Tiểu luận Thương mại điện tử với sự phát triển ngân hàng ở Việt Nam

pdf 37 trang yenvu 18/01/2024 1250
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Thương mại điện tử với sự phát triển ngân hàng ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Thương mại điện tử với sự phát triển ngân hàng ở Việt Nam

Tiểu luận Thương mại điện tử với sự phát triển ngân hàng ở Việt Nam
 TIỂU LUẬN: 
Thương mại điện tử với sự phát 
triển ngân hàng ở Việt Nam 
Lời nói đầu 
 Trong các xu hướng mang tính toàn cầu nổi lên trong mấy chục năm gần đây, 
xu hướng thường được đề cập đến là tự do hoá, toàn cầu hoá, điện tử hoá. Thương 
mại điện tử thế giới là xu hướng được khởi xướng từ các nước đang phát triển, nhưng 
cho đến nay nó đã và đang cuốn hút tất cả các nước, kể cả những nước kém phát triển 
vào vòng xoáy của mình như một tất yếu lịch sử. Nó đang thiết lập những nguyên tắc 
mới cho "cuộc chơi" chung cho các nước, không phân biệt đó là nước lớn hay bé, 
không xem xét đến trình độ phát triển của các nước. Ngày nay, các nước muốn phát 
triển đều phải thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, hiện đại hoá, phát triển 
thương mại điện tử để hoà nhập với kinh tế với nước ngoài. Quá trình này trên thực 
tế đang đặt ra nhiều vấn đề đối với các nước đang hoặc chậm phát triển. Các nước 
phải giải quyết các vấn đề đó như thế nào để có thể giảm thiểu tác động tiêu cực phát 
sinh và thu được nhiều lợi ích từ việc thực hiện điện tử hoá thương mại? Việc xem 
xét các lợi ích, các thách thức đối với các nước, đặc biệt các nước đang ở trình độ 
phát triển thấp khi tiến hành điện tử hoá thương mại, chỉ ra những vấn đề cần giải 
quyết đối với Việt Nam có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh nước ta tham gia vào các 
khối ASEAN, APEC, đang thực hiện đàm phán thương mại Việt - Mỹ.Trong bối 
cảnh đó, xét trên lĩnh vực ngân hàng thì TMĐT có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng. 
Đối với nước ta, vấn đề này còn mới mẻ và việc tiến hành chưa đi vào chi tiết và bao 
trùm. Vì vậy, việc đưa ra những giải pháp là cần thiết để phát triển thương mại điện 
tử, phát triển ngân hàng trong công cuộc phát triển nền kinh tế cũng như phát triển 
đất nước. Vì vậy, em đã chọn đề tài của đề án làm lại này là: "Thương mại điện tử 
với sự phát triển ngân hàng ở Việt Nam". 
 Đối tượng được đề cập trong đề án này là thương mại điện tử và sự phát triển 
của ngân hàng. Chúng ta xem xét thương mại điện tử là gì và nó có tác động, ảnh 
hưởng và đóng vai trò như thế nào trong quá trình chuyển mình của ngân hàng. Nó 
tạo ra những thuận lợi hay thách thức ra sao đối với một đất nước hình chữ S của 
chúng ta. 
 Với tính cấp thiết và đối tượng nghiên cứu của đề án đã nêu ở trên, đề án chia 
làm ba phần chính: 
A. Tổng quan về thương mại điện tử. 
B.Thương mại điện tử ở Việt Nam. 
C.Giải pháp để phát triển thương mại điện tử và phát triển ngân hàng tại Việt 
Nam. 
chương I. 
Lí luận chung về hệ thống KSNB trong các doanh nghiệp 
I. Kiểm tra, kiểm soát trong hệ thống quản lí 
Kiểm tra là quá trình xem xét, đo lường và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm 
đảm bảo cho các mục tiêu, kế hoạch được hoàn thành một cách có hiệu quả.Còn kiểm 
soát là xem xét để nắm bắt hoạt động và phát hiện, ngăn chặn những gì trái với qui 
định đặt trong phạm vi của mình. 
1. Kiểm tra, kiểm soát gắn liền với hoạt động quản lí, là một chức năng của quản lí. 
Quản lí là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định 
trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu qủa cao nhất. Kiểm tra không 
phải là một giai đoạn hay một pha của quản lí mà nó được thực hiện ở tất cả các giai 
đoạn của quá trình này. 
2. Kiểm tra, kiểm soát được thực hiện khác nhau đối với các đơn vị và cá nhân 
tuỳ thuộc vào nguồn ngân sách, vào quan hệ quản lí trong bộ máy nhà nước, vào loại 
hình hoạt động, vào truyền thống văn hoá, kinh tế, xã hội ở từng nước. 
Về mặt cấp quản lí, kiểm tra ở cấp vĩ mô (do nhà nước thực hiện trực tiếp 
hoặc gián tiếp) khác với kiểm tra ở cấp vi mô. 
Về loại hình hoạt động, kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động sự nghiệp 
hướng tới hiệu năng của quản lí khác với hoạt động kinh doanh hướng tới hiệu quả 
của vốn, lao động, tài nguyên. 
Trong quan hệ với truyền thống kinh tế, văn hoá, xã hội, kiểm tra, kiểm soát 
khác nhau do sự khác nhau về trình độ dân trí, trình độ quản lí, tính kỉ cương và 
truyền thống pháp luật. 
3. Kiểm tra, kiểm soát phát triển cùng với quá trình phát triển của lịch sử và 
hoạt động quản lí theo xu hướng từ đơn giản đến phức tạp, từ hoạt động riêng rẽ đến 
phối hợp nhiều hoạt động kiểm tra, kiểm soát và tiến tới hoạt động độc lập: 
 Khi nhu cầu kiểm tra, chưa nhiều và chưa phức tạp, kiểm tra, được thực hiện 
đồng thời với các chức năng quản lí khác trên cùng một con người, một bộ máy 
thống nhất, khi nhu cầu này phát triển tới mức độ cao, kiểm tra cũng cần tách ra một 
hoạt động độc lập và thực hiện bằng hệ thống bộ máy chuyên môn độc lập. 
Kiểm tra, kiểm soát có đóng góp rất lớn đối với hoạt động của các đơn vị, thể 
hiện ở: 
- Phát hiện, sửa chữa sai lầm 
- Hướng dẫn và điều khiển đơn vị đi đúng hành lang pháp lí 
- Bảo vệ tài sản, tiền vốn 
- Tạo niềm tin cho người quan tâm 
- Theo sát và đối phó với sự thay đổi của môi trường 
- Tạo chất lượng tốt hơn cho hoạt động của đơn vị do tạo ra các chu kì đầu 
tư nhanh chóng hơn nhờ đảm bảo thực hiện chương trình, kế hoạch có hiệu 
quả cao. 
II. Hệ thống KSNB. 
1. Định nghĩa hệ thống KSNB 
Như trên đã biết, kiểm tra, kiểm soát là một chức năng của quản lí. Nhưng 
kiểm tra thường mang tính thứ bậc hành chính (cấp trên với cấp dưới) trong khi kiểm 
soát có thể là của cấp trên với cấp dưới, cũng có thể là kiểm soát trong nội bộ doanh 
nghiệp và thường được dùng với nghĩa KSNB nhiều hơn. 
KSNB là việc tự bản thân doanh nghiệp thiết lập và tiến hành các thủ tục và 
các bước kiểm soát nhằm điều hành các hoạt động của mình. Hoạt động KSNB sẽ có 
hiệu quả hơn nếu chúng hình thành hệ thống. Trong văn bản chỉ đạo về kiểm toán 
quốc tế, hệ thống KSNB được định nghĩa là một hệ thống các chính sách, các biện 
pháp kiểm soát và các thủ tục kiểm soát nhằm các mục đích sau: 
1. Bảo vệ tài sản và sổ sách kế toán 
2. Bảo đảm tính tin cậy của thông tin 
3. Bảo đảm duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các chính sách có liên quan đến 
hoạt động của đơn vị. 
4. Bảo đảm hiệu quả của các hoạt động và hiệu năng của quản lí 
Các chính sách trong KSNB bao gồm tất cả các chính sách về quản lí nhân sự, 
quản lí tiền lương, vật tư, tài sản, chính sách về tài chính, kế toán, các chính sách về 
hoạt động của đơn vị... 
Các biện pháp kiểm soát là các biện pháp được tiến hành để xem xét và khẳng 
định các biện pháp quản lí khác có được tiến hành hiệu quả và thích hợp hay không. 
Các thủ tục kiểm soát: Đó là các nguyên tắc phân công, phân nhiệm, nguyên 
tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn. Chính việc tuân thủ các 
nguyên tắc này tự nó đã tạo nên sự hiệu quả của kiểm soát. 
Về các mục đích của hệ thống KSNB: 
Bảo vệ tài sản và sổ sách: Tài sản của các công ty bao gồm cả tài sản hữu hình 
(như tiền mặt, vật tư, TSCĐ), và các tài sản vô hình như các tài liệu quan trọng, uy 
tín của doanh nghiệp những tài sản này của công ty có thể bị trộm cắp, bị tham ô 
nếu không có những biện pháp kiểm soát thích hợp. Việc bảo vệ tài sản và sổ sách trở 
nên ngày càng quan trọng từ khi hệ thống máy tính được sử dụng, một số lượng lớn 
thông tin trên các đĩa từ có thể bị lấy cắp hoặc bị phá hoại nếu chúng không được cẩn 
trọng bảo vệ. 
Bảo đảm tính tin cậy của thông tin: Ban quản trị cần phải có được thông tin 
chính xác, kịp thời để đưa ra quyết định điều hành. Hệ thống KSNB được xác lập 
nhằm đảm bảo các thông tin cung cấp cho ban quản trị là đáng tin cậy. 
Bảo đảm duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các chính sách có liên quan đến 
hoạt động của đơn vị: Hệ thống KSNB nhằm đảm bảo hợp lí rằng các qui định đó 
cùng những qui định khác bên ngoài liên quan đến hoạt động của các công ty được 
tuân thủ. 
Bảo đảm hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lí: Các quá trình kiểm soát 
trong tổ chức có tác dụng ngăn ngừa sự lặp lại không cần thiết các nỗ lực và sự lãng 
phí trong mọi lĩnh vực kinh doanh, ngăn cản cách sử dụng kém hiệu qủa các nguồn 
tiềm năng. 
Dấu hiệu để nhận biết sự tồn tại của hệ thống KSNB. 
- Sự tồn tại của các chính sách và thủ tục thể hiện trong qui chế KSNB. 
- Sự vận hành của qui chế trên hoạt động của đơn vị. 
- Tính liên tục của sự vận hành của qui chế đó trên thực tế. 
2. Các yếu tố cấu thành hệ thống KSNB. 
Có nhiều cách phân loại khác nhau về những bộ phận của hệ thống KSNB, 
chẳng hạn chia thành KSNB về kế toán và kiểm soát nội bộ về hành chính.Nhưng 
thông thường hệ thống KSNB được cấu thành bởi các yếu tố sau: 
2.1. Môi trường kiểm soát: Một tổ chức có được kiểm soát hiệu quả hay 
không phụ thuộc vào thái độ của bộ phận quản lí. Bộ phận quản lí tạo ra môi trường 
chung, nhờ đó xác lập thái độ của toàn đơn vị đối với hệ thống kiểm soát. Môi trường 
kiểm soát bao gồm toàn bộ các yếu tố có tính chất môi trường tác động đến việc thiết 
kế, sự hoạt động và tính hữu hiệu của các chính sách, thủ tục kiểm soát của đơn vị. 
Các nhân tố này liên quan đến thái độ và hành động của người quản lí cấp cao đối với 
quá trình kiểm soát mà các nhân tố chủ yếu là: 
2.1.1.Quan điểm, phong cách điều hành và tư cách của các nhà quản lý cao 
cấp: 
Các nhà quản lý cao cấp là người quyết định và điều hành mọi hoạt động của 
đơn vị, vì thế quan điểm, đường lối quản trị, cũng như tư cách của họ là vấn đề trung 
tâm trong môi trường kiểm soát. 
Phong cách quản lý của các nhà quản lý có thể chia ra làm hai loại: 
 + Nhà quản lí quá táo bạo và mạnh dạn, những người này có thể sẵn sàng mạo hiểm 
để đổi lấy lợi nhuận cao. Đối với những doanh nghiệp này, khả năng gặp rủi ro lớn, 
các chính sách thường không ổn định dẫn đến hoạt động của doanh nghiệp khó đi vào 
nề nếp. 
+ Nhà quản lí quá rụt rè, họ giữ thái độ thận trọng khi đưa ra bất cứ một quyết định 
nào. Những doanh nghiệp này thường bị bỏ lỡ thời cơ và do đó ảnh hưởng đến hiệu 
quả hoạt động của đơn vị. 
Qui mô và mức độ hoạt động phân tán từ đó ảnh hưởng đến cơ cấu quyền lực 
trong đơn vị cũng là một vấn đề tiêu biểu của đặc thù quản lí ảnh hưởng quan trọng 
đến hệ thống KSNB. 
2.1.2. Cơ cấu tổ chức 
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lí là tổng hợp các bộ phận được chuyên môn hoá 
với những trách nhiệm, quyền hạn nhất định có mối liên hệ mật thiết với nhau, nhằm 
thực hiện các chức năng quản lí. 
Cơ cấu tổ chức đóng vai trò quan trọng trong chỉ đạo và kiểm soát hoạt động 
của đơn vị. Một cơ cấu tổ chức hợp lí sẽ đảm bảo sự thông suốt trong phân công, 
phân nhiệm, trong uỷ quyền và phê chuẩn, ngăn ngừa sự vi phạm các chính sách, thủ 
tục kiểm soát, loại bỏ được những hoạt động không phù hợp có thể dẫn đến sai lầm 
và gian lận. 
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, trong điều kiện các yếu tố khác 
của hệ thống KSNB chưa hoàn thiện hoặc chưa vững mạnh thì cơ cấu tổ chức hợp lí 
là một bộ phận quan trọng hỗ trợ công tác KSNB 
2.1.3. Chính sách nhân sự 
Chính sách nhân sự bao gồm toàn bộ các phương pháp quản lí nhân sự và các 
chế độ của đơn vị đối với việc tuyển dụng, huấn luyện, đánh giá, đề bạt, khen thưởng, 
và kỉ luật đối với nhân viên. 
Con người là yếu tố quan trọng của bất kì tổ chức nào, là nhân tố quyết định 
sự thắng lợi của mọi hoạt động. Đó cũng là khía cạnh quan trọng nhất của bất kì hệ 
thống KSNB nào. Một đội ngũ nhân viên có năng lực và đáng tin cậy có thể hạn chế 
nhiều quá trình kiểm soát khác mà vẫn đảm bảo đạt được các mục tiêu của hệ thống 
KSNB. Ngược lại, nếu đội ngũ nhân viên không trung thực và kém năng lực thì dù 
cho đơn vị có thiết kế và duy trì một hệ thống KSNB rất đúng đắn và chặt chẽ vẫn 
không phát huy được hiệu quả. 
Vì thế chính sách nhân sự là vô cùng quan trọng, một chính sách nhân sự đúng 
đắn phải đảm bảo: 
Sử dụng đúng người, đúng việc, tạo điều kiện để mỗi người phát huy đúng sở 
trường của mình. 
 Phải có các chính sách rõ ràng về tuyển dụng, đào tạo, bố trí, đề bạt, khen 
thưởng, kỉ luật đối với từng cá nhân, từng bộ phận. Động viên khích lệ kịp thời là bí 
quyết thành công của chính sách nhân sự. 
2.1.4. Công tác kế hoạch và dự toán. 
Hệ thống kế hoạch và dự toán, bao gồm các kế hoạch sản xuất, tiêu thụ, thu 
chi quỹ, kế hoạch hay dự toán đầu tư, sửa chữa tài sản cố địnhđặc biệt là kế hoạch 
tài chính bao gồm những ước tính và cân đối tình hình tài chính, kết quả hoạt động và 
sự luân chuyển tiền trong tương lai. 
Lập kế hoạch là một chức năng quan trọng của công tác quản lí, nó cho biết 
phương hướng hoạt động, giảm sự tác động của những thay đổi, tránh được sự lãng 
phí, dư thừa trong quản lí. Nếu việc lập và thực hiện các kế hoạch được tiến hành 
khoa học và nghiêm túc, thì nó trở thành một công cụ kiểm soát rất hữu hiệu.Chính vì 
thế các nhà quản lý phải quan tâm xem xét về tiến độ thực hiện kế hoạch, định kỳ so 
sánh giữa số liệu thực hiện và số liệu kế hoạch. Đây cũng chính là một khía cạnh mà 
các kiểm toán viên rất quan tâm, đặc biệt là trong áp dụng thủ tục phân tích. 
2.1.5. Uỷ ban kiểm toán. 
Tại một số quốc gia lớn- chẳng hạn như Mỹ- thì các công ty cổ phần có quy 
mô lớn thường thành lập một uỷ ban kiểm toán trực thuộc Hội đồng quản trị. Uỷ ban 
thường có 3 đến 5 uỷ viên, không phải là nhân viên của Công ty có nhiệm vụ, quyền 
hạn như sau: 
 Giám sát sự chấp hành luật pháp của Công ty. 
 Xây dựng bộ máy kiểm toán nội bộ, kiểm tra, giám sát công việc của kiểm 
toán viên nội bộ. 
 Giám sát tiến trình lập báo cáo tài chính. 
 Đại diện Công ty mời kiểm toán viên độc lập và xác lập mối quan hệ với 
các chủ thể kiểm toán bên ngoài. 
 Hoà giải những mâu thuẫn (nếu có) giữa kiểm toán viên độc lập và ban 
giám đốc. 
 Do có những chức năng quan trọng như trên nên sự độc lập và hữu hiệu trong 
hoạt động của Uỷ ban kiểm toán là nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm soát. 
Vì thế để tạo đIũu kiện thuận lợi cho công tác kiểm toán, kiểm toán viên độc lập phảI 
phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban này. 
2.1.6. Kiểm toán nội bộ 
Kiểm toán nội bộ là một loại hình kiểm soát có tổ chức mà chức năng là đo 
lường và đánh giá hiệu quả của việc kiểm soát khác và mang tính nội kiểm. Đây là 
một nhân tố cơ bản của hệ thống KSNB. 
Kiểm toán nội bộ bao trùm tất cả các hoạt động của đơn vị, nó cung cấp một 
sự giám sát và đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của đơn vị trong đó có hệ 
thống KSNB và tham gia hoàn thiện chúng, từ đó đảm bảo sự vận hành tốt của hệ 
thống KSNB.Tuy nhiên bộ phận kiểm toán nội bộ chỉ có thể phát huy tác dụng nếu 
nó được xây dựng trên những nguyên tắc nhất định . 
Ngoài những nhân tố bên trong đã nêu, thì hoạt động của đơn vị còn chịu ảnh 
hưởng bởi những yếu tố bên ngoài.Ví dụ như luật pháp,sự kiểm soát của các cơ quan 
Nhà nước, ảnh hưởng của các chủ nợ Những yếu tố này tuy không thuộc tầm kiểm 
soát của đơn vị nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà quản lí trong sự thiết kế và 
vận hành hệ thống KSNB như luật pháp, sự kiểm tra của các cơ quan nhà nước, ảnh 
hưởng của các chủ nợ 
 2.2. Hệ thống kế toán 
Hệ thống kế toán là hệ thống thông tin và kiểm tra tài sản, nguồn hình thành 
tài sản và sự vận động của tài sản bằng các phương pháp kế toán: phương pháp 
chứng từ, tính giá, đối ứng tài khoản và phương pháp tổng hợp- cân đối. 
Thông qua việc ghi nhận, tính toán, phân loại, kết chuyển vào sổ cái, tổng hợp 
và lập hệ thống báo cáo cung cấp những thông tin cần thiết cho quá trình quản lý và 
kiểm soát các mặt hoạt động của đơn vị.Do đó, hệ thống kế toán là một bộ phận quan 
trọng của kiểm soát nội bộ.Một hệ thống kế toán hữu hiệu sẽ đảm bảo các mục tiêu 
tổng quát sau đây: 
-Tính có thật: nghĩa là chỉ được ghi chép những nghiệp vụ có thực, không ghi 
chép những nghiệp vụ giả tạo vào sổ sách của đơn vị. 
-Sự phê chuẩn: trước khi thực hiện mọi hoạt động nghiệp vụ, đều phảI đảm 
bảo rằng chúng đã được phê chuẩn hợp lệ. 
-Tính đày đủ:Nghĩa là không được loại bỏ, giấu bớt để ngoài sổ sách về mọi 
nghiệp vụ phát sinh. 
-Sự đánh giá: Không để xảy ra những sai phạm trong tính toán, trong việc áp 
dụng chính sách kế toán. 
-Sự phân loại: Bảo đảm số liệu được phân loại đúng đắn theo sơ đồ tài khoản 
của đơn vị, và ghi nhận đúng đắn các loạI sỏ sách kế toán có liên quan. 
-Đúng hạn: Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải đúng kỳ. 
-Chuyển sổ và tổng hợp chính xác. 
*Khi xem xét hệ thống kế toán kiểm toán viên cần nghiên cứu về: 
-Chính sách kế toán là các nguyên lý, các cơ sở các quy ước,các luật lệ,và các 
thủ tục được Ban giam đốc công nhận để soạn thảovà trình bày các báo cáo tàI chính 
một cách trung thực về tình hình tàI chính của đơn vị. 
-Hình thức kế toán là phương pháp tổ chức và phối hợp giữa các loại sổ sách 
kế toán. 
Sự nghiên cứu đó giúp cho kiểm toán viên tiếp cận hệ thống kế toán, để hiểu 
về quá trình xử lý thông tin và đánh giá về quá trình kiểm soát nội bộ của đơn vị qua 
các giai đoạn của một quá trình kế toán. 
2.2.1 Lập chứng từ :Đây là giai đầu tiên và rất quan trọng vì số liệu kế toán chỉ 
chính xác khi việc lập chứng từ nghiêm túc,nghĩa là việc lập chứng từ đày đủ, hợp lệ, 
hợp pháp và phản ánh trung thực mọi nghiệp vụ phát sinh. 
2.2.2 Sổ sách kế toán : Là giai đoạn chính trong quá trình xử lý số liệu kế toán, 
bằng việc ghi chép, phân loạI tính toán tổng hợpđể cung cấp những thông tin tổng 
hợp trên báo cáo tàI chính.Trong kiểm soát nội bộ, sổ sách kế toán đóng một vai trò 
rất quan trọng ví dụ như sổ chi tiết về vật tư hàng hoá. 
2.2.3 Báo cáo tài chính: Là giai đoạn cuối cùng của quá trình xử lý, nhằm tổng 
hợp các số liệu trên sổ sách thành những chỉ tiêu báo cáo. 
2.3. Các biện pháp và các thủ tục kiểm soát. 
Các biện pháp kiểm soát cũng là một bộ phận quan trọng của hệ thống KSNB, 
có thể chia thành hai loại biện pháp kiểm soát: kiểm soát trực tiếp và kiểm soát tổng 
quát. 
 2.3.1Kiểm soát trực tiếp: 
Kiểm soát trực tiếp là các biện pháp kiểm soát được xây dựng trên cơ sở đánh 
giá các yếu tố dẫn liệu trong báo cáo tài chính. Kiểm soát trực tiếp bao gồm ba loại 
hình cơ bản: 
Kiểm soát quản lí: là việc kiểm soát các hoạt động đơn lẻ do những nhân viên 
độc lập với người thực hiện hoạt động tiến hành. Kiểm soát quản lí là biện pháp rất 
có hiệu lực để phát hiện, ngăn chặn các sai sót, gian lận. 
Kiểm soát xử lí: là kiểm soát được đặt ra để kiểm tra việc xử lí các giao dịch, 
tức là kiểm tra lại những công việc mà giao dịch được công nhận, cho phép, phân 
loại, tính toán, ghi chép, tổng hợp, báo cáo. 
Kiểm soát để bảo vệ tài sản: là các biện pháp, qui chế kiểm soát nhằm bảo 
đảm sự an toàn của tài sản, của thông tin trong đơn vị, nó thường bao gồm: 
 Phân định trách nhiệm bảo vệ tài sản, đặc biệt là bảo vệ các ghi chép về tài 
sản. 
 Hệ thống an toàn và vật chắn. 
 Kiểm kê hiện vật, xác nhận của bên thứ ba. 
Sau đây là một số biện pháp kiểm soát quan trọng nhất, chúng đều thuộc kiểm 
soát trực tiếp: 
 Kiểm soát để đảm bảo chứng từ và sổ sách là đầy đủ và việc ghi sổ là đúng 
đắn: 
+ Sổ sách là bộ phận quan trọng trên đó các nghiệp vụ kinh tế được phản ánh 
và tổng hợp. 
+ Chứng từ: Trong toàn đơn vị và với các đơn vị bên ngoài, chứng từ là minh 
chứng pháp lí cho các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, chứng từ phải đầy đủ để cung cấp 
sự đảm bảo hợp lí là tất cả các tài sản đã được kiểm soát đúng đắn và tất cả các 
nghiệp vụ kinh tế được ghi sổ chính xác. 
+Sơ đồ tài khoản: Là một công cụ kiểm soát quan trọng vì nó bao gồm hệ 
thống các tài khoản sử dụng, qui trình hạch toán các nghiệp vụ giúp cho việc phân 
loại đúng các nghiệp vụ, cho thấy sự vận động của luồng thông tin kế toán tại các bộ 
phận và qui trình tổng hợp thông tin để lên các báo cáo. 
+ Cẩm nang thủ tục: Là tài liệu hướng dẫn về các thủ tục, về thời hạn lập và 
luân chuyển chứng từ trong toàn đơn vị, các hướng dẫn về việc ghi sổ và duy trì sự 
kiểm soát đúng đắn đối với tài sản. Tài liệu này sẽ giúp kế toán viên ghi chép, hạch 
toán theo những chuẩn mực kế toán, giúp những người có thẩm quyền thực hiện sự 
kiểm soát và tạo điều kiện kiểm tra tương hỗ giữa những người, những bộ phận có 
liên quan. 
 Kiểm soát vật chất đối với tài sản và sổ sách: 
Kiểm soát vật chất để bảo vệ tài sản và sổ sách là sử dụng những biện pháp đề 
phòng vật chất như việc xây dựng các nhà kho, các két sắt chịu lửa, để bảo vệ tiền tệ 
cũng như chứng từ, sổ sách, trang bị hệ thống báo cháy, báo nổ, trang bị các máy tính 
tiền, máy đếm tiền hay sử dụng một số loại 
thiết bị xử lí dữ liệu tự động là những công cụ KSNB hữu ích đối với mục đích bảo 
vệ tài sản, sổ sách. 
Ngoài ra, việc hạn chế sự tiếp cận trực tiếp tài sản, sổ sách cũng là biện pháp 
kiểm soát quan trọng: ban hành qui chế kiểm soát việc ra vào, qui chế tham khảo các 
tài liệu kế toán, dữ liệu lưu trữ trong máy điện toán... 
 Kiểm soát độc lập việc thực hiện: 
Là việc xem xét lại một cách cẩn thận và toàn diện các biện pháp, thủ tục kiểm 
soát khác. Nhu cầu kiểm soát độc lập phát sinh do cơ cấu KSNB có khuynh hướng 
thay đổi qua thời gian và do những hạn chế vốn có của thủ tục kiểm soát.Việc thực 
thi các biện pháp kiểm soát độc lập để lại dấu vết trên sổ sách và đó là bằng chứng 
quan trọng cho kiểm toán viên bên ngoài đánh giá hệ thống KSNB. 
2.3.2.Kiểm soát tổng quát: 
Kiểm soát tổng quát là sự kiểm soát tổng thể đối với nhiều hệ thống, nhiều 
công việc khác nhau. Trong môi trường máy tính hoá, kiểm soát tổng quát thuộc về 
chức năng kiểm soát của phòng điện toán. 
Các bước kiểm soát và thủ tục kiểm soát có thể không giống nhau 
thậm chí rất khác nhau giữa các đơn vị và các loại nghiệp vụ. tuy nhiên, các 
loại kiểm soát nói trên đều được xây dựng theo nguyên tắc cơ bản sau: 
 + Nguyên tắc phân công, phân nhiệm (nguyên tắc tập trung, dân chủ): 
Theo nguyên tắc này, công việc và trách nhiệm cần được phân chia cho nhiều người 
trong một bộ phận hay cho nhiều bộ phận trong một tổ chức, mục đích là để không 
một cá nhân hay một bộ phận nào được thực hiện từ khâu đầu đến khâu cuối, từ đó 
mà tránh được gian lận, sai sót. 
Việc phân công, phân nhiệm rõ ràng còn có sự tác chuyên môn hoá và giúp cho việc 
kiểm tra, thúc đẩy lẫn nhau trong công việc 
Trong phân công, phân nhiệm cần tránh cả hai xu hướng quá tập trung hoặc 
quá phân tán. Quá tập trung dễ dẫn đến lạm quyền, quá phân tán dễ dẫn đến những 
quyết định trong quản lí không đáp ứng được yêu cầu kịp thời hoặc không chuẩn xác, 
từ đó các cấp có thẩm quyền không nắm được thông tin. 
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: 
Sự cách li thích hợp về trách nhiệm là nguyên tắc cơ bản nhằm ngăn ngừa cả 
sai phạm cố ý lẫn vô ý, tránh được các hành vi lạm dụng quyền hạn đồng thời cũng là 
một biện pháp kiểm soát quan trọng (kiểm tra, kiểm soát giữa các bộ phận độc lập) 
Ba sự cách li quan trọng nhất cần lưu ý: 
 Cách li quyền phê chuẩn nghiệp vụ với việc thực hiện nghiệp vụ kinh tế để 
tránh sự lạm dụng quyền hạn sử dụng nguồn lực một cách tuỳ tiện. 
 Cách li việc bảo quản tài sản với kế toán: một người thực hiện cả hai chức 
năng này sẽ có nhiều rủi ro là anh ta bán tài sản để thu lợi cá nhân rồi điều 
chỉnh sổ sách để trốn tránh trách nhiệm, ví dụ người bảo quản tiền mặt và 
ghi sổ tiền mặt, người ghi sổ vật tư và người bảo quản vật tư. 
 Cách li chức năng thực hiện nghiệp vụ và kiểm soát nghiệp vụ, có như vậy 
chức năng kiểm soát mới có tác dụng và việc thực hiện nghiệp vụ mới 
nghiêm túc. 
Đảm bảo nguyên tắc bất kiêm nhiệm đã là thực hiện được một biện pháp kiểm 
soát rất quan trọng, rủi ro xảy ra gian lận, sai sót đã giảm đi đáng kể. Vì thế trong 
điều 9, Điều lệ tổ chức kế toán nhà nước qui định: “Cán bộ kế toán ở các đơn vị quốc 
doanh, công tư hợp doanh, hợp tác xã và các đơn vị có sử dụng kinh phí của nhà 
nước hoặc đoàn thể không được kiêm nhiệm làm thủ kho, thủ quĩ, tiếp liệu và công 
tác phụ trách vật chất khác” 
 + Nguyên tắc uỷ quyền, phê chuẩn. 
Nhà quản lí không thể và cũng không nên trực tiếp quyết định mọi vấn đề mà 
nên có sự phân công nhiệm vụ đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu 
quả, mặt khác đảm bảo cho nhà quản lí có thể tổng quan kiểm soát được mọi hoạt 
động. Nhưng muốn vậy, tất cả các nghiệp vụ kinh tế phải được phê chuẩn đúng đắn 
bởi nhà quản lí hoặc người được uỷ quyền. Bởi nếu bất cứ ai trong tổ chức đều có thể 
mua bán tài sản tuỳ tiện thì sự hỗn độn và phức tạp sẽ xảy ra dẫn đến lãng phí hoặc 
mất mát nguồn lực.Tuỳ theo cách điều hành của các nhà quản lý, mà họ có thể quyết 
định thẩm quyền hay thủ tục phê chuẩn khác nhau. 
Ngoài cách phân chia các yếu tố của KSNB như trên còn có cách phân chia 
khác, theo cách này, hệ thống KSNB được chia thành KSNB về kế toán và KSNB về 
hành chính: 
+ KSNB về kế toán: rà soát, đối chiếu công tác kế toán đảm bảo ghi chép kế 
toán đầy đủ, chính xác, đúng thể thức về các nghiệp vụ và hoạt động kinh doanh, lập 
báo cáo tài chính đúng hạn, tuân theo các yêu cầu pháp định có liên quan, bảo vệ tài 
sản và thông tin không bị lạm dụng và sử dụng sai mục đích, thường do một bộ phận 
độc lập thực hiện. 
+ KSNB về quản lí hay hành chính: rà soát và đối chiếu những hoạt động về 
tài chính và quản lí ở trong đơn vị. 
Tóm lại, hệ thống KSNB là một tập hợp các yếu tố có liên quan chặt chẽ với 
nhau. Sự vận hành của những yếu tố này trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, hỗ 
trợ nhau sẽ tạo ra một hệ thống kiểm soát hiệu qủa.Hệ thống KSNB được thiết kế để 
điều hành mọi hoạt động, nó là một hệ thống nhằm huy động mọi thành viên trong 
đơn vị cùng tham gia kiểm soát các hoạt động. 
3 Những hạn chế vốn có của kiểm soát nội bộ 
Trong thực tế không có một hệ thống kiểm soát nội bộ hoàn hảo, nghĩa là một 
hệ thống kiểm soát nội bộ không thể ngăn ngừa được tất cả những hậu quả xấu có 
thể xảy ra.Những hạn chế đó xuất phát từ những nguyên nhân sau: 
-Yêu cầu của những nhà quản lý là những chi phí cho kiểm tra phảI hiệu quả. 
-Hầu hết các biện pháp kiểm tra đều tập trung vào các sai phạm dự kiến, vì thế 
khó có thể phát hiện được những sai phạm đột xuất hay bất thường. 
-Sai phạm của nhân viên do thiếu thận trọng, sao nhãng, sai lầm trongt xét 
đoán,hoặc hiểu sai các hướng dẫn của cấp trên. 
-Việc điều hành và kiểm tra có thể bị vô hiệu do sự thông đồng với bên ngoài 
hoặc giữa các nhân viên trong doanh nghiệp. 
 -Các thủ tục kiểm soát có thể không còn phù hợp vì đIều kiện thực tế đã thay đổi 
 4 Mục tiêu của hệ thống KSNB 
Có bảy mục tiêu chi tiết mà một cấu trúc KSNB phải thõa mãn để ngăn ngừa 
sai sót trong sổ sách. Hệ thống KSNB phải đầy đủ để cung cấp sự đảm bảo hợp lí là: 
1. Các nghiệp vụ kinh tế ghi sổ phải có căn cứ hợp lí (tính hiệu lực). Hệ thống 
KSNB không thể cho phép việc ghi vào sổ những nghiệp vụ không tồn tại hoặc 
những nghiệp vụ giả vào sổ sách kế toán. 
2. Các nghiệp vụ kinh tế phải được phê chuẩn đúng đắn (sự phê chuẩn), tránh 
làm lãng phí, phá hoại hoặc mất mát tài sản của công ty. 
3. Các nghiệp vụ kinh tế phải được ghi sổ đầy đủ (tính đầy đủ hay trọn vẹn). 
Các biện pháp, thủ tục kiểm soát phải ngăn ngừa sự gạt bỏ các nghiệp vụ kinh tế ra 
ngoài sổ sách. 
4. Các nghiệp vụ kinh tế phải được đánh giá đúng đắn (sự đánh giá). Một cơ 
cấu KSNB đầy đủ gồm các thể thức để tránh các sai số khi tính toán và ghi sổ. 
5. Các nghiệp vụ kinh tế phải được phân loại đúng đắn (sự phân loại) đảm bảo 
các khoản mục trong báo cáo tài chính được trình bày đúng đắn. 
6. Các nghiệp vụ kinh tế phải được phản ánh đúng thời kì (tính thời kì): 
nghiệp vụ kinh tế xảy ra ở kì nào phải được ghi sổ đúng ở kì đó đảm bảo nguyên tắc 
phù hợp. 
7. Các nghiệp vụ được ghi sổ, chuyển sổ và tổng hợp đúng đắn. 
III. KSNB đối với một số khoản mục trọng yếu. 
1 KSNB đối với vốn bằng tiền. 
Vốn bằng tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển. 
a) Tiền mặt bao gồm các khoản tiền Việt Nam (kể cả ngân phiếu), ngoại tệ, 
vàng bạc, kim khí quí, đá quí của doanh nghiệp tại quĩ. 
 b) Tiền gửi ngân hàng bao gồm các khoản tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc, 
kim khí quí, đá quí của doanh nghiệp gửi tại ngân hàng. 
 c) Tiền đang chuyển là các khoản tiền Việt Nam, ngoại tệ của doanh nghiệp 
đã nộp vào ngân hàng, kho bạc nhà nước hoặc đã gửi vào bưu điện để chuyển cho 
ngân hàng hay đã làm thủ tục chuyền tiền từ tài khoản tại ngân hàng để trả cho đơn vị 
khác nhưng chưa nhận được giấy báo của ngân hàng. 
Vốn bằng tiền là khoản mục được trình bày trước tiên trên bảng cân đối kế 
toánvà là một khoản mục trọng yếu trong tài sản lưu động.Vốn bằng tiền còn là một 
khoản mục bị ảnh hưởng và có ảnh hưởng đến nhiều khoản mục quan trọng khác như 
doanh thu, chi phí, công nợ và hầu hết các tài sản khác của đơn vị.Tiền là tài sản 
được ưa chuộng nhất nên xác suất gian lận, biển thủ cao nhất và rủi ro tiềm tàng cao 
nhất. Do đó, các biện pháp, thủ tục kiểm soát thích đáng là vô cùng quan trọng để 
bảo vệ tài sản, nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn. 
Một số chính sách, biện pháp, thủ tục cơ bản sau được áp dụng trong kiểm 
soát vốn bằng tiền: 
Một là: Xây dựng qui chế quản lí tiền mặt trong đó qui định rõ trách nhiệm 
của từng người, từng bộ phận với việc quản lí vốn bằng tiền cũng như đưa ra các qui 
định bảo vệ vốn bằng tiền. 
Hai là : Thực thi các nguyên tắc quản lí: 
Nguyên tắc phân công, phân nhệm: ai phụ trách tiền mặt, ai phụ trách tiền gửi 
ngân hàng, ai phụ trách tiền đang chuyển, ai phụ trách thanh toán với bên ngoài, ai 
phụ trách thanh toán các khoản tiền lặt vặt, kí phát hành séc... phải dược qui định rõ 
ràng, cụ thể trong qui chế quản lí vốn bằng tiền. 
Nguyên tắc uỷ quyền, phê chuẩn: Mọi khoản chi phải được xét duyệt và chỉ 
được kí khi có đủ chứng từ có liên quan minh chứng cho khoản chi là thực sự có nhu 
cầu chi. 
Uỷ quyền: ngoài trách nhiệm của chủ tài khoản, có thể uỷ quyền cho một hoặc 
hai người để duyệt chi. Việc uỷ quyền là bắt buộc phòng khi chủ tài khoản đi vắng, 
cũng là để chia sẻ công việc với chủ tài khoản, nhưng cũng không được uỷ quyền quá 
rộng rãi, có thể uỷ quyền cho Phó giám đốc tài chính hoặc Kế toán trưởng hoặc cả 
hai có phân cấp duyệt chi theo mức chi. 
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: đối với vốn bằng tiền thì cách li trách nhiệm là vô 
cùng quan trọng để ngăn ngừa sai phạm: 
 Cách li giữa thủ quĩ và kế toán. 
 Cách li giữa người duyệt chi với người thực hiện các khoản chi, giữa người 
được kí phát hành séc với người chi tiêu. 
 Cách li giữa người ghi sổ với người kiểm soát thu, chi. 
Ba là: Biện pháp kiểm soát vật chất đối với tiền mặt: trang bị các két sắt an 
toàn để giữ an toàn để giữ tiền mặt, ngân phiếu..., trang bị các máy tính tiền cũng là 
một biện pháp kiểm soát để bảo vệ tiền mặt. 
Bốn là: Đối với kế toán: 
Nguyên tắc cơ bản là phải cập nhật, hàng ngày kế toán và thủ quĩ phải ghi sổ 
các nghiệp vụ tiền mặt phát sinh đồng thời phải đối chiếu với nhau. 
Phải ghi sổ chi tiết cho từng loại tiền, từng loại quĩ. 
Kết hợp ghi sổ đơn (nhật kí thu, chi) với ghi sổ kép. 
Phải đối chiếu thường xuyên đề phòng những chênh lệch phát sinh. 
Lập danh sách hoá đơn thu tiền tại thời điểm và nơi nhận tiền. 
Năm là: Công tác quản lí: 
-Hạn chế lượng tiền tại két ; 
-Hạn chế đến mức tối thiểu các đầu mối thu, chi tiền mặt. 
-Hạn chế lưu giữ tiền mặt ở nhiều địa điểm khác nhau để đảm bảo an toàn cho 
tiền mặt và thuận tiện cho công tác kiểm tra, đối chiếu. 
- Hạn chế đến mức tối thiểu việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán: 
- Đối chiếu thường xuyên và định kì với ngân hàng. 
 Sáu là: Định kì hoặc đột xuất thực hiện kiểm kê tiền mặt và đối chiếu với sổ 
sách, tìm các nguyên nhân chênh lệch để có biện pháp xử lí kịp thời. 
 Bảy là: Đối với tiền đang chuyển phải có một người chuyên theo dõi về thời 
điểm chuyển và thời điểm nhận được giấy báo để ghi sổ kịp thời. Phải có sổ chi tiết 
theo dõi riêng từng loại tiền đang chuyển, thời gian chuyển và thời gian nhận được 
giấy báo, cuối kì khoá sổ chính xác. 
Tám là: Định kì thực hiện kiểm toán nội bộ đối với vốn bằng tiền. 
Ngoài những biện pháp trên thì tính liêm chính của nhân viên cũng cần bàn đến. Nhà 
quản lí phải thường xuyên theo dõi tính liêm chính của nhân viên. Đây là yếu tố quan 
trọng ảnh hưởng đến hiệu lực của các biện pháp, chính sách kiểm soát. 
Ngoài ra khi thu, chi cần chú ý viết biên lai cho người nộp tiền hay yêu cầu 
người nhận tiền phải xuất trình chứng minh thư và giấy uỷ quyền nhận tiền nếu được 
uỷ quyền. 
Các quá trình kiểm soát nhằm vào các mục tiêu kiểm soát. 
Biểu 1-2: Mục tiêu và các quá trình KSNB chủ yếu 
đối với nghiệp vụ thu tiền 
Mục tiêu KSNB 
Quá trình KSNB chủ yếu 
Các khoản thu tiền mặt 
được ghi sổ là số tiền đơn 
vị thực tế nhận được 
“Tính có thực” 
- Cách li trách nhiệm giữa quản lí tiền mặt với ghi sổ. 
- Kiểm soát độc lập các nghiệp vụ thu 
Các khoản chiết khấu tiền 
mặt đã được phê chuẩn 
“Phê chuẩn” 
 -Một chính sách chiết khấu tiền mặt phải được tồn tại. 
 - Sự phê chuẩn các khoản chiết khấu tiền mặt. 
Tất cả các nghiệp vụ liên 
quanđến tiền mặt nhận 
được đều được ghi sổ 
“Tính đầy đủ” 
-Cách li trách nhiệm giữa quản lí tiền mặt với sổ sách. 
-Sử dụng các thư báo tiền gửi hoặc các bảng kê trước 
tiền mặt 
Các khoản thu tiền mặt 
được ghi sổ theo số tiền 
nhận được 
“Sự đánh giá” 
-Giống mục tiêu trên. 
Các khoản thu tiền mặt 
được phân loại đúng đắn 
“Phân loại” 
-Sử dụng một sơ đồ tài khoản 
-Xem xét lại và kiểm tra nội bộ. 
Các khoản thu tiền mặt 
được ghi sổ theo căn cứ 
thời gian. 
“Đúng hạn” 
-Qui định thể thức ghi sổ các nghiệp vụ thu tiền mặt hàng 
ngày. 
-Kiểm tra nội bộ 
Các khoản thu tiền mặt 
được ghi sổ, được chuyển 
sổ và tổng hợp đúng đắn, 
chính xác. 
-Cách li trách nhiệm giữa ghi sổ nhật kí thu tiền với sổ 
chi tiết cáckhoản phải thu. 
-Gửi đều đặn các báo cáo cho khách hàng. 
“Chuyển sổ và tổng hợp 
chính xác” 
-Kiểm tra nội bộ 
Biểu 1-3: Mục tiêu và các quá trình KSNB chủ yếu 
đối với nghiệp vụ chi tiền 
Mục tiêu 
 KSNB 
Quá trình KSNB chủ yếu 
Các khoản chi tiền mặt ghi 
sổ là số tiền thực tế chi ra 
“Tính có thực” 
-Cách li trách nhiệm giữa quản lí tiền mặt với ghi sổ tiền 
mặt. 
-Cách li trách nhiệm giữa người duyệt chi và người thực 
hiện chi. 
-Kiểm soát độc lập nghiệp vụ chi. 
Các khoản chi tiền mặt đã 
được phê chuẩn 
“Sự phê chuẩn” 
-Một chính sách qui định cấp phê chuẩn. 
-Sự phê chuẩn các khoản theo qui định. 
Các khoản chi tiền mặt 
được ghi sổ đầy đủ. 
“Tính đầy đủ” 
-Cách li trách nhiệm ghi sổ và quản lí tiền. 
-Kiểm tra nội bộ việc ghi sổ. 
Các khoản chi tiền mặt 
được ghi sổ theo đúng số 
tiền thực tế chi ra trong các 
nghiệp vụ 
“Sự đánh giá” 
-Cách li trách nhiệm ghi sổ và quản lí tiền. 
-Cách li giữa người duyệt chi và người thực hiện chi. 
-Kiểm tra độc lập việc thực hiện. 
Các khoản chi tiền mặt 
được phân loại đúng đắn 
“Sự phân loại ” 
-Sử dụng 1 sơ đồ tài khoản. 
-Xem xét lại và kiểm tra nội bộ. 
Các khoản chi tiền mặt 
được ghi sổ theo căn cứ 
thời gian 
“Đúng hạn” 
-Qui định thể thức ghi sổ các nghiệp vụ chi tiền mặt hàng 
ngày. 
-Kiểm tra nội bộ. 
Các khoản chi tiền mặt 
được ghi sổ, chuyển sổ và 
tổng hợp đúng đắn 
“Chuyển sổ và tổng hợp 
chính xác” 
-Cách li trách nhiệm giữa việc ghi sổ nhật kí chi tiền và 
sổ chi tiết mua hàng, sổ chi tiết các khoản phải trả người 
bán. 
-Đối chiếu công nợ. 
-Kiểm tra nội bộ. 
2. KSNB với tài sản cố định (TSCĐ) 
TSCĐ là những tài sản có giá trị lớn và thời gian sử dụng dài. 
TSCĐ bao gồm TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình. 
TSCĐ hữu hình bao gồm nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện 
vận tải, truyền dẫn, thiết bị, dụng cụ quản lí, cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản 
phẩm và TSCĐ khác. 
TSCĐ vô hình bao gồm quyền sử dụng đất; chi phí thành lập doanh nghiệp; 
bằng phát minh, sáng chế; chi phí nghiên cứu, phát triển, chi phí về lợi thế thương 
mại và TSCĐ vô hình khác. 
Giá trị TSCĐ thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng tài sản của doanh nghiệp. 
Tuy nhiên do số lượng TSCĐ không nhiều, các nghiệp vụ tăng giảm phát sinh ít 
trong 1 năm nên việc KSNB chủ yếu nhằm vào mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng 
và đầu tư TSCĐ. 
Ngoài ra, KSNB phải giúp xác định chính xác các chi phí cấu thành nguyên 
giá TSCĐ, chi phí sửa chữa, chi phí khấu hao tài sản do sai sót trong việc xác định 
các chi phí này có thể dẫn đến sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính. Chẳng hạn nếu 
không phân biệt những chi phí nào sẽ làm tăng nguyên giá TSCĐ hay đưa vào chi phí 
niên độ sẽ làm cho khoản mục TSCĐ và chi phí niên độ bị sai lệch. Hoặc nếu không 
có qui định chặt chẽ liên quan đến việc mua sắm, bảo dưỡng, thanh lí tài sản thì chi 
phí phát sinh có thể sẽ lớn hơn nhiều so với thực tế. 
Các công cụ kiểm soát TSCĐ bao gồm: 
Một là: Kế hoạch và dự toán TSCĐ: Các Công ty hàng năm phải lập kế hoạch 
và dự toán ngân sách cho TSCĐ. Trong kế hoạch này, người ta vạch ra những vấn đề 
có liên quan đến việc đầu tư, mua sắm, thanh lí, nhượng bán TSCĐ và các nguồn vốn 
tài trợ cho việc đầu tư, mua sắm đó. 
Kế hoạch và dự toán TSCĐ là một công cụ quan trọng trong KSNB đối với 
TSCĐ. Kế hoạch này là cơ sở để xây dựng kế hoạch sản xuất, kế hoạch tài chính của 
đơn vị. 
Hai là: Thủ tục mua sắm TSCĐ và đầu tư xây dựng cơ bản: Các doanh nghiệp 
thường qui định chính sách chung về vấn đề này trong qui chế quản lí TSCĐ, trong 
đó qui định cụ thể thủ tục mua sắm, đầu tư TSCĐ. Nguyên tắc cơ bản là việc đầu tư 
và mua sắm TSCĐ phải phù hợp với kế hoạch và dự toán, phải được xét duyệt, phê 
chuẩn đúng đắn bởi chủ sở hữu, phải thông qua bộ phận mua, phải tuân theo các tiêu 
chuẩn chung về giao nhận, nghiệm thu tài sản và chi trả tiền. 
Ba là: Thủ tục thanh lí, nhượng bán TSCĐ: cũng được qui định trong qui chế 
quản lí TSCĐ, nguyên tắc là phải xác định được tình trạng TSCĐ thanh lí, nhượng 
bán, phải được phê chuẩn bởi chủ sở hữu tài sản, các ban ngành có liên quan, các bộ 
phận sử dụng tài sản, phải thành lập hội đồng thanh lí. Các khoản thu, chi về thanh lí 
phải được hạch toán chính xác và sử dụng hỗ trợ cho các mục đích tái sản xuất 
TSCĐ. 
Bốn là: Thực thi các nguyên tắc quản lí: mà quan trọng nhất là nguyên tắc phê 
chuẩn các nghiệp vụ đầu tư, mua sắm và thanh lí, nhượng bán TSCĐ, cách li trách 
nhiệm giữa người ghi sổ TSCĐ và người kiểm soát độc lập việc ghi sổ, cách li trách 
nhiệm giữa người sử dụng và người ghi sổ TSCĐ. 
Năm là: Các qui định về phân biệt giữa chi phí được tính vào nguyên gía hay 
đưa vào chi phí niên độ: doanh nghiệp cần thiết lập tiêu chuẩn để xác định về hai 
khoản chi phí này. Các tiêu chuẩn này dựa trên các chuẩn mực kế toán hiện hành và 
được cụ thể hoá theo thực tiễn đơn vị, ví dụ ở mức độ nào thì các chi phí sửa chữa, 
nâng cấp được ghi tăng nguyên giá TSCĐ, ở mức độ nào đưa vào chi phí niên độ hay 
ở mức độ nào thì các chi phí về nghiên cứu phát triển, mua bằng sáng chế... được coi 
là TSCĐ vô hình, ở mức độ nào cho vào chi phí niên độ hoặc phân bổ cho một số 
niên độ. 
Sáu là: Hệ thống sổ chi tiết TSCĐ: Các đơn vị phải mở sổ chi tiết cho từng 
loại TSCĐ, cho từng bộ phận sử dụng TSCĐ, sổ chi tiết chi phí sửa chữa lớn TSCĐ, 
bảng khấu hao cho từng TSCĐ. Một hệ thống sổ chi tiết đầy đủ sẽ tạo dễ dàng cho 
việc phân tích tài sản tăng, giảm trong năm, cho việc kiểm tra các chi phí nâng cấp 
được ghi tăng vào nguyên giá, cho việc so sánh chi phí thực tế phát sinh với kế hoạch 
hay dự toán đã được duyệt, cho việc phân tích hiệu quả sử dụng của TSCĐ. 
Bảy là: Chế độ kiểm kê định kì TSCĐ: Đơn vị qui định chế độ kiểm kê định 
kì TSCĐ để kiểm tra sự hiện hữu, địa điểm đặt tài sản, điều kiện sử dụng, tình trạng 
kĩ thuật và năng lực sản xuất hiện tại của TSCĐ, phát hiện các tài sản để ngoài sổ 
sách hoặc bị thiếu hụt, mất mát để có biện pháp xử lí kịp thời 
Biểu 1-5: Mục tiêu và các quá trình kiểm soát đối với TSCĐ 
Mục tiêu KSNB Các quá trình KSNB chủ yếu 
TSCĐ ghi sổ là thực sự 
hiện hữu 
“Tính có thật” 
-Kiểm tra sự hiện hữu của TSCĐ trong kế hoạch và dự 
toán, trong quyết định đầu tư, mua sắm hay chuyển 
nhượng, cho, tặng... 
-Có sự phê chuẩn, sự hiện hữu của hợp đồng mua bán và 
biên bản thanh lí hợp đồng, hoá đơn người bán, biên lai, 
biên bản giao nhận TSCĐ ... 
Các nghiệp vụ liên quan 
đến TSCĐ được phê 
chuẩn. 
“Sự phê chuẩn” 
-Có qui định về thủ tục phê chuẩn. 
-Có sự phê chuẩn theo qui định. 
TSCĐ được phân loại 
đúng đắn 
“Sự phân loại” 
-Qui định phân biệt chi phí niên độ và chi phí làm tăng 
nguyên gía TSCĐ. 
-Sơ đồ tài khoản. 
-Kiểm tra độc lập. 
Giá trị TSCĐ ghi sổ là chi 
phí thực sự đã bỏ ra để có 
TSCĐ 
-Qui định chi phí được tính vào nguyên giá. 
-Tính toán lại. 
“Sự đánh giá” 
Không có TSCĐ để ngoài 
sổ sách 
“Tính đầy đủ” 
-Kiểm kê TSCĐ. 
-Theo dõi việc ghi sổ. 
Các nghiệp vụ tăng giảm 
tài sản được ghi sổ đúng kì 
“Đúng hạn” 
-Kiểm tra nội bộ. 
TSCĐ được ghi sổ, 
chuyển sổ, tổng hợp đúng 
đắn 
“Chuyển sổ và tổng hợp 
chính xác ” 
-Qui định các loại sổ, thủ tục ghi sổ. 
-Kiểm tra nội bộ. 
3.KSNB đối với khoản phải thu. 
Khoản phải thu là những quan hệ kinh tế nằm giữa hàng bán hoặc dịch vụ đã 
cung cấp với tiền mặt trong két. 
KSNB đối với khoản phải thu cũng là nhiệm vụ quan trọng để bảo vệ tài sản 
của doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. KSNB đối với khoản phải thu 
gắn liền với việc theo dõi khả năng thanh toán của khách hàng. 
Đối với các đơn vị kinh doanh xây lắp, khoản phải thu phát sinh khi đơn vị 
quyết toán công trình hoàn thành, có biên bản thanh lí hợp đồng với bên A hoặc báo 
cáo quyết toán khối lượng công việc hoàn thành. Do đó kiểm soát đối với khoản phải 
thu phải được thực hiện trong quá trình quyết toán với khách hàng. 
Đối với các đơn vị này thì các biện pháp, thủ tục kiểm soát đối với các khoản 
phải thu bao gồm: 
Một là:Thực thi các nguyên tắc quản lí 
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: 
Cách li trách nhiệm giữa người thu tiền, người ghi sổ thu tiền và người ghi sổ 
chi tiết các khoản phải thu tránh rủi ro là chuyển các khoản phải thu từ khách hàng 
này sang khách hàng khác. 
Cách li trách nhiệm giữa người ghi sổ khoản phải thu và người phê chuẩn 
nghiệp vụ chiết khấu. 
Nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn: Các khoản chiết khấu phải được phê 
chuẩn đúng đắn. 
Hai là: Sổ chi tiết theo dõi công nợ cho từng khách hàng, đặc biệt là những 
khách hàng có các nghiệp vụ phát sinh thường xuyên. Những khách hàng ít giao dịch 
thì có thể theo dõi chung trong 1 quyển sổ. Cuối kì đối chiếu sổ chi tiết và sổ tổng 
hợp. 
Ba là: Gửi thư hoặc thông báo bằng các cách khác nhau về khoản nợ của 
khách hàng khi sắp đến hạn trả nợ. 
Bốn là: Đối chiếu công nợ cuối kì với Công ty khách hàng. 
Năm là: Cuối mỗi kì lập bảng phân tích công nợ với các chỉ tiêu quan trọng 
như số tiền nợ, thời gian nợ, khả năng thanh toán, số nợ quá hạn, căn cứ vào đó có kế 
hoạch đòi nợ và lập dự phòng cho những khoản phải thu khó đòi. 
Kiểm soát đối với khoản phải thu phải gắn liền với kiểm soát nghiệp vụ thu 
tiền. 
Biểu số 1-6: Mục tiêu và các quá trình KSNB đối với các khoản phải thu. 
Mục tiêu KSNB. Các quá trình KSNB chủ yếu. 
Các khoản phải thu là thức 
sự hiện hữu. 
-Đối chiếu công nợ thường xuyên. 
“Hiệu lực” 
Các khoản chiết khấu được 
phê chuẩn đúng đắn. 
“Phê chuẩn” 
-Tồn tại một chính sách tín dụng. 
-Có sự phê chuẩn đúng đắn theo chính sách. 
Các khoản phải thu được 
phân loại đúng đắn. 
“Phân loại” 
-Sơ đồ tài khoản hướng dẫn việc phân loại. 
-Kiểm tra nội bộ việc phân loại. 
Các khoản phải thu được 
ghi sổ theo đúng số hàng 
hoá hay dịch vụ được cung 
cấp, theo đúng số phải thu 
đã thanh toán 
“Định giá” 
-Kiểm tra nội bộ đối với quá trình tính toán. 
Mọi khoản phải thu đều 
được ghi sổ. 
“Đầy đủ” 
-Đối chiếu công nợ. 
-Kiểm tra nội bộ việc ghi sổ. 
Các khoản phải thu được 
ghi sổ đúng kì. 
“Thời kì” 
-Kiểm tra nội bộ. 
Các khoản phải thu được 
cộng sổ, chuyển sổ và tổng 
hợp đúng đắn. 
“Chuyển sổ và tổng hợp”. 
-Qui định các loại sổ, thủ tục ghi sổ. 
-Kiểm tra nội bộ. 
4. Kiểm soát nội bộ đối với tiền lương 
 Tiền lương được hiểu là số tiền mà người lao động nhận được từ người sử 
dụng lao động của họ thanh toán lại tương ứng với số lương và chất lượng lao động 
mà họ đã tiêu hao trong quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội. 
 Tiền lương là một trong những kích thích lợi ích vật chất đối với người lao 
động. Vì vậy để sử dụng đòn bẩy tiền lương nhằm đảm bảo sản xuất phát triển, duy 
trì một đội ngũ lao động có trìn độ kỹ thuật nghiệp vụ cao với ý thức kỷ luật vững, 
đòi hỏi công tác tiền lương trong doanh nghiệp phải đặc biệt coi trọng. Do vậy kiểm 
soát nội bộ đối với tiền lương có một vai trò quan trọng bởi những lý do sau đây: 
 + Ngăn chặn và phát hiện các sai phạm như thanh toán lương cho các nhân 
viên không có thực, tiếp tục thanh toán lương cho các nhân viên đã nghỉ việc... 
 + Phải bảo đảm hoàn thành một khối lượng ghi chép và tính toán rất lớn để có 
thể thanh toán kịp thời và chính xác tiền lương cho cán bộ nhân viên. 
 + Phải tuân thủ, quy định của nhà nước liên quan đến quản lý lao động tiền 
lương. Kiểm soát nội bộ đối với tiền lương bao gồm những vấn đề sau: 
Một là: kiểm soát bằng dự án chi phí tiền lương. để kiểm soát chi phí tiền lương, hay 
không để lãng phí là hoạch định và theo dõi việc thực hiện các bảng dự toán tiền 
lương. Mỗi bộ phận đêu cần lập dự toán chi phí tiền lương cho mình vào đầu niên 
độ.hàng tháng kế toán trưởng sẽ tổng kết, so sánh chi phí tiền lương thực tế với dự 
toán và báo cáo với người quản lý. Mọ sự khác biệt trọng yếu đều cần được phát hiện 
kịp thời. 
Hai là: Báo cáo cho cơquan chức năng của nhà nước. Phải tổ chức một cách nghiêm 
túc về công tác ghi chép và lập báo cáo cho cơ quan chức năng của Nhà nước theo 
quy định về quản lý lao động tiền lương. Việc làm này không những giúp đơn vị 
hoàn thành nghĩa vụ báo cáo với Nhà nước, mà nó còn giúp phát hiện những sai sót 
và gian lận trong lao động tiền lương. 
Ba là: Phân công phân nhiệm trong công tác lao động về tiền lương 
 Để giảm bớt khả năng sai phạm trong công tác lao động về tiền lương cần tiến 
hành phân công phân nhiệm giữa các chức năng. Theo dõi nhân sự, theo dõi thời gian 
và khối lượng lao động, lập bảng lương, thanh toán lương, và ghi chép về tiền lương: 
 * Chức năng nhân sự: thường do bộ phận nhân sự đảm nhận và sự kiểm soát 
của bộ phận này được thể hiện như sau: 
 - Mỗi khi có tuyển dụng nhân viên: Mức lương phải ghi rõ vào hồ sơ gốc của 
bộ phận nhân sự; người nhân viên mới này sẽ phải ký một bản đồng ý cho khấu trừ 
vào lường các khoản theo chế độ (BHXH, BHYT, KPCĐ). Sau đó, một bộ hồ sơ gồm 
quyết định phân công, mức lương và bảng đồng ý khấu trừ sẽ được gửi cho bộ phận 
tính lương. Bộ phận tính lương tuyệt đối không được ghi tên người nào vào bảng 
lưong nếu không có hồ sơ chính thức nêu trên do bộ phận nhân sự gửi cho. Bộ phận 
nhân sự phải gửi văn bản chính thức cho bộ phận tính lương và bộ phận sử dụng lao 
động. 
 - Khi có sự thay đổi về mức lương: trước khi quyết định này có hiệu lực, bộ 
phận nhân sự phải gửi văn bản chính thức cho bộ phận tính lương và bộ phận sử dụng 
lao động. 
 - Mọi sự bổ xung xoá tên hay sắp xếp lại nhân sự: khi nào nhận được văn bản 
của bộ phận nhân sự và bộ phận sử dụng lao động thì bộ phận tính lương mới có 
quyền điều chỉnh trên bảng lương. 
 *Chức năng theo dõi lao động: chức năng này bao gồm việc xác định thời gian 
lao động, số lượng sản phẩm hoàn thành để làm cơ sở tính lương. Người phụ trách 
các bộ phận lập bảng chấm công. Thường xuyên đối chiếu giữa bảng chấm công của 
người theo dõi bộ phận đối với khối lượng công việc hoàn thành. 
 * Chức năng tính lương và ghi chép lương. 
Bộ phận tính lương có nhiệm vụ chính là tính toán sổ lương phải trả cho từng nhân 
viên trong đơn vị. Một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu sẽ không cho phép bộ 
phận tính lương được thực hiện các chức năngvề nhân sự, theo dõi lao động hay trả 
lương.ở việt nam hiện nay các công việc của bộ phậ tính lương được giới hạn trong 
việc lập bảng thanh toán lương và bảo hiểm xã hội, lập bảng phân bổ tiền lương, ghi 
chép kế toán và lập báo cáo cho nhà nước. 
 *Chức năng phát lương: chức năng này phải được thực hiện do một người độc 
lập với các bộ phận nhân sự, theo dõi lao động và tính lương. Nhân viên này sẽ sử 
dụng bảng lương để làm bảng lương phát lương cho từng nhân viên. 
 Biểu 1-6 Mục tiêu và các quá trình kiểm soát đối với tiền lương. 
Mục tiêu kiểm soát nội bộ Các quá trình kiểm soát nội bộ chủ yếu 
Thanh toán tiền lương cho nhân viên là 
có thực "tính có thực ' 
đối chiếu một số nghiệp vụ trên nhật ký 
lươn, bảng thanh toán lương với tài liệu 
ở phòng nhân sự 
Các khoản chi phí tiền lương, trích theo 
lương được phê chuẩn đúng đắn "sự phê 
chuẩn" 
Có sự phê chuẩn theo quy định 
Các khoản chi phí tiền lương được ghi 
đầy đủ "tính đầy đủ" 
Cách ly trách nhiệm giữa bộ phận nhân 
sự và bộ phận tính lương trả lương. 
Kiểm soát nội bộ về quá trình ghi sổ 
Tiền lương phải được ghi sổ , chuyển sổ 
tổng đúng đắn chuyển sổ và tổng hợp 
chính xác 
Kiểm tra nội bộ việc thực hiện 
Các khoản chi phí về tiền lương được 
ghi sổ đúng kỳ "đúng hạn " 
- quy định về kỳ hạn trả lương 
-KSNB 
Các khoản chi phí tiền lương được phân 
laọi đúng đắn "phân loại" 
-sơ đồ tài khoản 
- kiểm tra nội bộ về các loại chi phí liên 
quan 
Các khoản chi lương được ghi sổ đúng 
so với thực tế "sự đánh giá " 
-kiểm tra độc lập việc thực hiện 
- tính toán lại trên bảng lương 
Lời kết 
 Như chúng ta đã xem xét ở trên thì TMĐT có ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát 
triển ngân hàng. Nó tạo ra loại hình ngân hàng, đặc biệt là loại hình ngân hàng 
mạng, và tạo ra những phương thức thanh toán và tín dụng hiện đại hoá và điện tử 
hoá. Nhưng sự thay đổi mới mẻ trên thu hút khách hàng, làm cho Ngân hàng thay đổi 
về mặt cơ cấu cũng như nội dung mặc dù vẫn dựa trên những cơ sở truyền thống. 
Thương mại điện tử coá vai trò tích cực và sẽ không thể thiếu trong nền kinh tế hội 
nhập với thế giới. Có thể, không nhất thiết mỗi nước đều phải tiến hành thương mại 
điện tử. Nhưng nếu không cùng hướng phát triển chung, kinh tế không hội nhập và 
luôn chạy theo đằng sau. Không nhất thiết nhưng cần thiết phát triển thương mại điện 
tử. Đối với ngành ngân hàng và viễn thông, hàng không phải đi đầu . 
 Trong công cuộc hiện đại hoá và công nghiệp hoá đất nước,

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_thuong_mai_dien_tu_voi_su_phat_trien_ngan_hang_o_v.pdf