Tiểu luận Tài chính trong xu thế hội nhập quốc tế

pdf 31 trang yenvu 28/08/2024 170
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tài chính trong xu thế hội nhập quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tài chính trong xu thế hội nhập quốc tế

Tiểu luận Tài chính trong xu thế hội nhập quốc tế
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH 
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC 
---------- Y 	 Z ---------- 
TIỂU LUẬN MÔN HỌC 
Đề tài: 
TÀI CHÍNH TRONG XU THẾ HỘI NHẬP 
QUỐC TẾ 
Giảng Viên: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng 
Nhóm 8 Đêm 1 – K19 
1 Nguyễn Việt Anh 17/09/1977 
2 Nguyễn Tấn Bửu 26/01/1984 
3 Đinh Thị Thu Hân 27/04/1983 
4 Đặng Thị Thanh Hương 08/12/1965 
5 Trần Đăng Khoa (Nhóm trưởng) 19/05/1985 
6 Trần Hoài Ân 24/12/1985 
7 Lại Thành Phương 20/10/1979 
8 Lê Ngọc Khánh 17/05/1984 
9 Trương Hoàng Chính 05/05/1971 
10 Nguyễn Ngọc Hào 05/02/1981 
Tp Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2010 
MỤC LỤC 
Trang 
LỜI MỞ ĐẦU 
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN NỀN 
TÀI CHÍNH. 
1. Bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay............................................................................. 1 
1.1. Vòng đàm phán Doha .................................................................................................. 1 
1.2. Hội nghị thượng đỉnh tài chính .................................................................................. 1 
2. Những xu hướng tài chính trên thế giới ...................................................................... 2 
2.1. Tự do hoá dịch vụ tài chính – tiền tệ và hoạt động đầu tư ........................................ 2 
2.1.1. Tự do hoá dịch vụ tài chính – tiền tệ ......................................................................... 2 
2.1.2. Tự do hoá hoạt động đầu tư ....................................................................................... 3 
2.2. Đa cực hóa, sáp nhập và tái cơ cấu theo định hướng toàn cầu hóa các định chế tài 
chính, tín dụng .................................................................................................................... 4 
2.2.1. Quốc tế hóa, đa cực hóa các đồng tiền và thị trường tài chính, tiền tệ ..................... 4 
2.2.2. Sáp nhập và tái cơ cấu theo định hướng toàn cầu hóa các định chế tài chính, tín 
dụng ...................................................................................................................................... 4 
2.3. Chuẩn hóa và hiện đại hóa thị trường tài chính – tiền tệ .......................................... 4 
2.4. Bất ổn hóa thị trường tài chính ................................................................................... 4 
3. Những tác động tích cực và tiêu cực đối với nền tài chính Việt Nam trong xu thế 
hội nhập quốc tế ................................................................................................................. 5 
3.1. Những tác động tích cực ............................................................................................. 5 
3.2. Những tác động tiêu cực ............................................................................................. 6 
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI 
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 
1. Thị trường tài chính ....................................................................................................... 8 
1.1. Thị trường tiền tệ ......................................................................................................... 8 
1.2. Thị trường vốn ........................................................................................................... 10 
2. Các chủ thể tài chính ................................................................................................... 12 
2.1. Tài chính công ........................................................................................................... 12 
2.2. Tài chính doanh nghiệp ............................................................................................ 12 
2.3. Các trung gian tài chính ............................................................................................ 13 
2.4. Tài chính cá nhân và hộ gia đình ............................................................................ 15 
3. Cơ sở hạ tầng tài chính ................................................................................................ 16 
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN TÀI CHÍNH VIỆT NAM 
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ. 
1. Giải pháp từ phía NHTW............................................................................................ 18 
2. Giải pháp từ phía các ngân hàng Thương mại ......................................................... 19 
3. Giải pháp từ phía Doanh nghiệp ................................................................................ 21 
4. Các giải pháp khác từ phía Chính phủ ...................................................................... 23 
KẾT LUẬN 
LỜI MỞ ĐẦU 
Hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu trong giai đoạn hiện nay. Sự kiện Việt 
Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) là bước ngoặc lịch sử của đất 
nước, có ý nghĩa rất to lớn vì đây là sân chơi mang tính toàn cầu. 
Trong những năm vừa qua, nền Tài chính của Việt Nam đã có những thay 
đổi đáng kể theo hướng vừa phù hợp với các quan hệ song phương và đa phương, 
vừa đảm bảo phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong giai đoạn mới. Nhận thấy 
đề tài “Tài chính trong xu thế hội nhập quốc tế” là đề tài hay, mang tính thực 
tiễn nên nhóm 8 đã quyết định chọn để nghiên cứu. 
Thông qua việc tìm hiểu bối cảnh quốc tế và những tác động đến tài chính 
thế giới nói chung và nền tài chính Việt Nam nói riêng, nhóm tác giả phân tích 
tình hình tài chính Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, rút ra được 
những tồn tại cũng như những điểm chưa phù hợp với xu thế phát triển, từ đó đề 
xuất các giải pháp để tháo gỡ khó khăn mà nền tài chính nước nhà đang gặp phải. 
Mặc dù có nhiều cố gắng, nỗ lực trong quá trình nghiên cứu nhưng do đây 
là một đề tài rộng, có nhiều quan điểm chưa thống nhất và thời gian nghiên cứu 
hạn hẹp nên không thể tránh khỏi những thiếu sót và sai lầm. Do đó nhóm rất 
mong nhận được sự đóng góp của Cô và các bạn để đề tài có thể hoàn thiện và 
mang tính thực tiễn cao hơn. 
Xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng đã gợi ý tên đề tài và 
hướng dẫn tận tình trong quá trình nhóm thực hiện đề tài này. 
1 
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN NỀN TÀI 
CHÍNH. 
1. Bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. 
1.1. Vòng đàm phán Doha: 
Trong cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, thương mại thế giới 
đã bị ảnh hưởng nặng nề. Theo ước tính của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì 
thương mại toàn cầu bị sụt giảm hơn 10% trong năm 2009; một con số trầm trọng nhất so 
với nhiều thập niên qua. Mặc dù sự sụt giảm này là hệ quả của cuộc suy thoái, việc phục hồi 
đẩy mạnh giao thương sẽ là một trong những đầu tàu quan trọng kéo nền kinh tế thế giới đi 
lên. Hơn bao giờ hết, những diễn biến và xu hướng của thương mại quốc tế sẽ tạo ra những 
ảnh hưởng nhất định trong nền kinh tế và tài chính thế giới. Trong Hội nghị Bộ trưởng 
Thương mại của các nước thành viên WTO vào cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 2009, 
nhiều nước đã kêu gọi cần kết thúc vòng Doha trong năm 2010. Nhưng khả năng này phụ 
thuộc rất lớn vào động thái của Mỹ. Do đó, liệu Mỹ có đủ quyết tâm chính trị để giúp đạt 
được một kết cục trong năm 2010 hay không là câu hỏi đang được đặt ra. 
Những khó khăn trong đàm phán đa phương toàn cầu đã thúc đẩy các nước chọn 
phương pháp mở rộng giao thương tương đối dễ hơn thông qua con đường ký kết các hiệp 
định thương mại tự do song phương hoặc trong khu vực. Và hiện tượng này đã tăng mạnh 
trong những năm gần đây, đã có hơn 200 hiệp định thương mại tự do đang có hiệu lực đã 
được thông báo với WTO. Sự thông qua của Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản 
gần đây cũng nằm trong xu hướng này. 
 Thông qua các vòng đàm phán đã kết thúc, các nước thành viên WTO đã đi đến nhiều 
cam kết ràng buộc nhằm thúc đẩy tự do hóa thương mại ngày càng mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, 
sự trì trệ của vòng đàm phán Doha trong hơn chín năm qua đã cho thấy những giới hạn nhất 
định của việc thúc đẩy tự do hóa thương mại đa phương. Mặc dù vòng Doha được cho là để 
giúp đỡ các nước đang phát triển hưởng được nhiều lợi ích hơn từ thương mại, những bất 
đồng về tự do hóa lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn quá lớn để đi đến một thỏa hiệp thật sự vì 
mục đích phát triển. 
1.2. Hội nghị thượng đỉnh tài chính. 
Hội nghị thượng đỉnh tài chính G20 tại Washington, ngày 15/11/2008 các nhà lãnh 
đạo thế giới đã ủng hộ một kế hoạch hành động nhanh đối với cuộc khủng hoảng kinh tế 
toàn cầu, nhất trí về việc cần phải có các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng, có các quy định về 
2 
thị trường tài chính tốt hơn và trao vai trò lớn hơn cho các nước đang nổi lên. Lãnh đạo các 
nước tuyên bố quyết tâm phối hợp để đạt được những cải tổ cần thiết cho hệ thống tài chính 
toàn cầu. 
Thủ tướng Anh Gordon Brown nói, thoả thuận mà các bên đạt được mang tính lịch sử. 
Tổng thống Bush thì tuyên bố, từ bây giờ, các bộ trưởng tài chính sẽ vạch ra các đề xuất cải 
tổ chi tiết và sau đó báo cáo lại. 
Hội nghị thượng đỉnh tài chính có sự góp mặt của các nước công nghiệp hàng đầu như 
Mỹ, Nhật, Đức và các nước đang nổi lên như Trung Quốc, Ấn Độ, Argentina, Brazil và 
nhiều quốc gia khác, đại diện cho 85% nền kinh tế thế giới. Với những nền kinh tế đang nổi 
lên, ý nghĩa của hội nghị thượng đỉnh G20 đã rõ ràng, từ nay họ sẽ có vai trò lớn hơn trong 
việc quản lý kinh tế toàn cầu. 
Các nhà lãnh đạo cũng nhất trí tăng cường sự minh bạch của thị trường tài chính và 
đảm bảo việc công bố chính xác và đầy đủ thông tin liên quan đến các Ngân hàng và các 
công ty Tài chính. Bên cạnh đó các bộ trưởng tài chính cũng cần vạch ra một danh sách các 
tổ chức tài chính mà sự sụp đổ của nó sẽ đe doạ hệ thống kinh tế toàn cầu, nhằm kiểm soát 
tốt hơn đối với các tổ chức này. 
Hội nghị thượng đỉnh tài chính G20 tại thành phố Pittsburgh (Mỹ), ngày 24/09/2009 
chủ yếu xoay quanh việc có duy trì hay không các gói kích thích kinh tế. Theo các đại biểu, 
trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay khi mà vẫn còn đâu đó tiềm ẩn các nguy cơ rủi ro 
trong quá trình hồi phục, có lẽ sẽ là an toàn nhất cho các nước khi vẫn tiếp tục hoãn thời 
điểm rút lui các gói giải cứu của mình. Bên cạnh đó, Quỹ Tiền tệ Quốc cũng lên tiếng bày tỏ 
quan ngại về tài chính chính phủ. Tổ chức này cho hay, nợ chính phủ ở 20 quốc gia phát 
triển có nguy cơ đạt mức 118% thu nhập quốc dân hàng năm (GDP) vào năm 2014. Và, sẽ 
phải mất nhiều năm cắt giảm chi tiêu và đánh thuế cao để giảm nợ xuống mức an toàn của 
IMF. 
2. Những xu hướng tài chính trên thế giới. 
2.1. Tự do hoá dịch vụ tài chính – tiền tệ và hoạt động đầu tư. 
2.1.1. Tự do hoá dịch vụ tài chính – tiền tệ. 
Đây là xu hướng được khởi xướng và thực hiện từ khi chế độ kiểm soát vốn Bretton 
Woods sụp đổ, nhưng cho đến nay nó đã cuốn hút tất cả các nước như một tất yếu của hội 
nhập kinh tế quốc tế. Tự do hoá dịch vụ tài chính – tiền tệ là quá trình mà các hoạt động này 
vận động tuân theo quy luật khách quan của thị trường, nhằm loại bỏ sự phân biệt đối xử 
3 
hay can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính. Tự do hóa dịch vụ tài chính – tiền tệ được xem 
xét chủ yếu trên những khía cạnh sau: 
- Tự do hóa hoạt động dịch vụ ngoại hối: là việc giảm thiểu các hạn chế về quản lý 
ngoại hối và điều hành theo tỷ giá hối đoái theo hướng linh hoạt. Thực tế ở các nước công 
nghiệp phát triển cho thấy việc tự do chuyển đổi không điều kiện, không giới hạn đã khiến 
cho quá trình lưu chuyển dòng vốn ở các nước này diễn ra mạnh mẽ. 
- Tự do hóa lãi suất và các loại chi phí dịch vụ tài chính: Là cho phép các ngân hàng, 
các tổ chức tài chính được quyền tự do xác định các mức lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay 
cũng như tự do ấn định các mức phí đối với hoạt định dịch vụ tài chính của mình. Sự phát 
triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin đã khiến cho các thị 
trường tài chính trên thế giới xích lại gần nhau hơn, các dòng vốn chu chuyển nhanh hơn, 
với quy mô lớn hơn. 
- Tự do hóa hoạt động dịch vụ tín dụng: Là việc các thị trường tài chính quốc gia, khu 
vực và quốc tế xóa bỏ các hạn chế và ràng buộc về số lượng tín dụng được phân phối cho 
các thành phần kinh tế. Tự do hóa hoạt động tín dụng sẽ giúp các Tổ chức tín dụng chủ 
động trong huy động vốn, đa dạng hóa phương thức, đối tượng và thời gian cho vay. Tự do 
hóa tín dụng sẽ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng từ đó tạo điều 
kiện để nền kinh tế phát triển hơn. 
- Tự do hóa hoạt động dịch vụ của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính: là 
việc xóa bỏ những hạn chế về phạm vi hoạt động, phạm vi kinh doanh của các tổ chức tài 
chính. Sẽ không thể tiến tới xu hướng tự do hóa dịch vụ tài chính nếu thiếu điều kiện tự do 
hóa hoạt động của các tổ chức tín dụng. Xu hướng này giúp nâng cao và thúc đẩy mạnh mẽ 
quá trình đổi mới về cơ cấu tổ chức, hình thức tổ chức, và loại hình sở hữu của các tổ chức 
tài chính. 
2.1.2. Tự do hoá hoạt động đầu tư. 
Trong những thập niên gần đây, dòng vốn đầu tư quốc tế giữa các quốc gia và các khu 
vực trên thế giới ngày càng tăng lên mạnh mẽ cả số lượng lẫn khối lượng, trung bình hằng 
năm tăng lên khoản 20%. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận quan 
trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đối với các nước đang phát triển trong đó có nước ta. 
Vì vậy, tự do hóa đầu tư được xem như là biện pháp giúp khơi thông dòng chảy của dòng 
vốn đầu tư trên thế giới 
4 
2.2. Đa cực hóa, sáp nhập và tái cơ cấu theo định hướng toàn cầu hóa các định chế tài 
chính, tín dụng. 
2.2.1. Quốc tế hóa, đa cực hóa các đồng tiền và thị trường tài chính, tiền tệ. 
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, với sự lớn mạnh của nền kinh tế Nhật, nền kinh tế 
của liên minh Châu Âu và các nền kinh tế mới nổi như: Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin,  thì 
xu thế quốc tế hóa, đa dạng hóa các đồng tiền trên thị trường tiền tệ thế giới như là sự tất 
yếu trên thị trường tài chính thế giới. 
2.2.2. Sáp nhập và tái cơ cấu theo định hướng toàn cầu hóa các định chế tài chính, tín 
dụng. 
Xu hướng sáp nhập và tái cơ cấu theo định hướng toàn cầu hóa các định chế tài chính 
và các tổ chức tài chính tín dụng lớn trên thế giới đang là một xu thế dễ nhận thấy trong thời 
gian gần đây như: ngân hàng Kogyo, ngân hàng Daichi Kangyo và ngân hàng Fuji của Nhật 
Bản hợp nhất vào năm 1999 với số vốn 141 ngàn tỷ yên; vào năm 2004 tập đoàn J.P 
Morgan Chase & Co. đã sáp nhập với Bank One Corp; . Việc sáp nhập và hợp nhất các 
tập đoàn tài chính tín dụng sẽ giúp các tập đoàn giảm chi phí kinh doanh, tận dụng được 
những lợi thế của nhau từ đó giúp gia tăng khả năng cạnh tranh của mình.Việc tăng khả 
năng cạnh tranh là yếu tố quyết định đến hoạt động của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh 
tranh gay gắt hiện nay trên thế giới. 
2.3. Chuẩn hóa và hiện đại hóa thị trường tài chính – tiền tệ. 
Chuẩn hóa thị trường tài chính – tiền tệ: Trong xu hướng hội nhập quốc tế, các Tổ 
chức tài chính ngày càng lệ thuộc vào nhau, gắn bó lẫn nhau nên đòi hỏi phải có một chuẩn 
mực chung giúp các Tổ chức tài chính quốc tế hoạt động hiệu quà. Vì vậy, chuẩn hóa thị 
trường tài chính - tiền tệ quốc tế như là xu thế tất yếu trong xu hướng hội nhập quốc tế. 
Hiện đại hóa thị trường tài chính – tiền tệ: cùng với sự phát triển mạnh mẽ trong khoa 
học công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin đã thúc đẩy thị trường tài chính - 
tiền tệ - ngân hàng phát triển vượt bậc. Những công nghệ về phần mềm tài chính, mạng 
internet, đã giúp nâng cao khả năng xử lý các số liệu tài chính giúp dòng chu chuyển vốn 
trong một Tổ chức tài chính hay giữa các Tổ chức tài chính với nhau được thực hiện chính 
xác, nhanh chóng từ đó làm tăng hiệu quả hoạt động của các Tổ chức tài chính. 
2.4. Bất ổn hóa thị trường tài chính. 
Sự bất ổn của thị trường tài chính là vấn đề nóng bỏng đang diễn ra trên thế giới. 
Khủng hoảng kinh tế thế giới được bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở Mỹ đã lan 
5 
rộng ra khắp thế giới, không có một quốc gia nào có thể nói mình không hề bị ảnh hưởng 
bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong điều kiện hội nhập hiện nay. Khủng hoảng 
kinh tế thế giới là hậu quả của tự do hóa thương mại toàn cầu, vì vậy mỗi quốc gia phải tự 
tìm biện pháp phù hợp với tình hình điều kiện của quốc gia mình để giảm sự ảnh hưởng của 
khủng hoảng kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay. 
3. Những tác động tích cực và tiêu cực đối với nền tài chính Việt Nam trong xu thế hội 
nhập quốc tế. 
3.1. Những tác động tích cực. 
Tất cả các xu hướng tài chính trong hội nhập quốc tế đều vận động theo hướng bổ 
sung, thúc đẩy và tác động mạnh mẽ lẫn nhau nhằm góp phần tạo dựng nên một nền kinh tế 
thế giới toàn cầu thống nhất và thị trường tài chính thế giới toàn cầu lành mạnh. Các xu 
hướng còn góp phần làm thay đổi các phương thức giao dịch, giảm nhiều khó khăn về địa lý, 
cũng như về sự khác biệt về điều kiện kinh tế- chính trị. Dưới tác động của xu hướng này, 
tất cả các thị trường tài chính quốc tế và khu vực, trong đó có Việt Nam đều có quyền trở 
thành chủ thể tích cực của thị trường tài chính thế giới, bất luận thuộc trình độ phát triển nào 
về kinh tế, bất luận màu da, sắc tộc và tôn giáo nào. Tham gia vào quá trình này, Việt Nam 
có những cơ hội đón nhận những vận hội mới, góp phần thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa 
diễn ra một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa . 
Các xu hướng mới của thị trường tài chính thế giới đã làm thúc đẩy nhanh tốc độ, làm 
thay đổi về chất lẫn lượng của nền kinh tế thế giới . Dưới tác động của các xu hướng này, 
các nguồn vốn trên thế giới sẽ được phân bổ một cách hiệu quả hơn trên phạm vi quốc tế, 
làm tăng cường khả năng huy động vốn trên thị trường tài chính quốc gia và quốc tế. Hệ quả 
này là một trong những nguyên nhân khiến lượng vốn đầu tư đổ vào nước ta với số lượng 
ngày càng nhiều và quy mô ngày càng lớn. Với tốc độ tăng lên nhanh chóng của các dòng 
vốn; đặc biệt dòng vốn đầu tư quốc tế đã góp phần không nhỏ vào quá trình công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa cũng như phát triển các ngành công nghệ cao cần một lượng vốn lớn ở các 
nước đang phát triển hiện nay. 
Các xu hướng này góp phần làm thay đổi quan điểm và phương thức tư duy cũ của nền 
kinh tế thế giới, của mỗi quốc gia, đặc biệt là các nhà làm chính sách. Sẽ không thể có một 
quốc gia nào, thị trường tài chính nào có thể tồn tại và phát triển được nếu đứng ngoài vòng 
vận động khách quan của thị trường tài chính thế giới, Việt Nam cũng vậy. Các xu thế mới 
này thúc đẩy thị trường tài chính Việt Nam hoàn thiện hệ thống tài chính và xây dựng nền 
6 
tài chính vững mạnh. Cụ thể trong quá trình hội nhập vào thị trường tài chính thế giới, thị 
trường tài chính Việt Nam phải hoàn thiện và nâng cao hệ thống pháp luật có liên quan các 
vấn đề tài chính - tiền tệ; xây dựng hệ thống kiểm soát, giám sát tài chính có hiệu quả, đồng 
thời phát triển các loại hình dịch vụ tài chính như: bảo hiểm, kế toán, kiểm toán, dịch vụ về 
thị trường chứng khoán 
Những thay đổi về mặt tổ chức và kết cấu của thị trường tài chính và các công ty, tập 
đoàn tài chính góp phần mở rộng quan hệ song phương, đa phương hợp tác giữa Việt Nam 
và các quốc gia và tổ chức tài chính quốc tế, góp phần nâng cao vị thế thị trường tài chính 
Việt Nam trong xu thế hội nhập vào xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới. Ngoài ra các 
xu thế đã thúc đẩy sự vận động và lưu chuyển vốn ở Việt Nam nói riêng và quốc tế nói 
chung một cách sâu sắc và toàn diện hơn. Các dòng vốn trở thành yếu tố thiết yếu tạo đà 
cho sự phát triển khoa học kỹ thuật và lực lượng sản xuất. 
3.2. Tác động tiêu cực. 
Mặt dù có những tác động hết sức tích cực như trên, nhưng do nhiều nguyên nhân, 
trong đó có những nguyên nhân chủ quan cũng như là khách quan, bởi vậy các xu hướng 
của thị trường tài chính thế giới cũng tác động tiêu cực vào nền kinh tế thế giới. Những tác 
động này cụ thể như sau: 
Dưới tác động của xu hướng được phân tích như trên, đặt biệt là xu hướng tự do hóa 
dịch vụ tài chính tiền tệ diễn ra mạnh mẽ rộng khắp các thị trường tài chính quốc gia và khu 
vực kiến cho tài chính quốc gia và khu vực phụ thuộc vào nhau nhiều hơn, thậm chí trở 
thành một bộ phận của thị trường tài chính thế giới thống nhất. Chính nhân tố này đã làm 
cho thị trường tài chính Việt Nam chịu rất nhiều sự chi phối và những tác động nhanh chóng 
từ thị trường khác. Những ảnh hưởng tiêu cực mang tính chất dây chuyền làm xuất hiện các 
nguy cơ khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở quy mô lớn, gây ảnh hưởng trên diện rộng. Những 
cuộc khủng hoảng này thường rất khó kiểm soát, khó tháo gỡ và để lại trong một thời gian 
dài. 
Các nước phát triển dễ dàng lợi dụng các các xu hướng phát triển mới trên đây của thị 
trường tài chính thế giới, đồng thời kết hợp với những ưu thế về nền kinh tế của mình để 
gây sức ép và thao túng, thậm chí thông qua các hoạt động đầu cơ để hướng các nguy cơ 
tiền tệ vào các nước nhỏ, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trong vòng đàm 
phán WTO, Mỹ đã lợi dụng điểm yếu của quy luật thị trường để ép buộc nước ta mở rộng 
thị trường tiền tệ đang chưa kiện toàn về cơ chế, nguồn vốn không hung hậu, nên khi xảy ra 
7 
khủng hoảng tiền tệ mang tính toàn cầu nguồn vốn bị thu hẹp và chảy ra nước ngoài, kinh tế 
sẽ gặp nhiều kho khăn. Hơn nữa các nước phát triển còn thông qua chế định các quy tắc cho 
các tổ chức kinh tế mang tính thế giới như Ngân hàng thế giới, quỹ tiền tệ quốc tế nhằm 
tạo ra những điều kiện thuận lợi choi mình và không ngừng khống chế các tổ chức này đưa 
ra các điều kiện hà khắc, buộc các nước phát triển phải phục tùng. 
Các xu hướng này mở ra các cơ hội cho thị trường tài chính quốc gia và khu vực tham 
gia vào các dòng chảy chung của thị trường tài chính quốc tế, nhưng cũng chính từ đó mà 
cạnh tranh trên thị trường càng diễn ra ngày càng khốc liệt hơn. Xu hướng đa cực hóa các 
đồng tiền và các thị trường tài chính quốc gia và khu vực khiến các xung đột trong cạnh 
tranh ngày càng trở nên gay gắt. Do đó thị trường Việt Nam nhỏ bé sẽ rất dễ bị chao đảo bởi 
tính lũng đoạn của các tập đoàn tài chính quốc gia. Các nguồn vốn đầu tư vào nước ta từ 
các nước phát triển luôn đi kèm với các điều kiện về chính trị hoặc chỉ tập trung vào sản 
xuất các sản phẩm xuất khẩu sơ cấp nhằm thu hút một lượng lớn tài nguyên ra nước ngoài, 
gây tình trạng mất cân đối về ngành nghề. 
Dưới tác động của các xu thế này, các dòng tài chính quốc tế càng tăng tính bành 
trướng xuyên quốc gia. Hướng phát triển này của thị trường tài chính thế giới đang có nguy 
cơ làm phai mờ khái niệm ranh giới truyền thống, gây ra những thay đổi về địa vị, tính chất, 
vai trò và năng lực các quốc gia trên thị trường quốc tế, tức là liên quan đến ý nghĩa độc lập 
của nền kinh tế từng nước, vấn đề lợi ích và chủ quyền của các quốc gia-dân tộc. Trong một 
thế giới mà khái niệm tự do cạnh tranh được đặt trong bối cảnh của sự phát triển không 
đồng đều các nền kinh tế thì việc tham gia cạnh tranh quốc tế là một phương thức tất yếu để 
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển. Bởi vậy trong quá trình tham gia cạnh tranh quốc tế, 
Việt Nam đều lấy lợi ích quốc gia làm lợi ích căn bản, đồng thời vấn đề nâng cao ý thức bảo 
vệ lợi ích quốc gia trong quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra 
những thách thức không chỉ riêng Việt Nam mà là tất cả các quốc gia trên thế giới. 
8 
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI 
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, nền tài 
chính của Việt Nam có những thay đổi đáng kể theo hướng vừa phù hợp với các cam kết 
song phương và đa phương, vừa đảm bảo thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước 
trong giai đoạn mới. Phân tích cơ cấu hệ thống tài chính của Việt Nam hiện nay, có thể nhận 
thấy thực trạng như sau: 
1. Thị trường tài chính. 
1.1. Thị trường tiền tệ. 
Thị trường tiền tệ được hiểu là nơi các công cụ nợ ngắn hạn (thương phiếu, kỳ phiếu 
thương mại, tín phiếu kho bạc,) được mua bán với số lượng lớn. Nhìn vào thị trường tiền 
tệ Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, có thể nhận thấy như sau: 
- Về thị trường liên ngân hàng 
Thị trường nội tệ liên ngân hàng ra đời theo Chỉ thị 07/CT-NH1 ngày 07/10/1992 của 
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD) được 
thực hiện cho vay và đi vay lẫn nhau và chính thức hoạt động từ tháng 7/1993. Theo Quyết 
định số 114/QĐ-NH14 ngày 21/6/1993 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thị 
trường liên ngân hàng và Quyết định số 190/QĐ-NH14 ngày 06/10/1993 về việc bổ sung, 
sửa đổi Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng, thị trường nội tệ liên 
ngân hàng được hình thành dưới hình thức là một thị trường tập trung có tổ chức qua Ngân 
hàng Nhà nước (NHNN) và gắn liền với các trung tâm thanh toán bù trừ (Thành phố Hồ Chí 
Minh và thành phố Hà Nội) số lượng thành viên tham gia và doanh số hoạt động rất hạn 
chế; trong đó, những thành viên là ngân hàng thương mạo (NHTM) nhà nước có khả năng 
chi phối trên cả giác độ huy động vốn và cho vay vốn do có lợi thế về tài chính và uy tín. Từ 
năm 1997, hoạt động của thị trường diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực tiếp vay 
mượn lẫn nhau không thực hiện thông qua NHNN. Các ngân hàng thỏa thuận phương thức 
giao dịch, thời hạn, lãi suất cũng như điều kiện bảo đảm tiền vay dựa trên mức độ tín nhiệm 
và có sự tham gia tích cực của các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân 
hàng nước ngoài. Đến nay, phần lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các 
hình thức tín chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay; thậm chí 
một số ngân hàng đã thực hiện quan hệ vay mượn dưới hình thức gửi tiền lẫn nhau. 
9 
 Đến nay, số lượng thành viên và doanh số hoạt động trên thị trường liên ngân hàng 
đã tăng đáng kể, phương thức giao dịch của thị trường ngày càng đổi mới, hầu hết các giao 
dịch đều thực hiện qua mạng, thời hạn của các giao dịch khá linh hoạt (qua đêm, 1 tuần, 2 
tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng). 
Hiện nay, gần 30 NHTM đã thực hiện giao dịch vốn liên ngân hàng (gửi tiền/cho vay 
và nhận tiền gửi/đi vay) thông qua hệ thống của Hãng Reuters. Hãng Reuters đã xây dựng 
được trang lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng Việt Nam (VNIBOR) 
trên cơ sở chào giá hàng ngày của một số ngân hàng. Doanh số giao dịch trên thị trường liên 
ngân hàng từ năm 2002 đến nay tăng trung bình khoảng 20% mỗi năm. Kết quả trên đã 
chứng minh thị trường nội tệ liên ngân hàng đã thực hiện được vai trò điều tiết vốn ngắn 
hạn bằng đồng Việt Nam giữa các ngân hàng, làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các 
TCTD an toàn, hiệu quả. 
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng thị trường liên ngân hàng vẫn còn 
nhiều bất cập, hạn chế cần hoàn thiện, chẳng hạn như số lượng các thành viên tham gia và 
quy mô giao dịch còn hạn chế và phần lớn là để giải quyết nhu cầu về khả năng thanh toán, 
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất tái cấp vốn chưa phản ánh chính xác quan 
hệ cung cầu và xu hướng vận động của thị trường tiền tệ, 
- Về thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc 
Nghiệp vụ thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc được thực hiện từ tháng 5/1995 và trải 
qua các giai đoạn phát triển sau: 
+ Từ năm 1995 đến 1999: phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc; 
+ Từ năm 1999 đến 2003: phát hành tín phiếu kho bạc; 
+ Từ năm 2003 đến nay: phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu ngoại tệ (USD, kỳ 
hạn 5 năm). 
Theo Thông tư 19/2004/TT-BTC ngày 18/3/2004 của Bộ Tài chính, hiện nay có hai 
loại trái phiếu đang được đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước là: Tín phiếu kho bạc Nhà nước 
và Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ (trái phiếu ngoại tệ). 
Trước đây, số đơn vị được NHNN công nhận thành viên thị trường đấu thầu Trái phiếu 
kho bạc là 47 thành viên. Tuy nhiên trong quá trình tham gia, có một số thành viên đã 
không tham dự một phiên đấu thầu nào. Sau khi áp dụng Quy chế đấu thầu Trái phiếu chính 
phủ (TPCP) theo Quyết định 935/2004/QĐ-NHNN ngày 23/7/2004 và triển khai chương 
10 
trình đấu thầu TPCP qua mạng, NHNN xem xét và công nhận tổng số thành viên thị trường 
đấu thầu TPCP đến nay là 20 thành viên. 
Việc đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN đã mở ra một kênh huy động vốn với chi 
phí thấp cho ngân sách Nhà nước. Doanh số và tỷ trọng tín phiếu kho bạc phát hành dưới 
hình thức đấu thầu qua NHNN trong tổng doanh số huy động vốn của Kho bạc Nhà nước 
tăng qua các năm. Điều này phù hợp với xu thế phát triển thị trường và thông lệ quốc tế. 
Bên cạnh đó, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc đã trở thành nguồn cung cấp hàng hóa 
chủ yếu cho các giao dịch nghiệp vụ tiền tệ giữa NHNN với các NHTM, nhất là nghiệp vụ 
thị trường mở để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. 
 Kỳ hạn tín phiếu kho bạc đến nay đã đa dạng hơn trước, gồm 364 ngày, 273 ngày và 
182 ngày. Bên cạnh các NHTM nhà nước, các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi 
nhánh ngân hàng nước ngoài cũng đã từng bước trở thành thành viên tham gia thị trường. 
Tuy nhiên, bên cạnh các thành tựu đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế như số lượng 
thành viên tham gia trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc vẫn còn hạn hẹp (thành viên 
chủ yếu vẫn là các NHTM), lãi suất trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc vẫn còn nhiều 
bất cập, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn có những hạn chế nhất định. 
1.2. Thị trường vốn 
Thị trường vốn được hiểu là nơi các công cụ vốn, công cụ nợ trung và dài hạn (trái 
phiếu dài hạn, cổ phiếu,) được trao đổi, chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Nhìn 
vào thị trường vốn Việt Nam hiện nay, có thể nhận thấy rằng sau ba năm gia nhập Tổ chức 
thương mại thế giới (WTO), nhiều quỹ đầu tư và các nhà đầu tư nước ngoài đang tích cực 
rót vốn vào thị trường vốn Việt Nam. Trong đó phải kể đến thời điểm giữa năm 2006, 
VinaCapital khai trương quỹ đầu tư bất động sản Vinaland với dự kiến huy động 50 triệu 
USD nhưng đã nhận được 65 triệu từ các nhà đầu tư, Indochina Capital dự kiến thu hút từ 
300-350 triệu USD, kết quả, tổng số vốn huy động được là 500 triệu USD. Mekong Capital 
mở rộng qui mô với 50 triệu USD cho MEFII (Mekong Enterprise Fund II). Indochina 
Capital góp mặt với quỹ địa ốc 42 triệu USD và quỹ chứng khoán qui mô 50 triệu USD. 
Ngoài ra, còn phải kể tới quỹ đầu tư của các tập đoàn bảo hiểm quốc tế tại Việt Nam như 
Prudential Vietnam hay Manulife Vietnam với mức vốn đăng ký vài chục triệu USD. Điều 
này một mặt có ý nghĩa khích lệ to lớn, mặt khác cũng đem lại những khó khăn thách thức 
trong định hướng phát triển thị trường và nền kinh tế để phù hợp với cam kết gia nhập WTO. 
11 
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam ra đời hình thành một kênh huy động 
nguồn lực mới trong nền kinh tế. Tính đến tháng 6/2008, sau 8 năm hoạt động, quy mô thị 
trường mở rộng với 299 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ giao dịch trên cả hai sàn giao dịch, 87 
công ty chứng khoán, 30 công ty quản lý quỹ và xấp xỉ 300.000 tài khoản đầu tư (trong đó, 
trên 7.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài). 
Tổng số cổ phiếu niêm yết 
Nguồn: www.asset.vn 
Huy động vốn qua thị trường chứng khoán Việt Nam qua các năm 
(Đơn vị: Ngàn tỷ VND) 
Năm 2000 2004 2006 2007 2008 2009
Số công ty 5 26 193 250 299 415
%GTTT/GDP 0,24 0,55 22,7 43,7 15,1 55
Nguồn: Uỷ ban chứng khoán nhà nước. 
Nguồn FPI đã được khuyến khích chuyển vào TTCK Việt Nam khi chỉ số thị trường 
tăng lên gấp đôi từ năm 2006. Trong năm 2007, có khoảng 10 tỉ USD FPI vào Việt Nam 
Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là rất phân tán, thiếu hấp dẫn và 
chưa có hệ thống thông tin tập trung. Một trong những trở ngại lớn nhất hiện nay là sự khan 
hiếm sản phẩm mới để thỏa mãn nhu cầu của các nhà đầu tư, thủ tục phát hành, 
12 
2. Các chủ thể tài chính. 
2.1. Tài chính công. 
Tài chính công được đặc trưng bằng các quỹ tiền tệ của các định chế thuộc khu vực 
công gắn liền với việc thực hiện các chức năng của nhà nước. Trong khuôn khổ đề tài này, 
nhóm tác giả xin tập trung làm rõ nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước. 
Hiện nay, tại Việt Nam tồn tại một khó khăn rất lớn cần khắc phục trong thời gian tới, 
đó là nguồn thu chủ yếu nộp vào ngân sách nhà nước là thuế gián thu (thuế trị giá gia tăng, 
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt,) trong khi nguồn thu từ thuế trực 
thu không đáng kể (chỉ chiếm khoảng ¼ ngân sách nhà nước). Theo các cam kết quốc tế, 
các rào cản thuế quan và phi thuế quan của Việt Nam phải bị cắt giảm trong thời gian tới, 
hay nói cách khác nguồn thu từ thuế gián thu sẽ bị giảm đáng kể. Điều này sẽ có tác động 
lớn đến nguồn ngân sách nhà nước và nếu không có biện pháp hiệu quả tăng nguồn thu từ 
thuế trực thu trong thời gian tới, hệ quả về mặt kinh tế xã hội là rất lớn. Xuất phát từ thực tệ 
này cộng với việc giá dầu thế giới năm 2009 không cao bằng năm 2008, tình hình khủng 
hoảng tài chính thế giới, mà nguồn thu vào ngân sách nhà nước Việt Nam năm 2009 bị 
giảm mạnh, trong khi đó mức chi phải tăng lên để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế dẫn đến 
bội chi ngân sách Việt Nam năm 2009 lên đến con số 115.900 tỷ đồng, bằng 6,9% GDP. 
Đây là một con số cho thấy tình hình thu chi ngân sách Việt Nam còn rất nhiều vấn đề phải 
xem xét lại. 
2.2. Tài chính doanh nghiệp 
Tài chính doanh nghiệp được đặc trưng bằng các loại vốn hay các quỹ tiền tệ phục vụ 
cho hoạt động của các công ty, các đơn vị kinh tế trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ. 
 Tổng số vốn của khối doanh nghiệp tính đến thời điểm cuối năm 2008 là hơn 4.500 
nghìn tỷ đồng, gấp 1,5 lần thời điểm năm 2006, tăng thêm gần 1.500 nghìn tỷ đồng, nguồn 
vốn bình quân mỗi doanh nghiệp đạt gần 40 tỷ đồng (năm 2008). Trong đó, DNNN chiếm 
trên 50% tổng số vốn, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm gần 30% tổng vốn, còn lại là 
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 
Tuy tổng nguồn vốn không nhiều nhưng khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước có tốc 
độ tăng nhanh và mạnh nhất trong toàn khối (trên 40%/năm), khu vực doanh nghiệp có vốn 
đầu tư nước ngoài vẫn duy trì tốc độ tăng cao và ổn định (khoảng 20%/năm). Riêng khu vực 
DNNN, dưới tác động tích cực của chính sách nhà nước trong đổi mới, sắp xếp lại DNNN 
13 
trong mấy năm gần đây, nên tốc độ tăng nguồn vốn của ngành này tăng lên đáng kể (gần 
20%/năm). 
 Xét về cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thể 
hiện khả năng độc lập về tài chính là cao nhất, với tỷ lệ hơn 40% vốn chủ sở hữu trong tổng 
nguồn vốn. Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước khá tương đối độc lập ở mức gần 40%. 
Trong khi đó, khu vực nhà nước chủ yếu là nợ phải trả, nguồn vốn phụ thuộc chủ yếu vào 
bên ngoài, chưa năm nào mức độ độc lập về tài chính chạm đến mức 30%. 
2.3. Các trung gian tài chính 
 Các trung gian tài chính bao gồm các định chế gắn liền với đặc trưng cơ bản là thực 
hiện trung gian trong việc cung cấp vốn và các dịch vụ tài chính trên thị trường tài chính. 
Các định chế trung gian tài chính gồm ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, công ty 
tài chính, Trong khuôn khổ đề tài này, nhóm tác giả xin đề cập đến ngân hàng với tư cách 
là định chế tài chính trung gian quan trọng nhất ở Việt Nam hiện nay. 
Quy mô vốn tự có của các ngân hàng còn thấp 
Trong khi nhu cầu vay vốn ngày càng tăng, thì cung đáp ứng từ phía các ngân hàng 
thương mại còn chưa đủ. Hiện nay, quy mô và thị trường hoạt động của các NHTM không 
ngừng mở rộng, hầu hết các NHTM đều kinh doanh đa năng. So với những năm 90 của thế 
kỷ 20, đến nay mức huy động vốn của hệ thống NHTM Việt Nam đã tăng lên gấp gần 50 
lần. Cơ cấu huy động vốn được đa dạng hoá thông qua các hình thức huy động tiết kiệm, 
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, tiền gửi thanh toán. Việc sử dụng vốn 
cũng đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng hoạt động đầu tư và dịch vụ thông qua các 
hình thức cho vay, đầu tư chứng khoán, kinh doanh ngoại hối, góp vốn liên doanh So với 
GDP, hệ thống NHTM đã huy động vốn tương đương 60%, tương ứng với mức dư nợ hơn 
50%. Qua đó cho thấy, các NHTM đã giữ vai trò chủ đạo trên thị trường tiền tệ, thị trường 
vốn của Việt Nam trong bối cảnh thị trường chứng khoán vẫn chưa phát triển. 
Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng cũng đang gặp phải rất nhiều khó khăn, vướng mắc khi 
mở rộng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp như: quy mô vốn tự có thấp (ngay cả các 
ngân hàng quốc doanh, chưa có ngân hàng nào có vốn tự có thực trên 01 tỷ USD), trình độ 
thẩm định dự án chưa cao, rủi ro tín dụng theo chuẩn mực quốc tế có nguy cơ gia tăng, 
trong đó, đặc biệt là nguy cơ vốn tự có thấp làm hạn chế khả năng cạnh tranh và cung cấp 
tín dụng cho các doanh nghiệp của hệ thống ngân hàng. Khả năng tự bổ sung vốn tự có từ 
các nguồn lợi nhuận lại thấp do khả năng sinh lời từ các NHTM quốc doanh không cao. 
14 
Theo đánh giá của các chuyên gia Ngân hàng thế giới cho thấy, mức độ chênh lệch giữa lãi 
suất huy động đầu vào và lãi suất cho vay đầu ra của các NHTM quốc doanh là rất thấp, 
bình quân chỉ đạt khoảng 1,6 – 1,8%/năm, mức này rất khó để có lợi nhuận bổ sung vào 
nguồn vốn tự có hàng năm. Về bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn (vốn tự có trên tổng tài sản có rủi 
ro) của các tổ chức tín dụng, chỉ có các NHTM cổ phần do bị kiểm soát gắt gao hơn nên đạt 
tỷ lệ 8% (theo quy định chuẩn mực quốc tế), còn lại hầu hết các NHTM quốc doanh mới chỉ 
đạt 5%. Giới hạn về quy mô vốn tự có cũng làm hạn chế cho vay vì một ngân hàng không 
được phép cho vay một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có. Khi chưa thể tăng được vốn tự 
có, đồng thời lại luôn đứng trước sức ép phải cho vay, nếu càng huy động (phải trả lãi) để 
cho vay thì hệ số an toàn của các NHTM càng giảm xuống. 
Mở rộng tín dụng luôn phải đối phó với sự gia tăng nợ quá hạn. Theo tính toán của 
Việt Nam, tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng đã vượt quá mức cho phép, của toàn hệ thống 
là 6%. Nếu tính theo chuẩn mực quốc tế thì tỷ lệ này ở Việt Nam là 15%, trong khi quy định 
tỷ lệ này không được quá 5%. Như vậy, các ngân hàng đang đứng trước khó khăn về sức ép 
cho vay nhưng cũng đối mặt với việc quản lý khoản vay như thế nào để bảo đảm an toàn 
cho hệ thống ngân hàng. 
Quan niệm phân biệt đối xử của ngân hàng 
Việc tồn tại quan niệm phân biệt giữa doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước với doanh 
nghiệp ngoài Nhà nước đã làm hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng của 
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đặc biệt ở các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, tình 
trạng bất bình đẳng này càng biểu hiện rõ rệt, bởi tâm lý cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu 
nhà nước vay, nếu khách hàng không có khả năng trả nợ thì đã có Nhà nước đứng đằng sau 
hỗ trợ, bao bọc. Chính tâm lý này dẫn đến các DNNN tận dụng sự ưu đãi và vay ngân hàng 
một cách ồ ạt, không quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn vay như thế nào. Cuối cùng, khi 
doanh nghiệp không có khả năng trả nợ, ngân hàng dùng chính tài sản thế chấp của Nhà 
nước đem thanh lý để thu hồi vốn cho Nhà nước. Thậm chí, nhiều DNNN lợi dụng ưu thế 
này, vay vốn từ các ngân hàng rồi lại cho các doanh nghiệp ngoài Nhà nước vay để hưởng 
chênh lệch lãi suất. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp, trên cơ sở thống nhất giữa Luật 
Doanh nghiệp và Luật DNNN đã xoá bỏ rào cản giữa các doanh nghiệp, tạo sự bình đẳng 
giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc sở hữu khác nhau trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, 
cùng với tiến trình cổ phần hoá các DNNN thì số lượng các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà 
nước sẽ còn rất hạn chế, sẽ không còn cơ chế khoanh nợ, giãn nợ hay gia hạn nợ của Nhà 
15 
nước với các DNNN như trước đây. Trước tình hình mới, đòi hỏi các ngân hàng, đặc biệt 
các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, cần có sự thay đổi trong tư duy kinh doanh. Ngân 
hàng nên xoá bỏ tư duy quá chú trọng vào vấn đề sở hữu, vào khả năng thu hồi vốn trong 
trường hợp doanh nghiệp không trả được nợ, mà nên chú trọng vào việc nhìn nhận và đánh 
giá năng lực phát triển cũng như tính khả thi của dự án sử dụng vốn vay. Nếu không chính 
các ngân hàng này sẽ bị các ngân hàng cổ phần thương mại và các ngân hàng nước ngoài 
thu hút hết khách hàng của mình. 
Chất lượng thẩm định dự án chưa cao 
Quyết định cho vay dựa trên đánh giá năng lực phát triển cũng như tính khả thi của dự 
án vay vốn, phụ thuộc vào việc thẩm định dự án vay vốn, mà trực tiếp trách nhiệm đặt lên 
vai cán bộ thẩm định dự án của ngân hàng. Trong điều kiện năng lực thẩm định của cán bộ 
ngân hàng còn hạn chế thì đây là một rào cản lớn đối với khả năng tiếp cận vốn của doanh 
nghiệp. Chất lượng thẩm định dự án vay vốn chưa cao, nhiều dự án tiềm ẩn rủi ro nhưng do 
cán bộ ngân hàng chưa có khả năng nhận biết và đánh giá rủi ro nên vẫn chấp nhận cho vay, 
đó là chưa kể đến trường hợp cán bộ thẩm định lợi dụng “quyền hạn” này để kiếm lời. 
Trong khi đó, nhiều dự án khả thi nhưng do thiếu thông tin, chưa cập nhật và khả năng dự 
báo thấp nên có thể từ chối cho vay làm lỡ cơ hội kinh doanh của khách hàng, cũng như của 
chính ngân hàng. 
Ngoài ra, quy trình vay vốn phức tạp và rườm rà, quá trình thẩm định kéo dài, chi phí 
vay vốn lớn cũng làm cho các doanh nghiệp nản lòng và có xu hướng chuyển sang vay từ 
các nguồn không chính thức khác cho dù với mức lãi suất cao hơn, đặc biệt là khu vực 
doanh nghiệp ngoài Nhà nước. 
2.4. Tài chính cá nhân và hộ gia đình. 
Theo nghĩa rộng, tài chính cá nhân và hộ gia đình là một định chế tài chính vốn quan 
trọng trong hệ thống tài chính. Đặc trưng cho bộ phận hoạt động tài chính này là sự tồn tại 
của các quỹ tiền tệ được sở hữu bởi cá nhân hoặc hộ gia đình. Nguồn hình thành quỹ tiền tệ 
của cá nhân hoặc hộ gia đình bao gồm thu nhập từ lao động, thu nhập từ góp vốn đầu tư cho 
kinh doanh, thu nhập từ tài sản thừa kế và quà tặng,Nhìn vào thực trạng nguồn tài chính 
của cá nhân và hộ gia đình Việt Nam hiện nay, có thể nhận thấy như sau: 
Ngày 31/12/2008, Tổng cục Thống kế đã chính thức công bố các chỉ số kinh tế năm 
2008 của cả nước. Con số GDP tuyệt đối của cả nước năm 2008 đạt 1.487 ngàn tỷ đồng. 
Với dân số Việt Nam khoảng 86.160 ngàn người, GDP bình quân của mỗi người dân đạt 
16 
khoảng 17 triệu đồng. Với giá USD hoạch toán trung bình của năm 2008 là 16.700 
đồng/USD thì GDP trung bình của người dân Việt Nam đã đạt 1.024 USD/người. Con số 
này tăng hơn 20% so với mức 832 USD/người vào năm 2007. Trong bối cảnh kinh tế thế 
giới đang suy thoái mạnh thì đây là một thành tựu rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, nhìn lại 
diễn biến thị trường tài chính năm 2008 sẽ thấy rằng GDP bình quân đầu người đạt trên 
1.000 USD không hẳn là một điều quá vui mừng vì năm 2008 lạm phát cao và đồng USD 
mất giá khá mạnh. Năm 2008, lạm phát tính qua chỉ số CPI đã lên đến 19,89%, USD mất 
giá 2,35%. Vì thế, chưa thể kết luận với mức GDP bình quân đầu người 1.024 USD/người 
có nghĩa Việt Nam vượt qua được ngưỡng nước nghèo. 
Mức GDP/người tăng đáng kể hàng năm đã làm cho thu nhập của người dân và các hộ 
gia đình của Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Trong gần 10 năm đầu của thế kỷ 21, mức 
sống của đại bộ phận nhân dân đã được cải thiện hơn nhiều. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều 
vấn đề cần giải quyết để tạo ra sự tăng trưởng nhanh và bền vững. 
3. Cơ sở hạ tầng tài chính 
Cơ sở hạ tầng tài chính được hiểu là những nền tảng để qua đó các doanh nghiệp, nhà 
đầu tư, cá nhân lập kế hoạch và thực hiện các giao dịch tài chính với các trung gian tài chính 
và thị trường tài chính. Cơ sở hạ tầng tài chính hỗ trợ và thúc đẩy sự hoạt động hiệu quả của 
hệ thống tài chính. Nhìn chung, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cơ sở hạ 
tầng tài chính ở Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể, thể hiện qua các mặt cụ thể sau 
đây: 
Hệ thống luật pháp và quản lý nhà nước: với sự ra đời và hoàn thiện của Luật Ngân 
hàng nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm, có thể khẳng định 
rằng các cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động tài chính tại Việt Nam đã được hoàn thiện phù 
hợp với các cam kết quốc tế. 
Hệ thống giám sát: hoạt động giám sát tài chính được thực hiện có tính thường xuyên, 
định kỳ và trên diện rộng đã có tác động lớn đến hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực này. Các 
công cụ giám sát được mở rộng và sử dụng một cách triệt để. 
- Hệ thống thông tin: đáp ứng yêu cầu gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), 
việc công khai và minh bạch các thông tin nói chung và thông tin trong lĩnh vực tài chính 
nói riêng đã được Việt Nam nỗ lực thực hiện và đạt được những thành tựu đáng khích lệ. 
Hiện nay, các thông tin về quá trình soạn thảo các dự án luật về tài chính, thông tin hoạt 
17 
động của thị trường chứng khoán, được công khai trên các phương tiện thông tin đại 
chúng, thu hút sự tham gia của tất cả các tầng lớp trong xã hội. 
Hệ thống thanh toán: đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Việt Nam 
đã từng bước hiện đại hóa hệ thống tài chính, trong đó ứng dụng mạnh công nghệ thông tin 
trong thanh toán, đặc biệt là thanh toán quốc tế. Hiện nay, tại các các ngân hàng thương mại 
Việt Nam, việc thanh toán đã được thực hiện nhanh chóng, an toàn và chính xác, đáp ứng 
tốt nhu cầu của khách hàng. Nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam đã có mạng lưới quan 
hệ đại lý với nhiều ngân hàng lớn trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của 
doanh nghiệp. 
Hệ thống dịch vụ chứng khoán: từ khi chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/1997, thị 
trường chứng khoán Việt Nam (bao gồm Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí 
Minh, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, các công ty chứng khoán,) đã có những 
bước chuyển biến mạnh mẽ. Hiện nay, quy mô giao dịch trên các thị trường này ngày càng 
lớn, nguồn vốn được huy động ngày càng cao. Đây là tiền đề rất tốt cho sự phát triển trung 
và dài hạn. Tuy nhiên, nhiều hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay vẫn 
mang tính đầu cơ là chủ yếu, cần một hành lang pháp lý đầy đủ hơn và cơ chế thực thi pháp 
luật chặt chẽ hơn để kiểm soát, tiến tới loại bỏ hành vi này. 
Nguồn nhân lực: công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực tài 
chính đang được các cơ sở đào tạo chú trọng cao. Tại Việt Nam hiện nay có nhiều cơ sở đào 
tạo nguồn nhân lực tài chính ở nhiều cấp và loại hình khác nhau, chẳng hạn như Học viện 
tài chính, Trường Đại học Tài chính – Marketing, chuyên ngành tài chính ở các trường đại 
học, cao đẳng thuộc khối ngành kinh tế, Dự kiến trong thời gian tới, nhu cầu đối với 
nguồn lực này là rất lớn, do vậy Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Tài chính, cần có giải pháp 
đồng bộ để đáp ứng được nhu cầu này cả về số lượng lẫn chất lượng. 
Qua phân tích ở trên cho thấy nền tài chính Việt Nam đã được những thành tựu đáng 
kể trong quá trình hội nhập hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại và hạn 
chế cần khắc phục. Điều này đòi hỏi phải có một hệ thống giải pháp đồng bộ từ trung ương 
đến địa phương để nhanh chóng nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống tài chính, góp 
phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. 
18 
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG 
BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ. 
1. Giải pháp từ phía NHTW: 
Phải chủ động tự do hoá tài chính trên cơ sở: Minh bạch hoá mối quan hệ giữa Chính 
sách Tiền tệ và Chính sách tài khóa, làm cho cả 2 chính sách này ngày càng lành mạnh bằng 
cách trao nhiều quyền lực cho NHTW trong việc hoạch định và thực thi Chính sách Tiền tệ. 
NHTW phải đủ sức và đủ công cụ để bảo đảm ổn định sức mua của đồng tiền Việt nam; Đủ 
sức kiểm soát và làm chủ các nghiệp vụ chính của NHTW như: Điều hành thị trường tiền tệ; 
Điều hành và kiểm soát toàn bộ hệ thống thanh toán quốc gia; Đảm bảo trên đất Việt nam 
chỉ tiêu tiền Việt Nam và nhanh chóng thực hiện lộ trình tự do chuyển đổi cho đồng tiền 
Việt Nam; Đổi mới cơ chế và quyền lực trong hoạt động thanh tra giám sát hoạt động Ngân 
hàng của mọi loại Định chế tài chính (ngay cả khi có Uỷ Ban giám sát tài chính ngoài 
NHTW). 
Mọi hoạt động có tính chất đầu tư của khu vực tài chính công phải thực hiện thống 
nhất theo cơ chế thị trường, đều phải bị điều chỉnh thống nhất bởi Luật chuyên ngành về 
Ngân hàng; Hạn chế dần và có kỷ cương minh bạch, công khai về các hoạt động tín dụng 
chính sách ưu đãi đối với khu vực thuộc đối tượng chính sách ưu đãi của Nhà nước; Thống 
nhất một mạng thanh toán quốc gia đối với mọi Pháp nhân có quan hệ thanh toán với Ngân 
hàng, kể cả khu vực NSNN và khu vực tài chính Nhà nước ngoài NSNN. 
Cần phải đứng trên lợi ích của Nhà nước để dẫn dắt thị trường bằng cách có chính sách 
“dãn” rộng hơn khoảng cách giữa các lần cổ phần hoá từng NHTM NN hay từng DNNN 
nếu không, một bộ phận tài sản của Nhà nước sẽ có xu hướng rơi vào tay cá nhân các nhà 
đầu cơ. 
Đào tạo và từng bước phổ cập kiến thức phổ thông về cung ứng và “mua” các dịch vụ 
tiện ích từ Ngân hàng. Mở rộng việc chuyển quan hệ tín dụng trực tiếp giữa cá nhân với 
Ngân hàng sang quan hệ tín dụng gián tiếp thông qua các Công ty, Nhà máy chế biến, Tập 
đoàn công nghiệp, Tập đoàn thương mại đồng thời có chính sách khuyến khích phát triển 
mạnh mẽ việc mở tài khoản thanh toán qua Ngân hàng của cả Pháp nhân và thể nhân để 
cùng với các giải pháp công nghệ nhanh chóng nhất thể hoá thẻ thanh toán trên lãnh thổ 
Việt nam ... 
19 
Đối với CSTT: 
• Hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp quá sâu của chính phủ các cơ quan, tổ chức 
đối với các hoạt động của NHNN. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ điều hành chính sách tiền 
tệ theo hướng chuyển từ kiểm soát trực tiếp sang gián tiếp. 
• Đẩy mạnh và phát triển thị trường liên NH: Từng bước hoàn thiện hệ thống thị 
trường tiền tệ thứ cấp, đặc biệt là thị trường liên NH về nội tệ và ngoại tệ. Phát triển các 
công cụ tài chính của thị trường này, đặc biệt là các công cụ phái sinh như: forward, swap, 
option, các giao dịch phòng tránh rủi ro về tỷ giá, lãi suất; tập trung xây dựng và hoàn thiện 
các quy chế cho thị trường tiền tệ. 
2. Giải pháp từ phía các ngân hàng Thương mại. 
- Ngân 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_tai_chinh_trong_xu_the_hoi_nhap_quoc_te.pdf