đến tuổi về hưu vì điều kiện phải có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội. 
 2/ Nhóm các chế độ trợ cấp xã hội:
 Cứu trợ xã hội đối với những người nghèo, người không may bị rủi ro trong cuộc sống gồm chế độ trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp: cách xác định tai nạn lao động như hiện nay là chưa rõ ràng. Có khả năng phát sinh tiêu cực trong thực hiện trợ cấp này.
 Trợ cấp ưu đãi người có công đã đạt hiệu quả tích cực. Đã chi trả chế độ trợ cấp 1 lần cho khoảng 3,5 triệu người hoạt động kháng chiến được nhà nước khen tặng Huy chương. Hoàn thành trợ cấp ưu đãi một lần cho khoảng 4 triệu người và khoảng 1,7 triệu thương binh, thân nhân liệt sỹ, lão thành cách mạng, bà mẹ Việt Nam anh hùng  tiếp tục hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng.
 Ngoài chế độ trợ cấp thường xuyên, người có công được ưu đãi nhiều mặt của đời sống xã hội. Một số chế độ ưu đãi được hướng dẫn và thực hiện như BHYT, giáo dục đào tạo và một phần của chế độ ưu đãi nhà, đất.
 Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế như người nhận trợ cấp chậm được nhận tiền gây khó khăn cho cuộc sống của họ, các cán bộ xã phường có tình trạng tham nhũng của công, hoặc sử dụng sai mục đích.
 Đặc biệt, nghị định 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 về sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định 67/2007NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội đã mở rộng đến các đối tượng tàn tật nặng không có khả năng lao động không chỉ ở các hộ nghèo.
 Theo ước tính số đối tượng bảo trợ xã hội năm 2010 sẽ tăng lên 1,6 triệu. Cuộc sống các đối tượng được cải thiện do mức chuẩn tính trợ cấp tăng.
 3/ Nhóm các chương trình xã hội khác:
 Xóa đói giảm nghèo: Các chính sách, chương trình giảm nghèo trong thời gian qua đã đóng góp vai trò quan trọng trong bảo đảm ASXH cho người nghèo, hộ nghèo, địa bàn nghèo. Hệ thống chính sách giảm nghèo tương đối toàn diện , tập trung vào các vùng đặc thù, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, miền núi.
 Giảm nghèo được thực hiện đồng thời trên 3 phương diện: Tăng cường tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề.. – Hỗ trợ chính sách phát triển thông qua các chính sách tín dụng ưu đãi.. – Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho xã đặc biệt khó khăn.
 Kết quả tỉ lệ nghèo đã giảm nhanh, từ 29% năm 2002 giảm xuống còn 15,9% năm 2006, và 11,3 % vào cuối năm 2009. Hộ nghèo được tăng cường tiếp cận chính sách. Trong 3 năm 2006-2008, gần 4,2 triệu hộ được vay vốn; gần 2,1 triệu lượt người nghèo được hướng dẫn làm ăn, chuyển đổi kỷ thuật. 60 nghìn người nghèo được miễn giãm học phí nghề; mỗi năm hỗ trợ được 30nghìn người học nghề; khoảng 7,8 triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí và các khoản đóng góp cho trường; 99,54% người nghèo được cấp BHYT năm 2008; 340 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ xóa nhà tạm. Hệ thống cơ sở hạ tầng ở những địa bàn khó khăn đã được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, một số hộ nghèo vẫn không được hưởng các chính sách do bị hạn chế điều kiện tham gia.Các chính sách thiên về hỗ trợ bằng tiền và hiện vật hơn là tạo cơ hội việc làm cho người nghèo tự vương lên. Tuy đã có các chính sách miễn giảm học phí, tặng sách tập cho con em hộ nghèo, nhưng nhìn chung chi phí còn lại họ phải chịu còn cao vượt mức khả năng chi trả. Nên một bộ phận con em hộ nghèo vẫn chưa hoàn thành phổ cập giáo dục. Hỗ trợ y tế còn nhiều bất cập.
 Hệ thống dịch vụ xã hội:
 Về y tế: song song với phát triển dịch vụ khám chửa bệnh, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại các vùng nghèo, đối vơi hộ nghèo ngày càng phát triển dưới nhiều hình thức như việc thiết lập các tổ, đội y tế lưu động đi khám, chữa bệnh, thực hiện các hoạt động phòng bệnh theo định kỳ ở nông thôn, bản. Tuy vậy, Các trạm y tế ở các xã chất lượng còn thấp, mới có 46% xã có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia. Đội ngũ y bác sĩ còn thiếu, các trang thiết bị còn thô sơ, lạc hậu không đãm bảo chất lượng.
 Về giáo dục: các mô hình giao dục tập trung, trường bán trú dân nuôi, giáo dục từ xa, từng bước được mở rộng dưới nhiều hình thức với sự tham gia của nhiều đôi1 tượng xã hội. Tuy nhiên, phòng học cho học sinh các cấp nhất là ở vùng cao còn tạm bợ.
 Về điện sinh hoạt: Hệ thống điện ở vùng sâu, vùng xa từng bước được nâng cấp, đồng thời được mở rộng phạm vi bao phủ. Tuy nhiên, vẫn còn 30% số hộ gia đình người dân tộc vẫn chưa có điện so với 12% và 3% của người kinh và người Hoa.
 Về nước sạch và vệ sinh môi trường: Hệ thống cung cấp nước sinh hoạt cho người dân, nhất là người dân nông thôn vùng sâu, vùng xa được cải thiện thông qua các chương trình nước sạch quốc gia, của UNICEF. Tuy nhiên, vẫn còn 45% hộ dân tộc thiểu số chưa có nước sinh hoạt. Đại bộ phận dân cư nông thôn vẫn còn phải sử dụng các nguồn nước không đảm bảo và sống trong điều kiện vệ sinh thấp kém.
 2.2 Những việc đã làm được của ASXH
Cho hộ nghèo vay vốn sản xuất, kinh doanh. Đã giúp nhìều hộ gia đình tự thoát nghèo và không bị tái nghèo.
Xây dựng trường học, trường dạy nghề giúp tăng trình độ tri thức, nhận thức của người dân.
Xây dựng nhiều bệnh viện, trạm xá kể cả ở những vùng nông thôn, núi,
Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, giảm khỏang cách giàu, nghèo trong nước.
Hội chữ thập đỏ họat động khá mạnh, đi tới những vùng khó khăn hỗ trợ về nhiều mặt.
Hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật, thành lập quỹ dành cho ngưởi tàn tật.
Xây dựng những chương trình di dân, xóa đói giảm nghèo đã đáp ứng về phân bố nguồn nhân lực, ổn định đởi sống cho đồng bào dân tộc thiểu số và bảo vệ an ninh quốc phòng
Tái thành lập Tổng cục dạy nghề để tạo điều kiện nâng cao chất lượng việc làm của người lao động thông qua nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Mở rộng phạm vi đối tượng tham gia các hình thức BHXH và BHYT.
Hàng năm cứu trợ đồng bào miền trung gặp thiên tai ( bão tố, lũ lụt,..)
Thành lập quỹ bảo trợ nạn nhân chất độc da cam, 
Đưa ra chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, những người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc da cam, chính sách ưu đãi đối với gia đình liệt sỹ, gia đình có công Cách mạng.
Chính sách đối với người cao tuổi, đối với bà mẹ và trẻ em.
Các chính sách trợ cấp đối với hộ nghèo, ngưởi thất nghiệp,
 2.3 Những việc chưa làm được của ASXH
Hệ thống ASXH phát triển chưa đầy đủ, toàn diện, thiếu sự liên kết và hỗ trợ nhau. 
Một số chính sách ASXH còn tồn tại những bất hợp lý.
Chưa có các chính sách ASXH đặc thù và phù hợp với dân cư nông thôn và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn.
Diện bao phủ của hệ thống còn chưa cao, tập trung vào các thành phố lớn và các tỉnh đồng bằng nơi có hoàn cảnh sống thuận lợi, chưa mở rộng đối với những đối tượng nông thôn, miền núi vùng khó khăn.
Chất lượng cung cấp các dịch vụ ASXH, đặc biệt là dịch vụ y tế, còn hạn chế
Năng lực tổ chức và quản lý còn hạn chế đối với các loại hình ASXH.
Nguồn lực đầu tư cho ASXH của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng của ASXH.
Hệ thống an sinh xã hội không tác động ngang nhau lên toàn bộ dân số
	 + Người giàu hưởng nhiều, người nghèo hưởng ít.
 + Các hộ trong nhóm thu nhập cao nhất - nhóm 20% giàu nhất nhận được khoảng gần 40% lợi ích an sinh xã hội. Trong khi đó, nhóm nghèo nhất chỉ nhận chưa tới 7%.
 + Người sống ở đô thị có cơ hội hưởng nhiều chính sách an sinh xã hội hơn người sống ở nông thôn.
 + Người dân tộc Kinh, Hoa hưởng lợi nhiều hơn dân tộc thiểu số. 
 + Sống ở miền Bắc hưởng nhiều an sinh xã hội hơn miền Nam.
 2.4 Các vấn đề tiêu cực trong ASXH tại Việt Nam.
Tuy nhà nước đã có rất nhiều chủ trương, chính sách trong công tác ASXH. Nhưng nhìn chung muốn chúng trở nên hoàn thiện, phát huy được còn phụ thuộc rất nhiều vào công tác lãnh đạo từ Trung ương xuống địa phương. Thành thật mà nói, công tác kiểm tra, giám sát của chúng ta còn yếu.Trong quá trình thực hiện đã xảy ra nhiều tiêu cực làm hạn chế những hiệu quả của việc thực hiện ASXH nước ta, hoặc có tác động ngược lại gây bức xúc, bất bình trong dư luận. Sau đây là một số trong rất nhiều vấn đề tiêu cực mà nhóm đưa ra để phần nào thấy được những bất cập trong việc thực hiện ASXH ở nước ta. Và những suy nghĩ của nhóm chúng tôi xoay quanh vấn đề này
Một trong những vấn đề đáng quan tâm là bảo hiểm xã hội. Đối với mọi người trong xã hội mà nói, thì những rủi ro thường xuyên đối mặt là: Tai nạn, ốm đau, thất nghiệp, hoặc đơn thuần là già yếu hết khả năng lao động... Và điều mà họ gặp phải khi các vấn đề trên phát sinh là hạn chế hoặc không có tiền chi phí cho cuộc sống. Đây chính là mục tiêu chính của bảo hiểm xã hội, nhưng trong quá trinh thực hiện thì còn nhiều vấn đề nan giải. Một số bệnh nhân đã không ngần ngại lạm dụng khám chữa bệnh để lấy thuốc bằng cách khám nhiều lần, khám nhiều chuyên khoa, khám bất cứ khi nào...rảnh. Những bệnh nhân tham lam đó không phải chỉ là những người bệnh nghèo khổ muốn kiếm thêm chút tiền mà chính là những y bác sĩ nhà nước tại cơ quan y tế tham gia bảo hiểm y tế (BHYT). Nhiều hình thức lạm dụng và gian lận đã xảy ra như kê nhiều chỉ định cận lâm sàng, kỹ thuật cao để mau thu hồi vốn đầu tư thiết bị cận lâm sàng hoặc để kiếm lời nhiều hơn khi hợp tác với đơn vị thứ ba. Có không ít đơn vị y tế kê khống số lượng, giả mạo chữ ký bệnh nhân để nhận nhiều tiến chi trả BHYT. Có nơi báo cáo quyết toán chỉ căn cứ vào chỉ định của bác sĩ chứ không kiểm tra chỉ định đó có được thực hiện hay không. Việc kiểm tra đối chiếu quyết toán hoàn toàn dựa vào báo cáo của bệnh viện đưa lên chứ không căn cứ vào thực tế. Điều đó tạo kẻ hở cho một số bác sĩ lợi dụng nhiệm vụ tham gia khám BHYT để giả mạo hồ sơ bệnh nhân BHYT rút tiền hàng chục tỷ đồng.
Hay như việc chậm chi trả bảo hiểm cho bệnh nhân, hoặc người khám bảo hiểm thì phải chờ lâu hơn người khám không bảo hiểm. Không nói đâu xa, những người già ốm đau, sinh viên, học sinh...mặc dù đến trước nhưng vẫn phải ngồi chờ hàng giờ để được khám bệnh. Như, Tất cả sinh viên các trường Đại Học, Cao Đẳng đều mua BHYT và BHTN đây là các bảo hiểm bắt buộc theo qui định mới của chính phủ. Tuy nhiên, nhìn chung không phải chỉ có riêng bản thân tôi chán nản với BHYT.Chúng tôi tin tưởng vào chính sách của nhà nước.Nhưng chúng tôi lại rất ít khi dùng đến nó, không phải chúng tôi không bị bệnh mà là chúng tôi chấp nhận khám không cần Bảo hiểm. Vì sao? Một câu hỏi mà ai cũng rõ. Vì hiện nay vẫn còn tồn tại khá nhiều bệnh viện khám bệnh, khi bệnh nhân khám theo BHYT thì thái độ của các cán bộ, y bác sĩ là không tốt. Đôi khi bệnh nhân phải chờ rất lâu mới tới lượt, khám qua loa, sự thờ ơ với nỗi đau của bệnh nhân khiến tôi nãn lòng. Điển hình: Nhiều sản phụ khó sanh, nhưng vẫn không được mỗ. Bác sĩ nói để sanh tự nhiên cho tốt, nên cứ nằm chờ. Biết là sanh tự nhiên là tốt nhưng thử hỏi làm sao sanh được khi đứa trẻ năng 4,2 kg. Khi họ đau nằm chờ cũng không có người quan tâm, hỏi han. Chỉ mỗ khi người me ngất đi. Đứa trẻ ra đời nhưng thân thể tím tái, phải nằm lồng ấp, phải thở ôxi, được chuẩn đoán là bị ngạt, và cũng có những đứa trẻ bị chết . Sau khi sanh, người nhà đều biếu “phong bì” cho bác sĩ, y tá, hộ lý để họ quan tâm chăm sóc hơn. Thái độ của họ cũng thay đổi theo, từ sự lạnh nhạt, thờ ơ trở nên quan tâm,chăm sóc. Thử hỏi, sao chúng ta có thể trách người dân đã tiếp tay cho tệ nạn, khi sinh mạng người thân họ đang nằm trong tay người khác.
Bên cạnh đó, một số  doanh nghiệp chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội của người lao động để tư lợi. Trong đó có những doanh nghiệp lớn, có “tên tuổi”  nợ đọng  tiền bảo hiểm xã hội lên đến hàng tỷ đồng. Nguyên nhân của tình trạng nợ đọng cao là do nhiều doanh nghiệp đã đến kỳ quyết toán nhưng không chịu dồn tiền trả nợ bảo hiểm xã hội cho người lao động, tháng sau chồng lên tháng trước. Nhưng thực chất là người sử dụng lao động luôn tìm cách đối phó, trốn tránh hoặc chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội của người lao động. 
Người nghèo là đối tượng dễ tổn thương cần được chính quyền vá toàn xã hội quan tâm. Và thực tế là đã có những khoản trợ cấp, những quỹ ủng hộ cho người nghèo và những đối tượng khó khăn khác. Nhưng thực tế đã không ít cán bộ, tổ chức lợi dụng chức quyền chiếm đoạt phần trợ cấp, hỗ trợ đó. Tình trạng cán bộ cơ sở ăn chặn, địa phương khấu trừ, đưa ra những chiêu bớt xén tiền Chính phủ hỗ trợ người nghèo ăn tết, trong đó có nơi trừ vào các quỹ, có nơi trừ vào tiền điện... không còn xa lạ gì. Tết Nguyên đán 2009, Ở các xã Đức Tùng, Đức Yên (Đức Thọ, Hà Tĩnh), xã và xóm giữ lại tiền mà không cấp đủ cho hộ nghèo. Thậm chí tại xã Thạch Tiến (Thạch Hà), tiền hỗ trợ được cấp “nhầm” cho người... không nghèo để mua điện thoại di động, trong khi một số hộ thực sự nghèo lại không được đồng nào. Một số xã như Hương Bình, Hòa Hải, Phú Gia (Hương Khê) thì mỗi hộ nghèo chỉ được cấp từ 100.000 đồng - 110.000 đồng/khẩu; số tiền còn lại trưởng xóm tự quyết chia đều cho những hộ khác từ 47.000 - 50.000 đồng/khẩu, kể cả hộ giàu. Tại xã Thanh Khê (Thanh Chương, Nghệ An)  nhiều hộ dân cho biết, sau khi có thông báo nhận tiền của Chính phủ hỗ trợ người nghèo ăn tết nhưng khi nhận bị cán bộ xóm trừ vào tiền đóng góp quỹ khuyến học của địa phương. 
Nói về tiền trợ cấp, cũng có nhiều điều cần bàn.
“Chuyện lạ ở xã Gia Tân 1, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai:
Bà Nguyễn Thị Xuân đã chết, nhưng danh sách nhận tiền trợ cấp vẫn còn đến quý III/2006
Không ít người chết đã 2 - 3 năm, nhưng hàng tháng, họ vẫn đều đặn có tên trong danh sách nhận tiền trợ cấp thường xuyên. Thậm chí, những người đã chết này còn ký tên, hoặc điểm chỉ vân tay trên danh sách nhận tiền. 
Như bà Lại Thị Vui cũng đã chết, nhưng tiền trợ cấp vẫn còn đến quý III/2006.
Qua điều tra, một nguồn tin khác cho chúng tôi biết, ông Phạm Tiến Hưng - cán bộ phụ trách chi trả tiền xã hội, thuộc UBND xã Gia Tân 1 - cũng xà xẻo, bớt xén tiền trợ cấp của 20 người đang còn sống. Thí dụ: Quý III năm 2006, thay vì bà Phạm Thị Liễu được hưởng 590.000 đồng, thì ông Hưng chỉ đưa bà Liễu 500.000 đồng. 
Tỉnh Hà Tĩnh sai phạm liên quan đến vụ việc sử dụng tiền cứu trợ lũ quét năm 2002 tại huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.
Tháng 9/2002, huyện Hương Sơn xảy ra trận lũ quét lịch sử, gây thiệt hại nặng về người và tài sản. Ước tính thiệt hại vật chất hơn 200 tỷ đồng. Ngoài lương thực, Hương Sơn được trợ cấp, tiền tiếp nhận quản lý, sử dụng là 24,4 tỷ đồng. 
Tổng số tiền hỗ trợ nhân dân là 5,3 tỷ đồng được giao cho hai phòng chức năng là LĐ-TBXH và Kế hoạch-tài chính trực tiếp cấp phát cho các xã. Tuy nhiên, hai phòng này chuyển cho các xã chỉ vỏn vẹn gần 1,6 tỷ đồng. Số còn lại,được chi tuỳ tiện vào những mục đích không có trong danh mục cứu trợ. Trong gần 1,6 tỷ đồng mà hai phòng chức năng của UBND huyện phân bổ cho các xã cũng phát sinh những vấn đề nghiêm trọng.Thị trấn Phố Châu và 4 xã lân cận được "chia" 688 triệu đồng, nhưng theo danh sách, nhân dân tại các địa phương này chỉ nhận được gần 200 triệu đồng, số tiền còn lại, chính quyền các xã lại tiếp tục chi sai nguyên tắc. Không dừng lại ở đó, hơn hai tỷ đồng trong số 3,8 tỷ còn lại được Phòng LĐ-TBXH chia cho cơ sở theo kiểu "ai quý thì được nhiều", tất cả đều được giao theo kiểm “trao tay” mà không có bất cứ một loại chứng từ nào. 
Tham nhũng không phải chỉ là vấn nạn của riêng quốc gia nào, mà nó có trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy, nhà nước ta cần phải quản láy chặt chẻ hơn nguồn quỹ ASXH, nguồn quỹ này để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, đặc biệt là người nghèo khổ. Dù các chinh sách là toán diện,qui mô nhưng nếu quản lý không tốt thì tiền cứu trợ sẽ không đến được tay người cần nó, mà chỉ chui vào túi những kẻ tham lam. Như vậy, dù cho có nhiều chính sách tới đâu người đáng được hưởng vẫn không được hưởng, còn ngân sách nhà nước thì lại cạn đi.
 3. Các chính sách và vai trò của chính phủ trong thực hiện ASXH để đảm bảo công bằng xã hội.
 3.1 Các chính sách của chính phủ trong việc thực hiện ASXH để đảm bảo công bằng xã hội : 
 3.1.1 Cứu trợ xã hội :
 Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường xuyên có thiên tai (bão tố, lũ lụt, ), hơn nữa, liên miên trải qua chiến tranh chống xâm lược, vì vậy một bộ phận không nhỏ người dân luôn sống trong tình trạng nghèo túng, khó khăn. Tinh thần tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam sớm nảy nở và phát huy cao độ.Do đó từ khi thực hiện đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước ta càng quan tâm thực hiện các chính sách cứu trợ, bảo trợ xã hội đối với những người nghèo khó, tàn tật . Cụ thể : 
• Chính sách cứu trợ đối với trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa: bao gồm trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất;
• Chính sách đối với người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số: Thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo, Thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo, quan tâm đến người lao động nghèo trong quá trình chuyển đổi DNNN thành công ti cổ phần, Thành lập Ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu XĐGN, Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa;
• Chính sách đối với người tàn tật: Ban hành pháp lệnh người tàn tật, Khuyến khích thành lập và hỗ trợ Hội bảo trợ người tàn tật (Hội người mù,);
• Chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam: Thành lập quỹ bảo trợ nạn nhân chất độc da cam, 
• Chính sách cứu trợ xã hội đối với công chức nhà nuớc, người hưởng lương trong lực lượng vũ trang qua hình thức trợ cấp khó khăn đột xuất và thường xuyên.
 Ngoài ra nhà nước đã mở rộng cơ chế để tạo sự trợ giúp từ cộng đồng ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của quiõ xã hội, quiõ từ thiện, phát động phong trào tình nguyện . Đặc biệt trong thời gian gần đây, nguồn nhân tài vật lực đóng góp cho cứu trợ xã hội không chỉ được đóng góp từ trong nước mà còn đến từ kiều bào Việt Nam ở nước ngoài và cả kiều bào nước ngoài.
 3.1.2 Chăm sóc y tế .
Ở nước ta, việc chăm sóc y tế được thực hiện theo cách khác nhau qua ba giai đoạn:
 Giai đoạn từ năm 1961 đến 1992: Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH năm 1961 coi việc chăm sóc y tế cùng với chế độ trợ cấp ốm đau là một chế độ quan trọng hàng đầu của BHXH. Cụ thể như sau:
 Đảm bảo chăm sóc y tế cho công nhân, viên chức nhà nước;
Đảm bảo cho cả trường hợp ốm đau, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, mang thai và sinh đẻ;
Thực hiện chăm sóc y tế miễn phí tức toàn bộ do nhà nước đài thọ (cung cấp dịch vụ khám, điều trị, tiền thuốc men, bồi dưỡng, phí tổn tàu xe đi lại khám – chữa bệnh, ). Tuy nhiên, có sự phân biệt nơi khám và điều trị theo nhóm mức lương, nhóm cán bộ, công nhân, nhân viên.
Giai đoạn từ năm 1992 đến 2002: Ngày 15/08/1992, Nghị định 299/ HĐBT ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế và chính thức tách Bảo hiểm y tế ra hệ thống BHXH đặt dưới sự quản lý của Bộ Y tế. Hệ thống cơ quan bảo hiểm y tế được thành lập từ trung ương đến địa phương. Các nét chính của chế độ chăm sóc y tế giai đoạn này là :	Đảm bảo chăm sóc y tế theo chế độ bắt buộc không chỉ đối với công nhân, viên chức nhà nước mà còn mở rộng ra đối với mọi người lao động ăn lương;
Đảm bảo chăm sóc y tế trong trường hợp người lao động tham gia bảo hiểm y tế bị ốm đau, thai sản, không đảm bảo chăm sóc y tế trong trường hợp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp (Điều này là điểm khác so với giai đoạn trước và khác với Công ước 102) , không đảm bảo chăm sóc y tế đối với những bệnh xã hội , bệnh tật bẩm sinh, điều dưỡng, an dưỡng, chỉnh hình, phục hồi chức năng, tạo hình thẩm mỹ, làm chân giả – tay giả – mắt giả, dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, dịch vụ bảo vệ sức khỏe đặc biệt, dịch vụ y tế tự chọn, khám chữa bệnh ở nước ngoài, tai nạn chiến tranh, thiên tai;
Nguồn tài chính đảm bảo cho chăm sóc y tế được huy động từ người lao động (1% tiền lương) và người sử dụng lao động (2% quiõ lương) không có sự hỗ trợ của nhà nước. Mặc dù cơ quan bảo hiểm y tế trực thuộc Bộ Y tế nhưng việc chăm sóc y tế vẫn theo mô hình gián tiếp qua việc ký hợp đồng khám chữa bệnh giữa Bảo hiểm y tế và cơ sở y tế.
 Giai đoạn hiện nay: Bắt đầu thực hiện chủ trương chuyển Bảo hiểm y tế sang quản lý chung với BHXH vì các lý do sau:
Đối tượng quản lý của BHXH và Bảo hiểm y tế là tương đồng (loại áp dụng chế độ bắt buộc), việc sát nhập làm cho việc quản lý thuận lợi hơn, vừa tiết kiệm, vừa đảm bảo phục vụ tốt hơn cho người được bảo hiểm;
Dù trước đây, Bảo hiểm y tế trực thuộc Bộ Y tế nhưng việc chăm sóc y tế vẫn là theo mô hình gián tiếp. Về lâu dài, dù muốn chắc chắn nước ta cũng chưa có thể áp dụng mô hình trực tiếp chăm sóc y tế, nên việc chuyển về BHXH một mặt, vẫn giữ nguyên mô hình gián tiếp; mặt khác, vai trò, trách nhiệm một người quản lý quiõ tiền sẽ dễ phát huy hơn trong việc tổ chức thu – chi, giám sát việc cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế của cơ sở y tế, đầu tư và phát triển quiõ, 
 3.1.3 Ưu đãi xã hội : 
Cơ chế ưu đãi xã hội là nét riêng có trong hệ thống ASXH Việt Nam. Cơ chế này nhằm đảm bảo cho 2 nhóm người chủ yếu như sau:
Nhóm những người đã có công sức đóng góp cho vận mệnh của đất nước, công cuộc cách mạng của dân tộc bao gồm: những người đã gắn bó cả cuộc đời của mình với sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp của cộng đồng; những người gặp rủi ro trong quá trình hoạt động cho sư nghiệp chung của cộng đồng. Phần lớn những người thuộc nhóm này thường bị suy giảm, mất khả năng lao động, khả năng cầu tiến trong điều kiện cạnh tranh của thị trường trong khi sự đóng góp của họ là vô giá (tính mạng, thân thể, gia sản, ). Việc ưu đãi đặc biệt những người này so với những người lao động bình thường kể cả những người lao động bất hạnh khác là phù hợp với truyền thống lâu đời của dân tộc: uống nước nhớ nguồn. Các chính sách đãi ngộ nhóm người này gồm có:
Chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, những người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc da cam;
Chính sách ưu đãi đối với gia đình liệt sỹ, gia đình có công giúp đỡ Cách mạng.
Nhóm những người đã và sẽ cung cấp sức lao động quiù báu cho nền kinh tế-xã hội bao gồm những người già đã có quá trình làm việc, lao động lâu năm, cống hiến sức lao động cho xã hội, những bà mẹ có công sinh nở, nuôi nấng con trẻ và trẻ em – nguồn sức lao động cho sự phát triển kinh tế-xã hội trong tương lai lâu dài. Các chính sách đãi ngộ nhóm người này ở Việt Nam gồm có:
Chính sách đối với người cao tuổi (Pháp lệnh người cao tuổi);
Chính sách đối với bà mẹ và trẻ em.
Nguồn tài chính để tạo quiõ ưu đãi xã hội đối với những người này trước tiên là NSNN, tiếp đó là sự đóng góp của toàn cộng đồng đầy tính nhân văn qua các phong trào, hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, phong trào tình nguyện đã và đang diễn dưới nhiều hình thức da dạng và hiệu quả, thiết thực ở khắp mọi miền đất nước.
 3.1.4 Dịch vụ xã hội
Dịch vụ xã hội và trợ cấp (bằng tiền) ASXH (trợ cấp BHXH, bảo hiểm y tế, ưu đãi xã hội, ) là 2 mặt của cùng một hành động bảo vệ an toàn cho xã hội nói chung và cho người lao động nói riêng. Sẽ không thể có hiệu quả tích cực dù tiền trợ cấp có cao đến đâu mà dịch vụ nghèo nàn không đáp ứng nhu cầu của người lao động. Dịch vụ xã hội có thể bao gồm những dịch vụ y tế, phòng ngừa y tế (vệ sinh phòng dịch, y tế dự phòng, ), phòng ngừa tai nạn, dịch vụ đối với người tàn tật (phục hồi chức năng, cung cấp bộ phận giả, ), dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, thực hiện tái thích ứng nghề,  Tùy thuộc vào sự phát triển của kinh tế cũng như nhu cầu của xã hội trong từng thời kỳ mà dịch vụ xã hội phát triển ở những loại nào nhưng hầu như quốc gia nào cũng quan tâm đến việc cung cấp dịch vụ y tế để đảm bảo cho rủi ro ốm đau lên hàng đầu.
Ở Việt Nam, ngay từ khi thành lập nước đến nay, nhà nước ta đã có nhiều quan tâm đến nhiều nội dung dịch vụ xã hội: tổ chức mạng lưới y tế đến thôn xã, đào tạo cán bộ y tế, thực hiện y tế dự phòng phòng chống bệnh bướu cổ, AIDS, các dịch bệnh truyền nhiễm, thực hiện một thời gian dài cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh miễn phí, thực hiện hệ thống trường dạy nghề để tái thích ứng nghề cho người lao động nói chung, người lao động thương tật nói riêng. Hiện nay, từ khi đổi mới kinh tế, nhà nước ta có chính sách khuyến khích phát triển hệ thống dịch vụ xã hội bằng các nguồn lực đa dạng của xã hội, điều này, một mặt làm cho cơ sở vật chất dịch vụ xã hội ngày càng tốt hơn, mặt khác, nhà nước có thể tập trung nguồn lực của mình để chăm sóc tốt hơn cho các đối tượng ưu đãi xã hội và BHXH.
 3.1.5 Các khoản đảm bảo khác được cung cấp bởi người sử dụng lao động
a. Trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc
Trợ cấp thôi việc là khoản tiền của người sử dụng lao động trả cho người lao động thuộc quyền quản lý khi người lao động thôi việc theo các truờng hợp đã có qui định của pháp luật như: mãn hạn hợp đồng, người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng một các hợp pháp, người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng không phải vì lý do nguời lao động phạm lỗi nặng bị sa thải. Trợ cấp mất việc là trợ cấp cho người lao động bị thôi việc do doanh nghiệp thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ khiến cho người lao động chưa đến hạn hoặc chưa đến lúc chấm dứt hợp đồng đã bị mất việc một cách bị động. Trợ cấp mất việc vừa bao hàm ý nghĩa là trợ cấp thôi việc vừa có ý nghĩa là một khoản bồi thường, bù đắp thiệt thòi cho người lao động do người sử dụng lao động dơn phương đình chỉ hợp đồng.
b. Sự đảm bảo của người sử dụng lao động đối với người lao động tàn tật
Đây có thể xem là một loại chế độ cứu trợ xã hội đối với người lao động tàn tật, chỉ có điều là nhà nước không trực tiếp thực hiện mà qui định buộc người sử dụng lao động phải thực hiện. Luật Lao động có mục riêng về lao động là người tàn tật có qui định các doanh nghiệp phải nhận một tỷ lệ lao động là người tàn tật so với tổng số lao động để làm việc ở vị trí thích hợp, nếu không nhận thì phải nộp một khoản tiền góp vào quiõ tạo việc làm cho người tàn tật, qui định các chế độ ưu đãi giảm, miễn thuế cho những doanh nghiệp dành riêng cho người tàn tật hoặc nhận số lao động là người tàn tật vào làm việc cao hơn tỷ lệ qui định.
c. Sự đảm bảo của người sử dụng lao động đối với lao động bị tai nạn lao động
Trong phần chăm sóc xã hội, chúng t

File đính kèm:

  • doctieu_luan_tai_chinh_cong_va_an_sinh_xa_hoi_tai_viet_nam.doc