Tiểu luận Thực trạng giải quyết tình trạng thất nghiệp ở Trung Quốc và bài học cho Việt Nam

pdf 14 trang yenvu 28/08/2024 160
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Thực trạng giải quyết tình trạng thất nghiệp ở Trung Quốc và bài học cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Thực trạng giải quyết tình trạng thất nghiệp ở Trung Quốc và bài học cho Việt Nam

Tiểu luận Thực trạng giải quyết tình trạng thất nghiệp ở Trung Quốc và bài học cho Việt Nam
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ 
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ 
---------- 
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG 
THẤT NGHIỆP Ở TRUNG QUỐC VÀ BÀI 
HỌC CHO VIỆT NAM 
Hà Nội – Năm 2020 
 2 
MỞ ĐẦU 
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội mà hầu hết các nước 
trên thế giới phải đương đầu. Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp 
được biểu lộ một cách rõ nét nhất, nó là hệ quả tất yếu của phát triển 
công nghiệp. Giảm tỉ lệ thất nghiệp là nhiệm vụ vĩ mô được đặt lên 
hàng
đầu
của mọi quốc gia trên thế giới.
Thất nghiệp là tình trạng một bộ phận lao động xã hội không tiếp 
cận được việc làm phù hợp với khả năng của bản thân họ, mặc dù họ 
đã cố gắng tìm kiếm và chấp nhận mức thu nhập mang tính thịnh hành. 
 Đối với người thất nghiệp là mất thu nhập, đời sống không đảm bảo 
và có thể dẫn đến tha hóa, đối với xã hội là tình trạng không tạo ra toàn 
dụng lao động và từ đó không tạo ra tăng trưởng kinh tế theo mong muốn
. Do đó, chính phủ các nước đặc biệt quan tâm đến vấn đề thất nghiệp. 
Chính phủ các nước có trách nhiệm phải quản lý tốt tình trạng thất nghiệp
, không để thất nghiệp xảy ra quá lớn và ảnh hưởng xấu tới nguồn lực lao 
động và tới đời sống của người lao động. Tuy nhiên, việc quản lý thất 
nghiệp không đơn giản, vì phụ thuộc vào lợi ích và cách hành xử của các 
chủ sử dụng lao động đối với việc làm, thu nhập của người lao động 
trong các hoạt động kinh doanh của họ. Để quản lý được tình trạng thất 
nghiệp, chính phủ phải tác động vào cả chủ doanh nghiệp và người lao 
động theo hướng đảm bảo lợi ích của cả hai phía được lâu dài để giảm 
thiểu tình trạng sa thải, mất việc làm của người lao động. 
Trung quốc là quốc gia lớn thứ hai trên thế giới , nhưng lại là quốc gia 
đông dân nhất thế giới . Mặc dù kinh tế Trung Quốc có những phát triển 
vượt bậc nhưng người dân Trung Quốc cũng không tránh khỏi tình trạng 
thất nghiệp. Chính phủ Trung Quốc đã và đang có những chính sách, biện 
 3 
pháp để nỗ lực giảm tỉ lệ thất nghiệp và bảo vệ cho những người thất 
nghiệp có hiệu quả trong thời gian vừa qua. 
Việt Nam là một quốc gia láng giềng với Trung Quốc có những nét 
tương đồng trong văn hóa, lịch sử, kinh tế... Trong những năm qua, nền 
kinh tế thị trường ở nước ta ngày càng phát triển, sự phát triển của các 
thành phần kinh tế trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, sự phát 
triển ấy kéo theo sự mất việc làm và thất nghiệp của người lao động, sự 
biến động phức tạp của thị trường và sản xuất kinh doanh đưa đến 
người
lao động thất nghiệp. 
Bài viết “ Thực trạng giải quyết tình trạng thất nghiệp ở Trung Quốc 
và bài học cho Việt Nam” tìm hiểu thực trạng thất nghiệp ở Trung Quốc 
và
phân tích các giải pháp của Chính phủ Trung Quốc để giải quyết vấn 
đề
thất nghiệp. Từ đó, vận dụng vào thực tiễn của Việt Nam để đề xuất 
giải
pháp giúp cho Chính phủ Việt Nam có những chính sách nhằm giảm 
tỉ
lệ
thất nghiệp và bảo vệ được người lao động bị thất nghiệp; đặc biệt là 
sau đại dịch Covid-19. 
 4
NỘI DUNG 
1. Cơ sở lí luận 
Thất nghiệp trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn có 
việc làm mà không tìm được việc làm hoặc không được tổ chức, công ty 
và cộng đồng nhận vào làm. Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao 
động không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động xã hội. 
Các nhà kinh tế theo trường phái tự do cho rằng, thất nghiệp là vấn đề 
bình thường và nó sẽ thúc đẩy bộ phận lao động đang làm việc phải làm 
việc tốt hơn, có hiệu quả cao hơn và từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển 
nhanh hơn, hiệu quả hơn. Ở góc độ khác, các nhà kinh tế lại cho rằng, thất 
nghiệp là tình trạng không tốt. Đối với người thất nghiệp là mất thu nhập, 
đời sống không đảm bảo và có thể dẫn đến tha hóa, đối với xã hội là tình 
trạng không tạo ra toàn dụng lao động và từ đó không tạo ra tăng trưởng 
kinh tế theo mong muốn. Như vậy, thất nghiệp là vấn đề mang tính 2 mặt, 
trong đó mặt tiêu cực là nổi trội và ảnh hưởng xấu tới tăng trưởng kinh tế, 
ổn định xã hội và phát triển con người. 
Trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp lý luận rằng để giảm tỷ lệ thất 
nghiệp chính phủ đã sử dụng chính sách quản lý tổng cầu, song do tỷ lệ 
thất nghiệp có quan hệ ngược chiều bền vững với tỷ lệ lạm phát, nên 
tăng trưởng kinh tế cao đương nhiên gây ra lạm phát. Lạm phát là cái giá 
phải trả để giảm tỷ lệ thất nghiệp. 
Chủ nghĩa tiền tệ đã bác bỏ lý luận nói trên của trường phái kinh tế 
học vĩ mô tổng hợp. Họ cho rằng đường cong Phillips như trên chỉ là 
đường cong Phillips ngắn hạn. Friedman đã đưa ra khái niệm tỷ lệ thất 
nghiệp tự nhiên, theo đó khi thị trường lao động ở trạng thái cân bằng 
vẫn có thất nghiệp. Hễ chính phủ áp dụng các biện pháp nhằm đưa tỷ lệ 
thất nghiệp 
 5
xuống dưới mức này, thì giá cả sẽ tăng lên (lạm phát). Sau khi lạm phát 
tăng tốc, cá nhân với hành vi kinh tế điển hình (hành vi duy lý) sẽ dự tính 
lạm phát tiếp tục tăng tốc. Trong khi tiền công danh nghĩa không đổi, lạm 
phát tăng nghĩa là tiền công thực tế trả cho họ giảm đi. Họ sẽ giảm cung 
cấp lao động, thậm chí tự nguyện thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp lại tăng 
lên đến mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, trong khi tỷ lệ lạm phát vẫn giữ ở 
mức cao. Nếu nhà nước vẫn cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới 
mức tự nhiên, cơ chế như trên lại xảy ra. Hậu quả là, trong dài hạn, tỷ lệ 
thất nghiệp vẫn ở mức tự nhiên mà tỷ lệ lạm phát lại bị nâng lên liên tục. 
Chính sách của nhà nước như vậy là chỉ có tác dụng trong ngắn hạn, còn 
về dài hạn là thất bại. 
Các đạo luật về tiền lương tối thiểu quy định mức lương thấp nhất mà 
người thuê lao động phải trả cho người lao động;
thị trường lao động phụ 
thuộc vào cung- cầu. Người lao động cung ứng lao động, trong khi đó 
doanh nghiệp sẽ thuê lao động (cầu lao động). Nếu không có chính phủ 
can thiệp thì tiền lương sẽ điều chỉnh đến mức lương mà lượng cung và 
lượng cầu bằng nhau. Ngược lại, giả sử rằng do tiền lương tối thiểu quy 
định khiến tiền lương buộc phải duy trì ở mức cao hơn tiền lương cân bằng 
thì
lượng cung lao động tăng lên và lượng cầu lao động giải xuống. Mức 
dư cung về lao động chính là số người thất nghiệp tăng thêm. 
Do yêu cầu của công đoàn, tiền lương có thể tăng lên trên mức cân bằng. 
Điều này khiến cho lượng cung lao động tăng và lượng cầu lao động giảm 
và gây ra thất nghiệp. 
Theo lý thuyết tiền lương hiệu quả, doanh nghiệp sẽ hoạt động có hiệu 
quả hơn nếu trả tiền lương cao hơn mức cân bằng thị trường vì doanh 
nghiệp có thể có lợi nếu giữ tiền lương ở mức cao ngay cả khi có tình 
trạng 
 6 
dư cung về lao động . Trên một số phương diện, thất nghiệp nảy sinh từ 
tiền lương hiệu quả do việc tiền lương cao hơn mức cho phép của cân 
bằng thị trường lao động. 
2. Thực trạng thất nghiệp của Trung Quốc. 
Tình trạng khó khăn về kinh tế đang dần trở thành một cuộc khủng 
hoảng chính trị đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, đặc biệt là sức ép 
phải thúc đẩy tăng trưởng hỗ trợ cho quốc gia với hơn 1,4 tỷ dân. Tỷ lệ 
thất nghiệp thực tế của Trung Quốc cao hơn nhiều so với tỷ lệ chính thức 
và khi được đo lường một cách chính xác, gần hơn nhiều so với tỷ lệ thất 
nghiệp ở các quốc gia khác có cùng trình độ phát triển.
Nghiên cứu ước 
tính rằng tỷ lệ thất nghiệp thực tế trong năm 2002-2009 trung bình là gần 
11%, trong khi tỷ lệ chính thức trung bình thấp hơn một nửa. Hơn nữa, bất 
chấp một số báo cáo ngược lại, đến năm 2009, thị trường lao động của 
Trung Quốc vẫn chưa phục hồi sau tình trạng sa thải quá lớn xảy ra vào 
cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000 khi đất nước chuyển đổi từ 
nền kinh tế do chính phủ kiểm soát sang một nền kinh tế tư nhân và lực 
lượng thị trường. nhiều hơn ở 
 7
chơi.
Các nhà nghiên cứu Shuaizhang Feng, Yingyao Hu và Robert Moffitt 
viết: “Chuỗi tỷ lệ thất nghiệp chính thức đối với Trung Quốc là không thể 
tin được và là một ngoại lệ trong việc phân bổ tỷ lệ thất nghiệp giữa các 
quốc gia được xếp hạng theo giai đoạn phát triển của họ”. "Chúng tôi 
thấy rằng vào khoảng năm 2002, tỷ lệ thất nghiệp ở Trung Quốc thực sự 
cao hơn so với các nước có thu nhập cao, hoàn toàn trái ngược với những 
gì được ngụ ý trong loạt bài chính thức." 
Các tác giả mô tả ba giai đoạn rõ rệt trên thị trường lao động Trung 
Quốc. Giai đoạn đầu - từ năm 1988 đến 1995 - được đặc trưng bởi một nền 
kinh tế do các doanh nghiệp nhà nước (SOEs) thống trị. Tỷ lệ thất nghiệp 
thấp: ước tính của họ cho thấy mức trung bình là 3,9% trong khi mức 
trung bình chính thức là 2,5%. Sau đó, trong giai đoạn 1995-2002, tỷ lệ 
thất nghiệp tăng nhanh chóng, một điểm phần trăm mỗi năm, do các 
DNNN loại bỏ một lượng lớn lao động và người di cư từ nông thôn tràn ra 
các thành phố để tìm kiếm việc làm. Các DNNN đã đi từ việc sử dụng 60
% lực lượng lao động của Trung Quốc vào năm 1995 xuống 30% vào năm 
2002.
 8
3. Giải pháp giải quyết tình trạng thất nghiệp của Chính phủ 
Trung Quốc 
Trước những thách thức lớn về tình trạng thất nghiệp gia tăng, Chính 
phủ Trung Quốc đã thực hiện hàng loạt các biện pháp để giải quyết kịp 
thời: 
Thứ nhất, phát triển ngành nghề tạo ra nhiều việc làm. Tận dụng nguồn 
nguyên liệu dồi dào trong nước Trung Quốc đã phát triển ngành nghề có 
thể tạo ra nhiều vị trí việc làm như ngành dệt may gia công linh kiện để 
mở rộng xuất khẩu 
Thứ hai,phát triển kinh tế phi công hữu, cổ phần hóa DNNN. Việc phát 
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tập trung nhiều lao động hiện nay, chính 
phủ Trung Quốc nỗ lực hỗ trợ và giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ 
về các mặt đầu tư vốn dịch vụ kỹ thuật mở rộng thị trường tư vấn thông 
tin bồi dưỡng.
Chính phủ Trung Quốc đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đầu 
tư nước ngoài có ảnh hưởng lớn nhất đến tăng trưởng kinh tế Trung Quốc 
và giải quyết việc làm. Để thúc đẩy các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư 
vào trong nước, Trung Quốc đã hình thành và khuyến khích các công ty 
xuyên
quốc gia tăng cường vốn đầu tư trong nước khuyến khích các nhà 
đầu tư nước ngoài tăng cường vốn cho các ngành nền tảng như giao thông, 
năng lượng nguyên vật, nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi bằng cách 
duy trì ổn định các chính trị xã hội, điều chỉnh hệ thống pháp luật, giảm 
bớt các thủ tục pháp luật, giảm bớt các thủ tục đầu tư phức tạp 
Thứ ba, đầu tư phát triển nguồn nhân lực nâng cao trình độ văn hóa và 
chuyên môn cho người lao động. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nêu rõ 
mục tiêu chiến lược phát triển động thúc đẩy việc sáng tạo nghề nghiệp 
và 
 9 
tạo ra việc làm và khẳng định việc làm là gốc của dân sinh và hoàn thiện 
chính sách ủng hộ tự chủ sáng nghiệp, tự tìm việc làm. Tăng cường giáo 
dục xây dựng nguồn nhân lực là những điều quan trọng để biến một đất 
nước Trung Quốc đông dân thành một cường quốc về nguồn nhân lực.
Đây 
cũng là giải hệ pháp cơ bản để giải quyết vấn đề việc làm hiện nay. Vì thế 
giải quyết vấn đề việc nào không có nghĩa là bố trí một cách thụ động việc 
làm cho người lao động mà còn coi là quá trình chủ động thông qua xây 
dựng nguồn lực nhân lực chất lượng cao. 
Thứ tư, kiểm soát tốc độ tăng trưởng nóng của nền kinh tế.Gần đây, 
Trung Quốc đã diễn ra tình trạng mất cân bằng kinh tế; tăng trưởng nhưng 
lại thiếu việc làm, tạo ra thất nghiệp ở Trung Quốc hiện nay.
Trung Quốc 
chủ trương thay đổi tình trạng tình trạng trong các ngành dịch vụ giải 
quyết
mâu thuẫn bất hợp lý trong cơ cấu kinh tế thực hiện các mục tiêu 
thông qua tăng trưởng và mở rộng việc làm. 
Thứ năm, Trung Quốc đầu tư quỹ bảo hiểm thất nghiệp; đảm bảo tiêu 
dùng cho người lao động trong thời gian thất nghiệp.
Bảo hiểm thất 
nghiệp không chỉ là công cụ giải quyết vấn đề thất nghiệp trong xã hội mà 
còn là chính sách giúp ổn định xã hội một cách tốt nhất; có chức năng bảo 
vệ, bù đắp những tổn thất về mặt tài chính cho người lao động và giúp họ 
có khả năng cũng như cơ hội quay lại thị trường làm việc. Bảo hiểm này 
thất nghiệp còn có chức năng khuyến khích giúp hạn chế sự ỷ lại của 
người lao động, khuyến khích họ chăm chỉ làm việc, sẵn sàng làm việc. 
Nhờ có bảo hiểm lao động, khi người lao động bị mất việc, chủ doanh 
nghiệp không phải mất phí trợ cấp mất việc làm cho người lao động nên 
họ sẽ sử dụng nguồn lao động thoải mái hơn, tạo động lực phát triển sản 
xuất.
4. Bài học cho Việt Nam 
 10
Thứ nhất, cần ban hành Luật để quy định cụ thể về chính sách việc làm 
của Nhà nước . Trong đó, Nhà nước không chỉ có trách nhiệm tạo việc 
làm mà phải có trách nhiệm định hướng phát triển việc làm hướng tới 
thúc đẩy và bảo đảm việc làm bền vững cho người lao động; có những 
quy định về các giải pháp cụ thể của Nhà nước. 
 Thứ hai, cần gắn kết chính sách việc làm với chính quá trình và kế 
hoạch tổng thể về tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại và phát triển 
bền vững. chủ động phát triển có tổ chức các thị trường lao động có nhiều 
tiềm năng và hiệu quả kinh tế cao, nhất là thị trường lao động chất lượng 
cao về kinh tế nông nghiệp, kinh tế biển, công nghệ thông tin và xuất khẩu 
lao động. 
 Thứ ba, chính sách việc làm cần được thực hiện trong đồng bộ và 
đồng thời, thậm chí đi trước một bước với các chính sách kinh tế khác. 
Đặc biệt, công tác đào tạo nghề cần bám sát nhu cầu thị trường và đi trước, 
đón đầu các quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở các địa phương, nhất là 
những địa bàn có tốc độ đô thị hóa và tốc độ tái cấu trúc kinh tế-xã hội 
nhanh. 
 Sớm bổ sung các chính sách việc làm mới, trong đó đặc biệt chú ý 
phát triển nguồn nhân lực trình độ cao trong các ngành, lĩnh vực quan 
trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả tăng trưởng kinh tế cao, như 
kinh tế nông nghiệp sử dụng công nghệ cao, kinh tế biển, công nghệ thông 
tin và xuất khẩu lao động có kỹ thuật, cũng như khai thác tốt đội ngũ lao 
động từ nước ngoài trở về nước sau khi kết thúc hợp đồng lao động ở 
nước ngoài. Mặt khác, cần tạo môi trường áp lực cao để người lao động 
Việt Nam khắc phục ảnh hưởng của lao động trong nền sản xuất nhỏ, tiểu 
nông, manh mún, được học tập và rèn luyện trong các trường dạy nghề 
trọng 
 11
điểm chất lượng cao, trường đại học đẳng cấp quốc tế, được quản lý 
theo mục tiêu bảo đảm chất lượng đào tạo và gắn với nhu cầu của xã hội
.
Để việc triển khai dạy nghề, học nghề có hiệu quả kinh tế thực sự, tránh 
hình thức và lãng phí xã hội trong quá trình triển khai các đề án đào tạo 
nghề, cần bảo đảm đầu tư đủ mức theo yêu cầu dậy và học nghề, tránh tư 
tưởng bình quân chủ nghĩa như kiểu “phát chẩn”, cửu đói. Mặt khác, cần 
tăng cường công tác tuyên truyền, linh hoạt và thiết thực về nội dung và 
phương thức đào tạo nghề, gắn với thực tế đối tượng học nghề, cũng như 
gắn với chương trình việc làm cụ thể của mỗi địa phương, để các đối tượng 
lao động nông thôn ở vùng sâu, vùng xa, nhất là vùng núi không bị lúng 
túng trong việc xác định nghề học, sắp xếp thời gian học. Hơn nữa, cần 
chú ý dạy nghề theo hướng tạo việc làm tại chỗ, trong đó có đáp ứng nhu 
cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao, hoặc thúc đẩy quá trình tái cấu 
trúc toàn diện kinh tế và xã hội nông thôn theo tinh thần “ly nông bất ly 
hương”, để người lao động sống ở nông thôn sau khi tốt nghiệp các khóa 
đào tạo nghề có thể tăng khả năng và chủ động tìm kiếm, tạo lập công việc, 
thu nhập ngay tại quê nhà, không phải đi xa, giảm bớt áp lực quá tải, phi 
kinh tế lên các đô thị.
Thứ tư, chính sách việc làm phải phát huy được các nguồn lực của 
xã hội vào việc tạo việc làm và đảm bảo việc làm. Tăng cường huy động 
các nguồn vốn của doanh nghiệp và các tổ chức cho đào tạo nâng cao trình 
độ người lao động. Thực hiện các cơ chế, chính sách ưu để khuyến khích 
mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo với các hình thức khác 
nhau như đặt
hàng với các cơ sở đào tạo, tự tổ chức đào tạo nhân lực trong 
doanh nghiệp và thành lập các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để đào 
tạo nhân lực cho bản thân doanh nghiệp và cho xã hội. Huy động các 
nguồn 
 12 
vốn của dân để đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo, tổ chức các loại quỹ 
khuyến học, khuyến tài... 
Thứ năm, sau đại dịch Covid – 19, Việt Nam là quốc gia có các biện 
pháp phòng và dập dịch kịp thời,
ổn định tốt nền kinh tế; tạo ra
ấn tượng 
tốt trên thế giới. Bên cạnh đó, sau đại dịch xuất hiện xu hướng dịch 
chuyển
các cơ sở, công ty sản xuất và Việt Nam là một trong những thị 
trường
tốt
để doanh nghiệp nước ngoài đầu tư. Vì vậy, chính phủ Việt 
Nam cần
có
những chính sách phù hợp để thu hút các nguồn đầu tư chất 
lượng
cao, tạo
ra nhiều việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, cũng cần 
phải
chọn
lọc
các nguồn đầu tư về công nghệ cao nhằm nâng cao chất 
lượng
lao động
Việt Nam. Đảm bảo hài hòa giữa sự phát triển của doanh 
nghiệp
trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 
 13 
KẾT LUẬN 
Bài viết tổng hợp thực trạng thất nghiệp hiện nay tại Trung Quốc đã được cải 
thiện rất nhiều từ sau năm 1990; tỉ lệ thất nghiệp giảm, nhiều người dân có công 
việc hơn. Trung Quốc là một quốc gia với dân số hàng đầu thế giới phải đứng 
trước rất nhiều áp lực để có thể giải quyết được tình trạng thất nghiệp; đó là nhờ 
Chính phủ Trung quốc đã có những biện pháp phù hợp và kịp thời để xử lí tình 
trạng thất nghiệp. Bài viết đã tìm hiểu và phân tích các chính sách mà Chính 
phủ Trung Quốc đã thực hiện để giải quyết vấn đề việc làm cho người dân trong 
thời gian qua. 
Việt Nam là một quốc gia có nhiều nét tương đồng về kinh tế - xã hội với 
Trung Quốc; chúng ta cũng đang đứng trước thách thức về vấn đề giải quyết 
việc làm cho người dân. Bài viết “ Thực trạng giải quyết tình trạng thất nghiệp ở 
Trung Quốc và bài học cho Việt Nam” từ việc phân tích các biện pháp của 
Chính phủ Trung Quốc đã rút ra một số bài học cho Việt Nam nhằm giảm tỉ lệ 
thất nghiệp, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống cho người lao 
động. Đặc biệt sau đại dịch Covid – 19 không chỉ là thách thức, khó khăn cho 
Việt Nam mà nó còn mở ra nhiều cơ hội mới cho quốc gia. Nó làm dịch chuyển 
chuỗi sản xuất hàng hóa trên thế giới; Việt Nam cần phải chủ động, tích cực hội 
nhập sâu rộng vào chuỗi sản xuất ấy để tăng thêm việc là cho người lao động và 
giảm tỉ lệ thất nghiệp. 
 14 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Vũ Kim Dũng, Nguyễn Văn Công (2016), Giáo trình Kinh tế học tập 2
, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 
2. Nguyễn Mai Phương (2009), Giải pháp cho vấn đề thất nghiệp ở 
Trung Quốc hiện nay, Viện nghiên cứu Trung Quốc. 
3. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải quyết 
việc làm ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Việt Nam. 
4. Nguyễn Hữu Dũng (1995), Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính 
sách giải quyết việc làm của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng 
hóa nhiều thành phần, Việt Nam. 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_thuc_trang_giai_quyet_tinh_trang_that_nghiep_o_tru.pdf