Tiểu luận Thực thi quyền con người của Liên Hiệp Quốc

pdf 22 trang yenvu 04/11/2024 280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Thực thi quyền con người của Liên Hiệp Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Thực thi quyền con người của Liên Hiệp Quốc

Tiểu luận Thực thi quyền con người của Liên Hiệp Quốc
1 
Tiểu luận 
Thực thi quyền con người của 
Liên Hiệp Quốc 
2 
LỜI MỞ ĐẦU 
Quyền con người là những quyền cơ bản, cần thiết nhất, đảm bảo 
cho con người được tồn tại và phát triển bình thường như quyền sống, 
quyền đi lại, quyền được đối xử bình đẳng không phân biệt nam nữ, 
chủng tộc, chính kiến Giai đoạn trước năm 1945, các vấn đề về quyền 
con người thuộc quyền tài phán riêng biệt của mỗi quốc gia. Các quốc gia 
ban hành các văn bản pháp luật quy định quyền của các cá nhân thuộc 
quyền tài phán của mình đồng thời xây dựng các cơ quan đảm bảo thực 
thi. 
Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đỉnh điểm của sự xâm phạm quyền 
con người, đã đem đến những bước phát triển vượt bậc cho Luật Quốc tế 
về quyền con người. Hàng loạt các văn kiện pháp lý quốc tế mang tính 
toàn cầu cũng như khu vực về quyền con người được ra đời. Các văn kiện 
này, bên cạnh các điều khoản quy định nghĩa vụ của các quốc gia phải tôn 
trọng các quyền con người, còn có những điều khoản quy định về việc 
thiết lập các cơ quan và cách thức đảm bảo thực thi các quyền con người. 
Hệ thống các văn kiện pháp lý quốc tế, các cơ quan và cách thức đảm bảo 
thực thi là những yếu tố cấu thành cơ bản của một cơ chế bảo vệ quyền 
con người. Các cơ chế này được cấu thành bởi hệ thống các văn kiện 
pháp lý quốc tế về quyền con người, hệ thống các cơ quan và cách thức 
đảm bảo thực thi. 
Ở cấp độ toàn cầu, cho đến nay LHQ đã ban hành một khối lượng đồ 
sộ các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người, trong đó có 25 công 
ước và nghị định thư. Ở cấp độ khu vực, Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Phi 
đã xây dựng thành công các văn kiện pháp lý về quyền con người như: 
công ước nhân quyền Châu Âu (1950), công ước nhân quyền Châu Mỹ 
(1969) và Hiến chương Châu Phi về quyền con người và quyền dân tộc 
(1981). 
Bên cạnh việc xây dựng và ban hành các công ước quốc tế về quyền 
con người, LHQ, Hội đồng Châu Âu, Tổ chức các quốc gia Châu Mỹ và 
Tổ chức thống nhất Châu Phi còn thiết lập các cơ quan đảm bảo thực thi 
các quyền được quy định trong các công ước. Như vậy, quyền con người 
được đảm bảo thực thi không những bằng hệ thống pháp luật, chính sách 
của quốc gia mà còn thông qua các thỏa thuận pháp lý quốc tế. 
3 
Các cách thức bảo đảm thực thi cơ chế nhân quyền làm cho quyền 
con người được bảo vệ một cách hiệu quả nhất, nó có vai trò mang tính 
bổ trợ cho cơ chế bảo vệ nhân quyền của quốc gia, loại bỏ sự bất chấp và 
coi thường nhân quyền dễ dẫn đến những hậu quả là hành vi tàn ác làm 
tổn thương lương tâm của nhân loại. Bên cạnh đó các cách thức này thúc 
đẩy việc tăng cường và tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản 
cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ tôn 
giáo. 
Chương I. Cách thức đảm bảo thực thi của Liên hợp quốc 
I. Hệ thống các cơ quan 
Cơ chế quốc tế về quyền con người là hệ thống các cơ quan có 
nhiệm vụ giám sát và hỗ trợ việc thực hiện quyền con người trên phạm vi 
thế giới. Ở cấp độ quốc tế, đó là cơ chế của tổ chức Liên hợp quốc. Ở cấp 
độ hẹp hơn, có cơ chế của các tổ chức khu vực, cụ thể là cơ chế giám sát 
thực hiện quyền con người khu vực châu Âu, châu Mỹ và châu Phi. 
Cơ chế giám sát thực hiện quyền con người của Liên hợp quốc nhìn 
chung được chia làm hai hệ thống chính: 
Thứ nhất, là hệ thống các cơ quan hình thành theo quy định của 
Hiến chương Liên hợp quốc bao gồm Hội đồng bảo an, Đại hội đồng, Tòa 
án tư pháp quốc tế, Hội đồng kinh tế xã hội, Ủy ban nhân quyền Liên hợp 
quốc, Tiểu ban bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, Cao ủy nhân quyền Liên 
hợp quốc. 
Thứ hai, hệ thống các cơ quan giám sát thực hiện các điều ước quốc 
tế bao gồm 7 ủy ban sau đây: 
1. Ủy ban loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc (CERD), 
1969. 
2. Ủy ban quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (CESCR), 1987. 
3. Ủy ban nhân quyền (HRC), 1976. 
4. Ủy ban loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 
(CEDAW), 1982. 
5. Ủy ban chống tra tấn (CAT), 1987. 
6. Ủy ban quyền trẻ em (CRC),1990. 
7. Ủy ban bảo vệ quyền của người lao động di cư và các thành 
viên trong gia đình của họ (CMW), 2004. 
a) Hệ thống được thành lập theo Hiến chương gồm có các cơ quan 
chính là Đại hội đồng , ECOSOC và các cơ quan trực thuộc, Ban thư ký, 
như sau: 
Hội đồng bảo an 
Chức năng của HĐBA được quy định tại Điều 24 của Hiến chương 
LHQ. Và với chức năng và quyền hạn được trao, nhận thấy vấn đề quyền 
con người không thuộc trách nhiệm và quyền hạn của HĐBA. Thực tế, 
4 
“nó không có thẩm quyền rõ ràng đối với việc bảo vệ quyền con người”. 
Tuy nhiên, mối quan hệ của HĐBA với vấn đề quyền con người có thể 
được xác định tại điều 34 của Hiến chương Theo điều 34, trong các 
tình thế có thể gây ra sự bất hoà quốc tế hoặc gây tranh chấp đe doạ đến 
hoà bình an ninh thế giới thì Hội đồng có thể viện dẫn các quy định tại 
Hiến chương liên quan đến thẩm quyền của Hội đồng để giải quyết các 
vấn đề đó. Trong trường hợp có sự vi phạm quyền con người một cách rõ 
rang và ở mức độ cao, Hội đồng hoàn toàn có khả năng xác định trường 
hợp đó sẽ tạo nên nguy cơ đe doạ hoà bình và an ninh thế giới theo quy 
định tại điều 39(a) của Hiến chương. Hội đồng có đủ thẩm quyền thay 
mặt LHQ để thông qua và áp dụng các biện pháp cưỡng chế nếu sự việc 
không được giải quyết thoả đáng ở mức độ thấp hơn. 
Điều đặc biệt trong các hoạt động của HĐBA là “trong nhiều năm 
qua, vấn đề đảm bảo an ninh, hoà bình và bảo vệ quyền con người đã và 
đang được nhập vào nhau và ngày nay, những phạm vi rộng lớn và có hệ 
thống về quyền con ngươi được xem như là mối đe doạ đến hoà bình theo 
quy định tại điều 39”. Thông qua việc sử dụng thẩm quyền được Hiến 
chương giao cho, HĐBA là cơ quan quyết định cuối cùng về những vấn 
đề liên quan, bao gồm cả vấn đề quyền con người. 
 Đại Hội đồng LHQ 
 Uỷ ban III Đại hội đồng LHQ chuyên trách về các vấn đề nhân 
quyền, nhân đạo, xã hội. 
 Các cơ quan khác trực thuộc : Uỷ ban đặc biệt về phi thực dân hoá; 
Uỷ ban đặc biệt chống Apartheid; Uỷ ban đặc biệt điều tra vi phạm nhân 
quyền của Israel tại các vùng chiếm đóng; Uỷ ban về thực hiện quyền của 
nhân dân Palestin; Cao uỷ LHQ về nhân quyền; Cao uỷ LHQ về người tị 
nạn. 
Quy định tại điều 13(1,b) của Hiến chương giao cho ĐHĐ “đề 
xướng những nghiên cứu và thông qua những khuyến nghị” với mục đích 
“thực hiện các quyền con người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn 
ngữ hay tôn giáo”. ĐHĐ thông qua những khuyến nghị, nghị quyết kể cả 
các nghị quyết thông qua các điều ước quốc tế. Những khuyến nghị này 
không có giá ràng buộc, mệnh lệnh về mặt pháp lý. Điều 55 và 56 có quy 
định mức độ các khuyến nghị và thẩm quyền của ĐHĐ, theo đó các quốc 
gia thành viên có nghĩa vụ phải hợp tác với LHQ trong việc giải quyết 
các vấn đề liên quan đến quyền con người. Vì vậy, trong thực tế, mức độ 
ảnh hưởng của các khuyến nghị của ĐHĐ đối với các vấn đề quyền con 
người có một hiệu lực nhất định, nhất là các văn bản được thông qua 
bằng sự thống nhất biểu quyết của các thành viên. 
Những đóng góp của ĐHĐ trên lĩnh vực thúc đẩy và bảo vệ quyền 
con người có vị trí lớn lao, thể hiện ý chí, nguyện vọng của toàn thể các 
dân tộc về một thế giới mà ở đó quyền con người được tôn trọng. Tuy 
5 
nhiên, ĐHĐ vẫn còn có những hạn chế cơ bản trong việc thực hiện các 
tiêu chuẩn và quy định về quyền con người đã được nó xây dựng nên. 
Thực tế, các văn kiện về quyền con người đã đạt đến độ tương đối hoàn 
chỉnh về số lượng và chất lượng, nhưng việc biến chúng thành thực tiễn ở 
các nước trên thế giới đang còn là vấn đề nan giải. Lý do chính là bởi 
những sự khác biệt giữa các quốc gia về các điều kiện kinh tế, văn hoá, 
chính trị, lịch sử khi thực thi Luật quốc tế về nhân quyền quốc tế, trong 
khi đó các quy định của các văn kiện này còn mang tính chung chung, 
khái quát. Ở nhiều nơi trên thế giới, tình trạng vi phạm nghiêm trọng các 
quy định của các văn kiện trên vẫn thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên, 
ĐHĐ và các cơ quan liên quan vẫn chưa thể có các biện pháp để đảm bảo 
sự tôn trọng và thực hiện triệt để quyền con người như đã được ghi rõ 
trong hệ thống các văn kiện được ĐHĐ thông qua. 
 Hội đồng kinh tế và xã hội (ECOSOC) 
- ECOSOC đã lập Uỷ ban nhân quyền ; Tiểu ban thúc đẩy và bảo vệ 
nhân quyền (gọi tắt là Tiểu ban nhân quyền); Uỷ ban tình trạng phụ nữ 
(CSW)... 
- Uỷ ban Nhân quyền chịu trách nhiệm đưa ra các khuyến nghị và 
báo cáo về các vấn đề nhân quyền thông qua ECOSOC trình lên Đại hội 
đồng LHQ, Uỷ ban Nhân quyền gồm 53 nước thành viên, nhiệm kỳ 3 
năm. Hàng năm Uỷ ban họp một lần kéo dài 6 tuần (thường vào cuối 
tháng 3, đầu tháng 4) tại Giơnevơ. Năm 2005, tại Hội nghị Thượng đỉnh 
Liên hợp quốc, Hội đồng Nhân quyền đã được thành lập để thay thế 
UBNQ. 
- Tiểu ban nhân quyền (gồm 26 chuyên gia) có chức năng giúp việc 
cho Uỷ ban nhân quyền, tư vấn khuyến nghị về các vấn đề chuyên môn, 
dự thảo các văn bản pháp lý trong lĩnh vực liên quan. Ngoài ra để giúp 
việc cho mình Uỷ ban Nhân quyền còn lập ra các nhóm làm việc, và báo 
cáo viên đặc biệt về các vấn đề và các nước cụ thể. 
Hội đồng kinh tế xã hội là một cơ quan của LHQ trực tiếp đảm trách 
các công việc về quyền con người. Hoạt động của Hội đồng bao gồm 
thực hiện các nghiên cứu và xây dựng những khuyến nghị trên phạm vi 
rộng lớn các vấn đề, bao gồm không chỉ việc “tôn trọng, tuân thủ quyền 
con ngườicho tất cả” mà còn cả những vấn đề quyền con người cụ thể 
trên các lĩnh vực “kinh tế, văn hoá, giáo dục, sức khỏe và các vấn đề có 
liên quan”. Từ bình diện quyền con người, Hội đồng kinh tế, xã hội có thể 
được xem là cơ quan có chức năng và thẩm quyền trực tiếp đối với vấn đề 
thúc đẩy sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người. 
Từ năm 1946, Hội đồng kinh tế, xã hội đã giải quyết hang loạt các 
vấn đề liên quan đến quyền con người như: diệt chủng, ngăn chặn tình 
trạng người bị mất quốc tịch, ngăn chặn phân biệt đối xử, bảo vệ người 
thiểu số. 
6 
Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc 
 Năm 2005, Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc (LHQ) quyết định 
thay thể Uỷ ban Nhân quyền (thành lập năm 1946) (UBNQ) bằng Hội 
đồng Nhân quyền (HĐNQ) mới trong nỗ lực để đưa vấn đề nhân quyền 
trở thành một trong ba trụ cột chính của LHQ cùng với hoà bình an ninh 
và phát triển. 
Theo nghị quyết A/60/251 được ĐHĐ thông qua ngày 16/3/2006, 
HĐNQ bao gồm 47 thành viên (Châu Á: 13 ghế, Châu phi 13, Đông Âu 6, 
Mỹ Latinh và Ca-ri-bê 8, phương Tây 7) so với 53 của UBNQ trước đây 
và trở thành một cơ quan trực thuộc và báo cáo trực tiếp lên ĐHĐ. 
Để được bầu làm thành viên HĐNQ, phải được sự chấp thuận thông qua 
bỏ phiếu kín của đa số thành viên (trên 96 phiếu thuận ). Khác với UBNQ 
trước đây thành viên HĐNQ được giới hạn 2 nhiệm kỳ liên tiếp và có thể 
bị đình chỉ nếu 2/3 ĐHĐ LHQ tán thành. 
HĐNQ họp ít nhất là 4 phiên và không dưới 10 tuần. HĐNQ có thể 
triệu tập phiên họp đặc biệt nhằm đối phó với tình hình khẩn cấp khi có 
được sự chấp thuận ít nhât 1/3 thành viên. 
 Về chức năng, cơ bản HĐNQ kế thừa các chức năng của UBNQ 
trước đây. 
Thứ nhất, UB chịu trách nhiệm trong việc chuẩn bị và đưa ra những 
hướng dẫn chính sách về nhân quyền, đồng thời tiến hành nghiên cứu về 
những vấn đề liên quan đến quyền con người. 
Thứ hai, UB có nhiệm vụ quan trọng trong việc hình thành và pháp điển 
hoá các quy phạm pháp luật quốc tế về quyền con người. 
Thứ ba, UB có nhiệm vụ theo dõi, giám sát việc thực hiện các văn kiện 
về quyền con người. 
Thứ tư, UB có quyền thảo luận các vấn đề về tình hình nhân quyền ở bất 
kỳ nơi nào trên thế giới. UB còn được uỷ quyền trong việc tiếp nhận và 
xem xét các nguồn thông tin trình lên UB từ các quốc gia thành viên, các 
tổ chức phi chính phủ và từ các nguộn khác. 
Thứ năm, UB có vai trò là diễn đàn cho tất cả đối tượng có liên quan từ 
các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức liên chính phủ 
tham gia thảo luận, trình bày các vấn đề cũng như sự quan tâm của mình 
về vấn đề quyền con người. 
Ngoài ra theo nghị quyết A/60/251, trong năm đầu tiên, HĐNQ có 
nhiệm vụ phải ra soát, cải tiến và hợp lý hoá các cơ chế, nhiệm vụ và 
chức năng của UBNQ, đồng thời xây dựng một cơ chế mới là Kiểm điểm 
định kỳ tình hình thực hiện nhân quyền của các nước trên thế giới (UPR). 
 Văn phòng Cao uỷ Liên hợp quốc về nhân quyền (trước đây là 
Trung tâm Nhân quyền Liên hợp quốc), đóng tại Giơnevơ, là Cơ quan 
trực thuộc Ban Thư ký Liên hợp quốc có trách nhiệm giúp đỡ bộ máy 
7 
LHQ thúc đẩy vấn đề nhân quyền, dưới sự điều hành của Cao uỷ Nhân 
quyền, tương đương với chức vụ Phó Tổng thư ký LHQ (vị trí này được 
thành lập từ năm 1993). 
Cao uỷ nhân quyền LHQ chịu trách nhiệm các vấn đề sau: 
 Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trên lĩnh vực chính trị, 
dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội và quyền phát triển. 
 Cung cấp các dịch vụ tư vấn, kỹ thuật và tài chính trên lĩnh vực 
quyền con người cho các quốc gia khi được yêu cầu. 
 Điều phối các chương trình giáo dục và thông tin về con người. 
 Đóng vai trò tích cực trong việc loại bỏ những trở ngại đối với vấn 
đề thực hiện quyền con người. 
 Nâng cao hợp tác quốc tế nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con 
người. 
 Ngoài ra, trong trường hợp được Tổng thư ký uỷ quyền, Cao uỷ 
Nhân quyền LQ còn có thẩm quyền bổ nhiệm những tổ công tác và 
báo cáo viên đặc biệt để tiến hành các hoạt động tương tự. 
b) Hệ thống các cơ quan quy định theo Công ước là các cơ quan 
được thành lập theo các điều khoản của các công ước quốc tế về nhân 
quyền nhằm giúp theo dõi việc thực hiện các công ước này và thường 
được gọi là các uỷ ban công ước như uỷ ban Công ước về các quyền Dân 
sự, Chính trị, Công ước về các quyền Kinh tế, Văn hoá và Xã hội, Công 
ước chống Phân biệt Chủng tộc, Công ước Chống Phân biệt đối xử với 
Phụ nữ, Công ước quyền Trẻ em, Công ước Chống Tra tấn... Thành viên 
của các cơ quan công ước là các chuyên gia độc lập do các nước thành 
viên công ước bầu ra, trên cơ sở các nước đề cử. 
Chức năng của UB: nhận và xem xét các báo cáo quốc gia theo đúng 
trình tự quy định, phân tích các báo cáo quốc gia thông qua việc nghiên 
cứu và đối thoại với các đại diện của các quốc gia thành viên, đưa các kết 
luận và khuyến nghị về việc thực hiện công ước đối với các quốc gia 
thành viên trong đó chỉ rõ các khía cạnh tích cực các trở ngại và khó khăn 
trong việc thực hiện công ước các vấn đề cần quan tâm các đề xuất xử lý 
và kiến nghị, hướng dẫn các quốc gia thành viên bằng nhiều biện pháp 
đặc biệt là thông qua việc xây dựng các khuyến nghị chung. 
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) 
Uỷ ban Nhân quyền được thành lập với các chức năng, nhiệm vụ và 
hoạt động theo quy định tại các điều 28 đến 45 của công ước này. Uỷ ban 
có 4 chức năng: 
 Thẩm định báo cáo quốc gia và đưa ra các khuyến nghị 
 Làm trung gian hoà giải, khiếu kiện giữa các quốc gia 
 Bình luận giải thích công ước 
8 
 Xem xét các khiếu kiện cá nhân theo Nghị định thư thứ nhất của 
Công ước 
Công ước quốc tế vế các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) 
Uỷ ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hó được thành lập bởi 
Hội đồng kinh tế và xã hội.UB có 18 thành viên. Các thành viên của UB 
làm việc với tư cách cá nhân. 
UB có các chức năng: 
 Nhận và xem xét các báo cáo quốc gia theo đúng trình tự quy 
định 
 Phân tích các báo cáo quốc gia thông qua việc nghiên cứu và 
đối thoại với đại diện của các quốc gia thành viên 
 Đưa ra các kết luận và khuyến nghị về việc thực hiện công ước 
đối với các quốc gia thành viên, trong đó chỉ rõ các khía cạnh tích cực, 
các trở ngại, khó khăn trong việc thực hiện công ước, các vấn đề quan 
tâm, các đề xuất xử lý và kiến nghị 
 Hướng dẫn các quốc gia thành viên bằng nhiều biện pháp, đặc 
biệt là thông qua việc xây dựng các khuyến nghị chung 
Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc 
Theo điều 8, Uỷ ban xoá bỏ phân biệt đối xử về chủng tộc với 18 
chuyên gia được thành lập để thực hiện chức năng giám sát Công ước này. 
Uỷ ban thực hiện chức năng giám sát của mình thông qua ba thủ tục 
chính là báo cáo định kỳ (điều 9), khiếu kiện giữa các quốc gia (điều 
11,12,13), khiếu kiện cá nhân hoặc nhóm (điều 14), trong đó báo cáo định 
kỳ là thủ tục cơ bản và quan trọng nhất. Cơ chế khiếu kiện giữa các quốc 
gia mặc dù là mang tính bắt buộc nhưng đến nay UB vẫn chưa nhận được 
bất kỳ khiếu kiện nào. 
Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối với phụ nữ 
Uỷ ban về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối với phụ nữ chịu trách 
nhiệm xem xét báo cáo định kỳ hoặc báo cáo ngoại lệ và đưa ra các kết 
luận và đánh giá. UB được phép tiếp nhận thông tin, báo cáo từ các cơ 
quan chuyên môn khác của LHQ và từ Báo cáo viên đặc biệt. Điều 21 của 
Công ước cho phép UB đưa ra các khuyến nghị chung để giải thích, làm 
rõ các điều khoản của công ước. 
Nghị định thư bổ sung của Công ước này đưa ra quy định về thẩm 
quyền của UB trong việc tiếp nhận và xem xét các khiếu nại của cá nhân, 
các nhóm và tiến hành thủ tục điều tra khi nhận thấy “có những vi phạm 
hệ thống và nghiêm trọng tới các quyền được ghi nhận trong công ước”. 
Công ước về quyền trẻ em 
9 
Điều 43 của Công ước cho phép thành lập Uỷ ban quyền trẻ em để 
giám sát việc thực hiện công ước. Công ước về quyền trẻ em không đưa 
ra quy định vể cơ chế khiếu kiện quốc gia mà chủ yếu thực hiện chức 
năng xem xét báo cáo và tổ chức Ngày thảo luận chung theo từng chủ để 
cụ thể. Điểm đặc biệt trong cơ chế giám sát và thực hiện quyền trẻ em là 
công ước cho phép sự tham gia tích cực của các tổ chức quốc tế, tổ chức 
phi chính phủ, đặc biệt là của UNICEF trong giám sát tiến trình thực thi 
công ước của các quốc gia. 
Công ước về bảo vệ quyền của người lao động di cư và thành viên gia 
định họ 
Uỷ ban bảo vệ quyền của người lao động di cư và thành viên gia 
đình họ là cơ quan giám sát việc thực hiện Công ước. Các quốc gia thành 
viên có nghĩa vụ đệ trình báo cáo về tình hình thực hiện công ước lên Uỷ 
ban. Điều 76 và 77 cho phép Uỷ ban nhận và xem xét khiếu kiện giữa các 
quốc gia và các cá nhân khi quốc gia đó tuyên bố công nhận thẩm quyền 
này của Ủy ban. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có quốc gia thành viên 
nào tuyên bố thừa nhận thủ tục này. 
Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng 
Công ước này không có Uỷ ban các chuyên gia hay cơ quan giám 
sát. Đây là một trở ngại lớn trong việc thực hiện Công ước này. Tuy 
nhiên Công ước này cho phép các quốc gia thành viên có quyền được yêu 
cầu các cơ quan có thẩm quyền của LHQ giúp đỡ để có hành động can 
thiệp dựa trên các quy định của Hiến chương để ngăn chặn và loại bỏ 
hành vi diệt chủng và đưa những tranh chấp có liên quan tới trách nhiệm 
quốc gia về tội diệt chủng ra toà án tư pháp như quy định tại điều 9. 
Công ước về địa vị của người tị nạn 1951 
Cao ủy LHQ về người tị nạn là cơ quan chức năng có nhiệm vụ 
chính là cung cấp sự bảo vệ quốc tế cho người tị nạn và tìm kiếm giải 
pháp hữu hiệu để giúp người tị nạn hòa nhập cuộc sống ở quốc gia mới 
hoặc hồi hương về quốc gia của mình. Phạm vi quyền hạn của Cao ủy 
LHQ về người tị nạn không chỉ giới hạn ở quốc gia tham gia công ước về 
địa vị của người tị nạn và nghị định thư 19676, mà theo quy chế thành lập 
thì cơ quan này còn có nhiệm vụ bảo vệ người tị nạn ở bất kỳ quốc gia 
nào. 
Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn 
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục 
Ủy ban chống tra tấn có thẩm quyền giám sát việc thực hiện Công 
ước thông qua bốn thủ tục: xem xét báo cáo, thực hiện thủ tục điều tra, , 
xem xét khiếu kiện cá nhân và khiếu kiện quốc gia, trong đó chỉ có trách 
10 
nhiệm xem xét báo cáo và điều tra là mang tính bắt buộc. Các thủ tục còn 
lại chỉ được thực hiện khi quốc gia thành viên tuyên bố thừa nhận thẩm 
quyền của Ủy ban. 
Như vậy có thể so thấy rằng, nếu cơ chế quyền con người dựa trên 
các công ước là cơ chế của các cơ quan mang tính chuyên môn tương đối 
độc lập thì cơ chế quyền con người dựa trên Hiến chương lại mang tính 
chính trị. Thành phần các cơ quan trong cơ chế LHQ thực chất là đại diện 
các chính phủ. Do vậy, các quyết định về quyền con người được các cơ 
quan đó ban hành và thực hiện không ít thì nhiều mang tính chính trị và 
thể hiện lợi ích của các quốc gia. 
II. Cách thức thực thi cơ chế nhân quyền của LHQ 
1) Cơ chế báo cáo 
UB nhân quyền LHQ cũng như tất cả các công ước chính về nhân 
quyền của LHQ đều xây dựng biện pháp thực thi chủ yếu là yêu cầu các 
quốc gia thành viên phải nộp báo cáo cho các cơ quan đảm bảo thực thi 
(các ủy ban nhân quyền của từng công ước). Đây là báo cáo đầu tiên. 
Trong các báo cáo này các quốc gia phải nêu lên những khuôn khổ luật 
pháp nói chung của các quốc gia đó về nhân quyền, các biện pháp hành 
pháp, lập pháp đang thực thi để đảm bảo các quyền đó cũng như những 
khó khăn quốc gia đó gặp phải trong quá trình thực thi công ước. Đồng 
thời các UB nhân quyền có chức năng đưa ra các báo cáo của mình về 
tình trạng các quốc gia thực thi quyền con người. Tuy nhiên trừ UB nhân 
quyền của LHQ, phần lớn các UB nhân quyền của các công ước này chỉ 
có thể ra những báo cáo chung chung về tìn trạng thực thi nhân quyền 
chứ không nhằm vào một quốc gia cụ thể nào. 
Bên cạnh các báo cáo quốc gia, các ủy ban công ước có thể nhận 
những thông tin về tình hình quyền con người của quốc gia từ nhiều 
nguồn khác, bao gồm các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan Liên hợp 
quốc, các tổ chức liên chính phủ khác, các viện nghiên cứu và qua báo chí. 
Dựa trên các thông tin này, cùng với báo cáo quốc gia, ủy ban đánh giá 
việc thực hiện công ước của mỗi quốc gia thành viên. Trên tinh thần đối 
thoại mang tính xây dựng, Ủy ban công bố các nhận xét và khuyến nghị 
và bày tỏ quan tâm của mình đến vấn đề có liên quan đến việc thực hiện 
công ước của quốc gia thành viên. 
Nghĩa vụ của các quốc gia là tôn trọng bảo vệ và thúc đẩy thực hiện 
cam kết trong công ước bằng tất cả các biện pháp có thể, trước hết là biện 
pháp lập pháp, nhằm bảo đảm sự tương thích giữa pháp luật quốc gia với 
công ước ICCPR. Đồng thời sử dụng các biện pháp tổ chức thực hiện 
công ước, trong đó có nhiệm vụ giáo dục toàn xã hội, đặc biệt là đối với 
những công chức thực thi pháp luật. Chính phủ phải trình báo cáo quốc 
gia theo quy định của công ước. Báo cáo đầu tiên đệ trình lên ủy ban sau 
11 
một năm kể từ ngày công ước có hiệu lực ở quốc gia tham gia công ước. 
Tiếp đó, cứ 5 năm các quốc gia phải nộp báo cáo 1 lần. 
Một trong những trách nhiệm là quốc gia phải nộp đúng hạn và bảo 
vệ báo cáo quốc gia. 
Báo cáo quốc gia phải trình bày đầy đủ, chân thực (có số liệu bảng 
biều) kết quả thực hiện tất cả các điều của công ước, trình bày rõ những 
việc đã làm được, chưa làm được, nguyên nhân và phương hướng khắc 
phục. Đồng thời đại diện của quốc gia có trách nhiệm trả lời các câu hỏi 
lắng nghe trao đổi cởi mở và tiếp thu các bình luận và khuyến nghị của ủy 
ban. Tất cả những điều đó để chứng minh rằng, những vấn đề mà báo cáo 
quốc gia đưa ra phải đảm bảo các thông tin tối thiểu nhằm giúp cho các 
Ủy ban tiến hành các công việc của mình, sau đó mỗi Ủy ban sẽ ban hành 
những hướng dẫn về hình thức và nội dung của mỗi báo. 
Trong hai thập kỷ qua, Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc đã nỗ lực 
đáng kể trong việc nghiên cứu tình hình các nước, trong đó có những 
nước tình hình chính trị đáng quan tâm như Guatemala, I-ran và Myanma. 
Cụ thể, ủy ban đã hoạt động thông qua “báo cáo viên đặc biệt” – một 
chuyên gia độc lập kiêm điều tra viên. “Báo cáo viên đặc biệt” này bên 
cạnh nhiệm vụ báo cáo chính thức cho ủy ban còn cố gắng duy trì đối 
thoại liên tục với các chính phủ đang bị điều tra nhằm duy trì sự hiện diện 
lâu dài và thiết lập một kênh ảnh hưởng. Thông tin từ các báo cáo viên 
đặc biệt sẽ giúp Ủy ban nắm vững hơn việc thực hiện công ước ở quốc 
gia thành viên. Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc cũng cử ra các báo cáo 
viên hoặc thành lập các nhóm làm việc để điều tra các vụ mất tích, giết 
hại và giam giữ tùy tiện, không khoan dung tôn giáo, các vụ vi phạm 
nhân quyền vì toan tính vụ lợi và phân biệt chủng tộc. 
Tiếp theo báo cáo đầu tiên, các quốc gia phải đệ trình báo cáo định 
kỳ. Báo cáo định kỳ thường không nhắc lại những nội dung của báo cáo 
đầu tiên, nhưng phải chứa đựng đầy đủ những thông tin cần thiết cho Ủy 
ban. Yếu tố qun trọng đối với các báo cáo định kỳ là thông tin về các biện 
pháp mà quốc gia đã áp dụng để thực hiện các khuyến nghị trong bản 
nhận xét về các báo cáo trước đó. 
2) Cơ chế điều tra, khiếu kiện 
a. Khiếu kiện cá nhân 
Bên cạnh thủ tục báo cáo, một số các ủy ban công ước còn có thể 
thực hiện chức năng giám sát thực thi thông qua ba cơ chế khác nhau: đó 
là thủ tục điều tra, xem xét khiếu kiện liên quốc gia và xem xét khiếu nại 
cá nhân. Thẩm quyền xem xét khiếu kiện của các ủy ban theo công ước 
của Liên hợp quốc mang tính lưạ chọn, không bắt buộc. 
Hiện nay có 5 ủy ban công ước thừa nhận thẩm quyền nhận khiếu 
kiện từ các cá nhân là người cho rằng các quyền của họ theo Công ước bị 
vi phạm, đó là: 
12 
1. Ủy ban Nhân quyền có thể xem xét khiếu nại cá nhân từ các 
quốc gia thành viên theo Nghị định thư thứ nhất của Công ước 
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. 
2. Ủy ban xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ có 
thể xem xét khiếu nại cá nhân theo Nghị định thư bổ sung 
Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. 
3. Ủy ban chống tra tấn có thể xem xét các khiếu nại cá nhân nếu 
quốc gia thành viên tuyên bố thừa nhận thẩm quyền của Ủy 
ban (Điều 22 của Công ước). 
4. Ủy ban chống phân biệt chủng tộc có thể xem xét các khiếu 
nại cá nhân đưa ra chống lại các quốc gia thành viên, nếu 
quốc gia thành viên có tuyên bố thừa nhận thẩm quyền của Ủy 
ban (Điều 14 của Công ước Loại trừ mọi hình thức phân biệt 
chủng tộc). 
5. Công ước Bảo vệ quyền của người lao động di cư và các 
thành viên gia đình họ cũng chứa đựng các quy định cho phép 
các khiếu kiện cá nhân. Tuy nhiên, quy định này hiện nay 
chưa có hiệu lực mà phải chờ đến khi có đủ 10 quốc gia thành 
viên tuyên bố thừa nhận thẩm quyền này theo Điều 77 của 
Công ước. 
Các khiếu kiện cá nhân gửi lên Ủy ban Công ước chỉ được thực hiện 
với điều kiện là quốc gia bị khiếu kiện là thành viên của Công ước và 
quốc gia đó công nhận thẩm quyền xem xét khiếu kiện cá nhân của Ủy 
ban. Đối với Công ước về các quyền dân sự, chính trị và Công ước xóa 
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ thì quốc gia có thể công 
nhận thẩm quyền của UB bằng việc tham gia nghị định thư thứ nhất của 
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị hoặc Nghị định thư bổ 
sung Công ước về loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Đối 
với Công ước Chống tra tấn và Công ước Loại trừ phân biệt chủng tộc thì 
quốc gia thành viên cần tuyên bố công nhận thẩm quyền của UB theo 
điều 22 và điều 14 của Công ước này. 
Đối với những quốc gia thành viên của những công ước có Nghị 
định thư không bắt buộc cho phép công dân nước mình được gửi đơn 
khiếu kiện đến UB công ước mà tham gia Nghị định thư thì bất kì cá nhân 
nào cũng có thể đưa khiếu nại đến Ủy ban với những điều kiện sau: 
không phải là vấn đề đang được thẩm định theo một thủ tục điều tra hoặc 
giải quyết quốc tế; mọi biện pháp trong nước đã được vận dụng nhưng 
không có hiệu quả; đơn không phải là nặc danh. 
Nếu quốc gia thành viên tuyên bố thừa nhận thẩm quyền khiếu kiện 
cá nhân hoặc nhóm cá nhân thì UB sẽ được nhận và xem xét các khiếu 
kiện từ quốc gia thành viên đó. Tuy nhiên UB chỉ giải quyết khiếu kiện 
bằng cach đưa ra các khuyến nghị đề xuất mà không đưa ra phán quyết 
như 1 tòa án. 
13 
b. Khiếu kiện quốc gia 
Hiện nay có 4 công ước về quyền con người có quy định thừa nhận thủ 
tục khiếu kiện giữa các quốc gia thành viên lên Ủy ban công ước liên 
quan về các vi phạm công ước của quốc gia khác. 
Thủ tục này chỉ được thực hiện khi các biện pháp pháp lý trong nước 
không còn có khả năng giải quyết và chỉ áp dụng đối với các quốc gia 
thành viên đã có tuyên bố thừa nhận thẩm quyền của Ủy ban về vấn đề 
này. 
Đối với tranh chấp giữa các quốc gia xung quanh việc giải thích hoặc áp 
dụng công ước, Điều 29 Công ước CEDAW, điều 30 công ước CAT và 
điều 92 công ICRMW quy định rõ những tranh chấp này có thể giải quyết 
bằng đàm phán, thương lượng hoặc nếu không được thì giải quyết bằng 
biện pháp trọng tài hoặc đưa ra Tòa án Tư pháp quốc tế. 
Thủ tục khiếu kiện quốc gia đã được thừa nhận trong các công ước nhưng 
thủ tục này chưa được quốc gia nào áp dụng 
c.Cơ chế điều tra 
Ủy ban chống tra tấn và Ủy ban xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử 
với phụ nữ tiến hành thủ tục điều tra ban đầu nếu nhận được thông tin 
đáng tin cậy về sự vi phạm một cách có hệ thống các điều khoản của công 
ước trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia thành viên. 
Thủ tục điều tra chỉ có thể được áp dụng đối với những quốc gia thành 
viên chấp nhận thẩm quyền của Ủy ban 
Sau khi nhận được thông tin phù hợp, Ủy ban sẽ mời quốc gia thành viên 
cùng hợp tác để thẩm tra thông tin đó thông qua việc đệ trình những ý 
kiến phản hồi về sự việc. Theo đó, dựa trên cơ sở ý kiến phản hồi của 
quốc gia thành viên và những thông tin liên quan sẵn có khác, Ủy ban có 
thể quyết định một hoặc nhiều thành viên của Ủy ban tiến hành cuộc điều 
tra kín và báo cáo cho Ủy ban. Hơn nữa, theo công ước CEDAW và CAT, 
đại diện Ủy ban công ước có thể thực hiện chuyến thăm tới lãnh thổ của 
quốc gia liên quan khi có bằng chứng về tình trạng vi phạm nhân quyền 
với sự đồng ý của quốc gia thành viên. 
Quốc gia thành viên phải trả lời trong thời hạn sáu tháng. Và dựa trên sự 
tham khảo ý kiến của quốc gia thành viên, Ủy ban có thể quyết định đưa 
vào hồ sơ tóm tắt về các kết quả của quá trình điều tra trong báo cáo hàng 
năm của mình. 
 3) Công bố các bình luận chung về giải thích các nội dung và thủ tục 
thực hiện công ước 
 Các cơ quan công ước có chức năng ban hành các hướng dẫn để 
làm rõ thêm nội dung, ý nghĩa của các quyền được ghi nhận trong công 
ước. Các bình luận chung hay khuyến nghị nhằm giúp các quốc gia tuân 
thủ các quy định của công ước một cách hiệu quả hơn. Các bình luận 
chung hoặc các khuyến nghị thường tập trung vào các điều khoản cụ thể 
của Công ước, và giải thích chi tiết hơn các chuẩn mực mà các chính phủ 
14 
phải tuân theo trong việc thực hiện Công ước. Chẳng hạn, họ có thể cung 
cấp loại thông tin và dữ liệu mà cơ quan công ước nhận lấy là hữu ích để 
xem xét việc thực hiện của các quốc gia. Các bình luận chung và khuyến 
nghị là những hướng dẫn rất quan trọng để giúp các quốc gia đảm bảo tốt 
hơn nghĩa vụ thực hiện công ước của mình. 
 Hiện nay, hầu hết các ủy ban công ước đều ban hành các bình luận 
chung, hay khuyến nghị chung, ngoại trừ Ủy ban Bảo vệ người lao động 
di cư. 
Chương II. Cách thức bảo đảm thực thi các cơ chế khu vực 
Các cơ chế bảo vệ quyền con người của Châu Âu, Châu mỹ, Châu 
phi đều thành lập các cơ quan đảm bảo thực thi quyền con người quy định 
trong các văn kiện pháp lý của khu vực. Các cơ quan này gồm có UB 
nhân quyền, Tòa án nhân quyền và các cơ quan mang tính chất chính trị 
khác cùng phối hợp hành động.Hiện nay có hai cách thức đảm bảo thực 
thi chính là cách thức thông qua cơ chế báo cáo và cách thức thông qua 
cơ chế điều tra, khiếu nại. 
I. Hệ thống Tòa án khu vực 
1.Toà án nhân quyền Châu Âu: 
Cơ cấu 
Theo điều 58, số lượng thành viên của TANQ Châu Âu tương ứng 
với số thành viên của Hội đồng Châu Âu nghĩa là nhiều hơn số thành viên 
của TANQ Châu Mỹ, mặc dù TANQ Châu Âu thường xét xử vụ việc 
trong một phòng gồm 7 thẩm phán. Trong 7 thẩm phán này một người là 
Chủ tịch hoặc phó Chủ tịch của Toà, một người là đại diện của Quốc gia 
liên quan còn những người khác được lựa chọn thông qua bỏ phiếu. Các 
thẩm phán này hoạt động độc lập và có đầy đủ phẩm chất năng lực cần 
thiết. 
Thẩm quyền: 
Giống như Công ước Liên Mỹ chỉ có UBNQ hoặc một Quốc gia mới 
có quyền kiện ra trước TANQ (Theo điều 44) và chỉ khi Quốc gia thuyên 
bố chấp nhận thẩm quyền của Toà. 
Toà án nhân quyền Châu Âu có thẩm quyền với tất cả các vụ việc 
liên quan đến giải thích hoặc áp dụng Công ước(điều 45) và phải được đệ 
trình lên trong vòng 3 tháng kể từ khi UBNQ chuyển báo cáo lên 
UBBT(điều 47), TANQ Châu Âu sẽ quyết định xem liệu có sự vi phạm 
với Công ước Châu Âu hay không. 
Nhưng khi TANQ Châu Âu đã tuyên bố vi phạm, Công ước Châu 
Âu không nói rõ Toà có quyền yêu cầu thực hiện các biện pháp khắc 
phục hay không. TANQ Châu Mỹ thì lại được Công ước Liên Mỹ trao 
cho thẩm quyền này. Tuy vậy, theo điều 50 của Công ước Châu Âu lại 
đặc biệt trao cho TANQ Châu Âu quyền đề nghị tiến hành bồi thường 
15 
cho bên bị vi phạm nếu nội luật của Quốc gia liên quan không có khả 
năng khắc phục tình trạng bị xâm phạm một cách đầy đủ. Điều này chứng 
minh rằng mặc dù quyết định của Toà đưa ra là không bao gồm khoản bồi 
thường nhưng nếu người ta có thể chứng minh là có thiệt hại thì Toà có 
thể vẫn giúp bị đơn nhận được bồi thường. 
Quyết định của TANQ Châu Âu mang tính ràng buộc với tất cả các 
Quốc gia thành viên (điều 53). Phán quyết của Toà sẽ được chuyển cho 
Uỷ ban bồi thẩm là cơ quan có nhiệm vụ giám sát việc thi hành quyết 
định (điều 54). Trong khía cạnh này TANQ Châu Âu không rộng bằng 
thẩm quyền của TANQ Châu Mỹ vì nó có thể trực tiếp yêu cầu quốc gia 
liên quan tiến hành bồi thường. 
TANQ Châu Âu cũng có thẩm quyền đưa ra ý kiến tư vấn nhưng hẹp 
hơn thẩm quyền của TANQ Châu Mỹ. 
2. Toà Nhân quyền Châu Mỹ: 
Cơ cấu 
Giống với TANQ Châu Âu thì toà này cũng gồm 7 thẩm phán được 
chọn ra với tư cách cá nhân và mang phẩm chất cao nhất về đạo đức và 
năng lực. Mỗi thẩm phán được bầu 6 năm 1 lần và chỉ được tái đắc cử 
một lần. Khác với TANQ Châu Âu thẩm phán của TANQ Châu Mỹ luôn 
chỉ có 7 thẩm phán (điều 52). 
Ngoài ra có qui định về “thẩm phán Quốc gia” nghĩa là liệu một 
thẩm phán là công dân của một Quốc gia có liên quan đến vụ việc có thể 
tham gia vụ kiện đó không. Giống với cách làm của TANQ Châu Âu thì 
TANQ Châu Mỹ cũng quy định Quốc gia liên quan đó có thể cử ra một 
thẩm phán đặc biệt (ad hoc). 
Toà án sẽ chỉ định ra ban thư ký riêng của họ. 
Thẩm quyền: 
Giống với TANQ Châu Âu thẩm quyền của Châu Mỹ cũng mang 
tính lựa chọn, có nghĩa là Quốc gia thành viên có thể chấp nhận hay 
không chấp nhận thẩm quyền của Toà và chỉ có Quốc gia thành viên và 
UBNQ có quyền đệ trình các vụ án lên Toà án (điều 61). TANQ Châu 
Mỹ không tiếp nhận báo cáo cá nhân. 
Tuy vậy, quyền hạn của TANQ Châu Mỹ có phần rộng hơn TANQ 
Châu Âu về cái gọi là “biện pháp tạm thời”, nếu Toà án nhận thấy có vi 
phạm họ có thể tạo điều kiện phục hồi quyền lợi của bên bị hại và có thể 
yêu cầu bị đơn khắc phục tình trạng bị vi phạm và trả các phí tổn (điều 
63). Hơn nữa các Quốc gia thành viên phải chịu sự ràng buộc với phán 
quyết của Toà và yêu cầu của Toà đối với Quốc gia liên quan về việc bồi 
thường thiệt hại là bắt buộc (điều 68). 
16 
Nếu Quốc gia liên quan không tuân thủ các phán quyết, Toà sẽ phải 
làm báo cáo hàng năm lên ĐHĐ OAS về mọi việc đồng thời đưa ra các 
“khuyến nghị” (điều 65). 
Song cơ chế giám sát của TANQ Châu Âu lại có phần hiệu quả hơn 
nghĩ vụ báo cáo thực hiện hàng năm này. 
 Quyền đưa ra ý kiến tư vấn của TANQ Châu Mỹ có phần rộng hơn 
của TANQ Châu Âu. Các Quốc gia thành viên có thể xin TANQ Châu 
Mỹ ý kiến tư vấn không chỉ các vấn đề liên quan đến Công ước Liên Mỹ 
mà còn cả những vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền con người ở các 
Quốc gia. 
3) Toà Nhân quyền Châu Phi: 
Cơ cấu và thẩm quyền xét xử của TANQ Châu Phi giống với cơ 
cấu và thẩm quyền của TANQ Châu Âu. 
II. Cách thức đảm bảo thực thi của khu vực 
1) Cách thức thông qua cơ chế báo cáo 
Các văn kiện pháp lý chính về quyền con người của các cơ chế khu 
vực Châu Âu, Châu Mỹ không coi cơ chế báo cáo là biện pháp đảm bảo 
thực thi chính. Đối với UB nhân quyền Châu Âu, các quốc gia không có 
nghĩa vụ phải nộp các báo cáo cho UB và chỉ trừ khi Tổng thư kí Hội 
đồng Châu Âu yêu cầu thì UB mới trình báo cáo (điều 57). UB nhân 
quyền Liên mỹ cũng chỉ khi có yêu cầu cụ thể mới nhận báo cáo từ các 
quốc gia thành viên (điều 41 khoản 1). 
Chỉ các quốc gia tham gia cơ chế của Châu phi có nghĩa vụ nộp báo 
cáo cho UB nhân quyền (điều 26). UB nhân quyền Châu Phi cũng có 
nghĩa vụ báo cáo hàng năm về hoạt động của mình lên các cuộc họp của 
các Nguyên thủ quốc gia khu vực Châu Phi. 
Riêng đối với các văn bản pháp lý khác của Châu Âu là hiến chương 
xã hội Châu Âu, công ước cấm tra tấn và các hình thức đối xử phi nhân 
đạo và Châu Mỹ là công ước Liên mỹ chống tra tấn và Nghị định thư bổ 
sung về các quyền văn hóa – kinh tế - xã hội thì cơ chế báo cáo là biện 
pháp đảm bảo thực thi chính. 
2) Cách thức thông qua cơ chế điều tra, khiếu kiện 
So với cơ chế báo cáo, cơ chế điều tra khiếu kiện rõ ràng ảnh hưởng 
đến nguyên tắc chủ quyền quốc gia nhiều hơn. Việc cho phép một cơ 
quan bên ngoài không thuộc sự quản lý của chính phủ tiến hành điều tra 
về việc thực thi nhân quyền ở quốc gia đồi hỏi quốc gia đó phải vượt qua 
được những cản trở của nguyên tắc chủ quyền quốc gia. 
a) Việc điều tra 
UB nhân quyền Châu âu theo điều 28 công ước nhân quyền Châu âu 
có thẩm quyền điều tra nếu thấy cần thiết và các quốc gia có những nghĩa 
vụ tạo điều kiện cho việc điều tra này và cung cấp những hỗ trợ cần thiết 
17 
sau khi đã trao đổi ý kiến với UB. Điều 8 khoản 1 công ước nhân quyền 
Châu mỹ cũng quy định UB Châu mỹ có thẩm quyền tiến hành điều tra 
tại chỗ nếu quốc gia liên quan đồng ý. Như vậy thẩm quyền điều tra của 
các UB nhân quyền Châu âu, Châu mỹ là rất lớn. Tuy nhiên, UB nhân 
quyền Châu phi chỉ được phép yêu cầu các quốc gia cung cấp những 
thông tin cần thiết liên quan đến những vụ kiện về nhân quyền chứ không 
có thẩm quyền lớn như UB nhân quyền Châu âu, Châu mỹ. Điều này một 
lần nữa được lý giải bởi sự nhạy cảm của các quốc gia Châu phi về vấn 
đề chủ quyền quốc gia. 
b) Về cơ chế khiếu kiện 
Cơ chế khiếu kiện có hai loại: khiếu kiện của cá nhân, nhóm cá nhân, 
tổ chức phi chính phủ và khiếu kiện của quốc gia. Các UB nhân quyền 
theo các công ước của LHQ nếu có thẩm quyền xem xét các khiếu kiện 
thì thẩm quyền đó chỉ mang tính lựa chọn, không bắt buộc tức là các quốc 
gia có quyền không chấp nhận thẩm quyền này của UB. Trong khi đó, cả 
ba cơ chế khu vực Châu âu, Châu mỹ và Châu phi đều đạt được những 
cam kết chặt chẽ hơn. 
* Xem xét đơn kiện 
Theo quy định trong khung pháp lý của cơ chế bảo vệ quyền con 
người ở Châu âu, thẩm quyền nhận và xem xét khiếu kiện quốc gia của 
UB nhân quyền Châu âu mang tính bắt buộc, thẩm quyền với khiếu kiện 
cá nhân không bắt buộc. Công ước nhân quyền Châu mỹ quy định ngược 
lại với công ước nhân quyền Châu âu. Ở Châu phi, hiến chương Châu phi 
về quyền con người và quyền dân tộc quy định thẩm quyền của UB nhân 
quyền đối với cả hai loại khiếu kiện này đều mang tính bắt buộc. 
Cơ chế của khu vực Châu âu đã tiến thêm một bước khi tất cả các 
quốc gia tham gia cơ chế đồng ý chấp nhận thẩm quyền của UB nhân 
quyền Châu âu xem xét các đơn kiện của cá nhân. Đến năm 1998, Hội 
đồng Châu âu quyết định quyền khiếu kiện của cá nhân không còn mang 
tính lựa chọn mà trở nên bắt buộc đối với các quốc gia gia nhập công ước 
nhân quyền Châu âu. Như vậy có thể thấy rằng trong quá trình xây dựng 
cơ chế khu vực, Châu âu đã tiến hành từng bước một không chỉ trong 
việc xây dựng cơ quan đảm bảo thực thi mà cả cách thức đảm bảo thực 
thi. 
Ở khu vực Châu phi, mặc dù Điều 55 hiến chương Châu phi quy 
định UB nhân quyền Châu phi có thẩm quyền nhận và xem xét các đơn 
kiện cá nhân và quốc gia song trên thực tế điều này không có ý nghĩa. 
Bản thân các quốc gia thường không có xu hướng đưa đơn kiện quốc gia 
khác nhằm giữ quân hệ thân thiện (đây là một thực tiễn không chỉ riêng ở 
khu vực Châu phi). Đến năm 2002 chỉ có một đơn kiện quốc gia duy nhất 
của Libya kiện Mỹ; đơn này không được chấp nhận vì người Mỹ không 
là thành viên cả OAU. Đối với đơn kiện cá nhân, các quốc gia Châu phi 
18 
có xu hướng không tôn trọng toàn bộ quá trình thẩm vấn và giải quyết 
thân thiện của UB. 
Khi đi vào xem xét đơn kiện, việc đầu tiên các cơ quan đảm bảo 
thực thi quyền con người cần làm là xem xét đơn kiện có đủ điều kiện để 
được chấp nhận hay không. Về vấn đề này, cả ba cơ chế khu vực đều có 
cách tiếp cận khá giống nhau. Điều kiện chung để các đơn kiện được 
chấp nhận là: các biện pháp bảo vệ quyền con người trong nước đã được 
sử dụng hết, hoặc trừ khi không có những biện pháp bảo vệ như vậy hay 
các biện pháp đó đã bị trì hoãn một cách vô lý, vấn đề kiện chưa được 
một ủy ban hay một thủ tục quốc tế nào khác xử lý, đơn kiện phải phù 
hợp với văn kiện pháp lý của khu vực. Chỉ có một số khác biệt nhỏ như 
khu vực Châu phi có thêm điều kiện là các đơn đó không dựa hoàn toàn 
vào thông tin từ phương tiện truyền thông đại chúng. 
Sau khi đã xác định các đơn thỉnh cầu là phù hợp, các UB nhân 
quyền của ba khu vực bắt đầu xem xét vụ việc. Các cơ quan này khuyến 
khích bên bị đơn và nguyên đơn tìm một giải pháp thân thiện, trong đó 
các ủy ban sẽ đóng vai trò trung gian môi giới các bên gặp nhau để đàm 
phán tự tìm ra cách giải quyết. Ở Châu âu và Châu mỹ, các ủy ban nhân 
quyền luôn có mặt trong các cuộc đàm phán của các bên liên quan. Chỉ 
riêng khu vực Châu phi, các bên liên quan được khuyến khích gặp nhau 
mà không có UB. Yếu tố này cho thấy khu vực Châu phi dành ưu tiên cho 
biện pháp đàm phán thương lượng hơn là biện pháp xét xử. Như vậy, một 
lần nữa có thể thấy rằng tình nhạy cảm về vấn đề chủ quyền của khu vực 
Châu phi không chỉ dẫn đến việc không thành lập được một cơ quan tài 
phán là tòa án mà còn tác động đến việc xây dựng cách thức giải quyết 
các khiếu kiện quốc gia và cá nhân trong đó ưu tiên các bên liên quan tự 
tìm cách giải quyết. 
Chương III. So sánh cơ chế đảm bảo thực thi nhân quyền của 
LHQ với các khu vực, hạn chế, hoàn thiện và ý nghĩa của các khu 
vực 
1. So sánh 
Khác với cơ chế của LHQ, các văn kiện pháp lý chính về quyền con 
người của các cơ chế khu vực Châu âu, Châu mỹ không coi cơ chế báo 
cáo là biện pháp đảm bảo thực thi chính. 
Cơ chế điều tra khiếu kiện của cơ quan LHQ mang tính chất lựa 
chọn. Cơ chế khu vực Châu phi, khu vực Châu âu và khu vực Châu mỹ 
có cách thức đảm bảo thực thi mang tính cưỡng chế cao hơn. Ngoài cách 
thức đảm bảo thực thi chính thông qua cơ chế báo cáo và cơ chế điều tra 
khiếu nại, khu vực Châu mỹ và khu vực Châu phi còn có cách thức đảm 
bảo mang tính phát huy sự nhận thức về quyền con người cho khu vực. 
Chính vì vậy bên cạnh các chức năng báo cáo, xem xét đơn kiện, các ủy 
ban nhân quyền Châu mỹ và Châu phi còn tiến hành các hoạt động như 
19 
nghiên cứu, hội thảo, giáo dục về quyền con người. Tòa nhân quyền Châu 
mỹ và UB nhân quyền Châu phi còn có thẩm quyền đưa ra ý kiến tư vấn 
về nhân quyền cho các quốc gia tham gia cơ chế. 
Khi giải quyết các đơn kiện cá nhân, quốc gia, không phải cơ quan 
đảm bảo thực thi của khu vực nào đó cũng có quyền ra quyết định có sự 
vi phạm nhân quyền ở một quốc gia nào đó. UB nhân quyền Châu phi 
không có thẩm quyền này. UB chỉ dừng lại ở việc xem xét đơn kiện, 
khuyến khích các giải pháp thân thiện chứ không có quyền ra quyết định. 
Trong khi đó, Tòa án nhân quyền, UB Bộ trưởng Châu âu và Tòa án nhân 
quyền Châu mỹ lại có thẩm quyền quyết định xem có vi phạm nhân 
quyền xảy ra hay không. 
Tuy nhiên, thẩm quyền của Tòa án nhân quyền Châu âu và Tòa án 
nhân quyền Châu mỹ trong lĩnh vực này không hoàn toàn giống nhau. 
Tòa nhân quyền Châu mỹ có quyền đưa ra các biện pháp tạm thời trong 
trường hợp khẩn cấp còn Tòa án nhân quyền Châu âu không có quyền đó. 
Hơn nữa, Tòa án nhân quyền Châu âu chỉ có quyền ra quy định yêu cầu 
đòi bồi thường cho bên thiệt hại chứ không có quyền đưa ra các biện 
pháp bắt các quốc gia phải thi hành. Trong khi đó, Tòa án nhân quyền 
Châu mỹ có quyền yêu cầu nước vi phạm phải phục hồi quyền lợi cho 
bên bị hại và đền bù các hệ quả của sự vi phạm nhân quyền. Các nước bị 
ràng buộc bởi phán quyết của Tòa. Lệnh về thiệt hại sẽ có hiệu lực trực 
tiếp với các nước có liên quan. Song cách thức giám sát việc thực thi 
phán quyết của Tòa án nhân quyền Châu âu lại có hiệu quả hơn vì có sự 
giúp đỡ của Hội đồng bộ trưởng. Ở Châu âu, không chỉ Tòa án nhân 
quyền có thẩm quyền ra quyết định có vi phạm không mà cả UB Bộ 
trưởng cũng có thẩm quyền này với những vụ kiện không đưa lên Tòa. 
Tuy không có quyền bắt buộc các chính phủ tiến hành các biện pháp đền 
bù nhưng công ước Châu âu cho phép trong trường hợp UB quyết định có 
vi phạm xảy ra, UB có quyền đặt ra thời hạn để các bên liên quan tự rút ra 
kết luận và thực thi các hành động đền bù thích đáng. Như vậy, ở châu âu, 
Tòa án và UB Bộ trưởng có sự kết hợp nhịp nhàng. 
Qua phân tích trên, có thể thấy so với khu vực Châu phi, khu vực 
Châu âu và khu vực Châu mỹ có cách thức đảm bảo thực thi mang tính 
cưỡng chế cao hơn. Ngoài cách thức đảm bảo thực thi chính thông qua cơ 
chế báo cáo và cơ chế điều tra khiếu nại, khu vực Châu mỹ và khu vực 
Châu phi còn có cách thức đảm bảo mang tính phát huy sự nhận thức về 
quyền con người cho khu vực. Chính vì vậy bên cạnh các chức năng báo 
cáo, xem xét đơn kiện, các ủy ban nhân quyền Châu mỹ và Châu phi còn 
tiến hành các hoạt động như nghiên cứu, hội thảo, giáo dục về quyền con 
người. Tòa nhân quyền Châu mỹ và UB nhân quyền Châu phi còn có 
thẩm quyền đưa ra ý kiến tư vấn về nhân quyền cho các quốc gia tham 
gia cơ chế. 
20 
2. Hạn chế và hoàn thiện 
Thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là một trong những mục đích 
cơ bản của Liên hợp quốc. Việc thiết lập các chuẩn mực pháp lý và cơ 
chế giám sát trong lĩnh vực quyền con người đã và đang là một trong 
những phương tiện hàng đầu để đạt được mục đích này. Bước vào thế kỷ 
mới, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là một trong những mục tiêu 
quan trọng hàng đầu của Liên hợp quốc. Có thể coi, sự ra đời và phát 
triển của Luật quốc tế về quyền con người là một trong những thành tựu 
lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ XX. 
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được cơ chế bảo đảm quyền con 
người đã bộc lộ những hạn chế lớn. Các cơ quan quyền con người được 
thành lập theo điều ước quốc tế và các thủ tục hiện nay đang tạo ra một 
mạng lưới phức tạp và cồng kềnh. Gánh nặng về nghĩa vụ báo cáo đang 
tạo nên nhiều áp lực về nguồn lực cho các quốc gia thành viên và ban thư 
ký. Kết quả là, hiệu quả của cơ chế giám sát hiện hành còn thấp. Điều này 
dẫn đến những hiện tượng như chậm chễ trong việc đệ trình và xem xét 
báo cáo quốc gia, thậm chí có quốc gia không nộp báo cáo. Vì vậy nâng 
cao tính hiệu quả của cơ chế giám sát điều ước quốc tế về quyền con 
người đang là mối quan tâm lớn của Liên hợp quốc. Bên cạnh đó, trong 
bối cảnh nền chính trị quốc tế vẫn đang còn nhiều sự khác biệt giữa các 
quốc gia về hệ tư tưởng , truyền thống, lịch sử, trình độ phát triển và văn 
hóa, cơ chế này khó tránh khỏi những bất cập, một phần do bị tác động 
của cuộc đấu tranh chính trị, một phần do chính sự trì trệ của hệ thống 
của tổ chức nhân quyền trong một thời gian dài, không được cải cách 
tương ứng với sự phát triển của tình hình. Do đó, cải cách các cơ quan 
nhân quyền cùng với cải cách phương thức giám sát quốc tế trên lĩnh vực 
này là một tất yếu. Vì vậy cần phải hoàn thiện hơn nữa những cách thức 
đảm bảo thực thi các cơ chế nhân quyền của Liên hợp quốc. Theo đề xuất 
cải tổ cơ quan nhân quyền Liên hợp quốc của cựu Tổng bí thư Liên hợp 
quốc - Kofi Annan thì cho rằng hai biện pháp có thể giúp để loại bỏ 
những yếu kém của hệ thống hiện nay: 
- Các ủy ban nên nhanh chóng có cách tiếp cận mới, kết hợp các 
hoạt động của mình như xem xét báo cáo giám sát thông qua giám 
sát viên và các thủ tục khác và tiêu chuẩn hóa khuôn mẫu của báo 
cáo. 
- Cho phép mỗi quốc gia thành viên lập một báo cáo riêng tóm tắt 
việc thực hiện những cam kết của mình đối với các điều ước quốc 
tế về quyền con người. 
- Cải tổ chính Ủy ban Nhân quyền hiện nay theo hướng vừa mở rộng 
dân chủ (thành lập hội đồng chẳng hạn) và tăng cường tính tập 
trung (như có chức danh Ủy viên thường trực). 
Các khu vực có thiết lập được cơ quan mang tính tài phán hay không 
tùy thuộc vào việc khu vực đó có vượt qua được những trở ngại của 
21 
nguyên tắc chủ quyền quốc gia hay không bởi vì một khi được thiết lập, 
cơ quan có tính chất tài phán như tòa án nhân quyền có thẩm quyền rất 
lớn bao gồm cả việc xem xét lại các quyết định của toàn án các quốc gia. 
Điều này rõ ràng sẽ ảnh hưởng tới nguyên tắc chủ quyền quốc gia. Đây 
chính là lý do không phải khu vực nào cũng thiết lập được tòa án nhân 
quyền. 
Ví dụ: UB Nhân quyền Liên Mỹ, những báo cáo về Chilê của tổ 
chức này trong những năm 1970 và 1980 là một nhân tố quan trọng trong 
việc phơi bày những vụ vi phạm nhân quyền của chính phủ Pinochet. Báo 
cáo của tổ chức này về Nicaragua năm 1978 đã đóng góp quan trọng đưa 
chính phủ Somoza đến hồi kết thúc. 
So với khu vực châu Phi, khu vực châu Âu và châu Mỹ có cách thức 
đảm bảo thực thi mang tính cưỡng chế cao hơn. Ở khu vực châu Âu, sự 
hợp tác giữa các cơ quan trong việc bảo vệ quyền con người cũng chặt 
chẽ hơn và có hiệu quả hơn khu vực châu Mỹ. 
Ngoài cách thức đảm bảo thực thi chính thông qua cơ chế báo cáo, 
cơ chế điều tra khiếu nại, khu vực châu Mỹ và khu vực châu Phi còn có 
cách thức đảm bảo mang tính phát huy sự nhận thức về quyền con người 
cho khu vực. 
Các cơ chế đảm bảo thực thi nhân quyền của Liên Hợp Quốc đã 
đóng vai trò động thực thúc đẩy việc chấm dứt hoặc giảm bớt, thậm chí 
ngăn ngừa những vi phạm về nhân quyền đồng thời có tác động rất tích 
cực đến luật nhân quyền quốc tế. 
Ngày nay, các cơ quan này đang dần dần giảm bớt tính chính trị, trở 
nên công bằng hơn và hoạt động tích cực hơn cho mục tiêu nhân qu

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_thuc_thi_quyen_con_nguoi_cua_lien_hiep_quoc.pdf